Giải Thích Kinh Quả Báo Hạnh Sa Môn (Sa môn quả) – 02
(Sāmaññaphalasuttavaṇṇanā)Xem Trường Bộ Kinh – Kinh Sa Môn Quả
Giải Thích Học Thuyết Của Pūraṇa Kassapa
165. Ekamidāhanti ekaṃ idha ahaṃ. Sammodanīyaṃ[1] kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvāti sammodajanakaṃ saritabbayuttakaṃ kathaṃ pariyosāpetvā.
165. Ekamidāhaṃ tách từ thành ekaṃ idha ahaṃ [có một lần ở thành Rājagaha này, trẫm…] Sau khi trao đổi lời xã giao thân thiện rồi: Lời nói làm cho tạo ra sự phấn khởi đáng để ghi nhớ về nhau đã được hoàn tất.
166. “Karoto kho, mahārāja, kārayato”tiādīsu karototi sahatthā karontassa. kārayatoti āṇattiyā kārentassa. Chindatoti paresaṃ hatthādīni chindantassa. Pacatoti pare daṇḍena uppīḷentassa[2]. Socayatoti parassa bhaṇḍaharaṇādīhi socayato. Socāpayatoti sokaṃ[3] sayaṃ karontassapi parehi kārāpentassapi. Kilamatoti[4] āhārupacchedabandhanāgārappavesanādīhi sayaṃ kilamantassapi parehi kilamāpentassapi. Phandato phandāpayatoti paraṃ phandantaṃ phandanakāle sayampi phandato parampi phandāpayato. Pāṇamatipātāpayatoti pāṇaṃ hanantassapi hanāpentassapi. Evaṃ sabbattha karaṇakāraṇavaseneva attho veditabbo.
166. “Này đại vương, quả thật Người tự mình làm, người bảo (kẻ khác) làm,” v.v, Người tự mình làm: Tự tay của mình thực hiện. Người bảo (kẻ khác) làm: sai khiến để cho (người khác) thực hiện. Người tự mình chém: chặt tay v.v, của người khác. Người tự mình hành hạ: sử dụng quyền hành để hành hạ, hoặc đe dọa người khác. Người tự mình gây sầu muộn: tự mình gây sầu muộn bằng việc trộm cắp tài sản của người khác v.v. Người bảo (kẻ khác) gây sầu muộn: tự mình làm cho người bị sầu muộn hoặc sai khiến kẻ khác khiến người bị sầu muộn. Người tự mình gây khó nhọc: Tự mình gây khó nhọc cho người, hoặc sai kẻ khác gây khó nhọc cho người bằng việc cắt đứt bữa ăn và nhốt vào ngục v.v. Người tự mình gây sợ hãi hay khiến người khác gây sợ hãi: vào lúc trói buộc người khác đang run sợ (vì sợ hãi), thậm chí bản thân cũng run sợ khiến người khác cũng run sợ. Người sát hại sinh mạng: tự mình giết, sai khiến người khác giết đối với loài có mạng sống. Trong tất cả các câu nên hiểu với khả năng của việc tự mình làm và việc sai khiến người khác làm như vậy.
Sandhinti gharasandhiṃ. Nillopanti mahāvilopaṃ. Ekāgārikanti ekameva gharaṃ parivāretvā viluppanaṃ. Paripantheti āgatāgatānaṃ acchindanatthaṃ magge tiṭṭhato. Karoto na karīyati pāpanti yaṃ kiñci pāpaṃ karomīti saññāya karotopi pāpaṃ na karīyati, natthi pāpaṃ. Sattā pana pāpaṃ karomāti evaṃsaññino hontīti dīpeti. Khurapariyantenāti khuraneminā, khuradhārasadisapariyantena vā. ekaṃ maṃsakhalanti ekaṃ maṃsarāsiṃ. Puñjanti tasseva vevacanaṃ. Tatonidānanti ekamaṃsakhalakaraṇanidānaṃ.
Phá cửa nhà mà vào: người đột nhập vào nhà. Cướp bóc hết mọi thứ: cướp bóc lớn. Đánh cướp một nhà: Bao vây đánh cướp chỉ ở một nhà. Người đứng cướp dọc đường: Đứng giữa đường để cướp đoạt tài sản của những người qua lại trên đường. Người làm vẫn không gọi là tạo ra tội ác: chỉ ra rằng thậm chí tự mình làm với sự suy nghĩ rằng: tư ta tạo bất kỳ một tội ác nào thì vẫn không tạo ra tội ác, tội ác (ấy) không có. Tuy nhiên tất cả chúng sanh tự hiểu như vầy rằng: ‘chúng tôi làm ác’. Với một bánh xe có viền gắn dao cạo: Sử dụng bánh xe có vành sắc bén tựa như dao cạo, hoặc có vòng tròn sắc bén tựa như dao cạo. Thành một khối thịt: trở thành một khối thịt. ‘Puñjaṃ’ là từ đồng nghĩa của từ ‘khalaṃ’ (khối, đống). Việc làm đó là nguyên nhân: có việc làm cho thành một đống thịt là nguyên nhân.
Dakkhiṇanti dakkhiṇatīre manussā kakkhaḷā dāruṇā, te sandhāya “hananto”tiādimāha. Uttaratīre sattā saddhā honti pasannā buddhamāmakā dhammamāmakā saṅghamāmakā, te sandhāya dadantotiādimāha. Tattha yajantoti mahāyāgaṃ karonto. Damenāti indriyadamena uposathakammena vā. Saṃyamenāti sīlasaṃyamena. Saccavajjenāti saccavacanena. Āgamoti āgamanaṃ, pavattīti attho. sabbathāpi pāpapuññānaṃ kiriyameva paṭikkhipati.
Đi đến bờ phía Nam: nhóm người đi đến bờ phía Nam là người thô thiên, hung dữ, ngài nói rằng ‘tự mình giết’ đề cập đến những người ấy. Nhóm người đi đến bờ phía Bắc là những người có đức tin, có lòng tịnh tín, tôn kính đức Phật, tôn kính Giáo Pháp, tôn kính Chư Tăng, ngài nói rằng: ‘tự mình bố thí’ đề cập đến những người ấy. Ở đây, tự mình dâng hiến: thực hiện việc lễ bái to lớn. Với việc rèn luyện: với việc rèn luyện các quyền [indriya] hoặc với sự hành trì trai giới [uposathakamma]. Với việc thu thúc: với việc thu thức giới. Với lời nói chân thật: với việc nói lời nói chân thật. Đi đến: là việc đi đến, là vận hạnh. Chính Đạo Sư Pūraṇa Kassapa bác bỏ việc làm ác và việc tạo phước ở tất cả mọi khía cạnh.
Ambaṃ puṭṭho labujaṃ byākaroti nāma, yo kīdiso ambo kīdisāni vā ambassa khandhapaṇṇapupphaphalānīti vutte ediso labujo edisāni vā labujassa khandhapaṇṇapupphaphalānīti byākaroti. Vijiteti āṇāpavattidese. Apasādetabbanti viheṭhetabbaṃ. Anabhinanditvāti “sādhu sādhū”ti evaṃ pasaṃsaṃ akatvā. Appaṭikkositvāti bāladubbhāsitaṃ tayā bhāsitanti evaṃ appaṭibāhitvā. Anuggaṇhantoti sārato aggaṇhanto. Anikkujjantoti sāravaseneva idaṃ nissaraṇaṃ, ayaṃ paramatthoti hadaye aṭṭhapento. Byañjanaṃ pana tena uggahitañceva nikkujjitañca.
Khi được hỏi về trái xoài lại trả lời về trái mít: người khi được hỏi rằng – trái xoài như thế nào? hoặc thân cây, lá, hoa của trái xoài như thế nào? Lại trả lời rằng – Trái mít như thế này, thân cây, lá, hoa của trái mít như thế này. Trong vương quốc: ở trong quốc độ thuộc quyền cai trị (của đức vua). Có thể làm phật ý: có thể gây khó khăn. Đã không tán thán: đã không nói lời ca ngợi như vầy ‘tốt đẹp thay, tốt đẹp thay’. Đã không phản đối: Đã không bác bỏ như vầy ‘này kẻ ngủ, ông nói ra những lời nói thật tệ hại’. Trong khi không công nhận: trong khi không nắm lấy là có cốt lõi. Không phản đối chính lời nói ấy: Không cất giữ trong tâm với sự nắm giữ là có cốt lỗi rằng – ‘đây là sự xuất ly (khỏi các khổ)’, ‘đây là Pháp Chân Đế’. Tuy nhiên đức vua Ajātasattu sau khi học tập các từ ngữ và đã vứt bỏ chúng.
Giải Thích Học Thuyết Của Makkhalī Gosāla
167-169. Makkhalivāde paccayoti hetuvevacanameva[5], ubhayenāpi vijjamānameva kāyaduccaritādīnaṃ saṃkilesapaccayaṃ, kāyasucaritādīnañca visuddhipaccayaṃ paṭikkhipati. Attakāreti attakāro. Yena attanā katakammena ime sattā devattampi mārattampi brahmattampi sāvakabodhimpi paccekabodhimpi sabbaññutampi pāpuṇanti, tampi paṭikkhipati. Dutiyapadena[6] yaṃ parakāraṃ parassa ovādānusāsaniṃ nissāya ṭhapetvā mahāsattaṃ avaseso jano manussasobhagyataṃ ādiṃ katvā yāva arahattaṃ pāpuṇāti, taṃ parakāraṃ paṭikkhipati. Evamayaṃ bālo jinacakke pahāraṃ deti nāma. Natthi purisakāreti yena purisakārena sattā vuttappakārā sampattiyo pāpuṇanti, tampi paṭikkhipati. Natthi balanti yamhi attano bale patiṭṭhitā sattā vīriyaṃ katvā tā sampattiyo pāpuṇanti, taṃ balaṃ paṭikkhipati. Natthi vīriyantiādīni sabbāni purisakāravevacanāneva. “Idaṃ no vīriyena idaṃ purisathāmena, idaṃ purisaparakkamena pavattan”ti evaṃ pavattavacanapaṭikkhepakaraṇavasena panetāni visuṃ ādiyanti.
167-169. Học thuyết của Makkhalī, ‘duyên’ là từ đồng nghĩa với ‘nhân’, thậm chí cả 2 là ‘không nhân, không duyên’ là điều mà vị ấy bác bỏ ‘duyên cho ô nhiễm’ của thần ác hạnh v.v, và ‘duyên cho thanh tịnh’ của thân thiện hạnh v.v. trong khi đang hiện diện. Hành động bởi bản thân: việc thực hiện của chính bản thân. Những chúng sanh này đạt đến bản thể chư Thiên, bản thể Ma Vương, bản thể Phạm Thiên, hay việc đạt được phẩm vị Thinh-văn-giác, phẩm vị Phật-độc-giác, hay bản thể Toàn-giác, nhờ vào nghiệp lực nào mà bản thân đã tạo thì vị ấy đều bác bỏ nghiệp đó. Với câu thứ hai ‘không có hành động bởi người khác’ là điều vị ấy bác bỏ hành động của người khác, tức là những người còn lại ngoại trừ bậc Đại Nhân y cứ vào lời giáo huấn, lời chỉ dạy của người khác thuộc hành động của người khác nào đó, kể từ khi tạo dựng sự huy hoàng của nhân loại cho đến khi đạt được phẩm vị A-ra-hán. Như vậy, kẻ ngu này là kẻ đang phá hoại giáo lý của đức Phật. Không có hành động bởi con người: tất cả chúng sanh đạt được sự thành tựu theo cách đã nói bằng việc thực hành của người nào thì vị ấy bác bỏ việc thực hành của chính người đó. Không có năng lực: tất cả chúng sanh đã được thiết lập vào sức mạnh của bản thân nào, sau khi thực hành sự tinh tấn đạt được những thành tựu ấy thì vị ấy bác bỏ luôn sức mạnh ấy. Không có sự tinh tấn: v.v, tất cả đều đồng nghĩa với ‘hành động bởi con người’ tuy nhiên câu này được xem là một phần bởi có thể bác bỏ lời nói được vận hành như vầy “điều này vận hành nhờ vào sự tinh tấn của con người, điều này vận hành nhờ vào sức lực của con người, điều này vận hành nhờ vào sự cần mẫn của con người.”
Sabbe sattāti oṭṭhagoṇagadrabhādayo anavasese pariggaṇhāti. Sabbe pāṇāti ekindriyo pāṇo, dvindriyo pāṇotiādivasena vadati. Sabbe bhūtāti aṇḍakosavatthikosesu bhūte sandhāya vadati. Sabbe jīvāti sāli-yava-godhumādayo sandhāya vadati. tesu hi so virūhanabhāvena jīvasaññī. Avasā abalā avīriyāti tesaṃ attano vaso vā balaṃ vā vīriyaṃ vā natthi. Niyatisaṅgatibhāvapariṇatāti ettha niyatīti niyatā[7]. Saṅgatīti channaṃ abhijātīnaṃ tattha tattha gamanaṃ. Bhāvoti sabhāvoyeva. evaṃ niyatiyā ca saṅgatiyā ca bhāvena ca pariṇatā nānappakārataṃ pattā. Yena hi yathā bhavitabbaṃ, so tatheva bhavati. Yena na bhavitabbaṃ, so na bhavatīti dasseti. Chasvevābhijātīsūti chasu eva abhijātīsu ṭhatvā sukhañca dukkhañca paṭisaṃvedenti. Aññā sukhadukkhabhūmi natthīti dasseti.
Tất cả chúng sanh: ngài gom cả lạc đà, bò, lừa v.v, không dư sót. Tất cả sinh vật,: vị ấy nói đề cập đến chúng sinh có một quyền, chúng sinh có hai quyền. Tất cả sinh linh: vị ấy nói đề cập đến tất cả sinh linh được sanh ra từ vỏ trứng và sanh ra từ tử cung (của người mẹ). Tất cả sinh mạng: vị ấy nói đề cập đến lúa sāli, lúa mạch, lúa mì cũng là những loài có sinh mạng thì (vị ấy) hiểu rằng có sinh mạng do tính chất nảy mầm. Không có quyền lực, không có năng lực, không có sự tinh tấn: những sinh mạng ấy không có quyền lực, không có năng lực, hoặc không có sự tinh tấn của bản thân. Bị chi phối bởi định mệnh, bởi điều kiện bộ loại của chúng, và bởi bản tính – ở đây, bởi định mệnh: vận may, rủi. Bởi điều kiện bộ loại của chúng: sự ra đi chỗ này chỗ nọ trong các hữu của cả sáu sanh loại [abhijāti]. Bởi bản tính: chính là thực tính. Sự chuyển đổi bởi định mệnh, bởi điều kiện bộ loại của chúng, và bởi bản tính đã đạt đến bằng nhiều hình thức sai biệt. Vị ấy nói rằng: ‘Người nào có thể trở thành theo cách nào thì người ấy được trở thành theo cách đó, còn người nào không thể trở thành thì người ấy cũng không thể trở thành.’ Sáu sanh loại: (vị ấy) nói rằng – hạng người được thiết lập trong sáu sanh loại ấy được cảm nghiệm lạc và khổ. Cõi làm cho sanh khởi lạc và sanh khởi khổ ở chỗ khác là không có.
Yonipamukhasatasahassānīti pamukhayonīnaṃ uttamayonīnaṃ cuddasasatasahassāni aññāni ca saṭṭhisatāni aññāni ca chasatāni. Pañca ca kammuno satānīti pañcakammasatāni ca. Kevalaṃ takkamattakena niratthakaṃ diṭṭhiṃ dīpeti. Pañca ca kammāni tīṇi ca kammānītiādīsupi eseva nayo. Keci panāhu — “pañca ca kammānīti pañcindriyavasena bhaṇati. Tīṇīti kāyakammādivasenā”ti. Kamme ca upaḍḍhakamme cāti ettha panassa kāyakammañca vacīkammañca kammanti laddhi, manokammaṃ upaḍḍhakammanti. Dvaṭṭhipaṭipadāti dvāsaṭṭhi paṭipadāti vadati. Dvaṭṭhantarakappāti ekasmiṃ kappe catusaṭṭhi antarakappā nāma honti. Ayaṃ pana aññe dve ajānanto evamāha.
Có một triệu bốn trăm ngàn chủng loại hàng đầu này: chủng loại hàng đầu, là sanh chủng cao nhất một triệu bốn trăm ngàn (chủng loại hàng đầu) này với sáu ngàn (chủng loại khác) và sáu trăm (chủng loại khác nữa). Năm trăm loại nghiệp: năm trăm loại nghiệp. (vị ấy) trình bày luận điểm vô ích chỉ với sự phỏng đoán. Kể cả năm loại nghiệp, ba loại nghiệp: v.v, cũng có phương cách tương tự. Nhưng một số vị thầy đã nói rằng ‘năm loại nghiệp’ ấy được nói đề cập đến năm quyền và ba loại nghiệp được nói đề cập đến thân nghiệp v.v. Nghiệp toàn phần, và nghiệp bán phần: ở đây, Đạo Sư Makkhalī Gosāla ấy có học thuyết rằng – Thân nghiệp và khẩu nghiệp là nghiệp toàn phần, ý nghiệp là bán phần nghiệp. Có sáu mươi hai lối thực hành: (vị ấy) nói đến sáu mươi hai lối thực hành. Sáu mươi hai trung kiếp: trong một đại kiếp có sáu mươi bốn trung kiếp. Nhưng vị ấy không biết thêm hai trung kiếp nữa đã nói như thế.
Chaḷābhijātiyoti kaṇhābhijāti, nīlābhijāti, lohitābhijāti, haliddābhijāti, sukkābhijāti, paramasukkābhijātīti imā cha abhijātiyo vadati. Tattha orabbhikā, sākuṇikā, māgavikā, sūkarikā, luddā, macchaghātakā corā, coraghātakā, bandhanāgārikā, ye vā panaññepi keci kurūrakammantā[8], ayaṃ kaṇhābhijātīti[9] vadati. Bhikkhū nīlābhijātīti vadati, te kira catūsu paccayesu kaṇṭake pakkhipitvā khādanti. “bhikkhū kaṇṭakavuttikā”ti[10] ayañhissa pāḷiyeva. Atha vā kaṇṭakavuttikā eva nāma eke pabbajitāti vadati. Lohitābhijāti nāma nigaṇṭhā ekasāṭakāti vadati. ime kira purimehi dvīhi paṇḍaratarā. Gihī odātavasanā acelakasāvakā haliddābhijātīti vadati. Evaṃ attano paccayadāyake nigaṇṭhehipi jeṭṭhakatare karoti. ājīvakā ājīvakiniyo sukkābhijātīti vadati. te kira purimehi catūhi paṇḍaratarā. Nando, vaccho, kiso, saṅkiccho, makkhaligosālo, paramasukkābhijātīti[11] vadati. Te kira sabbehi paṇḍaratarā.
Sáu sanh loại: vị ấy nói đến sáu sanh loại này là sanh loại đen, sanh loại xanh, sanh loại đỏ, sanh loại vàng, sanh loại trắng, sanh loại cực trắng. Sáu sanh loại ấy -“Kẻ giết cừu, kẻ giết chim, người săn nai, kẻ giết heo, kẻ săn thú, người đánh cá, kẻ ăn trộm, kẻ ăn trộm giết người, kẻ ngục tốt và những người khác theo nghề tàn ác, vị ấy gọi là sanh loại đen.” (vị ấy) gọi các vị tỳ khưu là sanh loại trắng, được biết các vị tỳ khưu ấy đã lấy cỏ gai bỏ vào trong bốn món vật dụng rồi thọ dụng. Hơn nữa, vị ấy gọi các vị tỳ khưu rằng: “Các vị tỳ khưu có hành vi như cỏ gai…” chính điều này là cách thức mà vị ấy nói đến. Lại nữa, (vị ấy) nói rằng: “Những vị xuất gia ấy được gọi là vị có hành vi tựa như cỏ gai.” (vị ấy) nói rằng: “Các Ni-kiền-tử chỉ mặc một tấm vải” gọi là sanh loại đỏ. Được biết nhóm sanh loại đen này trắng hơn hai sanh loại trước. ‘Các gia chủ mặc vải trắng là đệ tử của nhóm lõa thể’ được gọi là sanh loại vàng. Makkhalī Kosāla khiến người dâng vật dụng cho mình trở thành người tăng trưởng hơn cả các Ni-kiền-tử như thế. Vị ấy gọi ‘các tà mạng ngoại đạo nam và tà mạng ngoại đạo nữ’ là sanh loại trắng. Được biết nhóm sanh loại trắng ấy trắng hơn bốn sanh loại trước. Vị ấy nói rằng: ‘Nanda Vaccha, Kisa, Saṅkiccha và Makkhalī Gosāla’ là sanh loại cực trắng. Được biết những vị ấy trắng hơn toàn bộ những sanh loại khác.
Aṭṭha purisabhūmiyoti mandabhūmi, khiḍḍābhūmi, padavīmaṃsabhūmi, ujugatabhūmi, sekkhabhūmi, samaṇabhūmi, jinabhūmi, pannabhūmīti imā aṭṭha purisabhūmiyoti vadati. Tattha jātadivasato paṭṭhāya sattadivase sambādhaṭṭhānato nikkhantattā sattā mandā honti momūhā, ayaṃ mandabhūmīti vadati. Ye pana duggatito āgatā honti, te abhiṇhaṃ rodanti ceva viravanti ca, sugatito āgatā taṃ anussaritvā hasanti, ayaṃ khiḍḍābhūmi nāma. Mātāpitūnaṃ hatthaṃ vā pādaṃ vā mañcaṃ vā pīṭhaṃ vā gahetvā bhūmiyaṃ padanikkhipanaṃ padavīmaṃsabhūmi nāma. Padasā gantuṃ samatthakāle ujugatabhūmi nāma. sippāni sikkhitakāle sekkhabhūmi nāma. gharā nikkhamma pabbajitakāle samaṇabhūmi nāma. Ācariyaṃ sevitvā jānanakāle jinabhūmi nāma. Bhikkhu ca pannako jino na kiñci āhāti evaṃ alābhiṃ samaṇaṃ pannabhūmīti vadati.
Tám giai đoạn của đời người: Vị ấy nói rằng tám giai đoạn của đời người này là – (1) giai đoạn ám độn (thời non nớt), (2) giai đoạn vui chơi, (3) giai đoạn khám phá và kiểm tra (giai đoạn tập đi), (4) giai đoạn đứng thẳng, (5) giai đoạn học tập, (6) giai đoạn Sa-môn, (7) giai đoạn thắng tiến, (8) giai đoạn lụi tàn. Trong tám giai đoạn ấy, “kể từ ngày sanh ra cho đến ngày thứ bảy tất cả chúng sanh vẫn còn ám độn, u tối, do vừa được thoát ra từ chỗ chật chội”, vị ấy gọi đây là giai đoạn ám độn. Hơn nữa, chúng sanh nào đến từ khổ cảnh, những chúng sanh đó thường khóc lóc và gào thét. Chúng sanh đến từ lạc cảnh, nghĩ đến lạc cảnh đó rồi cười, đây gọi là giai đoạn vui chơi. Đứa bé vịnh lấy tay và chân của mẹ và cha, hoặc chân ghế rồi giẫm chân đặt trên mặt đất bước đi, đây gọi là giai đoạn khám phá và kiểm tra. Trong lúc có thể đi được bằng chân gọi là giai đoạn đứng thẳng. Khi học tập các môn học gọi là giai đoạn học tập. Khi rời khỏi gia đình để xuất gia gọi là giai đoạn Sa-môn. Vào lúc gặp được Tôn sư biết được môn học gọi là giai đoạn thắng tiến. Và vị Sa-môn không đạt được gọi là giai đoạn lụi tàn, như được nói rằng vị tỳ khưu, hay nhóm pannaka và nhóm jina không nói xin bất cứ gì.
Ekūnapaññāsa ājīvakasateti ekūnapaññāsā ajīvakavuttisatāni. Paribbājakasateti paribbājakapabbajjāsatāni. Nāgāvāsasateti nāgamaṇḍalasatāni. Vīse indriyasateti vīsatindriyasatāni. Tiṃse nirayasateti tiṃsa nirayasatāni. Rajodhātuyoti rajaokiraṇaṭṭhānāni, hatthapiṭṭhipādapiṭṭhādīni sandhāya vadati. Satta saññīgabbhāti oṭṭhagoṇagadrabhājapasumigamahiṃse sandhāya vadati. Satta asaññīgabbhāti sālivīhiyavagodhūmakaṅguvarakakudrūsake sandhāya vadati. Nigaṇṭhigabbhāti gaṇṭhimhi jātagabbhā, ucchuveḷunaḷādayo sandhāya vadati. Satta devāti bahū devā. So pana sattāti vadati. Manussāpi anantā, so sattāti vadati. Satta pisācāti pisācā mahantamahantā sattāti vadati. Sarāti mahāsarā, kaṇṇamuṇḍa rathakāra anotatta sīhappapāta chaddanta mandākinī kuṇāladahe gahetvā vadati.
Bốn ngàn chín trăm cách nuôi mạng: bốn nghìn chín trăm cách thực hành nuôi mạng. Trăm du sĩ[12]: Việc xuất gia của hàng trăm du sĩ. Trăm chỗ ở của loài rồng: Trăm maṇḍala (chỗ ở của) loài rồng. Hai nghìn giác quan: hai nghìn giác quan. Ba nghìn địa ngục: ba nghìn địa ngục. Chỗ có bụi bám: nơi phân tán bụi bẩn. Ngài nói liên hệ đến lòng bàn tay và mu bàn chân v.v. Bảy loại mầm sống có tri giác: ngài nói liên hệ đến lạc đà, bò, lừa, dê, vật nuôi, hươu và trâu. Bảy loại mầm sống không có tri giác: ngài nói liên hệ đến gạo thơm, gạo nếp, lúa mì, đậu xanh, hạt kê, hạt varaka và hạt kudrūsaka. Bảy loại mầm sống từ đốt cây: ngài đề cập đến bảy loại mầm sống được sanh ra từ đốt như cây mía, cây tre, và cây sậy. Bảy hạng Thiên nhân: có nhiều hạng chư Thiên, tuy nhiên vị ấy nói có bảy. Luôn cả loài người không giới hạn, vị ấy cũng nói là bảy. Bảy hạng quỷ sứ: vị ấy nói nhóm chúng sanh to lớn được gọi là quỷ sứ. Hồ nước lớn: những hồ nước lớn, vị ấy đề cập đến các hồ nước lớn như hồ Kaṇṇamuṇḍa, hồ Rathakāra, hồ Anotatta, hồ Sīhapapāta, hồ Chaddanta, hồ Mandākinī, hồ Kuṇāla.
Pavuṭāti[13] gaṇṭhikā. papātāti mahāpapātā. papātasatānīti khuddakapapātasatāni. Supināti mahāsupinā. Supinasatānīti khuddakasupinasatāni. Mahākappinoti mahākappānaṃ[14]. Tattha ekamhā mahāsarā vassasate vassasate kusaggena ekaṃ udakabinduṃ nīharitvā sattakkhattuṃ tamhi sare nirudake kate eko mahākappoti vadati. Evarūpānaṃ mahākappānaṃ caturāsītisatasahassāni khepetvā bāle ca paṇḍite ca[15] dukkhassantaṃ karontīti ayamassa laddhi. Paṇḍitopi kira antarā visujjhituṃ na sakkoti. bālopi tato uddhaṃ na gacchati.
Loại cây có lóng mắt lớn: mắt, đốt cây. Vách đá lớn: vách đá lớn. Vách đá nhỏ: một trăm vách đá nhỏ. Giấc mộng lớn: bảy giấc mộng lớn. Giấc mộng nhỏ: trăm giấc mộng nhỏ. Đại Kiếp: Đại kiếp. Vị ấy nói rằng mỗi mỗi một trăm năm lấy đầu ngọn cỏ tranh, nhúng vào hồ nước lớn, lấy ra mỗi lần bảy giọt, làm cho đến khi hết nước trong hồ bảy lần thì đó mới gọi là một đại kiếp. Cả kẻ ngu lẫn bậc trí đã trải qua khoảng thời gian 8,400,000 của đại kiếp bằng hình thức như vậy, khi thực hiện mới trừ tận được khổ đau, đây là học thuyết của vị ấy. Tương truyền rằng ngay cả bậc sáng cũng không thể thực hành đưa đến thanh tịnh trong thời gian ấy. Luôn cả người ngu cũng không thể vượt qua thời gian dài ấy (đi đến cao hơn).
Sīlenāti acelakasīlena vā aññena vā yena kenaci. Vatenāti tādiseneva vatena. Tapenāti tapokammena. Aparipakkaṃ paripāceti nāma, yo “ahaṃ paṇḍito”ti antarā visujjhati. Paripakkaṃ phussa phussa byantiṃ karoti nāma yo “ahaṃ bālo”ti vuttaparimāṇaṃ kālaṃ atikkamitvā yāti. Hevaṃ natthīti evaṃ natthi[16]. Tañhi ubhayampi na sakkā kātunti dīpeti. Doṇamiteti doṇena mitaṃ viya. Sukhadukkheti sukhadukkhaṃ. Pariyantakateti vuttaparimāṇena kālena katapariyante. Natthi hāyanavaḍḍhaneti natthi hāyanavaḍḍhanāni. Na saṃsāro paṇḍitassa hāyati, na bālassa vaḍḍhatīti attho. ukkaṃsāvakaṃseti ukkaṃsāvakaṃsā. Hāyanavaḍḍhanānametaṃ adhivacanaṃ.
Nhờ vào giới hạnh: Nhờ vào giới của du sĩ lõa thể, hoặc bất cứ một điều giới nào khác. Nhờ vào sự hành trì: nhờ vào chính sự hành trì đó. Nhờ vào sự khắc khổ: Nhờ vào việc thực hiện khắc khổ (để thiêu đốt phiền não). Người nào nghĩ rằng: “ta là bậc trí” được trở nên thanh tịnh ở khoảng giữa thời gian, người ấy gọi là làm cho chín muồi nghiệp chưa được chín muồi. Người nào nghĩ rằng “tôi là kẻ ngu” rồi buông bỏ để thời gian trôi qua theo như thời hạn đã nói, người ấy gọi là làm chấm dứt nghiệp đã được chín muồi (sau) mỗi một lần tiếp nhận (quả báo của nghiệp). Bởi vì (sự việc) như vậy không có: Không có như vậy. Bởi vì, vị ấy chỉ ra rằng: Cả 2 trường hợp đó không thể nào thực hiện được. Được đo lường theo mức độ: giống như đo lường bằng dụng cụ đo lường. Lạc và khổ: An lạc và khổ đau. Được tạo ra có giới hạn: Được tạo ra có giới hạn theo đúng thời gian được xác định như đã nói. Không có việc giảm bớt hay tăng thêm: không có việc giảm bớt hay tăng thêm. Giải thích rằng – Luân hồi không giảm bớt đối với bậc trí, và cũng không tăng thêm đối với kẻ ngu. (Không có) việc nâng lên hay hạ xuống: Không nâng lên và cũng không hạ xuống, điều này đồng nghĩa với giảm bớt hay tăng thêm.
Idāni tamatthaṃ upamāya sādhento “seyyathāpi nāmā”tiādimāha. Tattha suttaguḷeti veṭhetvā katasuttaguḷe. Nibbeṭhiyamānameva paletīti pabbate vā rukkhagge vā ṭhatvā khittaṃ suttappamāṇena nibbeṭhiyamānameva gacchati, sutte khīṇe tattheva tiṭṭhati, na gacchati. Evameva vuttakālato uddhaṃ na gacchatīti dasseti.
Bây giờ, trong khi làm hoàn mãn ý nghĩa ấy bằng ví dụ, vị ấy (chủ học thuyết) đã nói rằng: “Cũng giống như cuộn chỉ được tung ra v.v,” Ở đó, cuộn chỉ: cuộn chỉ được cuộn lại. Cuộn chỉ lăn tròn trong lúc chỉ đang được tháo ra (hết chỉ thì cuộn chỉ dừng lại): cuộn chỉ mà vị ấy đứng trên núi hoặc trên ngọn cây rồi ném ra thì (cuộn chỉ ấy) tự gỡ tung ra theo kích thước của cuộn chỉ, khi hết chỉ thì nó sẽ tự dừng lại ngay tại chỗ đó không thể lăn đi được nữa. Tương tự y như thế ấy, ngài chỉ ra rằng bậc trí và kẻ ngu ấy (sẽ thanh tịnh) không thể đi xa hơn thời gian được nói.
Giải Thích Học Thuyết Của Ajita Kesakambala
170-172. Ajitavāde natthi dinnanti dinnaphalābhāvaṃ sandhāya vadati. Yiṭṭhaṃ vuccati mahāyāgo. Hutanti paheṇakasakkāro[17] adhippeto. Tampi ubhayaṃ phalābhāvameva sandhāya paṭikkhipati. Sukatadukkaṭānanti[18] sukatadukkaṭānaṃ[19], kusalākusalānanti attho. Phalaṃ vipākoti yaṃ phalanti vā vipākoti vā vuccati, taṃ natthīti vadati. Natthi ayaṃ lokoti paraloke ṭhitassa ayaṃ loko natthi. Natthi paro lokoti idha loke ṭhitassāpi paro loko natthi, sabbe tattha tattheva ucchijjantīti dasseti. Natthi mātā natthi pitāti tesu sammāpaṭipattimicchāpaṭipattīnaṃ phalābhāvavasena vadati. Natthi sattā opapātikāti cavitvā upapajjanakā sattā nāma natthīti vadati.
170-172. Học thuyết của Đạo Sư Ajita, ‘Không có bố thí’ vị ấy nói đề cập đến tính chất không có kết quả của việc bố thí. Đại tế lễ được gọi là dâng hiến. Cúng tế: có ý muốn lấy sự cung kính là lễ vật vừa phải để dâng cho một ai đó. Cả hai từ ấy Đạo Sư Ajita Kesakambala đã bác bỏ hoàn toàn tính chất không có kết quả (của việc bố thí). đã được làm tốt hoặc đã được làm xấu: Hành động đã được làm tốt hoặc đã được làm xấu, bao gồm cả thiện và bất thiện. Kết quả và sự thành tựu quả: vị ấy nói rằng – những điều nào được gọi là kết quả, hoặc sự thành tựu quả thì những điều đó không có. Không có đời này: Đời này không có đối với những người ở đời sau. Không có đời sau: Đời sau cũng không có đối với người ở đời này. Vị ấy chỉ ra rằng tất cả mọi loài chúng sanh hoại diệt ngay chính ở kiếp sống ấy. Không có mẹ, không có cha: Vị ấy nói liên hệ đến tính chất vô ích của việc thực hành đúng đắn và thực hành sái quấy đối với những người mẹ và cha. Không có các chúng sinh thuộc loại hóa sanh: vị ấy nói rằng chúng sanh sau khi chết rồi tục sanh là không có.
Cātumahābhūtikoti catumahābhūtamayo. Pathavī pathavikāyanti ajjhattikapathavīdhātu bāhirapathavīdhātuṃ. Anupetīti anuyāyati. Anupagacchatīti tasseva vevacanaṃ. Anugacchatītipi attho. Ubhayenāpi upeti, upagacchatīti dasseti. Āpādīsupi eseva nayo. Indriyānīti manacchaṭṭhāni indriyāni ākāsaṃ pakkhandanti. Āsandipañcamāti nipannamañcena pañcamā, mañco ceva cattāro mañcapāde gahetvā ṭhitā cattāro purisā cāti attho. Yāvāḷāhanāti yāva susānā. Padānīti ‘ayaṃ evaṃ sīlavā ahosi, evaṃ dussīlo’tiādinā nayena pavattāni guṇāguṇapadāni, sarīrameva vā ettha padānīti adhippetaṃ. Kāpotakānīti kapotavaṇṇāni, pārāvatapakkhavaṇṇānīti attho.
Được tạo thành bởi bốn yếu tố chính (đất, nước, lửa, gió): Thành tựu bởi bốn Sắc đại hiển (đất, nước, lửa, gió). Pathavī pathavīkāyaṃ (Địa giới đi theo Địa giới): nội Địa giới đi theo ngoại Địa giới (đất thuộc nội phần cơ thể sẽ hoàn lại cho khối đất thuộc ngoại phần cơ thể). Anupeti: đi theo. Anupagacchati: đây là từ đồng nghĩa của anupeti, cũng có nghĩa là anugacchati. Thậm chí cả 2 từ này vị ấy chỉ ra rằng anupeti upagacchati: đi theo. Ngay cả Thủy giới v.v, cũng có cách thức tương tự. Các quyền (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý): Các quyền có ý quyền là thứ 6, các quyền này nhập vào hư không. Có chiếc giường là thứ năm: có chiếc giường nằm là thứ năm, có nghĩa là một chiếc giường và bốn người đàn ông đứng nắm lấy 4 chân giường. Yāvāḷāhanā: chỉ là nghĩa địa. Padāni (thân xác): Câu để diễn đạt đức hạnh và lỗi lầm được vận hành theo cách thức sau: ‘người này có giới hạnh như vầy, người có giới tồi như vầy,’ hơn nữa, chính sắc thân này vị ấy muốn đề cập đến Padāni trong từ Padāni này. Có màu trắng như màu chim bồ câu: Có màu sắc tựa như màu chim bồ câu, nghĩa là có màu sắc tựa như màu đôi cánh chim bồ câu.
Bhassantāti bhasmantā, ayameva vā pāḷi. Āhutiyoti yaṃ paheṇakasakkārādibhedaṃ dinnadānaṃ, sabbaṃ taṃ chārikāvasānameva hoti, na tato paraṃ phaladāyakaṃ hutvā gacchatīti attho. Dattupaññattanti dattūhi bālamanussehi paññattaṃ. Idaṃ vuttaṃ hoti — ‘bālehi abuddhīhi paññattamidaṃ dānaṃ, na paṇḍitehi. bālā denti, paṇḍitā gaṇhantī’ti dasseti.
Cuối cùng trở thành tro bụi: Cuối cùng trở thành tro bụi, hơn nữa, Pāḷī cũng vậy. Các vật cúng tế: đồ vật dâng cúng, có nghĩa là vật thí đã được bố thí thuộc loại lễ vật thờ cúng, v.v., được hiến tế. Cuối cùng tất cả đều trở thành tro bụi, do đó, không mang lại kết quả gì cả. Sự bố thí này được tuyên bố bởi những kẻ ngu muội: (việc bố thí) người ngu, người thiếu trí thừa nhận. Điều này được nói rằng – “sự bố thí này được thừa nhận bởi người ngu, người thiếu trí, không phải được thừa nhận bởi bậc trí; kẻ ngu bố thí, bậc trí nhận lãnh.”
Tattha pūraṇo “karoto na karīyati pāpan”ti vadanto kammaṃ paṭibāhati. Ajito “kāyassa bhedā ucchijjatī”ti vadanto vipākaṃ paṭibāhati. Makkhali “natthi hetū”ti vadanto ubhayaṃ paṭibāhati. Tattha kammaṃ paṭibāhantenāpi vipāko paṭibāhito hoti, vipākaṃ paṭibāhantenāpi kammaṃ paṭibāhitaṃ hoti. Iti sabbepete atthato ubhayappaṭibāhakā[20] ahetukavādā ceva akiriyavādā ca natthikavādā ca honti.
Ở đây, Pūraṇa giải thích rằng: “Người làm ác vẫn không tạo ra tội ác” đây gọi là bác bỏ nghiệp lực. Còn Ajita giải thích rằng: “do sự hoại rã của thân thể mà bị đoạn diệt” được gọi là bác bỏ ‘quả dị thục’. Makkhalī giải thích rằng: “Không có nhân” được gọi là bác bỏ cả hai là ‘nghiệp’ và cả ‘quả dị thục’. Trong câu đó, thậm chí khi bác bỏ ‘nghiệp lực’ cũng chính là bác bỏ luôn cả ‘quả dị thục’. Ngay cả khi bác bỏ ‘quả dị thục’ thì cũng chính là bác bỏ ‘nghiệp lực’. Như thế, tất cả các chủ học thuyết ấy nói theo ý nghĩa bác bỏ cả hai là ‘nghiệp lực’ và cả ‘quả dị thục’, thuyết vô nhân, thuyết vô hành, và thuyết hư vô.
Ye vā pana tesaṃ laddhiṃ gahetvā rattiṭṭhāne divāṭhāne nisinnā sajjhāyanti vīmaṃsanti, tesaṃ “karoto na karīyati pāpaṃ, natthi hetu, natthi paccayo, mato ucchijjatī”ti tasmiṃ ārammaṇe micchāsati santiṭṭhati, cittaṃ ekaggaṃ hoti, javanāni javanti, paṭhamajavane satekicchā honti, tathā dutiyādīsu, sattame buddhānampi atekicchā anivattino ariṭṭhakaṇṭakasadisā. Tattha koci ekaṃ dassanaṃ okkamati, koci dve, koci tīṇipi, ekasmiṃ okkantepi, dvīsu tīsu okkantesupi, niyatamicchādiṭṭhikova hoti; patto saggamaggāvaraṇañceva mokkhamaggāvaraṇañca, abhabbo tassattabhāvassa[21] anantaraṃ saggampi gantuṃ, pageva mokkhaṃ. Vaṭṭakhāṇu[22] nāmesa satto pathavigopako, yebhuyyena evarūpassa bhavato vuṭṭhānaṃ natthi.
“Tasmā akalyāṇajanaṃ, āsīvisamivoragaṃ.
Ārakā parivajjeyya, bhūtikāmo vicakkhaṇo”ti.
Hoặc hơn nữa, những hạng người nào sau khi nắm lấy học thuyết của những chủ học thuyết ấy ngồi trì tụng ở chỗ nghỉ ban ngày, ở chỗ nghỉ ban đêm thì những hạng người đó có tà niệm trong đối tượng ấy như sau: “Người làm ác vẫn không tạo ra tội ác, không có nhân, không có duyên, do sự hoại rã của thân thể mà bị đoạn diệt”, có trạng thái tâm chuyên nhất, các tâm đổng lực vận hành, ở động lực thứ nhất đủ để cứu vãn, ở đổng lực thứ hai v.v, cũng tương tự, ở đổng lực thứ bảy thì ngay cả chư Phật cũng không thể cứu vãn được, chẳng hạn như tỳ khưu Ariṭṭha và sa-di Kaṇṭaka. Cả ba tà kiến cố định ấy một số người rơi vào quan điểm thứ nhất, một số rơi vào quan điểm thứ hai, một số rơi vào quan điểm thứ ba, chỉ rơi vào một quan điểm, thậm chí rơi vào hai-ba quan điểm, trở thành tà kiến cố định, cản trở đạo lộ dẫn đến thiên giới và cản trở đạo lộ đưa đến Nibbāna, không xứng đáng đi đến thiên giới ở kiếp sống kế tiếp, còn nói gì nữa đến Nibbāna. Chúng sanh này gọi là ‘vẫn còn gốc rễ của luân hồi, là người canh giữ quả địa cầu’, hầu hết những người có quan điểm như thế không thể ra thoát khỏi các hữu.
“Do đó, một người có trí (nhìn thấy rõ ràng) có ước nguyện tăng trưởng nên tránh xa người bạn xấu xa, giống như một người tránh xa con rắn độc.”
Giải Thích Học Thuyết Của Pakudha Kaccāyana
173-175. Pakudhavāde akaṭāti akatā. Akaṭavidhāti akatavidhānā. Evaṃ karohīti kenaci kārāpitāpi na hontīti attho. Animmitāti iddhiyāpi na nimmitā. Animmātāti animmāpitā, keci animmāpetabbāti[23] padaṃ vadanti, taṃ neva pāḷiyaṃ, na aṭṭhakathāyaṃ dissati. Vañjhādipadattayaṃ vuttatthameva. Na iñjantīti esikatthambho viya ṭhitattā na calanti. na vipariṇamantīti[24] pakatiṃ na jahanti. Na aññamaññaṃ byābādhentīti na aññamaññaṃ upahananti. Nālanti na samatthā. Pathavikāyotiādīsu pathavīyeva pathavikāyo, pathavisamūho vā. Tatthāti tesu jīvasattamesu kāyesu. Sattannaṃ tveva kāyānanti yathā muggarāsiādīsu pahataṃ satthaṃ muggādīnaṃ antarena pavisati, evaṃ sattannaṃ kāyānaṃ antarena chiddena vivarena satthaṃ pavisati. Tattha ahaṃ imaṃ jīvitā voropemīti kevalaṃ saññāmattameva hotīti dasseti.
173-175. Trong học thuyết của Pakudha, ‘không được ai làm ra’ – không có ai làm. Không được ai bảo làm ra: không được ai bảo làm ra. Giải thích rằng: dẫu có cho bất cứ ai làm – ‘hãy làm như vầy thì cũng không gọi là làm’. Không được ai biến hóa ra: không có ai biến hóa ra bằng thân thông. Không được ai bảo biến hóa ra: Không ai bảo biến hóa. Một số vị thầy nói rằng không nên bảo ai hóa hiện, câu đó không xuất hiện trong Pāḷī, mà cũng không xuất hiện trong Chú giải. Ba câu có từ ‘không sinh sản’: có ý nghĩa như đã trình bày. vật nuôi không sinh sản, không cho sanh với bất cứ ai tựa như cây thốt nốt v.v, không có trái. Với câu này bác bỏ trạng thái Địa giới v.v, cho sanh khởi thành Sắc v.v. gọi là do thiết lập vững chắc tựa như đỉnh núi. Không lay động: Không rung động do được đặt kiên cố tựa như cột trụ ấy. Không biến hoại: không rời khỏi (trạng thái) bình thường. Không xâm hại lẫn nhau: không làm tổn thương lẫn nhau. Không có khả năng: không thể. Địa thân (một khối đất) v.v, khối đất, hoặc đất được gom lại, cũng chính là đất (địa giới). Tatthā: trong ‘thân’ có mạng quyền là thứ bảy. Chỉ rơi vào khe hở ở giữa chính bảy khối ấy: Giống như thanh gươm sắc bén chém xuống một đống đậu xanh v.v, qua khoảng giữa đống đậu xanh như thế nào, thanh gươm sắc bén đi qua khe hở ở khoảng giữa bảy khối thực tính cũng tương tự như thế đó. Vị ấy chỉ ra rằng: đó chỉ là sự tưởng tượng – ‘Ta sẽ tước đoạt mạng sống của người này (cũng không phải là việc đoạt lấy mạng sống người ấy).”
Giải Thích Học Thuyết Của Nigaṇṭha Nāṭaputta
176-178. Nāṭaputtavāde cātuyāmasaṃvarasaṃvutoti catukoṭṭhāsena saṃvarena saṃvuto. Sabbavārivārito cāti vāritasabbaudako paṭikkhittasabbasītodakoti attho. So kira sītodake sattasaññī hoti, tasmā na taṃ vaḷañjeti. Sabbavāriyuttoti sabbena pāpavāraṇena yutto. Sabbavāridhutoti[25] sabbena pāpavāraṇena dhutapāpo. Sabbavāriphuṭoti sabbena pāpavāraṇena phuṭṭho. Gatattoti koṭippattacitto. Yatattoti saṃyatacitto. Ṭhitattoti suppatiṭṭhitacitto. Etassa vāde kiñci sāsanānulomampi atthi, asuddhaladdhitāya pana sabbā diṭṭhiyeva jātā.
176-178. Trong học thuyết của Nāṭaputta, ‘đã được thu thúc ở bốn điều cấm đoán’ thu thúc với sự thu thúc ở bốn điều cấm đoán. Kiêng cữ mọi loại nước: là người ngăn ngừa mọi loại nước, giải thích rằng: ngăn chặn mọi loại nước lạnh. Tương truyền vị Nigaṇṭha Nāṭaputta ấy nghĩ rằng: ở trong nước lạnh có mạng sống, vì thế mới không sử dụng nước lạnh. Gắn bó với mọi loại nước: liên kết ngăn chặn mọi ác xấu. Giũ bỏ nhờ vào mọi loại nước: nhổ bỏ điều xấu ác bằng sự ngăn chặn mọi điều xấu ác. Có bản thân đã được đạt đến (giải thoát): có tâm đã đã đến giải thoát. Có bản thân đã được kiềm chế: Có tâm đã được thu thúc. Có bản thân đã được vững chãi: Có tâm đã được an trú vững chắc. Trong học thuyết của vị Nigaṇṭha Nāṭaputta có một vài luận điểm thuận theo Phật Giáo, tuy nhiên học thuyết không thanh tịnh mới khởi lên toàn bộ trở thành tà kiến.
Giải Thích Học Thuyết Của Sañjaya Belaṭṭhiputta
179-181. Sañcayavādo amarāvikkhepe vuttanayo eva.
179-181. Học thuyết của vị Sañcaya, có phương cách như đã nói ở luận cứ liên quan đến trườn uốn như lươn (trong bài Kinh Brahmajāla – Kinh Mạng Lưới Cao Thượng)
Giải Thích Về Quả Báo Hiện Tiền Thứ Nhất Của Hạnh Sa Môn
182. Sohaṃ, bhanteti so ahaṃ bhante, vālukaṃ pīḷetvā telaṃ alabhamāno viya titthiyavādesu sāraṃ alabhanto bhagavantaṃ pucchāmīti attho.
182. Bạch ngài, trẫm đây v.v, thưa ngài, trẫm không đạt được cốt lõi trong học thuyết của các ngoại đạo sư ấy tương tự như ép cát không thể lấy được dầu. Vì vậy trẫm muốn hỏi đức Thế Tôn.
183. Yathā te khameyyāti yathā te rucceyya. Dāsoti antojātadhanakkītakaramarānītasāmaṃdāsabyopagatānaṃ aññataro. Kammakāroti analaso kammakaraṇasīloyeva. Dūrato disvā paṭhamameva uṭṭhahatīti pubbuṭṭhāyī. evaṃ uṭṭhito sāmino āsanaṃ paññapetvā pādadhovanādikattabbakiccaṃ katvā pacchā nipatati nisīdatīti pacchānipātī. Sāmikamhi vā sayanato avuṭṭhite pubbeyeva vuṭṭhātīti pubbuṭṭhāyī. Paccūsakālato paṭṭhāya yāva sāmino rattiṃ niddokkamanaṃ, tāva sabbakiccāni katvā pacchā nipatati, seyyaṃ kappetīti pacchānipātī. Kiṃ karomi, Kiṃ karomīti evaṃ kiṃkārameva paṭisuṇanto vicaratīti kiṃ kārapaṭissāvī. Manāpameva kiriyaṃ karotīti manāpacārī. Piyameva vadatīti piyavādī. Sāmino tuṭṭhapahaṭṭhaṃ mukhaṃ ullokayamāno[26] vicaratīti mukhullokako.
183. Đại vương nhận định điều ấy như thế nào: thuận theo ý muốn. Người nô bộc: có con của người nô lệ, người nô lệ được mua bằng tài sản, người nô lệ từng là tù nhân bị bắt ở chiến trận, và người nô lệ tự ghi danh để trở thành nô lệ. Người làm công việc: Người không lười biếng, thường xuyên làm công việc. Thức dậy trước: với ý nghĩa nhìn thấy ông chủ từ đằng xa, lập tức đứng dậy trước. Đi ngủ sau: với ý nghĩa sau khi đứng dậy đã trải sẵn sàng tọa cho chủ nhân, làm nhiệm vụ nên làm như rửa chân v.v, rồi mới nghỉ ngơi, tức là đi ngủ sau chủ. Hơn nữa, thức dậy trước: với ý nghĩa thức dậy trước khi chủ vẫn còn chưa thức giấc. Đi ngủ sau: với ý nghĩa làm mọi nhiệm vụ từ sáng sớm đến khi chủ nhân đi ngủ thì mình mới được đi nghỉ ngơi, tức là đi ngủ sau chủ. Tuân hành lệnh sai bảo: với ý nghĩa đến lắng nghe (và) thi hành theo mệnh lệnh (được giao) như vầy – ‘Ta sắp làm gì đây? Ta sắp làm gì đây?’ Làm vừa ý chủ: chỉ làm những hành động vừa lòng chủ. Có lời nói đáng yêu: chỉ nói những lời nói dễ thương. Luôn ngước nhìn sắc mặt (của chủ): Thường ngước nhìn sắc mặt của chủ tươi sáng và vui mừng.
Devo maññeti devo viya. So vatassāhaṃ puññāni kareyyanti so vata ahaṃ evarūpo assaṃ, yadi puññāni kareyyanti attho. “So vatassa’ssan”tipi[27] pāṭho, ayamevattho. Yaṃnūnāhanti sace dānaṃ dassāmi, yaṃ rājā ekadivasaṃ deti, tato satabhāgampi yāvajīvaṃ na sakkhissāmi dātunti pabbajjāyaṃ ussāhaṃ katvā evaṃ cintanabhāvaṃ dasseti.
Như thể là vị Thiên nhân: Giống như là vị Thiên nhân. Quả thật, ta đây cũng có thể tạo phước để trở thành người như là đức vua: Quả thật, ta đây lương y Jīvaka cũng có thể trở thành đức vua như thế này, nếu như tạo các việc phước thiện. Nguyên văn “So vatassa’ssaṃ” cũng có, (và) có ý nghĩa tương tự như thế. Vậy thì: bày tỏ suy nghĩ như vầy – Nếu ta bố thí cho đến hết cuộc đời cũng không thể nào bằng được một phần trong trăm phần của việc bố thí mà đức vua làm trong một ngày (vì vậy) đã nỗ lực trong việc xuất gia.
Kāyena saṃvutoti kāyena pihito hutvā akusalassa pavesanadvāraṃ thaketvāti attho. eseva nayo sesapadadvayepi. Ghāsacchādanaparamatāyāti ghāsacchādanena paramatāya uttamatāya, etadatthampi anesanaṃ pahāya aggasallekhena santuṭṭhoti attho. Abhirato paviveketi “kāyaviveko ca vivekaṭṭhakāyānaṃ, cittaviveko ca nekkhammābhiratānaṃ, paramavodānappattānaṃ, upadhiviveko ca nirupadhīnaṃ puggalānaṃ visaṅkhāragatānan”ti[28] evaṃ vutte tividhepi viveke rato; gaṇasaṅgaṇikaṃ pahāya kāyena eko viharati, cittakilesasaṅgaṇikaṃ pahāya aṭṭhasamāpattivasena eko viharati, phalasamāpattiṃ vā nirodhasamāpattiṃ vā pavisitvā nibbānaṃ patvā viharatīti attho. Yaggheti codanatthe nipāto.
Vị ấy sống thu thúc về thân: thu thúc về thân, đóng lại các môn không để bất thiện thâm nhập. Luôn cả hai câu còn lại (sống thu thúc về khẩu, sống thu thúc về ý) cũng có phương cách tương tự. Sự tối thiểu về thực phẩm và y phục: Với nhu cầu tối thiểu về vật thực và y phục tốt nhất, cao nhất. Có nghĩa là vì lợi ích cho việc xuất gia này, (vị ấy) đã dứt bỏ sự tầm cầu sai trái, sống tự biết đủ với sự đoạn giảm tối thắng. Được thỏa thích về việc sống ẩn cư: Có sự hoan hỷ trong ba sự viễn ly được nói như vầy – “viễn ly về thân đối với các cá nhân có thân đã lui về nơi ẩn dật, viễn ly về tâm đối với các cá nhân đã thích thú trong việc xuất ly, đã đạt đến sự trong sáng tuyệt đối; và viễn ly về mầm tái sanh đối với các cá nhân không còn mầm tái sanh (chấm dứt mọi phiền não), đã đạt đến việc lìa khỏi các pháp tạo tác;” đã từ bỏ giao thiệp với đám đông lui về sống một mình, đã từ bỏ sự gần gũi với phiền não qua lộ tâm, sống một mình với mãnh lực tám thiền chứng, đã thể nhập sự thể nhập quả thiền chứng hoặc đã thể nhập sự thể nhập thiền diệt, đã chứng đạt Nibbāna, (vị ấy) an trú. Yagghe là một phân từ được dùng với ý nghĩa ‘nhắc nhở’.
184. Āsanenapi nimanteyyāmāti nisinnāsanaṃ papphoṭetvā idha nisīdathāti vadeyyāma. abhinimanteyyāmapi nanti abhiharitvāpi naṃ nimanteyyāma. Tattha duvidho abhihāro — vācāya ceva kāyena ca. Tumhākaṃ icchiticchitakkhaṇe amhākaṃ cīvarādīhi[29] vadeyyātha yenatthoti vadanto hi vācāya abhiharitvā nimanteti nāma. Cīvarādivekallaṃ sallakkhetvā idaṃ gaṇhāthāti tāni dento pana kāyena abhiharitvā nimanteti nāma. Tadubhayampi sandhāya abhinimanteyyāmapi nanti āha. Ettha ca gilānapaccayabhesajjaparikkhāroti yaṃ kiñci gilānassa sappāyaṃ osadhaṃ. Vacanattho pana visuddhimagge vutto. Rakkhāvaraṇaguttinti rakkhāsaṅkhātañceva āvaraṇasaṅkhātañca guttiṃ. Sā panesā na āvudhahatthe purise ṭhapentena dhammikā nāma saṃvidahitā hoti. yathā pana avelāya kaṭṭhahārikapaṇṇahārikādayo vihāraṃ na pavisanti, migaluddakādayo vihārasīmāya mige vā macche vā na gaṇhanti, evaṃ saṃvidahantena dhammikā nāma rakkhā saṃvihitā hoti, taṃ sandhāyāha — “dhammikan”ti.
184. Cũng nên thỉnh mời chỗ ngồi: nên sắp đặt chỗ ngồi rồi thỉnh mời ngồi xuống trên chỗ ngồi này. Nên bố trí sự bảo vệ: Nên thỉnh mời vị ấy vào, việc ấy có hai cách thỉnh mời là bằng lời nói và bằng thân. Thật vậy, (người cho) trong khi nói rằng – Tôi xin thông báo, ngài cần món gì như y phục v.v, xin ngài hãy nói mỗi lúc cần thiết, đây gọi là thỉnh mời bằng lời nói. Còn (người cho) quan sát thấy rằng: y phục (vị ấy) v.v, đã sờn cũ, (mong muốn) cúng dường những bộ y phục này cùng với lời nói như sau – xin hãy thọ nhận y phục này, đây gọi là thỉnh mời vào bằng thân. Đức vua Ajātasattu đã nói rằng: ‘nên bố trí’ muốn đề cập đến cả hai việc thỉnh mời đó. Và bất cứ một loại thuốc men nào có lợi cho sức khỏe của người bệnh đều gọi là dược phẩm dành cho người bệnh ở trường hợp này. Hơn nữa, ý nghĩa của lời nói đã được nói trong bộ Thanh Tịnh Đạo. Sự hộ trì, sự bảo vệ, sự che chở: sự che chở được xem là sự hộ trì và được xem là sự bảo vệ. Sự che chở là sự hộ trì và sự bảo vệ này đây không phải bố trí người cầm vũ khí đứng bảo vệ mà là che chở đúng pháp, chỉ là bố trí người bảo vệ không để cho những người đi kiếm củi đốt, mang lá cây v.v, đi vào tịnh xá vào lúc không thích hợp hoặc không để cho những kẻ thợ săn v.v, săn thú hoặc bắt cả ở trong tịnh xá Jetavana, đây được gọi là che chở đúng pháp. Ngài nói rằng ‘đúng pháp’ có ý muốn đề cập đến sự che chở đúng pháp đã được trình bày.
185. Yadi evaṃ santeti yadi tava dāso tuyhaṃ santikā abhivādanādīni labheyya. evaṃ sante. Addhāti ekaṃsavacanametaṃ. Paṭhamanti bhaṇanto aññassāpi atthitaṃ dīpeti. Teneva ca rājā sakkā pana, bhante, aññampītiādimāha.
185. Nếu trong khi xảy ra như vậy: Giả sử những người hầu của đức vua nhận được sự vái chào từ chỗ của ngài, xảy ra như thế. Thật vậy: Đây là từ hạn định lại vào một phần. Thứ nhất: trong khi nói rằng ‘thứ nhất’ thì vị ấy chỉ ra rằng: ‘vẫn còn có chỗ khác nữa’. Chinh từ ‘thứ nhất’ đức vua mới hỏi rằng: ‘Bạch Ngài, có thể nào tuyên bố quả báo hiện tiền khác nữa của hạnh Sa-môn ngay trong đời hiện tại tương tự y như (thành quả của nghề nghiệp) chăng?’
Giải Thích Về Quả Báo Hiện Tiền Thứ Nhì Của Hạnh Sa Môn
186-188. Kasatīti kassako. Gehassa pati[30], ekagehamatte jeṭṭhakoti gahapatiko. balisaṅkhātaṃ karaṃ karotīti karakārako. Dhaññarāsiṃ dhanarāsiñca vaḍḍhetīti rāsivaḍḍhako.
186-188. Người nông dân: làm ruộng. Người gia chủ: trụ cột trong gia đình, là người đứng đầu trong một ngôi nhà. Người nộp thuế: thực hiện việc đóng thuế, được xem là lợi tức. Người làm tăng thêm lợi tức: làm tăng thêm thóc lúa và tài sản.
Appaṃ vāti parittakaṃ vā antamaso taṇḍulanāḷimattakampi. Bhogakkhandhanti bhogarāsiṃ. Mahantaṃ vāti vipulaṃ vā. Yathā hi mahantaṃ pahāya pabbajituṃ dukkaraṃ, evaṃ appampīti dassanatthaṃ ubhayamāha. Dāsavāre pana yasmā dāso attanopi anissaro, pageva bhogānaṃ. Yañhi tassa dhanaṃ, taṃ sāmikānaññeva hoti, tasmā bhogaggahaṇaṃ na kataṃ. ñātiyeva ñātiparivaṭṭo.
Ít ỏi: nhỏ nhoi, thậm chỉ một đấu cơm. Khối tài sản: Khối tài sản.To lớn: sự thịnh vượng. Bởi vì, để chỉ rõ việc dứt bỏ khối tài sản lớn để xuất gia là việc khó thực hiện như thế nào, thậm chí (việc dứt bỏ tài sản) ít ỏi cũng như thế ấy, (ở đây) ngài nói đến cả hai. Hơn nữa, trong phần người nô bộc, nguyên nhân người nô bộc mất tự do ngay từ ban đầu, còn nói gì đến các loại tài sản. Bởi vì, tài sản nào của người nô bộc, thì những tài sản đó cũng thuộc quyền sở hữu của người chủ, vì thế mà không được xem là tài sản. Dòng họ thân quyến: chính là thân quyến.
Giải Thích Quả Báo Hiện Tiền Cao Cả Hơn Của Hạnh Sa-Môn
189. Sakkā pana, bhante, aññampi diṭṭheva dhammeti idha evamevāti na vuttaṃ. taṃ kasmāti ce, evamevāti hi vuccamāne pahoti bhagavā sakalampi rattindivaṃ tato vā bhiyyopi evarūpāhi upamāhi sāmaññaphalaṃ dīpetuṃ. Tattha kiñcāpi etassa bhagavato vacanasavane pariyantaṃ nāma natthi, tathāpi attho tādisoyeva bhavissatīti cintetvā upari visesaṃ pucchanto evamevāti avatvā — “abhikkantatarañca paṇītatarañcā”ti āha. Tattha abhikkantataranti abhimanāpataraṃ atiseṭṭhataranti[31] attho. Paṇītataranti uttamataraṃ. Tena hīti uyyojanatthe nipāto. Savane uyyojento hi naṃ evamāha. Suṇohīti abhikkantatarañca paṇītatarañca sāmaññaphalaṃ suṇāti.
189. “Bạch Ngài, có thể nào tuyên bố quả báo hiện tiền khác nữa của hạnh Sa-môn ngay trong đời hiện tại…” ở đây, đức vua Ajātasattu đã không nói ‘tương tự như thế’. Giải sử hỏi rằng câu đó như thế nào? Bởi vì trong khi đức vua Ajātasattu nói rằng ‘tương tự như thế’ đức Thế Tôn có thể chỉ ra quả báo của hạnh Sa-môn với các vị có hình thức như vầy hoặc nhiều hơn thế thậm chí trọn cả ngày đêm, đức vua Ajātasattu mải mê lắng nghe kim ngôn của đức Thế Tôn ở tại nơi ấy hoàn toàn không đi đến kết thúc, mặc dù vậy ý nghĩa cũng chỉ có chừng ấy. Đức vua Ajātasattu đã khởi lên suy nghĩ như vầy nhằm mục đích hỏi câu hỏi đặc biệt hơn mới không hỏi ‘tương tự như vậy’, mà đã hỏi rằng: ‘vượt trội hơn và cao cả hơn’. Ở đó, vượt trội hơn: đáng hài lòng hơn, tức là vượt trội hơn. cao cả hơn: cao cả hơn. Vậy thì: đây chỉ là phần từ với ý nghĩa ‘khuyến khích’. Thật vậy, đức Thế Tôn khi khuyến khích trong việc lắng nghe, đã thuyết cùng đức vua ấy như vậy. Hãy lắng nghe: ngài hãy lắng nghe quả báo của hạnh Sa-môn mà vượt trội hơn và cao cả hơn.
Sādhukaṃ manasikarohīti ettha pana sādhukaṃ sādhūti ekatthametaṃ. Ayañhi sādhu-saddo āyācanasampaṭicchanasampahaṃsanasundara daḷhīkammādīsu dissati. “sādhu me, bhante, bhagavā saṅkhittena dhammaṃ desetū”tiādīsu[32] hi āyācane dissati. “Sādhu, bhanteti kho so bhikkhu bhagavato bhāsitaṃ abhinanditvā anumoditvā”tiādīsu[33] sampaṭicchane. “sādhu sādhu, sāriputtā”tiādīsu[34] sampahaṃsane.
Hãy khéo léo tác ý: Hơn nữa, từ ‘sādhukaṃ’ và ‘sādhu’ này có cùng một ý nghĩa. Bởi vì từ ‘sādhu’ được sử dụng với nhiều ý nghĩa như lời thỉnh cầu, sự nhận lãnh, làm vui lòng, tốt đẹp và làm cho chắc chắn v.v. Từ sādhu được sử dụng với ý nghĩa lời thỉnh cầu: “Kính bạch đức Thế Tôn, cầu xin đức Thế Tôn thuyết Pháp vắn tắt cho con.” Sử dụng với ý nghĩa sự nhận lãnh: “Chư tỳ khưu ấy hoan hỷ tín thọ lời dạy của đức Thế Tôn, lành thay đức Thế Tôn.”(ma. ni. 3.86); sử dụng với ý nghĩa làm vui lòng: “Lành thay, lành thay này Sārīputta.”
“Sādhu dhammaruci rājā, sādhu paññāṇavā naro.
Sādhu mittānamaddubbho[35], pāpassākaraṇaṃ sukhan”ti.[36]
Ādīsu sundare. “Tena hi, brāhmaṇa, suṇohi sādhukaṃ manasi karohī”tiādīsu[37] sādhukasaddoyeva daḷhīkamme, āṇattiyantipi vuccati . Idhāpi assa ettheva daḷhīkamme ca āṇattiyañca veditabbo. Sundarepi vaṭṭati. Daḷhīkammatthena hi daḷhamimaṃ dhammaṃ suṇāhi, suggahitaṃ gaṇhanto. Āṇattiatthena mama āṇattiyā suṇāhi, sundaratthena sundaramimaṃ bhaddakaṃ dhammaṃ suṇāhīti evaṃ dīpitaṃ hoti.
Sử dụng với ý nghĩa tốt đẹp: “Lành thay vị vua yêu thích với pháp! Lành thay con người có trí tuệ [sử dụng trí tuệ trong đạo lộ chân chánh]! Lành thay người không làm hại bạn bè! Không làm điều ác là hạnh phúc.” Từ sādhuka cũng tương tự, sử dụng với ý nghĩa làm cho chắc chắn: “Này Bà-la-môn nếu vậy, ông hãy lắng nghe cho thật kỹ.” Chính từ ấy một số vị dịch ‘làm cho chắc chắn’ là ‘mệnh lệnh’. Ở trong trường hợp này nên hiểu rằng: vừa được dịch là ‘làm cho chắc chắn, và cũng được dịch là ‘mệnh lệnh’. Ngay cả dịch là ‘tốt đẹp’ cũng thích hợp. Thật vậy, được dịch với ý nghĩa ‘làm cho chắc chắn’ để làm sáng tỏ ý nghĩa sau: ‘Hãy lắng nghe Pháp này cho thật kỹ lưỡng, nắm lấy một cách khéo léo.’ Được dịch với ý nghĩa ‘mệnh lệnh’ để làm sáng tỏ ý nghĩa sau: ‘Hãy lắng nghe Pháp theo mệnh lệnh của ta’. Được dịch với ý nghĩa ‘tốt đẹp’ để làm sáng tỏ ý nghĩa sau: ‘Hãy lắng nghe Pháp này thật kỹ lưỡng, để đạt được lời lẽ rành mạch.’
Manasi karohīti āvajja, samannāharāti[38] attho, avikkhittacitto hutvā nisāmehi, citte karohīti adhippāyo. Api c’ettha suṇohīti sotindriyavikkhepanivāraṇametaṃ. Sādhukaṃ manasi karohīti manasikāre daḷhīkammaniyojanena manindriyavikkhepanivāraṇaṃ. Purimañcettha byañjanavipallāsaggāhavāraṇaṃ, pacchimaṃ atthavipallāsaggāhavāraṇaṃ. Purimena ca dhammassavane niyojeti, pacchimena sutānaṃ dhammānaṃ dhāraṇūpaparikkhādīsu. Purimena ca sabyañjano ayaṃ dhammo, tasmā savanīyoti dīpeti. Pacchimena sattho, tasmā sādhukaṃ manasi kātabboti. Sādhukapadaṃ vā ubhayapadehi yojetvā yasmā ayaṃ dhammo dhammagambhīro ceva desanāgambhīro ca, tasmā suṇāhi sādhukaṃ, yasmā atthagambhīro ca paṭivedhagambhīro ca, tasmā sādhukaṃ manasi karohīti evaṃ yojanā veditabbā.
Hãy tác ý: nghĩa là hãy tập trung, gom tâm lại, giải thích rằng có tâm không bị tản mạn, hãy lắng nghe, có ý muốn nói thực hiện ở trong tâm. Hơn nữa, ở đây hãy lắng nghe điều ấy này (trong mệnh lệnh) là việc ngăn ngừa sự xao lãng của nhĩ quyền. Hãy khéo tác ý điều ấy là việc ngăn ngừa sự xao lãng của ý quyền với sự kết hợp vững chắc trong sự tác ý. Và ở đây, câu đầu tiên (biểu lộ) sự cản trở nắm lấy văn tự sai lạc, còn câu sau (biểu lộ) sự cản trở nắm lấy ý nghĩa sai lạc. Và với câu đầu tiên khích lệ trong việc lắng nghe Giáo Pháp, với câu sau khích lệ để cho ghi nhớ và suy xét Pháp đã nghe. Và với câu đầu làm sáng tỏ rằng: Pháp này có sự thành tựu về văn tự, vì thế cần phải lắng nghe. Với câu sau – có sự thành tựu về ý nghĩa, vì thế cần phải khéo tác ý. Hoặc, từ sādhuka cần phải liên kết với cả 2 [‘hãy khéo tác ý – sādhukaṃ suṇāti, sādhukaṃ manasikarohi’], bởi vi Pháp này có sự thâm sâu về Pháp và có sự sâu sắc về lời giảng, do đó, hãy khéo lắng nghe; và bởi vì Pháp này có sự sâu sắc về ý nghĩa và thâm sâu về Pháp Thành, cho nên, hãy khéo tác ý; nên liên kết ý nghĩa như thế.
Bhāsissāmīti sakkā mahārājāti evaṃ paṭiññātaṃ sāmaññaphaladesanaṃ vitthārato bhāsissāmi. “desessāmī”ti hi saṅkhittadīpanaṃ hoti. Bhāsissāmīti vitthāradīpanaṃ. Tenāha vaṅgīsatthero —
“Saṅkhittenapi deseti, vitthārenapi bhāsati.
Sāḷikāyiva nigghoso, paṭibhānaṃ udīrayī”ti.[39]
Ta sẽ nói: Này đại vương, có thể. Ta sẽ nói theo cách rộng rãi quả báo của hạnh Sa-môn đã được thừa nhận như vậy. “Ta sẽ thuyết” là việc thuyết giảng vắn tắt. “Ta sẽ nói” là việc thuyết giảng rộng rãi. Do đó, trưởng lão Vaṅgīsa đã nói như sau:
Dầu trưởng lão Sārīputta thuyết giảng vắn tắt, hay thuyết giảng chi tiết đi nữa, thì âm thanh của ngài đều ngân vang tựa như là tiếng chim sāḷikā, vị ấy đã nói lên tài hùng biện. (saṃ. ni. 1.214).
Evaṃ vutte ussāhajāto hutvā — “Evaṃ, bhante”ti kho rājā māgadho ajātasattu vedehiputto bhagavato paccassosi bhagavato vacanaṃ sampaṭicchi, paṭiggahesīti vuttaṃ hoti.
Trong khi (đức Thế Tôn) nói như vậy, đức vua Ajātasattu với sự nỗ lực đã được sanh khởi đã chấp nhận lời nói của đức Thế Tôn rằng – “Xin vâng, bạch Ngài,” vua Ajātasattu Vedehiputta xứ Magadha đã trả lời đức Thế Tôn.” Giải thích rằng ‘đã tiếp thu’.
190. Athassa bhagavā etadavoca, etaṃ avoca, idāni vattabbaṃ “idha mahārājā”tiādiṃ sakalaṃ suttaṃ avocāti attho. Tattha idhāti desāpadese[40] nipāto, svāyaṃ katthaci lokaṃ upādāya vuccati. Yathāha — “Idha tathāgato loke uppajjatī”ti[41]. Katthaci sāsanaṃ yathāha — “idheva, bhikkhave, paṭhamo samaṇo, idha dutiyo samaṇo”ti[42]. katthaci okāsaṃ. yathāha —
“Idheva tiṭṭhamānassa, devabhūtassa me sato.
Punarāyu ca me laddho, evaṃ jānāhi mārisā”ti.[43]
190. Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói điều này cùng đức vua Ajātasattu đó, giải thích rằng: Đã thuyết toàn bộ bài Kinh có lời như sau: “Ở đây, này đại vương” thích hợp thuyết vào lúc này. ‘Idha – ở đây’ trong câu Pāḷī ấy là phân từ được sử dụng với ý nghĩa nói đến địa phương. Idha này đây một vài chỗ nói đề cập đến thế gian. Như đã được nói trong câu sau: Như Lai xuất hiện ở thế gian này”; Một vài chỗ nói đề cập đến Giáo Pháp, như đã được nói trong câu sau: “Này chư tỳ khưu, chính trong Giáo Pháp này có Sa-môn thứ nhất, có Sa-môn thứ hai trong Giáo Pháp này.” Một vài chỗ nói đề cập đến hư không, như đã được nói trong câu sau:
“Khi ta có trạng thái vị Thiên nhân, đang đứng ở tại hư không ấy, và ta đã có được tuổi thọ lần nữa, ngài hãy biết như vậy.”
Katthaci padapūraṇamattameva. yathāha “Idhāhaṃ, bhikkhave, bhuttāvī assaṃ pavārito”ti[44]. Idha pana lokaṃ upādāya vuttoti veditabbo. Mahārājāti yathā paṭiññātaṃ desanaṃ desetuṃ puna mahārājāti ālapati. Idaṃ vuttaṃ hoti — “Mahārāja imasmiṃ loke tathāgato uppajjati arahaṃ … pe … buddho bhagavā”ti. Tattha tathāgatasaddo brahmajāle vutto. arahantiādayo visuddhimagge vitthāritā. Loke uppajjatīti ettha pana lokoti — okāsaloko sattaloko saṅkhāralokoti tividho. idha pana sattaloko adhippeto. Sattaloke uppajjamānopi ca tathāgato na devaloke, na brahmaloke, manussalokeva uppajjati. manussalokepi na aññasmiṃ cakkavāḷe, imasmiṃyeva cakkavāḷe. tatrāpi na sabbaṭṭhānesu, “Puratthimāya disāya gajaṅgalaṃ[45] nāma nigamo tassāparena mahāsālo, tato parā paccantimā janapadā orato majjhe, puratthimadakkhiṇāya disāya salaḷavatī[46] nāma nadī. Tato parā paccantimā janapadā, orato majjhe, dakkhiṇāya disāya setakaṇṇikaṃ nāma nigamo, tato parā paccantimā janapadā, orato majjhe, pacchimāya disāya thūṇaṃ[47] nāma brāhmaṇagāmo, tato parā paccantimā janapadā, orato majjhe, uttarāya disāya usiraddhajo nāma pabbato, tato parā paccantimā janapadā orato majjhe”ti evaṃ paricchinne āyāmato tiyojanasate, vitthārato aḍḍhateyyayojanasate, parikkhepato navayojanasate majjhimapadese uppajjati. Na kevalañca tathāgato, paccekabuddhā, aggasāvakā, asītimahātherā, buddhamātā, buddhapitā, cakkavattī rājā[48] aññe ca sārappattā brāhmaṇagahapatikā etthevuppajjanti.
Một vài chỗ ‘chỉ làm cho câu được đầy đủ’ như đã được nói trong câu sau: ‘Này chư tỳ khưu, Như Lai đã thọ dụng xong, khước từ vật thực [dâng thêm].” (ma. ni. 1.30); Nhưng ‘idha’ trong trường hợp này nên biết rằng: Ngài nói đề cập đến ‘thế gian’. Đại vương: đức Thế Tôn gọi ‘đại vương lần nữa’ để thuyết giảng Giáo Pháp theo điều đã được tuyên bố. Điều này đã được nói – “ “Ở đây, này đại vương, Như Lai xuất hiện ở thế gian là bậc A-ra-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Tối Thượng Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.” Từ ‘Như Lai’ trong câu Pāḷī ấy được nói trong bài Kinh Brahmajāti. Từ ‘A-ra-hán’ được nói chi tiết trong Thanh Tịnh Đạo. Cũng trong cụm từ ‘xuất hiện ở thế gian’ này thì thế gian có ba loại là – (1) Không gian thế giới, (2) chúng sanh thế giới và (3) Hữu vi thế giới. Nhưng ở đây có ý muốn đề cập đến chúng sanh thế giới. Như Lai trong khi được sanh ra ở thế giới chúng sanh thì ngài không sanh ra ở thế giới chư Thiên, (hoặc) thế giới Phạm thiên, ngay cả ở thế giới loài người cũng không sanh ra ở vũ trụ khác mà chỉ sanh ra ở vũ trụ này. Thậm chí ở vũ trụ này cũng không sanh ra trong khắp mọi nơi, mà ngài chỉ sanh ra ở trung tâm quốc độ, có chiều dài ba trăm do-tuần, có chiều rộng hai trăm năm mươi do-tuần, có chu vi chín trăm do tuần được định rõ như vầy: “Ở hướng đông có thị trấn tên là Gajaṅgala, xa hơn chỗ đó là Mahāsālā, từ đó trở đi là các xứ thuộc vùng biên địa, từ đó trở lại là thuộc trung tâm. Ở hướng đông nam, có con sông tên là Salalavatī, từ đó trở đi là các xứ thuộc vùng biên địa, từ đó trở lại là thuộc trung tâm. Ở hướng nam, có thị trấn tên là Setakaṇṇika, từ đó trở đi là các xứ thuộc vùng biên địa, từ đó trở lại là thuộc trung tâm. Ở hướng tây, có làng Bà-la-môn tên là Thūṇa, từ đó trở đi là các xứ thuộc vùng biên địa, từ đó trở lại là thuộc trung tâm. Ở hướng bắc, có ngọn núi tên là Usīraddhaja, từ đó trở đi là các xứ thuộc vùng biên địa, từ đó trở lại là thuộc trung tâm.” Không chỉ riêng đức Như Lai, chư vị Phật-độc-giác, chư vị Thượng thủ Thinh văn, tám mươi vị Đại trưởng lão đệ tử Thinh văn, người mẹ của đức Phật, người cha của đức Phật, Chuyển Luân Vương, Bà-la-môn và người gia chủ đã đạt được căn bản khác đều sanh ra ở trung quốc độ.
Tattha tathāgato sujātāya dinnamadhupāyāsabhojanato yāva arahattamaggo, tāva uppajjati nāma, arahattaphale uppanno nāma. Mahābhinikkhamanato vā yāva arahattamaggo. Tusitabhavanato vā yāva arahattamaggo. Dīpaṅkarapādamūlato vā yāva arahattamaggo, tāva uppajjati nāma, arahattaphale uppanno nāma. Idha sabbapaṭhamaṃ uppannabhāvaṃ sandhāya uppajjatīti vuttaṃ. Tathāgato loke uppanno hotīti ayañhettha attho.
Như Lai xuất hiện ở thế gian ấy – Như Lai kể từ khi thọ dụng món cơm sữa – Madhupāyāsa được nàng Sujātā cúng đường cho đến khi chứng đạt A-ra-hán Đạo được gọi là xuất hiện, khi chứng đạt A-ra-hán Quả được gọi là đã xuất hiện. Hoặc kể từ khi thực hiện cuộc ra đi vĩ đại cho đến khi chứng đắc A-ra-hán Đạo, hoặc từ cõi trời Ðâu Suất cho đến khi chứng đắc A-ra-hán Đạo, hoặc kể từ khi ở dưới bàn chân của đức Phật Dīpaṅkara cho đến khi chứng đắc A-ra-hán Đạo, khi đó gọi là đang xuất hiện, trong khi chứng đắc A-ra-hán Quả gọi là đã xuất hiện. Ở đây, ngài muốn đề cập đến bản thể Như Lai xuất hiện trước hết tất cả mới gọi là ‘đang sanh.’ Ở đây, điều này có nghĩa là ‘Như Lai đã xuất hiện ở thế gian.’
So imaṃ lokanti so bhagavā imaṃ lokaṃ. Idāni vattabbaṃ nidasseti. Sadevakanti saha devehi sadevakaṃ. evaṃ saha mārena samārakaṃ, saha brahmunā sabrahmakaṃ, saha samaṇabrāhmaṇehi sassamaṇabrāhmaṇiṃ. Pajātattā pajā, taṃ pajaṃ. Saha devamanussehi sadevamanussaṃ. Tattha sadevakavacanena pañca kāmāvacaradevaggahaṇaṃ veditabbaṃ. Samāraka — vacanena chaṭṭhakāmāvacaradevaggahaṇaṃ. sabrahmakavacanena brahmakāyikādibrahmaggahaṇaṃ. Sassamaṇabrāhmaṇīvacanena sāsanassa paccatthika-paccāmitta-samaṇabrāhmaṇaggahaṇaṃ, samitapāpabāhitapāpa-samaṇabrāhmaṇaggahaṇañca. Pajāvacanena sattalokaggahaṇaṃ. Sadevamanussavacanena sammutidevāvasesamanussaggahaṇaṃ. evamettha tīhi padehi okāsalokena saddhiṃ sattaloko. dvīhi pajāvasena sattalokova gahitoti veditabbo.
Vị ấy (Như Lai)…thế gian này: đức Thế Tôn ấy làm cho thế gian sáng tỏ. Bây giờ để nói lời nên nói. Cùng với chư Thiên gọi là luôn cõi chư Thiên. Như vậy, cùng với Ma Vương gọi là luôn cõi Ma Vương. Cùng với Phạm thiên gọi là luôn cõi Phạm Thiên. Cùng với Sa-môn và Bà-la-môn gọi là luôn cả Sa-môn và Bà-la-môn. Gọi là quần sanh bởi vì sanh khởi phổ biến từ nhóm chúng sanh đó. Cùng với chư Thiên và nhân loại gọi là cùng với chư Thiên và Nhân loại. Trong lời đó nên biết rằng – nắm lấy 5 cõi chư Thiên dục giới bằng lời nói ‘luôn cõi chư Thiên.’ Nắm lấy cõi Dục giới thứ 6 bằng lời nói ‘luôn cõi Ma Vương.’ Nắm lấy cõi Phạm Thiên bằng lời nói ‘luôn cõi Phạm Thiên.’ Sa-môn và Bà-la-môn là kẻ đối nghịch và kẻ địch của Giáo Pháp, và nắm lấy vị Sa-môn và Bà-la-môn vị vắng lặng ác pháp (và) thả trôi ác pháp bằng lời nói ‘luôn cả Sa-môn và Bà-la-môn.’ Chúng sanh ở thế gian với từ ‘quần sanh.’ Chư Thiên do chế định và người nhân loại còn lại với lời nói ‘cùng với chư Thiên và Nhân loại.’ Với 3 câu ở đây nên biết rằng – Ngài nắm lấy ‘chúng sanh thế giới’ cùng với ‘hư không thế giới’, riêng chúng sanh thế giới ngài nắm lấy do tác động ‘quần sanh’ với cả 2 câu như thế.
Aparo nayo, sadevakaggahaṇena arūpāvacaradevaloko gahito. Samārakaggahaṇena cha kāmāvacaradevaloko. Sabrahmakaggahaṇena rūpī brahmaloko. Sassamaṇabrāhmaṇādiggahaṇena catuparisavasena sammutidevehi vā saha manussaloko, avasesasabbasattaloko vā.
Và hơn nữa – Chư Thiên Vô sắc giới ngài nắm lấy với lời nói luôn cõi chư Thiên, 6 cõi trời Dục giới với lời nói luôn cõi Ma Vương, Phạm thiên sắc giới với lời nói luôn cõi Phạm Thiên. Luôn cả Sa-môn và Bà-la-môn v.v. Ngài nắm lấy người nhân loại cùng với chư Thiên do chế định với mãnh lực 4 hội chúng hoặc cõi người hoặc chúng sanh còn lại trong thế gian.
Api cettha sadevakavacanena ukkaṭṭhaparicchedato sabbassa lokassa sacchikatabhāvamāha. Tato yesaṃ ahosi — “Māro mahānubhāvo cha kāmāvacarissaro vasavattī, kiṃ sopi etena sacchikato”ti, tesaṃ vimatiṃ vidhamanto “samāraka”nti āha. Yesaṃ pana ahosi — “Brahmā mahānubhāvo ekaṅguliyā ekasmiṃ cakkavāḷasahasse ālokaṃ pharati, dvīhi … pe … dasahi aṅgulīhi dasasu cakkavāḷasahassesu ālokaṃ pharati. Anuttarañca jhānasamāpattisukhaṃ paṭisaṃvedeti, kiṃ sopi sacchikato”ti, tesaṃ vimatiṃ vidhamanto sabrahmakanti āha. Tato ye cintesuṃ[49] — “puthū samaṇabrāhmaṇā sāsanassa paccatthikā, kiṃ tepi sacchikatā”ti, tesaṃ vimatiṃ vidhamanto sassamaṇabrāhmaṇiṃ pajanti āha. Evaṃ ukkaṭṭhukkaṭṭhānaṃ sacchikatabhāvaṃ pakāsetvā atha sammutideve avasesamanusse ca upādāya ukkaṭṭhaparicchedavasena sesasattalokassa sacchikatabhāvaṃ pakāsento sadevamanussanti āha. Ayamettha bhāvānukkamo[50].
Và lại nữa, ở đây ngài nói đến tính chất mà đức Thế Tôn đã làm cho toàn bộ thế gian được sáng tỏ với việc xác định (ranh giới) cao bằng lời nói luôn cõi chư Thiên. Sau đó, những người nào có sự suy nghĩ rằng: “Thiên tử Vasavattī là vị có đại oai lực, là vị đứng đầu trong sáu cõi Chư thiên Dục giới, phải chăng đức Thế Tôn cũng đã làm sáng tỏ điều đó với Thiên tử Vasavattī?” Trong khi phá tan sự nghi hoặc của nhóm người ấy ngài đã nói rằng: ‘luôn cõi Ma Vương.’ Hơn nữa, những người nào có sự suy nghĩ rằng – “Phạm thiên có đại oai lực, lan tỏa hào quang khắp một ngàn vũ trụ với một ngón tay, với hai ngón tay …nt… lan tỏa hào quang khắp hàng ngàn vũ trụ với mười ngón tay và cảm nghiệm lạc thọ khởi lên từ sự thể nhập thiền tầng cao tột, phải chăng ngài cũng đã làm sáng tỏ điều đó với chính Phạm thiên ấy?” Trong khi cắt đứt sự nghi hoặc của những người đó ngài đã nói rằng: “luôn cõi Phạm Thiên.” Tiếp đó, những người nào nghĩ rằng: – “Đa số những Sa-môn và Bà-la-môn là kẻ đối nghịch của Tôn Giáo, phải chăng ngài cũng đã làm sáng tỏ điều đó với những Sa-môn và Bà-la-môn ấy?” Trong khi cắt đứt sự nghi hoặc của những người ấy ngài đã nói rằng: “về chúng sanh với các hạng Sa-môn, Bà-la-môn.” Sau khi đức Thế Tôn đã tuyên thuyết về bản thể mà ngài đã làm khiến các vị trí cao sáng tỏ, sau đó, trong khi tuyên bố về bản thể mà ngài đã làm khiến chúng sanh thế giới còn lại cho đến tất cả các chư Thiên do chế định và Nhân loại còn lại với việc xác định cao mới nói rằng: “cùng với vua chúa và loài người”. Ở đây, đây là tuần tự việc giải thích ý nghĩa.
Porāṇā panāhu — Sadevakanti devatāhi saddhiṃ avasesalokaṃ. Samārakanti mārena saddhiṃ avasesalokaṃ. Sabrahmakanti brahmehi saddhiṃ avasesalokaṃ. Evaṃ sabbepi tibhavūpage satte tīhākārehi tīsu padesu pakkhipetvā puna dvīhi padehi pariyādiyanto “sassamaṇabrāhmaṇiṃ pajaṃ sadevamanussan”ti āha. Evaṃ pañcahi padehi tena tenākārena tedhātukameva pariyādinnanti.
Hơn nữa, một số tài liệu cổ xưa đã nói rằng: – Luôn cả chư Thiên bao gồm thế giới còn lại cùng với các chư Thiên. Luôn cõi Ma Vương bao gồm thế giới còn lại cùng với Ma Vương. Luôn cõi Phạm Thiên bao gồm thế giới còn lại với các Phạm Thiên. Như vậy, ngài thêm chúng sanh vào trong ba cõi, toàn bộ đặt ở 3 câu với 3 biểu hiện, khi nắm lấy thêm 2 câu nữa mới nói rằng: ‘Về chúng sinh với các hạng Sa-môn, Bà-la-môn, vua chúa, và loài người.’ Như vậy, ngài nắm lấy chúng sanh thế gian thuộc tam giới ấy bằng biểu hiện đó với cả năm câu.
Sayaṃ abhiññā sacchikatvā pavedetīti ettha pana sayanti sāmaṃ aparaneyyo hutvā. Abhiññāti abhiññāya, adhikena ñāṇena ñatvāti attho. Sacchikatvāti paccakkhaṃ katvā, etena anumānādipaṭikkhepo kato hoti. Pavedetīti bodheti viññāpeti pakāseti.
Đã tự mình chứng ngộ bằng thắng trí rồi giảng dạy…: Tự mình: không có ai hướng dẫn. Với thắng trí: bằng thắng trí, có nghĩa là đã biết bằng trí vượt trội. Đã chứng ngộ: Đã làm cho sáng tỏ. Với câu này là điều mà ngài bác bỏ sự phỏng đoán. Giảng dạy…biết theo: làm cho tỉnh thức, làm cho hiểu biết, tức là tuyên bố cho biết toàn diện.
So dhammaṃ deseti ādikalyāṇaṃ … pe … pariyosānakalyāṇanti so bhagavā sattesu kāruññataṃ paṭicca hitvāpi anuttaraṃ vivekasukhaṃ dhammaṃ deseti. Tañca kho appaṃ vā bahuṃ vā desento ādikalyāṇādippakārameva deseti. Ādimhipi, kalyāṇaṃ bhaddakaṃ anavajjameva katvā deseti, majjhepi, pariyosānepi, kalyāṇaṃ bhaddakaṃ anavajjameva katvā desetīti vuttaṃ hoti. Tattha atthi desanāya ādimajjhapariyosānaṃ, atthi sāsanassa. Desanāya tāva catuppadikāyapi gāthāya paṭhamapādo ādi nāma, tato dve majjhaṃ nāma, ante eko pariyosānaṃ nāma. Ekānusandhikassa suttassa nidānaṃ ādi, idamavocāti pariyosānaṃ, ubhinnamantarā majjhaṃ. Anekānusandhikassa suttassa paṭhamānusandhi ādi, ante anusandhi pariyosānaṃ, majjhe eko vā dve vā bahū vā majjhameva.
Đức Thế Tôn, vị ấy thuyết giảng Pháp toàn hảo ở phần đầu, toàn hảo ở phần giữa và toàn hảo ở phần cuối: Đức Thế Tôn, vị ấy vì lòng bi mẫn đối với chúng sanh, thuyết giảng Giáo Pháp kể cả từ bỏ sự an lạc sanh lên từ sự viễn ly cao thượng, và khi thuyết giảng Pháp đó, quả thật dù ít hay nhiều (ngài) cũng đều thuyết giảng có sự toàn hảo ở phần đầu v.v. Giải thích rằng – mặc dù ở phần đầu, thuyết giảng làm cho tốt đẹp, êm dịu, không có lỗi lầm, ngay cả ở phần giữa, luôn cả ở phần cuối, cũng thuyết giảng làm cho tốt đẹp, êm dịu, không có lỗi lầm. Trong câu đó, với việc thuyết giảng pháp thoại có phần đầu, phần giữa và phần cuối; Giáo Pháp cũng có phần đầu, phần giữa và phần cuối tương tự như thế. Nói đến ‘việc thuyết giảng’ trước, cả trong câu kệ có 4 câu, câu đầu gọi là phần đầu, hai câu kế tiếp gọi là phần giữa, và câu cuối gọi là phần cuối. Bài Kinh có một sự liên kết thì ‘Nidāna’ là phần đầu, có từ ‘idamavoca – đã nói điều này’ là phần cuối, giữa hai phần là ‘phần đầu và phần cuối’ là phần giữa. Bài Kinh có nhiều sự liên kết, có sự liên kết đầu tiên là phần đầu, có sự liên kết cuối cùng là phần cuối; giữa một sự liên kết, hai sự liên kết hoặc nhiều sự liên kết thì đều là phần giữa.
Sāsanassa pana sīlasamādhivipassanā ādi nāma. vuttampi cetaṃ — “Ko cādi kusalānaṃ dhammānaṃ? Sīlañca suvisuddhaṃ diṭṭhi ca ujukā”ti[51]. “Atthi, bhikkhave, majjhimā paṭipadā tathāgatena abhisambuddhā”ti evaṃ vutto pana ariyamaggo majjhaṃ nāma. Phalañceva nibbānañca pariyosānaṃ nāma.
“Etadatthamidaṃ, brāhmaṇa, brahmacariyaṃ, etaṃ sāraṃ, etaṃ pariyosānan”ti[52] hi ettha phalaṃ pariyosānanti vuttaṃ. “Nibbānogadhaṃ hi, āvuso visākha, brahmacariyaṃ vussati, nibbānaparāyanaṃ nibbānapariyosānan”ti[53] ettha nibbānaṃ pariyosānanti vuttaṃ. Idha desanāya ādimajjhapariyosānaṃ adhippetaṃ. Bhagavā hi dhammaṃ desento ādimhi sīlaṃ dassetvā majjhe maggaṃ pariyosāne nibbānaṃ dasseti. Tena vuttaṃ — “so dhammaṃ deseti ādikalyāṇaṃ majjhekalyāṇaṃ pariyosānakalyāṇan”ti. Tasmā aññopi dhammakathiko dhammaṃ kathento[54] —
“Ādimhi sīlaṃ dasseyya, majjhe maggaṃ vibhāvaye.
Pariyosānamhi[55] nibbānaṃ, esā kathikasaṇṭhitī”ti
[56]Còn đối với Giáo Pháp thì ‘có Giới, Định và Minh Sát’ gọi là phần đầu. Và chính điều này đã được nói – “Và điều gì là phần đầu của các thiện pháp? Giới được khéo thanh tịnh và sự nhận thức được ngay thẳng” (saṃ. ni. 5.369). Hơn nữa, Thánh Đạo được nói như vầy – “Này chư tỳ khưu, con đường trung đạo đã được Như Lai tự mình giác ngộ” gọi là phần giữa; Thánh Quả và Nibbāna gọi là phần cuối. Thật vậy, ở đây Thánh Quả được gọi là phần cuối – “Này Bà-la-môn, chính vì nguyên nhân ấy, ngài hãy thực hành Phạm hạnh, đó là cốt lõi, đó là mục tiêu cuối cùng.” (ma. ni. 1.324). Ở đây, Nibbāna được gọi là phần cuối – “Thật vậy, này hiền giả Visākha, phạm hạnh là để thể nhập vào Nibbāna, để vượt qua đến Nibbāna, để đạt cứu cánh Nibbāna.”(ma. ni. 1.466). Ở đây, ngài muốn đề cập đến đoạn đầu, đoạn giữa và đoạn cuối của ‘việc thuyết giảng.’ Thật vậy, đức Thế Tôn trong khi thuyết giảng Giáo Pháp, ngài đã thuyết giảng Giới ở phần đầu, thuyết giảng Đạo ở phần giữa, và thuyết giảng Nibbāna ở phần cuối. Vì thế ngài đã nói rằng – “Vị ấy thuyết giảng Giáo Pháp toàn hảo đoạn đầu, toàn hảo ở đoạn giữa và toàn hảo đoạn cuối.” Cho nên, vị Pháp sư nào khác trong khi thuyết giảng Giáo Pháp –
Nên thuyết giảng Giới ở phần đầu, giải thích Đạo ở phần giữa. (và)
Nibbāna ở phần cuối, đây là nền tảng của một vị Pháp sư.
Sātthaṃ sabyañjananti yassa hi yāgubhattaitthipurisādivaṇṇanānissitā desanā hoti, na so sātthaṃ deseti. Bhagavā pana tathārūpaṃ desanaṃ pahāya catusatipaṭṭhānādinissitaṃ desanaṃ deseti. tasmā sātthaṃ desetīti vuccati. Yassa pana desanā ekabyañjanādiyuttā vā sabbaniroṭṭhabyañjanā vā sabbavissaṭṭhasabbaniggahītabyañjanā vā, tassa damiḷakirātasavarādimilakkhūnaṃ[57] bhāsā viya byañjanapāripūriyā abhāvato abyañjanā nāma desanā hoti. Bhagavā pana —
“Sithilaṃ dhanitañca dīgharassaṃ, garukaṃ lahukañca niggahītaṃ.
Sambandhavavatthitaṃ vimuttaṃ, dasadhā byañjanabuddhiyā pabhedo”ti.
Thành tựu về ý nghĩa, thành tựu về văn tự: thật vậy, vị Pháp sư nào thuyết giảng Giáo Pháp dựa vào sự giảng giải về những vấn đề cơm cháo, đàn bàn, đàn ông v.v, thì vị Pháp sư đó thuyết giảng Giáo Pháp không thành tựu về ý nghĩa. Còn đức Thế Tôn từ bỏ sự thuyết giảng như thế, (ngài) thuyết giảng dựa vào bốn sự thiết lập niệm v.v. Vì thế ngài đã nói rằng: “Vị ấy thuyết giảng Giáo Pháp thành tựu về ý nghĩa”. Lại nữa, lời thuyết giảng của vị tỳ khưu nào phối hợp với một phụ âm v.v, hoặc các phụ âm không rõ ràng, hoặc các phụ âm mở miệng toàn bộ, hoặc nhấn mạnh toàn bộ, thì việc thuyết giảng của vị tỳ khưu đó gọi là không có văn tự, do không thành tựu về văn tự, giống như ngôn ngữ của người Milakkha, như bộ tộc Damiḷa, bộ tộc người rừng, và bộ tộc người lùn v.v. Còn đối với đức Thế Tôn, ngài từ bỏ sự thuyết giảng như vậy, không loại bỏ 10 loại byañjanabuddhi như sau –
(Phụ âm) không bật hơi/nhấn, (phụ âm) bật hơi/nhấn, trường âm, đoản âm, (nguyên âm) giọng nặng, (nguyên âm) giọng nhẹ, âm mũi, những phụ âm trước ghép với nguyên âm sau (sambandha), những chữ trước đọc tách rời với chữ sau (vavatthita) và những phụ âm tụng phải mở miệng đọc rõ, không ngậm miệng, không để cho hơi lên lỗ mũi (vimutta), là căn bản việc giải thích 10 loại byañjanabuddhi (dī. ni. aṭṭha. 1.190).
Evaṃ vuttaṃ dasavidhaṃ byañjanaṃ amakkhetvā paripuṇṇabyañjanameva katvā dhammaṃ deseti, tasmā sabyañjanaṃ dhammaṃ desetīti vuccati. Kevalaparipuṇṇanti ettha kevalanti sakalādhivacanaṃ. Paripuṇṇanti anūnādhikavacanaṃ. Idaṃ vuttaṃ hoti “sakalaparipuṇṇameva deseti, ekadesanāpi aparipuṇṇā natthīti.” Upanetabbāpanetabbassa abhāvato kevalaparipuṇṇanti veditabbaṃ. Parisuddhanti nirupakkilesaṃ. Yo hi imaṃ dhammadesanaṃ nissāya lābhaṃ vā sakkāraṃ vā labhissāmīti deseti, tassa aparisuddhā desanā hoti. Bhagavā pana lokāmisanirapekkho hitapharaṇena mettābhāvanāya muduhadayo ullumpanasabhāvasaṇṭhitena cittena deseti. tasmā “parisuddhaṃ dhammaṃ desetīti” vuccati.
Như vậy, không để lẫn lộn với nhau, việc thuyết giảng Giáo Pháp đã làm văn tự ấy được tròn đủ, vì thế ngài mới nói việc thuyết giảng Giáo Pháp thành tựu về văn tự. Ở đây, hoàn toàn trong từ hoàn toàn đầy đủ, là tên gọi của sự trọn vẹn. Trọn vẹn là tên gọi của sự không thiếu không dư. Điều này được nói là – “việc thuyết giảng Giáo Pháp một cách trọn vẹn và đầy đủ, ngay cả thuyết một phần không trọn vẹn cũng không có.” Bậc sáng trí nên biết rằng trọn vẹn và đầy đủ bởi vì không có một từ ngữ nào (có thể) thêm vào và bỏ bớt. Thanh tịnh: thoát khỏi tùy phiền nào (sự buồn rầu). Thật vậy, vị nào thuyết giảng Giáo Pháp với suy nghĩ rằng: Ta sẽ đạt được lợi lộc hoặc sự cung kính, thì việc thuyết giảng của vị ấy không thanh tịnh. Còn đối với đức Thế Tôn, ngài không quan tâm đến vật chất thế gian, có tâm dịu dàng (luôn nghĩ đến người khác) nhờ phát triển tâm từ để lan tỏa lợi ích, việc thuyết giảng với tâm (mong muốn) trợ giúp người nghe được an trú vào trạng thái cao nhất. Vì thế, ngài mới nói rằng: “việc thuyết giảng Giáo Pháp thanh tịnh.”
Brahmacariyaṃ pakāsetīti ettha panāyaṃ brahmacariya-saddo dāne veyyāvacce pañcasikkhāpadasīle appamaññāsu methunaviratiyaṃ sadārasantose vīriye uposathaṅgesu ariyamagge sāsaneti imesvatthesu dissati.
Hơn nữa, ở đây ‘tuyên bố về Phạm hạnh’ này thì từ ‘Phạm hạnh’ được xuất hiện với những ý nghĩa như sau: (1) bố thí, (2) việc phục vụ, (3) năm điều học giới, (4) vô lượng tâm, (5) tránh xa việc đôi lứa. (6) chung thuỷ một vợ một chồng, (7) tinh tấn, (8) thực hành ngày trai giới, (9) Thánh Đạo, (10) toàn bộ Giáo Pháp.
“Kiṃ te vataṃ kiṃ pana brahmacariyaṃ, kissa suciṇṇassa ayaṃ vipāko.
Iddhī jutī balavīriyūpapatti, idañca te nāga[58], mahāvimānaṃ.
Ahañca bhariyā ca manussaloke, saddhā ubho dānapatī ahumhā.
Opānabhūtaṃ me gharaṃ tadāsi, santappitā samaṇabrāhmaṇā ca.
Taṃ me vataṃ taṃ pana brahmacariyaṃ, tassa suciṇṇassa ayaṃ vipāko.
Iddhī jutī balavīriyūpapatti, idañca me dhīra mahāvimānan”ti.[59]
Imasmiñhi puṇṇakajātake dānaṃ brahmacariyanti vuttaṃ.
Thật vậy, (1) bố thí được gọi là Phạm hạnh trong Bổn Sanh Puṇṇa này –
“Sự hành trì của ngài là gì? Thêm nữa, Phạm hạnh của ngài là gì? Tâu long vương, hành động nào đã khéo được huân tập đem lại quả thành tựu, sự vinh quang của loài rồng, sức mạnh của bản thân, sự tinh tấn của tâm và cung điện vĩ đại này của ngài?
“Khi ở thế giới của loài người, trẫm và người vợ, cả hai chúng tôi đã là các thí chủ có đức tin. Khi ấy, ngôi nhà của trẫm đã có hình thức như là cái giếng nước, và các vị Sa-môn, Bà-la-môn đã được toại ý.
Việc bố thí ấy đã là sự hành trì của trẫm. Việc bố thí ấy còn là Phạm hạnh của trẫm. Này bậc sáng trí, hành động đã khéo được huân tập ấy đem lại quả thành tựu này: sự vinh quang của loài rồng, sức mạnh của bản thân, sự tinh tấn của tâm và cung điện vĩ đại này của trẫm.”
“Kena pāṇi kāmadado, kena pāṇi madhussavo.
Kena te brahmacariyena, puññaṃ pāṇimhi ijjhati.
Tena pāṇi kāmadado, tena pāṇi madhussavo.
Tena me brahmacariyena, puññaṃ pāṇimhi ijjhatī”ti.[60]
Imasmiṃ aṅkurapetavatthumhi veyyāvaccaṃ brahmacariyanti vuttaṃ.
(2) Việc phục vụ được gọi là Phạm hạnh trong Chuyện ngạ quỷ Aṅkura này
“Bàn tay của ngài nhờ việc phục vụ gì có sự ban cho điều ước muốn? Bàn tay của ngài nhờ việc phục vụ gì có nguồn mật ngọt? Phước báu được thành tựu ơ nơi bàn tay của ngài do việc phục vụ gì?
Bàn tay của tôi có sự ban cho điều ước muốn nhờ việc phục vụ ấy, bàn tay của tôi có nguồn mật ngọt nhờ việc phục vụ ấy, phước báu được thành tựu ở nơi bàn tay do việc phục vụ ấy.”
“Evaṃ, kho taṃ bhikkhave, tittiriyaṃ nāma brahmacariyaṃ ahosī”ti[61] imasmiṃ tittirajātake pañcasikkhāpadasīlaṃ brahmacariyanti vuttaṃ. “Taṃ kho pana me, pañcasikha, brahmacariyaṃ neva nibbidāya na virāgāya na nirodhāya … pe … yāvadeva brahmalokūpapattiyā”ti[62] Imasmiṃ mahāgovindasutte catasso appamaññāyo brahmacariyanti vuttā. “Pare abrahmacārī bhavissanti, mayamettha brahmacārī bhavissāmā”ti[63] imasmiṃ sallekhasutte methunavirati brahmacariyanti vuttā.
(3) Năm điều học giới được gọi là Phạm hạnh trong Bổn sanh Chuyện Con Chim Đa Đa này như sau: “Này các tỳ khưu, con chim đa đa ấy nổi danh là bậc thực hành Phạm hạnh.” (4) Bốn vô lượng tâm hay bốn Phạm trú được gọi là Phạm hạnh trong kinh Mahāgovinda: “Tuy nhiên, này Pañcasikha, Phạm hạnh ấy vận hành không đưa đến sự nhàm chán, không đưa đến việc xa lìa luyến ái, không đưa đến sự diệt tận, không đưa đến sự tịch tịnh, không đưa đến thắng trí, không đưa đến sự giác ngộ, không đưa đến Niết-bàn, mà chỉ đưa đến sự tái sanh về thế giới Phạm Thiên.” (5) Tránh xa việc đôi lứa được gọi là Phạm hạnh trong bài kinh Đoạn Giảm như sau: “Những người khác sẽ là những người không thực hành Phạm hạnh, nhưng chúng ta ở đây sẽ là những người thực hành Phạm hạnh.”
“Mayañca bhariyā nātikkamāma, amhe ca bhariyā nātikkamanti.
Aññatra tāhi brahmacariyaṃ carāma, asmā hi amhaṃ daharā na mīyare”ti.[64]
Mahādhammapālajātake sadārasantoso brahmacariyanti vutto. “Abhijānāmi kho panāhaṃ, sāriputta, caturaṅgasamannāgataṃ brahmacariyaṃ caritā, tapassī sudaṃ homī”ti[65] lomahaṃsanasutte vīriyaṃ brahmacariyanti vuttaṃ.
“Hīnena brahmacariyena, khattiye upapajjati.
Majjhimena ca devattaṃ, uttamena visujjhatī”ti.[66]
Evaṃ nimijātake attadamanavasena kato aṭṭhaṅgiko uposatho brahmacariyanti vutto.
(6) Chung thuỷ một vợ một chồng được gọi là Phạm hạnh trong Đại Bổn Sanh Dhammapāla:
“Chúng tôi không phản bội những người vợ và những người vợ cũng không phản bội chúng tôi, chúng tôi không sống chung với những người vợ ấy để thực hành Phạm hạnh, chính vì thế chúng tôi không bị chết lúc còn trẻ.”
(7) Sự tinh tấn được gọi là Phạm hạnh trong bài Kinh Lomahaṃsana – “Này Sāriputta, Ta biết toàn diện về Phạm hạnh, đầy đủ bốn hạnh: về khổ hạnh, Ta khổ hạnh đệ nhất; về bần uế, Ta bần uế đệ nhất; về yểm ly, Ta yểm ly đệ nhất; về độc cư, Ta độc cư đệ nhất.”
(8) Uposatha gắn liền với 8 yếu tố đã được thọ trì nhờ mãnh lực tự điều phục bản thân được gọi là Phạm hạnh trong Bổn Sanh Nimi như vầy:
“Với Phạm hạnh bậc thấp thì được sanh vào dòng dõi Sát-đế-lỵ, với bậc trung thì trạng thái chư Thiên, với bậc tối thượng thì được thanh tịnh.”
“Idaṃ kho pana me, pañcasikha, brahmacariyaṃ ekantanibbidāya virāgāya nirodhāya … pe … ayameva ariyo aṭṭhaṅgiko maggo”ti[67] mahāgovindasuttasmiṃyeva ariyamaggo brahmacariyanti vutto. “Tayidaṃ brahmacariyaṃ iddhañceva phītañca vitthārikaṃ bāhujaññaṃ puthubhūtaṃ yāva devamanussehi suppakāsitan”ti[68] pāsādikasutte sikkhattayasaṅgahitaṃ sakalasāsanaṃ brahmacariyanti vuttaṃ. Imasmimpi ṭhāne idameva brahmacariyanti adhippetaṃ. Tasmā brahmacariyaṃ pakāsetīti so dhammaṃ deseti ādikalyāṇaṃ … pe … parisuddhaṃ. Evaṃ desento ca sikkhattayasaṅgahitaṃ sakalasāsanaṃ brahmacariyaṃ pakāsetīti evamettha attho daṭṭhabbo. Brahmacariyanti seṭṭhaṭṭhena brahmabhūtaṃ cariyaṃ. Brahmabhūtānaṃ vā buddhādīnaṃ cariyanti vuttaṃ hoti.
(9) Thánh Đạo được gọi là Phạm hạnh ngay chính trong bài Kinh Mahāgovinda: “Này Pañcasikha, Phạm hạnh này đây vận hành đưa đến sự nhàm chán hoàn toàn, vận hành đưa đến việc xa lìa luyến ái, vận hành đưa đến sự diệt tận, vận hành đưa đến sự tịch tịnh, vận hành đưa đến thắng trí, vận hành đưa đến sự giác ngộ, vận hành đưa đến Niết-bàn, Phạm hạnh này đây chính là Thánh Đạo tám chi phần” (10) Toàn bộ Giáo Pháp được nhiếp thâu bởi Tam Học được gọi là Phạm hạnh trong bài Kinh Pāsādika như sau: “Phạm hạnh này là được thành tựu, phát triển, phổ biến, phổ thông, trở nên phổ cập, và còn khéo được giảng giải bởi chư Thiên và loài người.” Chính toàn bộ Giáo Pháp được nhiếp thâu bởi Tam Học này ngài muốn đề cập đến Phạm hạnh ở trong trường hợp này. Do đó, nên biết ý nghĩa trong câu này như vầy: ‘Tuyên thuyết Phạm hạnh’ – Vị ấy thuyết giảng Giáo Pháp toàn hảo ở phần đầu …nt… thanh tịnh, và khi thuyết giảng như vậy (vị ấy) tuyên thuyết Phạm hạnh là toàn bộ Giáo Pháp được nhiếp thâu bởi Tam Học. Phạm hạnh: được giải thích rằng – hành vi trở thành Phạm Thiên với ý nghĩa tối thượng, hoặc hành vi của đức Phật v.v, là vị có tư cách Phạm Thiên.
191. Taṃ dhammanti taṃ vuttappakārasampadaṃ dhammaṃ. Suṇāti gahapati vāti kasmā paṭhamaṃ gahapatiṃ niddisati? Nihatamānattā, ussannattā ca. Yebhuyyena hi khattiyakulato pabbajitā jātiṃ nissāya mānaṃ karonti. Brāhmaṇakulā pabbajitā mante nissāya mānaṃ karonti. Hīnajaccakulā pabbajitā attano attano vijātitāya patiṭṭhātuṃ na sakkonti.
Gahapatidārakā pana kacchehi sedaṃ muñcantehi piṭṭhiyā loṇaṃ pupphamānāya bhūmiṃ kasitvā tādisassa mānassa abhāvato nihatamānadappā honti. Te pabbajitvā mānaṃ vā dappaṃ vā akatvā yathābalaṃ sakalabuddhavacanaṃ uggahetvā vipassanāya kammaṃ karontā sakkonti arahatte patiṭṭhātuṃ. Itarehi ca kulehi nikkhamitvā pabbajitā nāma na bahukā, gahapatikāva bahukā. Iti nihatamānattā ussannattā ca paṭhamaṃ gahapatiṃ niddisatīti.
Pháp đó: (việc lắng nghe) Giáo Pháp được thành tựu với những điều như đã nói đó. Người gia chủ…nghe Pháp đó: Vì sao? Đức Thế Tôn chỉ đến người gia chủ trước. (Đáp) bởi vì người gia chủ (dễ) nhổ bỏ ngã mạn và có số lượng nhiều. Thật vậy, hầu hết những vị xuất gia từ dòng dõi vua chúa thường khởi lên ngã mạn do nhờ sanh chủng. Xuất gia từ dòng dõi Bà-la-môn thường khởi ngã mạn nhờ vào chú thuật, xuất gia từ dòng dõi thấp kém cũng khó có thể an trú được bởi bản thân (mặc cảm) vì có xuất thân khác biệt (đối với họ). Còn những đứa con trai của người gia chủ sau khi cày bừa ở ruộng lúa đến nỗi mồ hôi chảy nhễ nhại từ nách, mồ hôi trên lưng, để nhổ bỏ ngã mạn hoặc kiêu ngạo, do không có ngã mạn như thế. Họ đã xuất gia, đã không ngã mạn hoặc kiêu ngạo, đã học toàn bộ Phật ngôn tùy theo năng lực của mình, thực hành minh sát có thể vững trú trong phẩm vị A-ra-hán. Còn những người rời khỏi gia đình này để xuất gia ngoài ra không nhiều, tuy nhiên nhóm gia chủ đó có nhiều. Như thế Đức Thế Tôn mới chỉ dẫn người gia chủ trước và do (dễ) loại bỏ được ngã mạn và có số lượng nhiều.
Aññatarasmiṃ vāti itaresaṃ vā kulānaṃ aññatarasmiṃ. Paccājātoti patijāto. Tathāgate saddhaṃ paṭilabhatīti parisuddhaṃ dhammaṃ sutvā dhammassāmimhi tathāgate — “Sammāsambuddho vata so bhagavā”ti saddhaṃ paṭilabhati. Iti paṭisañcikkhatīti evaṃ paccavekkhati. Sambādho gharāvāsoti sacepi saṭṭhihatthe ghare yojanasatantarepi vā dve jāyampatikā vasanti, tathāpi nesaṃ sakiñcanasapalibodhaṭṭhena gharāvāso sambādhoyeva. Rajopathoti rāgarajādīnaṃ Uṭṭhānaṭṭhānanti mahāaṭṭhakathāyaṃ vuttaṃ. Āgamanapathotipi vadanti[69]. Alagganaṭṭhena abbhokāso viyāti abbhokāso. Pabbajito hi kūṭāgāraratanapāsādadevavimānādīsu pihitadvāravātapānesu paṭicchannesu vasantopi neva laggati, na sajjati, na bajjhati. Tena vuttaṃ — “abbhokāso pabbajjā”ti. Api ca sambādho gharāvāso kusalakiriyāya okāsābhāvato. Rajopatho[70] asaṃvutasaṅkāraṭṭhānaṃ viya rajānaṃ kilesarajānaṃ sannipātaṭṭhānato. Abbhokāso pabbajjā kusalakiriyāya yathāsukhaṃ okāsasabbhāvato.
Hoặc trong một gia tộc nào đó: ngoài những gia đình này thì một gia tộc nào đó. Những người sanh sau: hậu sanh. Đạt được đức tin nơi Như Lai: sau khi lắng nghe Giáo Pháp thanh tịnh, (vị ấy) đạt được đức tin nơi Như Lai, bậc Pháp Chủ – Dhammasāmī như sau: “Đức Thế Tôn, vị ấy quả thật là bậc Chánh đẳng Chánh giác.” Người ấy suy xét như vầy: Quán chiếu thấy như vậy. Đời sống gia định đầy ràng buộc: Dù cả hai vợ chồng sống trong ngôi nhà rộng sáu mươi hắt tay, hoặc giữa một trăm do-tuần, mặc dầu vậy việc sống đời sống tại gia cũng gọi là chật hẹp bởi ý nghĩa họ có sự lo lắng, có sự quan tâm lẫn nhau. Con đường đầy những bụi đời: Trong Mahā-aṭṭhakathā giải đáp rằng – đó là nơi thiết lập của bụi bẩn có ai luyến v.v. một số vị nói là ‘con đường là nơi đi đến’ (của bụi bẩn) cũng có. Như bầu trời thoáng đãng.: việc xuất gia như thể ở ngoài trời với ý nghĩa không buộc chặt. Thật vậy, một vị xuất gia dầu sống ở ngôi nhà mái nhọn, tòa lâu nguy nga bằng ngọc và cung điện, v.v. với những cánh cửa lớn và cửa sổ được đóng kín cũng không mắc vào, không bám vào, không dính vào. Vì vậy, ngài mới nói rằng: “việc xuất gia như bầu trời thoáng đãng.” Và hơn nữa, Cuộc sống tại gia này có sự chướng ngại, bởi vì không có cơ hội để thực hành thiện pháp. Con đường đầy những bụi đời: bởi là nơi tập hợp của bụi bẩn phiền não, tựa như đóng rác thải mà không được quan tâm. Người xuất gia ví như bầu trời thoáng đãng bởi vì có cơ hội thực hành thiện pháp tùy thích.
Nayidaṃ sukaraṃ … pe … pabbajeyyanti etthāyaṃ saṅkhepakathā, yadetaṃ sikkhattayabrahmacariyaṃ ekampi divasaṃ akhaṇḍaṃ katvā carimakacittaṃ pāpetabbatāya ekantaparipuṇṇaṃ, caritabbaṃ ekadivasampi ca kilesamalena amalīnaṃ katvā carimakacittaṃ pāpetabbatāya ekantaparisuddhaṃ. Saṅkhalikhitanti likhitasaṅkhasadisaṃ dhotasaṅkhasappaṭibhāgaṃ caritabbaṃ. Idaṃ na sukaraṃ agāraṃ ajjhāvasatā agāramajjhe vasantena ekantaparipuṇṇaṃ … pe … carituṃ, yaṃnūnāhaṃ kese ca massuñca ohāretvā kasāyarasapītatāya kāsāyāni brahmacariyaṃ carantānaṃ anucchavikāni vatthāni acchādetvā paridahitvā agārasmā nikkhamitvā anagāriyaṃ pabbajeyyanti. Ettha ca yasmā agārassa hitaṃ kasivāṇijjādikammaṃ [71]agāriyanti vuccati, tañca pabbajjāya natthi, tasmā pabbajjā anagāriyanti ñātabbā, taṃ anagāriyaṃ. Pabbajeyyanti paṭipajjeyyaṃ.
Không phải là việc dễ làm đối với người sống tại gia để thực hành Phạm hạnh một cách đầy đủ trọn vẹn: ở đây điều này được nói vắn tắt – Phạm hạnh là 3 học giới này đây gọi là hoàn toàn đầy đủ do không làm đứt quãng dầu chỉ một ngày cũng có thể đạt đến trạng thái cuối cùng của tâm và gọi là hoàn toàn trong sạch vì không bị u ám do cấu uế của phiền não dù chỉ một ngày cũng (có thể) đạt đến trạng thái cuối cùng của tâm. Trắng bạch như vỏ ốc: có thể thực hành tương tự với vỏ ốc được đánh bóng, so sánh với vỏ ốc đã được đánh bóng. Không phải là việc dễ làm đối với người sống tại gia: Việc thực hành Phạm hạnh này đối với người sống ở giữa gia đình (có thể) thực hành một cách đầy đủ, hoàn toàn trong sạch tựa như vỏ óc được cạo sạch thật không phải là một việc dễ làm …nt… Nếu vậy ta nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa được nhuộm bằng vỏ cây phù hợp đối với người thực hành Phạm hạnh, rồi rời khỏi gia đình, trở thành vị xuất gia sống đời sống không nhà”. Vì công việc làm ruộng và buôn bán v.v. đem lại lợi ích cho gia đình gọi là việc sống đời sống tại gia, và việc sống đời sống tại gia ấy không có đối với vị xuất gia, cho nên người xuất gia nên biết rằng là vị sống không nhà trong lời này, Phạm hạnh không phải việc sống đời sống tại gia. Nên xuất gia: nên thực hành.
192. Appaṃ vāti sahassato heṭṭhā bhogakkhandho appo nāma hoti, sahassato paṭṭhāya mahā. Ābandhanaṭṭhena ñātiyeva ñātiparivaṭṭo. Sopi[72] vīsatiyā heṭṭhā appo nāma hoti, vīsatiyā paṭṭhāya mahā.
192. Ít nhiều: khối tài sản ít từ một ngàn trở xuống gọi là ít, từ một ngàn trở lên gọi là nhiều. Dòng họ thân quyến ấy gọi là thân bằng quyến thuộc với ý nghĩa ràng buộc, dòng họ thân quyến từ hai mươi trở xuống gọi là ít, từ hai mươi trở lên gọi là đông.
193. Pātimokkhasaṃvarasaṃvutoti pātimokkhasaṃvarena samannāgato. Ācāragocarasampannoti ācārena ceva gocarena ca sampanno. Aṇumattesūti appamattakesu. vajjesūti akusaladhammesu. Bhayadassāvīti bhayadassī. Samādāyāti sammā ādiyitvā. Sikkhati sikkhāpadesūti sikkhāpadesu taṃ taṃ sikkhāpadaṃ samādiyitvā sikkhati. Ayamettha saṅkhepo, vitthāro pana visuddhimagge vutto.
193. (Vị ấy) sống thu thúc với sự thu thúc của giới bổn Pātimokkha: gắn liền với sự thu thúc trong giới bổn Pātimokkha. Được thành tựu về hạnh kiểm và hành xứ: Được thành tựu về hạnh kiểm và hành xứ. Nhỏ nhặt: chút ít. Trong các lỗi lầm: trong các pháp bất thiện. Thấy sự nguy hiểm: người nhìn thấy sự nguy hiểm. Thọ trì: đã giữ lấy một cách chân chánh. Rèn luyện trong các điều học: Sau khi thọ trì các điều học ấy trong các điều học đó, rồi (vị ấy) thực hành theo. Ở đây, ý nghĩa này được nói vắn tắt, còn ý nghĩa chi tiết đã được nói trong bộ Thanh Tịnh Đạo.
Kāyakammavacīkammena samannāgato kusalena parisuddhājīvoti ettha ācāragocaraggahaṇeneva ca kusale kāyakammavacīkamme gahitepi yasmā idaṃ ājīvapārisuddhisīlaṃ nāma na ākāse vā rukkhaggādīsu vā uppajjati, kāyavacīdvāresuyeva pana uppajjati; tasmā tassa uppattidvāradassanatthaṃ kāyakammavacīkammena samannāgato kusalenāti vuttaṃ. Yasmā pana tena samannāgato, tasmā parisuddhājīvo. Samaṇamuṇḍikaputtasuttantavasena[73] vā evaṃ vuttaṃ. Tattha hi “katame ca, thapati, kusalā sīlā? kusalaṃ kāyakammaṃ, kusalaṃ vacīkammaṃ, parisuddhaṃ ājīvampi kho ahaṃ thapati sīlasmiṃ vadāmī”ti vuttaṃ. Yasmā pana tena samannāgato, tasmā parisuddhājīvoti veditabbo.
Ở đây, được đầy đủ về thân nghiệp và khẩu nghiệp thiện, có sự nuôi mạng được hoàn toàn trong sạch: khi thân nghiệp và khẩu nghiệp thiện đức Thế Tôn nắm lấy với cụm từ ‘hạnh kiểm và hành xứ,’ bởi được gọi là giới thanh tịnh về nuôi mạng này không sanh khởi trong hư không hay ở ngọn cây v.v, mà chỉ khởi lên ở thân nghiệp và khẩu nghiệp mà thôi; vì thế ngài mới nói rằng: “Được đầy đủ về thân nghiệp và khẩu nghiệp thiện, nhằm mục đích chỉ rõ môn-dvāra làm chỗ sanh lên của giới thanh tịnh về nuôi mạng. Nhưng do cần phải được đầy đủ về điều ấy (giới thanh tịnh về nuôi mạng), cho nên được gọi là có sự nuôi mạng thanh tịnh. Lại nữa, được nói như vậy cũng do tác động bài Kinh Samaṇamuṇḍikaputta. Thật vậy, trong bài Kinh này đức Thế Tôn thuyết rằng: “Và này người thợ mộc, thiện giới là (có ý nghĩa) như thế nào? Thân nghiệp thiện, khẩu nghiệp thiện, luôn cả sự nuôi mạng thanh tịnh, này người thợ mộc, quả thật Ta cũng nói trong giới.” Hơn nữa, do hành giả thực hành được đầy đủ bởi giới ấy, vì thế nên biết rằng: có sự nuôi mạng thanh tịnh.
Sīlasampannoti brahmajāle vuttena tividhena sīlena samannāgato[74] hoti. Indriyesu guttadvāroti manacchaṭṭhesu indriyesu pihitadvāro hoti. Satisampajaññena samannāgatoti abhikkante paṭikkantetiādīsu sattasu ṭhānesu satiyā ceva sampajaññena ca samannāgato hoti. Santuṭṭhoti catūsu paccayesu tividhena santosena santuṭṭho[75] hoti.
Được thành tựu giới: là vị thành tựu bởi ba loại giới đã được nói trong bài Kinh Brahmajāla. Có sự phòng vệ ở các giác quan: là vị đóng môn ở trong các quyền có ‘ý môn’ là thứ sáu. Được đầy đủ về niệm và sự nhận biết rõ: là vị được đầy đủ bởi niệm và sự nhận biết rõ ở cả bảy ṭhāna-trường hợp gồm có bước tới và bước lui v.v. Vị tự biết đủ: có sự gắn liền với ba sự tri túc trong bốn món vật dụng, được gọi là vị tự biết đủ.
Giảng Giải Tiểu Giới – Trung Giới – Đại Giới
194-211. Evaṃ mātikaṃ nikkhipitvā anupubbena bhājento “kathañca, mahārāja, bhikkhu sīlasampanno hotī”tiādimāha. Tattha idampissa hoti sīlasminti idampi assa bhikkhuno pāṇātipātā veramaṇi sīlasmiṃ ekaṃ sīlaṃ hotīti attho. Paccattavacanatthe vā etaṃ bhummaṃ. Mahāaṭṭhakathāyañhi idampi tassa samaṇassa sīlanti ayameva attho vutto. sesaṃ brahmajāle vuttanayeneva veditabbaṃ. Idamassa hoti sīlasminti idaṃ assa sīlaṃ hotīti attho.
194-211. Đức Thế Tôn đã đặt tiêu đề như vậy để chia theo tuần tự mới nói rằng: “Này đại vương, thế nào là vị tỳ khưu được thành tựu giới?” Ở đây, Điều này có ở giới của vị này: có nghĩa giới là sự cố ý tránh xa việc sát hại sinh mạng của vị tỳ khưu ấy, là điều giới thứ nhất trong giới. Hơn nữa, ‘sīlasmiṃ’ này là ‘Vị Trí Cách’ được đặt vào ý nghĩa của ‘Chủ Cách’. Thật vậy, trong Mahā-aṭṭhakathā được nói hoàn toàn với ý nghĩa như sau: Giới là sự cố ý tránh xa việc sát hại chúng sanh điều này cũng chính là giới của Sa-môn. Những từ còn lại nên biết theo cách đã được nói trong bài Kinh Brahmajāla. Điều này có ở giới của vị này: đây là giới của vị tỳ khưu ấy.
212. Na kutoci bhayaṃ samanupassati, yadidaṃ sīlasaṃvaratoti yāni asaṃvaramūlakāni bhayāni uppajjanti, tesu yaṃ idaṃ bhayaṃ sīlasaṃvarato bhaveyya, taṃ kutoci ekasaṃvaratopi na samanupassati. kasmā? Saṃvarato asaṃvaramūlakassa bhayassa abhāvā. Muddhābhisittoti yathāvidhānavihitena khattiyābhisekena muddhani avasitto. Yadidaṃ paccatthikatoti yaṃ kutoci ekapaccatthikatopi bhayaṃ bhaveyya, taṃ na samanupassati. kasmā? Yasmā nihatapaccāmitto. Ajjhattanti niyakajjhattaṃ, attano santāneti attho. Anavajjasukhanti anavajjaṃ aninditaṃ kusalaṃ sīlapadaṭṭhānehi avippaṭisārapāmojjapītipassaddhidhammehi pariggahitaṃ kāyikacetasikasukhaṃ paṭisaṃvedeti. Evaṃ kho, mahārāja, bhikkhu sīlasampanno hotīti evaṃ nirantaraṃ vitthāretvā dassitena tividhena sīlena samannāgato bhikkhu sīlasampanno nāma hotīti sīlakathaṃ niṭṭhāpesi.
212. Không cảm thấy sợ hãi từ bất cứ đâu, tức là từ sự thu thúc giới: Bất cứ sự sợ hãi nào có sự không thu thúc làm gốc được sanh khởi, trong số những sự sợ hãi ấy sự sợ hãi có thể có do sự thu thúc giới ấy, vị tỳ khưu thành tựu giới thì không cảm thấy sợ hãi do sự thu thúc ở bất cứ đâu dù chỉ một điều. Vì sao? Bởi vì sự sợ hãi (khởi lên) từ sự không thu thúc làm gốc, (sự sợ hãi ấy) sẽ không có từ sự thu thúc. Đã được làm lễ phong vương: Giống như việc rưới nước lên đầu bởi lễ đăng quang của dòng Sát-đế-lỵ được cử hành theo nghi thức. Tức là từ kẻ đối nghịch: không cảm thấy sợ hãi có thể xảy ra dù là từ một kẻ thù địch ở bất cứ nơi đâu. Vì sao? Bởi vì đã giết chết đối thủ. Thuộc nội tâm: bên trong của chính mình, tức là trong cơ tánh của bản thân. Vị ấy cảm nghiệm sự an lạc không bị chê trách: không có lỗi lầm, không khiển trách được là thiện, vị tỳ khưu có giới được thành tựu cảm nghiệm sự an lạc qua lộ thân, và cả lộ ý, có trạng thái không hối hận, sự hân hoan, sự no vui, và sự an tịnh nhờ có giới làm nhân cận. Này đại vương, vị tỳ khưu được thành tựu giới là như vậy: Đức Thế Tôn đã kết thúc lời nói về giới như sau: Vị tỳ khưu được thành tựu bởi ba loại giới được trình bày chi tiết liên tiếp như vậy gọi là vị có giới được thành tựu.
Nói Về Sự Thu Thúc Các Giác Quan
213. Indriyesu guttadvārabhājanīye cakkhunā rūpanti ayaṃ cakkhusaddo katthaci buddhacakkhumhi vattati, yathāha — “Buddhacakkhunā lokaṃ volokesī”ti[76]. katthaci sabbaññutaññāṇasaṅkhāte samantacakkhumhi, yathāha — “tathūpamaṃ dhammamayaṃ, sumedha, pāsādamāruyha samantacakkhū”ti[77]. Katthaci dhammacakkhumhi “virajaṃ vītamalaṃ dhammacakkhuṃ udapādī”ti[78] hi ettha ariyamaggattayapaññā. “Cakkhuṃ udapādi ñāṇaṃ udapādī”ti[79] ettha pubbenivāsādiñāṇaṃ paññācakkhūti vuccati. “Dibbena cakkhunā”ti[80] āgataṭṭhānesu dibbacakkhumhi vattati. “Cakkhuñca paṭicca rūpe cā”ti ettha pasādacakkhumhi vattati. Idha panāyaṃ pasādacakkhuvohārena cakkhuviññāṇe vattati, tasmā cakkhuviññāṇena rūpaṃ disvāti ayametthattho. Sesapadesu yaṃ vattabbaṃ siyā, taṃ sabbaṃ visuddhimagge vuttaṃ. Abyāsekasukhanti kilesabyāsekavirahitattā abyāsekaṃ asammissaṃ parisuddhaṃ adhicittasukhaṃ paṭisaṃvedetīti.
213. Trong việc phân tích các môn đã được phòng vệ ở các giác quan, từ ‘con mắt’ trong từ ‘thấy cảnh sắc bằng mắt’ này một vài chỗ vận hành trong (ý nghĩa) Phật nhãn, như đã nói – “Trong khi dùng Phật nhãn quan sát thế gian”; một vài chỗ vận hành trong (ý nghĩa) Toàn nhãn (tuệ toàn giác) như đã nói – “Tương tự như thế ấy, này Sumedha, đức Phật đấng Toàn Nhãn, sau khi bước lên tòa lâu đài làm bằng Giáo Pháp”; một vài chỗ vận hành trong (ý nghĩa) Pháp nhãn như đã nói – “Pháp nhãn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đã sanh khởi”, thật vậy ở trong Pāḷī này muốn ám chỉ đến ‘ba Thánh Đạo tuệ’. Ở đây, trí nhớ về các kiếp sống trước v.v, “Pháp nhãn đã sanh khởi, trí đã sanh khởi” được gọi là Tuệ nhãn. Vận hành trong (ý nghĩa) Thiên nhãn ở những nơi đã đến – “Với Thiên nhãn…”; Vận hành trong (ý nghĩa) nhãn thần kinh – “Do duyên con mắt và các sắc…” Nhưng trong trường hợp từ ‘con mắt’ vận hành trong (ý nghĩa) nhãn thức bằng sự diễn tả về nhãn thần kinh, vì thế, điều này ở đây có ý nghĩa rằng: – “Sau khi nhìn thấy cảnh sắc bằng nhãn thức.” Trong câu còn lại từ nào cần nói thì tất cả những từ đó đã được nói trong Thanh Tịnh Đạo. Sự an lạc không bị uế nhiễm: Cảm nghiệm sự an lạc không bị rải rắc uế nhiễm, không trộn lẫn uế nhiễm do tránh khỏi uế nhiễm, là sự an lạc về thanh tịnh, là sự an lạc về thắng tâm [adhicittasukha].
Nói Về Niệm và Tỉnh Giác (Sự Nhận Biết Rõ)
214. Satisampajaññabhājanīyamhi abhikkante paṭikkanteti ettha tāva abhikkantaṃ vuccati gamanaṃ, paṭikkantaṃ nivattanaṃ, tadubhayampi catūsu iriyāpathesu labbhati. Gamane tāva purato kāyaṃ abhiharanto abhikkamati nāma. Paṭinivattanto paṭikkamati nāma. ṭhānepi ṭhitakova kāyaṃ purato onāmento abhikkamati nāma, pacchato apanāmento paṭikkamati nāma. Misajjāya nisinnakova āsanassa purimāṅgābhimukho saṃsaranto abhikkamati nāma, pacchimāṅgapadesaṃ paccāsaṃsaranto paṭikkamati nāma. Nipajjanepi eseva nayo.
214. Trong việc phân tách ‘niệm và sự nhận biết rõ’, ở đây ‘trong khi đi tới đi lui’ này trước, đi tới được gọi là bước tới, đi lui được gọi là bước lui, cả hai có được ở trong bốn oai nghi. Trong khi đi di chuyển (toàn) thân đi về phía trước gọi là bước tới, khi bước lui được gọi là bước lui. Luôn cả trong khi đứng, chính trong (tư thế) đứng nghiêng phần thân trên hướng về phía trước gọi là tiến về phía trước, khi ngửa phần lưng về phía sau gọi là lùi về phía sau. Ngay cả trong khi ngồi, chính trong (tư thế) ngồi, khi cúi mặt về phía trước phần phía trước của chỗ ngồi gọi là tiến về phía trước, khi ngả lưng về phía phần phía sau (của chỗ ngồi) gọi là lùi về phía sau. Kể cả trong (tư thế) nằm cũng có phương thức này.
Sampajānakārī hotīti sampajaññena sabbakiccakārī. Sampajaññameva[81] vā kārī. So hi abhikkantādīsu sampajaññaṃ karoteva, na katthaci sampajaññavirahito hoti. tattha sātthakasampajaññaṃ, sappāyasampajaññaṃ, gocarasampajaññaṃ asammohasampajaññanti catubbidhaṃ sampajaññaṃ. Tattha abhikkamanacitte uppanne cittavaseneva agantvā — “Kinnu me ettha gatena attho atthi natthī”ti atthānatthaṃ pariggahetvā atthapariggaṇhanaṃ sātthakasampajaññaṃ. Tattha ca atthoti cetiyadassanabodhisaṅghatherāsubhadassanādivasena dhammato vuḍḍhi. Cetiyaṃ vā bodhiṃ vā disvāpi hi buddhārammaṇaṃ, saṅghadassanena saṅghārammaṇaṃ, pītiṃ uppādetvā tadeva khayavayato sammasanto arahattaṃ pāpuṇāti. There disvā tesaṃ ovāde patiṭṭhāya, asubhaṃ disvā tattha paṭhamajjhānaṃ uppādetvā tadeva khayavayato sammasanto arahattaṃ pāpuṇāti. Tasmā etesaṃ dassanaṃ sātthakanti vuttaṃ. Keci pana āmisatopi vuḍḍhi atthoyeva, taṃ nissāya brahmacariyānuggahāya paṭipannattāti vadanti.
Có sự thực hành việc nhận biết rõ: thực hành mọi phận sự bằng sự tỉnh giác, hoặc thực hành chính bằng sự tỉnh giác. Bởi vì vị ấy thường xuyên thực hành sự tỉnh giác trong việc bước tới, không rời khỏi sự tỉnh giác ở bất cứ thời gian nào. Sự tỉnh giác ấy có bốn là: (1) sātthakasampajaññaṃ – việc nhận biết rõ về lợi ích hay không có lợi ích; (2) sappāyasampajaññaṃ – việc nhận biết rõ về điều thích hợp hay không thích hợp; (3) gocarasampajaññaṃ – việc nhận biết rõ về các đề mục thiền (việc nhận biết rõ hành xứ); (4) asammohasampajaññaṃ – việc nhận biết rõ các đối tượng thực tính pháp trong pháp minh sát (vô hỗn loạn tỉnh giác). Ở đây, trong khi tâm suy nghĩ bước tới khởi lên ‘sẽ đi’, vẫn chưa ‘đi’ theo mãnh lực của tâm, sau khi cân nhắc đến điều lợi ích và không phải điều ích rằng: ‘việc đi đến chỗ đó có lợi cho ta hay không?’ đã nắm lấy được điều lợi ích [rồi mới quyết định bước tới] thì được gọi là việc nhận biết rõ về lợi ích hay không có lợi ích. Điều lợi ích trong câu ‘điều lợi ích và điều không có lợi [kết quả được và mất] cả 2 điều này: sự phát triển pháp do tác động nhìn thấy bảo tháp, nhìn thấy cây Bồ-đề, nhìn thấy vị tỳ khưu, nhìn thấy trưởng lão, nhìn thấy cảnh bất tịnh, v.v., gọi là điều có lợi ích. Bởi vì sau khi nhìn thấy được bảo tháp, cây Bồ-đề thì hỷ sanh khởi có đức Phật làm đối tượng, nhìn thấy tỳ khưu hỷ sanh khởi có chư Tăng làm đối tượng, khi quán sát hỷ ấy với tính chất đoạn tận và hoại diệt (có thể) chứng đắc quả vị A-ra-hán. Sau khi nhìn thấy các vị trưởng lão được vững trú vào lời giáo huấn của các vị ấy, thấy được đối tượng bất tịnh (có thể) làm cho sơ thiền sanh khởi bằng đề mục bất tịnh ấy, khi [tiếp tục] quán sát về đề mục bất tịnh với tính chất đoạn tận và hoại diệt có thể chứng đắc quả vị A-ra-hán. Vì thế việc nhìn thấy những điều như thế được gọi là có lợi ích. Tuy nhiên, một vài vị giáo thọ đã nói rằng: sự phát triển luôn cả những vật chất (thế gian) cũng gọi là mang lại lợi ích tương tự, vì dựa vào điều đó thực hành pháp để trợ giúp Phạm hạnh cao thượng.
Tasmiṃ pana gamane sappāyāsappāyaṃ pariggahetvā sappāyapariggaṇhanaṃ sappāyasampajaññaṃ. Seyyathidaṃ — cetiyadassanaṃ tāva sātthakaṃ, sace pana cetiyassa mahāpūjāya dasadvādasayojanantare parisā sannipatanti, attano vibhavānurūpā itthiyopi purisāpi alaṅkatapaṭiyattā cittakammarūpakāni viya sañcaranti. tatra cassa iṭṭhe ārammaṇe lobho hoti, aniṭṭhe paṭigho, asamapekkhane moho uppajjati, kāyasaṃsaggāpattiṃ vā āpajjati. Jīvitabrahmacariyānaṃ vā antarāyo hoti, evaṃ taṃ ṭhānaṃ asappāyaṃ hoti. Vuttappakārāntarāyābhāve sappāyaṃ. Bodhidassanepi eseva nayo. Saṅghadassanampi sātthaṃ[82]. Sace pana antogāme mahāmaṇḍapaṃ kāretvā sabbarattiṃ dhammassavanaṃ karontesu manussesu vuttappakāreneva janasannipāto ceva antarāyo ca hoti, evaṃ taṃ ṭhānaṃ asappāyaṃ hoti. Antarāyābhāve sappāyaṃ. mahāparisaparivārānaṃ therānaṃ dassanepi eseva nayo.
Lại nữa, cân nhắc đến điều thích hợp hoặc không thích hợp trong lúc bước đi, rồi cân nhắc điều thích hợp [rồi mới quyết định bước tới] được gọi là việc nhận biết rõ về điều thích hợp hay không thích hợp. Điều này như thế nào? Nói đến việc nhìn thấy bảo tháp có lợi ích trước, giả sử như hội chúng hội họp ở nơi (có diện tích) 10 do tuần, 12 do-tuần để thực hiện nghi thức lễ bái lớn đến Bảo điện, cả những người nữ, lẫn người nam đều được trang hoàng với những đồ trang sức phù hợp với tài sản của mỗi cá nhân tựa như một bức tranh họa cùng nhau đi đến nơi ấy. Tham khởi sanh nơi vị tỳ khưu ấy do đối tượng khả ái, sự bất bình sanh khởi nơi đối tượng không khả ái, hoài nghi khởi sanh do không suy xét, hoặc cần phải sám hối do sự đụng chạm thân người nữ, trở thành mối nguy hại đến đời sống và Phạm hạnh. Với lý do đã nói thì trường hợp như vậy được xem là không thích hợp. Do không có trở ngại như đã nói thì nơi ấy được xem là thích hợp. Ngay cả việc nhìn thấy cội đại thọ Bồ-đề cũng có phương cách tương tự. Luôn cả việc nhìn thấy hội chúng tỳ khưu cũng có lợi ích. Nhưng nếu như dân chúng chung tay xây dựng một mái che lớn ở trong làng rủ nhau đến lắng nghe thuyết Pháp suốt cả đêm, có cả việc tụ họp của dân làng và cả mối nguy hiểm có thể xảy ra như cách đã được trình bày, như vậy (với nguyên nhân như đã nói) thì trường hợp đó được xem là nơi không thích hợp. Do tính chất không gây nguy hại (nơi đó) được xem là thích hợp. Luôn cả khi nhìn thấy các bậc trưởng lão, vị có đông đảo đồ chúng cũng có phương cách này.
Asubhadassanampi sātthaṃ, tadatthadīpanatthañca idaṃ vatthu — Eko kira daharabhikkhu sāmaṇeraṃ gahetvā dantakaṭṭhatthāya gato. Sāmaṇero maggā okkamitvā purato gacchanto asubhaṃ disvā paṭhamajjhānaṃ nibbattetvā tadeva pādakaṃ katvā saṅkhāre sammasanto tīṇi phalāni sacchikatvā uparimaggatthāya kammaṭṭhānaṃ pariggahetvā aṭṭhāsi. Daharo taṃ apassanto sāmaṇerāti pakkosi. so ‘mayā pabbajitadivasato paṭṭhāya bhikkhunā saddhiṃ dve kathā nāma na kathitapubbā. aññasmimpi divase upari visesaṃ nibbattessāmī’ti cintetvā kiṃ, bhanteti paṭivacanamadāsi. ‘Ehī’ti ca vutte ekavacaneneva āgantvā, ‘bhante, iminā tāva maggeneva gantvā mayā ṭhitokāse muhuttaṃ puratthābhimukho ṭhatvā olokethā’ti āha. So tathā katvā tena pattavisesameva pāpuṇi. Evaṃ ekaṃ asubhaṃ dvinnaṃ janānaṃ atthāya jātaṃ. Evaṃ sātthampi panetaṃ purisassa mātugāmāsubhaṃ asappāyaṃ, mātugāmassa ca purisāsubhaṃ asappāyaṃ, sabhāgameva sappāyanti evaṃ sappāyapariggaṇhanaṃ sappāyasampajaññaṃ nāma.
Đến việc nhìn thấy đối tượng bất tịnh cũng hữu ích. Câu chuyện này để mô tả về điều lợi ích ấy (Câu chuyện vị tỳ khưu trẻ): Kể rằng một vị tỳ khưu trẻ dẫn một vị sa-di đi tìm cây đánh răng. Vị sa-di đã đi vào con đường phía trước, sau khi nhìn thấy đối tượng bất tịnh đã làm cho Sơ thiền được sanh khởi, lấy sơ thiền đó làm nền tảng để quán sát các Hành [saṅkhāra], đã tác chứng đạt 3 Thánh Quả, (vị ấy) đã đứng nắm lấy đề mục thiền vì nhằm mục đích mong muốn Đạo cao thượng [A-ra-hán đạo]. Vị tỳ khưu trẻ không nhìn thấy vị sa-di liền vội vàng gọi vị sa-di ấy. Vị sa-di ấy nghĩ rằng “kể từ khi ta xuất gia, ta chưa từng để vị tỳ khưu gọi đến 2 lần, ta sẽ để sự chứng đắc cao thượng sanh khởi vào ngày khác”, – nên đã đáp lời: “Có chuyện chi, thưa Ngài?” – Và sa-di ấy khi được vị tỳ kheo trẻ gọi ‘Này sa-di hãy đến đây!’ vị ấy đã đến chỉ với một lời nói đó và nói rằng: ‘Bạch Ngài, xin hãy đi theo con đường này trước, đứng quay mặt nhìn về hướng Đông một lát, tại nơi đó nơi con đã đứng”. Vị tỳ kheo trẻ làm theo và đã đắc được các pháp mà vị sa-di đã chứng đắc. Như vậy, chỉ một đối tượng bất tịnh đã làm phát sinh điều lợi ích đối với cả 2 vị. Thật vậy, đối tượng bất tịnh này mặc dù hữu ích như vậy, tuy nhiên đối tượng bất tịnh là đàn bà thì không thích hợp đối với đàn ông, và đối tượng bất tịnh là đàn ông cũng không thích hợp đối với đàn bà, chỉ những đối tượng bất tịnh đồng đẳng nhau mới được xem là thích hợp, vì thế việc cân nhắc điều thích hợp như vậy được gọi là sappāyasampajañña – việc nhận biết rõ về điều thích hợp hay không thích hợp.
Evaṃ pariggahitasātthakasappāyassa pana aṭṭhatiṃsāya kammaṭṭhānesu attano cittaruciyaṃ kammaṭṭhānasaṅkhātaṃ gocaraṃ uggahetvā bhikkhācāragocare taṃ gahetvāva gamanaṃ gocarasampajaññaṃ nāma. Tassāvibhāvanatthaṃ idaṃ catukkaṃ veditabbaṃ –
Thêm nữa, sau khi học tập các cảnh giới-gocara được xem là đề mục thiền định [kammaṭṭhāna] vừa ý đối với chính mình trong số ba mươi tám loại đề mục thiền định, rồi nắm lấy một đề mục thích hợp [dựa vào căn tánh của mình], đi đến chỗ hay lui tới để khất thực, hành giả cân nhắc đến điều có lợi ích và không có lợi ích như vậy được gọi là gocarasampajañña – việc nhận biết rõ về các đề mục thiền. Để làm cho sáng tỏ việc nhận biết rõ về các đề mục thiền ấy bậc sáng suốt nên biết 4 điều này:
Idhekacco bhikkhu harati, na paccāharati; Ekacco paccāharati, na harati; Ekacco pana neva harati, na paccāharati; Ekacco harati ca, paccāharati cāti. Tattha yo bhikkhu divasaṃ caṅkamena nisajjāya ca āvaraṇīyehi dhammehi cittaṃ parisodhetvā tathā rattiyā paṭhamayāme, majjhimayāme seyyaṃ kappetvā pacchimayāmepi nisajjacaṅkamehi vītināmetvā pageva cetiyaṅgaṇabodhiyaṅgaṇavattaṃ katvā bodhirukkhe udakaṃ āsiñcitvā, pānīyaṃ paribhojanīyaṃ paccupaṭṭhapetvā ācariyupajjhāyavattādīni sabbāni khandhakavattāni samādāya vattati. So sarīraparikammaṃ katvā senāsanaṃ pavisitvā dve tayo pallaṅke usumaṃ gāhāpento kammaṭṭhānaṃ anuyuñjitvā bhikkhācāravelāyaṃ uṭṭhahitvā kammaṭṭhānasīseneva pattacīvaramādāya senāsanato nikkhamitvā kammaṭṭhānaṃ manasikarontova cetiyaṅgaṇaṃ gantvā, sace buddhānussatikammaṭṭhānaṃ hoti, taṃ avissajjetvāva cetiyaṅgaṇaṃ pavisati. Aññaṃ ce kammaṭṭhānaṃ hoti, sopānamūle ṭhatvā hatthena gahitabhaṇḍaṃ viya taṃ ṭhapetvā buddhārammaṇaṃ pītiṃ gahetvā cetiyaṅgaṇaṃ āruyha, mahantaṃ cetiyaṃ ce, tikkhattuṃ padakkhiṇaṃ katvā catūsu ṭhānesu vanditabbaṃ. khuddakaṃ cetiyaṃ ce, tatheva padakkhiṇaṃ katvā aṭṭhasu ṭhānesu vanditabbaṃ. Cetiyaṃ vanditvā bodhiyaṅgaṇaṃ pattenāpi buddhassa bhagavato sammukhā viya nipaccākāraṃ dassetvā bodhi vanditabbā. So evaṃ cetiyañca bodhiñca vanditvā paṭisāmitaṭṭhānaṃ gantvā paṭisāmitabhaṇḍakaṃ Hatthena gaṇhanto viya nikkhittakammaṭṭhānaṃ gahetvā gāmasamīpe kammaṭṭhānasīseneva cīvaraṃ pārupitvā gāmaṃ piṇḍāya pavisati.
Một vài vị tỳ khưu trong giáo pháp này (1) mang đi nhưng không mang trở lại, (2) một vài vị không mang đi nhưng mang trở lại, (3) một vài vị không mang đi và cũng không mang trở lại, (4) một vài vị vừa mang đi và vừa mang trở lại. Ở đây, vị tỳ khưu nào thanh lọc tâm thoát khỏi các pháp chướng ngại [nīvaraṇadhamma] bằng việc đi kinh hành, [hoặc] ngồi thiền vào ban ngày, vào canh đầu của đêm cũng thực hành như vậy, nghỉ ngơi vào canh giữa, và dành thời gian cho việc ngồi thiền và đi kinh hành vào canh cuối cùng, nói gì đến việc quét dọn khu vực bảo tháp, quét dọn xung quanh cội Bồ-đề, tưới nước cây bồ đề, chuẩn bị nước uống, nước dùng để xài, thọ trì giáo pháp, thực hành pháp trong Phần Khandhaka, mọi việc đều có thầy tế độ và thầy giáo thọ v.v. Vị ấy sau khi sửa soạn thân thể, đi đến chỗ ngồi và ngồi xổm 2-3 lần đủ để ấm rồi thực hành đề mục thiền định [kammaṭṭhāna], (vị ấy) đã đứng dậy vào thời điểm đi khất thực, đã cầm lấy bình bát và y phục với việc xác định đề mục thiền làm nền tảng rồi rời khỏi chỗ ngồi, trong khi tác ý đến chính đề mục thiền định ấy, đã đi đến khuôn viên Bảo điện, nếu như đang phát triển đề mục tùy niệm Phật [buddhānussati], thì tiếp tục phát triển đề mục tùy niệm Phật ấy, chớ không từ bỏ đề mục đó để đi vào khuôn viên Bảo điện. Nếu như đang phát triển đề mục thiền khác khi ấy cần ngừng lại đề mục thiền đó lại [để suy xét], giống như đặt xuống những đồ vật đang cầm ở chân cầu thang, nắm lấy hỷ có đức Phật làm đối tượng bước vào khuôn viên Bảo điện, nếu đó là Đại bảo điện thì nên đi nhiễu xung quanh Bảo điện ấy 3 vòng, và nên đảnh lễ ở 4 hướng nếu bảo điện nhỏ, và cũng có thể đi nhiễu xung quanh bảo tháp như vậy, rồi đảnh lễ ở 8 hướng. Sau khi đảnh lễ bảo tháp xong thì đi đến cội Bồ-đề, cần đảnh lễ Bồ-đề thể hiện thể hiện sự tôn kính, như thể đang đối diện với đức Thế Tôn. Vị ấy sau khi đảnh lễ bảo điện và cội Bồ-đề như vậy, rồi có thể nắm lấy đề mục thiền ở nơi mà mình đã đặt xuống khi nãy, giống như một người đi đến chỗ cất giữ đồ để lấy những đồ đã được cất giữ như thế ấy, khi gần đến làng trùm lên (tấm y hai lớp) có đề mục thiền làm nền tảng rồi đi vào làng để khất thực.
Atha naṃ manussā disvā “ayyo no āgato”ti paccuggantvā pattaṃ gahetvā āsanasālāya vā gehe vā nisīdāpetvā yāguṃ datvā yāva bhattaṃ na niṭṭhāti, tāva pāde dhovitvā telena makkhetvā purato te nisīditvā pañhaṃ vā pucchanti, dhammaṃ vā sotukāmā honti. Sacepi na kathāpenti, janasaṅgahatthaṃ dhammakathā nāma kātabbā yevāti aṭṭhakathācariyā vadanti. Dhammakathā hi kammaṭṭhānavinimuttā nāma natthi, tasmā kammaṭṭhānasīseneva dhammakathaṃ kathetvā kammaṭṭhānasīseneva āhāraṃ paribhuñjitvā anumodanaṃ katvā[83] nivattiyamānehipi[84] manussehi anugatova gāmato nikkhamitvā tattha te nivattetvā maggaṃ paṭipajjati.
Khi ấy, mọi người nhìn thấy vị tỳ khưu ấy cũng đi ra đón tiếp với sự hoan hỷ rằng: “Thầy của chúng ta đã đến”, đã tiếp nhận bình bát, đã thỉnh mời ngài ngồi trên chỗ nhà ăn, hoặc trong nhà, đã dâng lên món cháo, trong khoảng thời gian bữa ăn vẫn chưa kết thúc, đã rửa chân (và) thoa dầu cho đến khi kết thúc bữa ăn, đã ngồi ở phía trước mặt hỏi câu hỏi, hoặc mong muốn lắng nghe thuyết Pháp. Các Chú-giải sư nói rằng: Nếu như họ không thỉnh mời thuyết Pháp, cũng nên tiến hành thuyết giảng Pháp nhằm mục đích tiếp độ dân làng. Thật vậy, các Pháp thoại không nằm ngoài các đề mục thiền định. Cho nên vị tỳ khưu chỉ thuyết giảng Pháp bằng cách xác định lấy đề mục thiền định làm nền tảng, thọ dụng vật thực bằng cách xác định đề mục thiền định làm nền tảng, thậm chí khi thực hiện ban lời tuỳ hỷ (đến dân làng) để trở về (trú xứ), mọi người đi theo sau tiễn chân ngài, sau khi rời khỏi làng, đã bảo mọi người quay trở về ngay tại chỗ ấy, rồi đã đi theo con đường (của mình).
Atha naṃ puretaraṃ nikkhamitvā bahigāme katabhattakiccā sāmaṇeradaharabhikkhū disvā paccuggantvā pattacīvaramassa gaṇhanti. Porāṇakabhikkhū kira amhākaṃ upajjhāyo ācariyoti na mukhaṃ oloketvā vattaṃ karonti, sampattaparicchedeneva karonti. Te taṃ pucchanti — “Bhante, ete manussā tumhākaṃ kiṃ honti, mātipakkhato sambandhā pitipakkhato”ti? Kiṃ disvā pucchathāti? Tumhesu etesaṃ pemaṃ bahumānanti. āvuso, yaṃ mātāpitūhipi dukkaraṃ, taṃ ete amhākaṃ karonti, pattacīvarampi no etesaṃ santakameva, etesaṃ ānubhāvena neva bhaye bhayaṃ, na chātake chātakaṃ jānāma[85]. Īdisā nāma amhākaṃ upakārino natthīti tesaṃ guṇe kathento gacchati. Ayaṃ vuccati harati na paccāharatīti.
Khi các vị sa-di và các vị tỳ khưu trẻ tuổi đã rời khỏi trước, khi hoàn tất việc thọ dụng vật thực ở ngoài làng, nhìn thấy vị tỳ khưu ấy liền tiếp đón, nhận lấy bình bát và y phục của ngài. Được biết rằng – Các vị tỳ khưu già đã không quan sát khuôn mặt [vị ấy] trước ‘đây là thầy tế độ của ta, đây là thầy dạy học của ta’, mới thực hành phận sự [đối với Tỷ-kheo khách], nhưng chỉ làm theo sự phân công mà thôi. – Các vị tỳ khưu và sa-di trẻ hỏi rằng: “Bạch Ngài, những người dân làng bọn họ có mối quan hệ thế nào với Ngài? Phải chăng liên quan đến họ hàng bên nội hay họ hàng bên ngoại?” – Các vị nhìn thấy điều gì mà lại hỏi như vậy”? Vị tỳ khưu ấy đáp rằng: Các thầy thấy điều gì sao lại hỏi vậy? – Các vị tỳ khưu và sa-di trẻ đáp rằng: (bởi vì) tình thương yêu và lòng tôn kính của họ dành cho Ngài. – Vị tỳ khưu ấy đã nói lời ca ngợi những người dân làng ấy rằng: Này chư hiền, những phận sự nào ngay cả thân phụ, thân mẫu của chúng ta khó lòng thực hiện thì những phận sự ấy họ đã làm cho chúng ta, ngay cả bình bát và y phục của chúng ta đang sử dụng cũng do họ cúng dường. Cũng chính nhờ sự hộ độ của họ mà chúng ta không sợ hãi khi gặp hiểm nguy, chúng ta cũng không lo đói khát trong khi đói khát, những người có sự hộ độ cho chúng ta như thế này (sẽ) không còn nữa. Đây được gọi là: “Mang đi nhưng không mang trở lại [harati na paccāharati]”.
Yassa pana pageva vuttappakāraṃ vattapaṭipattiṃ karontassa kammajatejodhātu pajjalati, anupādinnakaṃ muñcitvā upādinnakaṃ gaṇhāti, sarīrato sedā muñcanti, kammaṭṭhānaṃ vīthiṃ nārohati, so pageva pattacīvaramādāya vegasā cetiyaṃ vanditvā gorūpānaṃ nikkhamanavelāyameva gāmaṃ yāgubhikkhāya pavisitvā yāguṃ labhitvā āsanasālaṃ gantvā pivati, athassa dvattikkhattuṃ ajjhoharaṇamatteneva kammajatejodhātu upādinnakaṃ muñcitvā anupādinnakaṃ gaṇhāti, ghaṭasatena nhāto viya tejodhātu pariḷāhanibbānaṃ patvā kammaṭṭhānasīsena yāguṃ paribhuñjitvā pattañca mukhañca dhovitvā antarābhatte kammaṭṭhānaṃ manasikatvā avasesaṭṭhāne piṇḍāya caritvā kammaṭṭhānasīsena āhārañca paribhuñjitvā tato paṭṭhāya poṅkhānupoṅkhaṃ[86] upaṭṭhahamānaṃ kammaṭṭhānaṃ gahetvā āgacchati, ayaṃ vuccati paccāharati na haratīti. Edisā ca bhikkhū yāguṃ pivitvā vipassanaṃ ārabhitvā buddhasāsane arahattappattā nāma gaṇanapathaṃ vītivattā. Sīhaḷadīpeyeva tesu tesu gāmesu āsanasālāyaṃ vā na taṃ āsanamatthi, yattha yāguṃ pivitvā arahattappattā bhikkhū natthīti.
Vị tỳ khưu nào đang hành phận sự pháp hành theo cách thức đã được nói trước hết, hỏa giới tiêu hóa thức ăn, thiêu đốt toàn bộ vật thực cũ, cũng thiêu đốt dạ dày, mồ hôi tuôn ra ướt đẫm thân, đề mục thiền cũng không thể nhập vào lộ trình (tâm) được, vị tỳ khưu đó mang bình bát, y phục trước rồi đảnh lễ Bảo tháp một cách vội vã, sau đó đã đi vào làng để xin cháo, những con bò đi ra khỏi chuồng từ lúc trời vẫn tờ mờ sáng, sau khi nhận được cháo đã đi đến nhà ăn để uống nước cháo, khi vừa mới nuốt khoảng 2-3 ngụm nước cháo thì hỏa giới sanh lên từ nghiệp không thiêu đốt bao tử, quay trở lại thiêu thiêu đốt vật thực mới. Vị tỳ khưu ấy đã đạt đến sự dập tắt cái nóng bức của hỏa giới như thể được tắm với hàng trăm chậu nước, thọ dụng cháo bằng việc xác định đề mục thiền làm nền tảng, sau khi rửa bình bát và súc miệng, luôn có tác ý đến đề mục thiền vào khoảng thời gian không thọ dụng vật thực, đã đi khất thực ở những nơi chưa đi, đã thọ dụng vật thực với việc xác định đề mục thiền làm nền tảng, kể từ đó trở đi [vị ấy] đến nắm lấy đề mục thiền mà bản thân nuôi dưỡng được tiếp nối liên tục. Đây gọi là không mang đi nhưng mang trở lại [na harati paccāharati]. Và chư tỳ khưu sau khi uống nước cháo, đã bắt đầu thực hành minh sát chứng đạt phẩm vị A-ra-hán trong Phật Giáo như thế là vô số, không đếm xuể. Ở trên đảo Sīhaḷa, những nhà ăn xuôi theo các thôn làng ấy, không có đủ chỗ ngồi dành cho vị tỳ khưu sau khi uống nước cháo đã đạt được phẩm vị A-ra-hán.
Yo pana pamādavihārī hoti, nikkhittadhuro sabbavattāni[87] bhinditvā pañcavidhacetokhīlavinibandhacitto viharanto — “kammaṭṭhānaṃ nāma atthī”ti saññampi akatvā gāmaṃ piṇḍāya pavisitvā ananulomikena gihisaṃsaggena saṃsaṭṭho caritvā ca bhuñjitvā ca tuccho nikkhamati, ayaṃ vuccati neva harati na paccāharatīti.
Lại nữa, vị tỳ khưu nào sống sự phóng dật, trong lúc sống đã từ bỏ các trách nhiệm, đã phá vỡ mọi phận sự có thể thực hiện, có tâm buộc chặt với 5 tâm hoang vu [cetokhīla], không thực hiện sự suy tưởng mặc dầu ‘Nghiệp xứ gọi là có tồn tại’, sau khi đi khất thực ở làng, đã đi gắn bó bằng sự kết giao với người cư sĩ, ăn chung chạ với người cư sĩ không đúng đắn, là người rỗng không rời khỏi nhà gia chủ, đây gọi là không mang đi và cũng không mang trở lại [neva harati na paccāharati].
Yo panāyaṃ — “harati ca paccāharati cā”ti vutto, so gatapaccāgatavattavaseneva veditabbo. Attakāmā hi kulaputtā sāsane pabbajitvā dasapi vīsampi[88] tiṃsampi cattālīsampi paññāsampi satampi ekato vasantā katikavattaṃ katvā viharanti, “āvuso, tumhe na iṇaṭṭā, na bhayaṭṭā, na jīvikāpakatā pabbajitā, dukkhā muccitukāmā[89] panettha pabbajitā, tasmā gamane uppannakilesaṃ gamaneyeva niggaṇhatha, tathā ṭhāne, nisajjāya, sayane uppannakilesaṃ sayaneva niggaṇhathā”ti.
Hơn nữa, vị tỳ khưu nào đó nói rằng – “Mang đi và mang trở lại,” vị khưu ấy nên biết với mãnh lực vị thực hành gatapaccāgatikavatta [lượt đi cũng thực hành đề mục thiền, lượt về cũng thực hành đề mục thiền]. Thật vậy, các thiện nam tử vì mong muốn điều lợi ích đã xuất gia trong Giáo Pháp sống chung với nhau 10 vị, 20 vị, 50 vị hay 100 vị thực hành điều thỏa thuận như sau: ‘Này các hiền giả, chúng ta không phải xuất gia để trốn nợ, không phải để tránh nỗi sợ hãi, không phải xuất gia để nuôi mạng, mà mong muốn thoát khỏi mọi khổ đau, do đó đã xuất gia trong Giáo Pháp này. Vì vậy, ở sát-na đi các Ngài hãy lặp tức chế ngự phiền não khởi lên trong khi đi, ở sát-na đứng hãy lặp tức chế ngự phiền não khởi lên trong khi đứng; ở sát-na ngồi hãy lặp tức chế ngự phiền não khởi lên trong khi ngồi, và ở sát-na nằm hãy lặp tức chế ngự phiền não khởi lên trong khi nằm.”
Te evaṃ katikavattaṃ katvā bhikkhācāraṃ gacchantā aḍḍhausabhausabhāḍḍhagāvutagāvutantaresu pāsāṇā honti, tāya saññāya kammaṭṭhānaṃ manasikarontāva gacchanti. Sace kassaci gamane kileso uppajjati, tattheva naṃ niggaṇhāti. tathā asakkonto tiṭṭhati, athassa pacchato āgacchantopi tiṭṭhati. So “ayaṃ bhikkhu tuyhaṃ uppannavitakkaṃ jānāti, ananucchavikaṃ te etan”ti attānaṃ paṭicodetvā vipassanaṃ vaḍḍhetvā tattheva ariyabhūmiṃ okkamati; tathā asakkonto nisīdati. Athassa pacchato āgacchantopi nisīdatīti soyeva nayo. ariyabhūmiṃ okkamituṃ asakkontopi taṃ kilesaṃ vikkhambhetvā kammaṭṭhānaṃ manasikarontova gacchati, na kammaṭṭhānavippayuttena cittena pādaṃ uddharati, uddharati ce, paṭinivattitvā purimapadesaṃyeva[90] eti. Ālindakavāsī mahāphussadevatthero viya.
Sau khi thực hiện điều thỏa thuận như vậy, các vị ấy đi khất thực [trong lúc đi] có một tảng đá ở giữa đường, (kích thước) một nửa usabha, một usabha, một nửa gāvuta, và một gāvuta, bước đi (có) tác ý đến đề mục thiền với sự suy tưởng đó. Nếu phiền não khởi lên cho bất cứ vị nào trong lúc đi, vị ấy cần chế ngự phiền não ngay tại chỗ ấy, cho đến khi không thể đè nén được cần phải đứng lại. Khi ấy nếu có vị tỳ khưu khác đi theo sau, thì vị ấy cũng phải đứng lại. Vị ấy nên tự nhắc nhở bản thân rằng: “Vị tỳ khưu này biết được suy tầm đã khởi lên nơi ta, điều ấy thật không thích hợp cho ta”, đã tiền hành minh sát tiến vào địa phận của bậc Thánh ngay tại chỗ ấy; nếu không thể chế ngự được bằng cách đó, hãy ngồi. Lúc đó, luôn cả vị tỳ khưu đi theo sau vị ấy, thì (vị theo sau) cũng phải ngồi, có phương thức tương tự. Dẫu không thể tiến vào địa phận của bậc Thánh, cũng chế ngự được phiền não, bước đi luôn tác ý đến đề mục thiền. Vị tỳ khưu ấy không bước chân với tâm không phối hợp với đề mục thiền, nếu nhấc chân (khi tâm không phối hợp với đề mục thiền) thì cần phải trở lại chỗ cũ, giống như Trưởng lão Mahāphussadeva, cư ngụ ở tịnh xá Āḷindaka.
So kira ekūnavīsativassāni gatapaccāgatavattaṃ pūrento eva vihāsi, manussāpi addasaṃsu antarāmagge kasantā ca vapantā ca maddantā ca kammāni ca karontā theraṃ tathāgacchantaṃ disvā — “ayaṃ thero punappunaṃ nivattitvā gacchati, kinnu kho maggamūḷho, udāhu kiñci pamuṭṭho”ti samullapanti. So taṃ anādiyitvā kammaṭṭhānayuttacitteneva samaṇadhammaṃ karonto vīsativassabbhantare arahattaṃ pāpuṇi, arahattappattadivase cassa caṅkamanakoṭiyaṃ adhivatthā devatā aṅgulīhi dīpaṃ ujjāletvā aṭṭhāsi. cattāropi mahārājāno sakko ca devānamindo brahmā ca sahampati upaṭṭhānaṃ agamaṃsu. Tañca obhāsaṃ disvā vanavāsī mahātissatthero taṃ dutiyadivase pucchi — “Rattibhāge āyasmato santike obhāso ahosi, kiṃ so obhāso”ti? Thero vikkhepaṃ karonto obhāso nāma dīpobhāsopi hoti, maṇiobhāsopīti evamādimāha. Tato ‘paṭicchādetha tumhe’ti nibaddho[91] ‘āmā’ti paṭijānitvā ārocesi.
Kể rằng – vị ấy [Trưởng lão Mahāphussadeva] sống làm tròn phận sự gatapaccāgatika suốt 19 hạ-lạp, ngay cả những người nông phu đang cày bừa, gieo mạ, đập lúa và làm việc, khi nhìn thấy Trưởng lão đi như thế, họ bàn tán với nhau rằng: “Vị trưởng lão này cứ đi đi lại lại, phải chăng vị ấy bị lạc đường, (hay) quên cái gì đó?” Ngài không để tâm đến những lời nói đó, thực hành Sa-môn pháp với tâm phối hợp với đề mục thiền chứng đắc quả vị A-ra-hán vào hạ-lạp thứ 20. Vào ngày mà ngài chứng đắc phẩm vị A-la-hán, chư Thiên hộ trì ở cuối đường kinh hành, (vị Thiên ấy) đã đứng làm cho chiếu sáng bằng ngọn đèn từ những ngón tay, đến Tứ đại Thiên vương, Vua trời Sakka và Phạm thiên Sahampati cũng cùng nhau đến phụng sự cho ngài. Vào ngày thứ hai sau khi trưởng lão Vanavāsī Mahātissa nhìn thấy ánh sáng đó đã hỏi ngài Mahāphussadeva rằng: “Ánh sáng xuất hiện gần chỗ của ngài vào ban đêm, đó là ánh sáng gì?”. Trưởng lão muốn tránh né đã trả lời rằng: “Ánh sáng đó có thể là ánh sáng (phát ra) từ ngọn đèn, hoặc ánh sáng (phát ra) từ ngọc māṇī”. Sau đó, mong trưởng lão Vanavāsīmahātissa “hãy giữ bí mật,” biết được vị ấy “đã hứa” rồi ngài thuật lại [những sự việc đã xảy ra].
Kāḷavallimaṇḍapavāsī mahānāgatthero viya ca. Sopi kira gatapaccāgatavattaṃ pūrento — paṭhamaṃ tāva bhagavato mahāpadhānaṃ pūjessāmīti sattavassāni ṭhānacaṅkamameva adhiṭṭhāsi. Puna soḷasavassāni gatapaccāgatavattaṃ pūretvā arahattaṃ pāpuṇi. so kammaṭṭhānayutteneva cittena pādaṃ uddharanto, viyuttena uddhaṭe paṭinivattento gāmasamīpaṃ gantvā “gāvī nu pabbajito nū”ti āsaṅkanīyapadese ṭhatvā cīvaraṃ pārupitvā kacchakantarato udakena pattaṃ dhovitvā udakagaṇḍūsaṃ[92] karoti. Kiṃ kāraṇā? Mā me bhikkhaṃ dātuṃ vā vandituṃ vā āgate manusse ‘dīghāyukā hothā’ti vacanamattenāpi kammaṭṭhānavikkhepo ahosīti. “ajja, bhante, katimī”ti divasaṃ vā bhikkhugaṇanaṃ vā pañhaṃ vā pucchito pana udakaṃ gilitvā āroceti. Sace divasādīni pucchakā na honti, nikkhamanavelāya gāmadvāre niṭṭhubhitvāva yāti.
Và giống như trưởng lão Mahānāga, cư trú ở xứ Kālavallimaṇḍapa. Kể rằng – trưởng lão Mahānāga làm tròn phận sự gatapaccāgatika, ban đầu vị ấy phát nguyện đi kinh hành trong vòng 7 ha-lạp với ý định rằng: “Tôi sẽ lễ bái sự tinh cần vĩ đại của Thế Tôn.” Vị trưởng lão ấy đã làm tròn phận sự gatapaccāgatika thêm 16 hạ-lạp mới đạt đến phẩm vị A-ra-hán. Vị ấy chỉ bước chân với tâm gắn liền với đề mục thiền, khi bước chân với tâm không liên kết với đề mục thiền (vị ấy) quay trở lại ở sát-na nhấc chân lên. Khi đi đến gần làng, đã đứng ở khu đất nơi gây ra nghi ngờ rằng: “Con bò cái hay thầy tỳ khưu đây”, đã choàng lên tấm y, đã rửa bình bát từ vũng nước sạch ở giữa cây sung, rồi ngậm đầy nước trong miệng. Để làm gì? Vì mong muốn rằng: “Trong khi người đến cúng dường đồ ăn khất thực hay đến đảnh lễ ta, đề mục thiền chớ bị tán loạn, luôn cả khi nói rằng: “nguyện cho được trường thọ.” Nhưng (nếu) bị hỏi đến ngày tháng: “Thưa Ngài hôm nay là thứ mấy?” hoặc hỏi về số lượng tỳ khưu hoặc đặt câu hỏi thì ngài nuốt ngụm nước và trả lời. Nếu như không có ai hỏi đến ngày tháng v.v. vị ấy sẽ nhổ nước (từ miệng) ở cổng làng rồi bỏ đi vào lúc bò rời khỏi chuồng.
Kalambatitthavihāre vassūpagatā paññāsabhikkhū viya ca. Te kira āsaḷhipuṇṇamāyaṃ katikavattaṃ akaṃsu — “Arahattaṃ appatvā aññamaññaṃ nālapissāmā”ti, gāmañca piṇḍāya pavisantā udakagaṇḍūsaṃ katvā pavisiṃsu. Divasādīsu pucchitesu vuttanayeneva paṭipajjiṃsu. tattha manussā niṭṭhubhanaṃ disvā jāniṃsu — “Ajjeko āgato, ajja dve”ti. Evañca cintesuṃ — “Kinnu kho ete amhehiyeva saddhiṃ na sallapanti, udāhu aññamaññampi. Sace aññamaññampi na sallapanti, addhā vivādajātā bhavissanti. Etha ne aññamaññaṃ khamāpessāmā”ti, sabbe vihāraṃ gantvā paññāsāya bhikkhūsu dvepi bhikkhū ekokāse nāddasaṃsu. Tato yo tesu cakkhumā puriso, so āha — “na bho kalahakārakānaṃ vasanokāso īdiso hoti, susammaṭṭhaṃ cetiyaṅgaṇabodhiyaṅgaṇaṃ, sunikkhittā sammajjaniyo, sūpaṭṭhapitaṃ[93] pānīyaṃ paribhojanīyan”ti, te tatova nivattā. tepi bhikkhū anto temāseyeva arahattaṃ patvā mahāpavāraṇāya visuddhipavāraṇaṃ pavāresuṃ.
Và giống như nhóm năm mươi vị tỳ khưu đã vào an cư mùa mưa tại tịnh xá Kalambatittha. Kể rằng các đã đồng thuận đã cùng nhau thực hành để làm tròn bổn phận gatapaccāgatika vào ngày trăng tròn tháng Asāḷha [ngày lễ Rằm tháng Sáu] rằng: “Tất cả chúng ta vẫn chưa chứng A-la-hán (nên) sẽ không nói chuyện với nhau.” Và khi những vị ấy đi vào làng để khất thực (mỗi vị) đều ngậm ngụm nước rồi đi vào, khi bị hỏi về ngày tháng, v.v. cũng hành xử theo chính phương cách đã nói ở trên. Mọi người nhìn thấy dấu vết nhổ nước ở tại nơi đó và nhận ra rằng: “Hôm nay chỉ có một vị tỳ khưu, hôm nay có hai vị”. Và họ suy nghĩ như vầy “Những vị tỳ khưu này chỉ không nói chuyện với chúng ta? Hay là chính các ngài cũng không nói chuyện với nhau luôn? Nếu như chính các Ngài không nói chuyện với nhau, chắc chắn sẽ xảy ra cuộc tranh cãi? Chúng ta sẽ khiến cho các vị ấy sám hối lẫn nhau”. Thế là mọi người cùng nhau đi đến tịnh xá, không nhìn thấy 50 vị tỳ khưu ở cùng một chỗ luôn cả 2 vi. Sau đó, trong số những người đó có một người đàn ông có mắt sắc bén, vị ấy đã nói rằng: – “Này các ông, những người cãi vã sẽ không có cơ hội [hòa hợp] như thế này, trong khuôn viên Bảo điện và xung quanh khuôn viên cội Bồ-đề được quét dọn sạch sẽ, có các cây chổi được đặt ngay ngắn; nước uống và nước sử dụng cũng được chuẩn bị đầy đủ”, thế là họ đã trở về nhà tư nơi ấy; thậm chí những vị tỳ khưu ấy cũng đã chứng đắc phẩm vị A-ra-hán trong ba tháng an cư mùa mưa, vào ngày đại lễ Tự Tứ cùng cử hành thỉnh mời với sự thỉnh cầu thanh tịnh.
Evaṃ kāḷavallimaṇḍapavāsī mahānāgatthero viya, kalambatitthavihāre vassūpagatabhikkhū viya ca kammaṭṭhānayutteneva cittena pādaṃ uddharanto gāmasamīpaṃ gantvā udakagaṇḍūsaṃ katvā vīthiyo sallakkhetvā, yattha surāsoṇḍadhuttādayo kalahakārakā caṇḍahatthiassādayo vā natthi, taṃ vīthiṃ paṭipajjati. Tattha ca piṇḍāya caramāno na turitaturito viya javena gacchati. Na hi javena piṇḍapātiyadhutaṅgaṃ nāma kiñci atthi. visamabhūmibhāgappattaṃ pana udakasakaṭaṃ viya niccalo hutvā gacchati. Anugharaṃ paviṭṭho ca dātukāmaṃ vā adātukāmaṃ vā sallakkhetvā tadanurūpaṃ kālaṃ āgamento bhikkhaṃ paṭilabhitvā ādāya antogāme vā bahigāme vā vihārameva vā āgantvā yathā phāsuke patirūpe okāse nisīditvā kammaṭṭhānaṃ manasikaronto āhāre paṭikūlasaññaṃ upaṭṭhapetvā akkhabbhañjana — vaṇalepanaputtamaṃsūpamavasena paccavekkhanto aṭṭhaṅgasamannāgataṃ āhāraṃ āhāreti, neva davāya na madāya na maṇḍanāya na vibhūsanāya … pe … bhuttāvī ca udakakiccaṃ katvā muhuttaṃ bhattakilamathaṃ paṭippassambhetvā yathā purebhattaṃ, evaṃ pacchābhattaṃ purimayāmaṃ pacchimayāmañca kammaṭṭhānameva manasi karoti, ayaṃ vuccati harati ca paccāharati cāti.
Vị tỳ khưu thực hành như trưởng lão Mahānāga, vị cư ngụ ở xứ Kālavallimaṇḍapa; và tương tự như chư tỳ khưu an cư mùa mưa tại tịnh xá Kalambatittha như đã được diễn giải, bước chân với tâm luôn phối hợp với đề mục thiền, đi đến gần làng rồi ngậm ngụm nước, suy xét một số một số tuyến đường, tuyến đường nào không có nhóm người cãi nhau, không có những kẻ say rượu và kẻ chơi cờ bạc, v.v. hay không có voi dữ, không có ngựa hung, v.v. thì vị ấy đi tuyến đường đó, và khi bước đi vào thôn làng để khất thực cũng sẽ không bước đi nhanh giống như một người đang có việc gấp. Bởi vì không có điều gì gọi là hạnh hành pháp đi khất thực với sự vội vã. Mà phải bước từ từ giống như xe chở nước đi qua những chỗ đất gồ ghề cần phải chạy từ từ như thế, và (vị tỳ khưu) đi đến từng nhà một theo tuần tự (đứng trước nhà) quan sát xem họ có muốn đặt bát cúng dường hay không muốn cúng dường, chờ đợi ở một khoảng thời gian thích hợp, sau khi thọ nhận vật thực bố thí ở trong làng hoặc ở ngoài làng, liền trở về tịnh xá, ngồi ở nơi thích hợp và thoải mái, trong khi tác ý đề mục thiền bắt đầu quán tưởng sự nhờm gớm trong vật thực – trong khi quán xét lại về phương tiện so sánh với việc nhỏ dầu vào trục xe, việc bôi thuốc ở vết thương, và thịt của đứa con trai, việc thọ dụng vật thực phối hợp với 8 yếu tố “không vì vui đùa, không vì đam mê, không vì việc trang sức, không vì việc điểm tô, mà chỉ để duy trì thân này, để nuôi sống, để ngăn sự hư hoại, để nâng đỡ Phạm hạnh, và sau khi thọ thực xong uống nước, súc miệng, nghỉ ngơi một chút làm cho dịu bớt khó chịu bởi vật thực, rồi lại tác ý đến đề mục thiền ngay lập tức, trước bữa ăn như thế nào thì sau bữa ăn cũng như thế ấy; ở canh đầu thế nào thì canh cuối cũng như thế, đây gọi là mang đi và mang lại [harati ca paccāharati ca].
Idaṃ[94] pana haraṇapaccāharaṇasaṅkhātaṃ gatapaccāgatavattaṃ pūrento yadi upanissayasampanno hoti, paṭhamavaye eva arahattaṃ pāpuṇāti. No ce paṭhamavaye pāpuṇāti, atha majjhimavaye; no ce majjhimavaye pāpuṇāti, atha maraṇasamaye; no ce maraṇasamaye pāpuṇāti, atha devaputto hutvā; no ce devaputto hutvā pāpuṇāti, anuppanne buddhe nibbatto paccekabodhiṃ sacchikaroti. no ce paccekabodhiṃ sacchikaroti, atha buddhānaṃ sammukhībhāve khippābhiñño hoti seyyathāpi thero bāhiyo dārucīriyo; mahāpañño vā seyyathāpi thero sāriputto, mahiddhiko vā seyyathāpi thero mahāmoggallāno, dhutavādo[95] vā seyyathāpi thero mahākassapo, dibbacakkhuko vā seyyathāpi thero anuruddho, vinayadharo vā seyyathāpi thero upāli, dhammakathiko vā seyyathāpi thero puṇṇo mantāṇiputto[96], āraññiko vā seyyathāpi thero revato, bahussuto vā seyyathāpi thero ānando, sikkhākāmo vā seyyathāpi thero rāhulo buddhaputtoti. Iti imasmiṃ catukke yvāyaṃ harati ca paccāharati ca, tassa gocarasampajaññaṃ sikhāpattaṃ hoti.
Lại nữa, ở đây vị tỳ khưu trong khi làm tròn bổn phận gatapaccāgatika được gọi là mang đề mục thiền đi và mang đề mục thiền lại, nếu như vị ấy tròn đủ do có nhân duyên [upanissayasampanno], thì (vì ấy) đạt được phẩm vị A-ra-hán ngay ở giai đoạn đầu của tuổi thọ. Nếu không đạt được ở giai đoạn đầu của tuổi thọ thì (sẽ) đạt được ở giai đoạn giữa của tuổi thọ; nếu như không đạt được ở giai đoạn giữa của tuổi thọ thì (sẽ) đạt được ở giai đoạn cuối của tuổi thọ; nếu không đạt được ở giai đoạn cuối của tuổi thọ thì (sẽ) đạt được trong lúc cận tử; nếu không đạt được trong lúc cận tử thì (sẽ) hóa sanh làm Thiên tử rồi đắc chứng. Nếu làm Thiên tử mà vẫn chưa chứng đắc thì vào thời kỳ đức Phật vẫn chưa xuất hiện, (sẽ) đạt được quả vị Phật-độc-giác. Nếu như chưa đạt được quả vị Phật-độc-giác thì vào thời vị lai sẽ là vị đạt được nhanh chóng [khippābhiñño] được diện kiến chư Phật như là trưởng lão Bāhiya Dārucīriya hoặc (sẽ là vị) có đại trí tuệ như trưởng lão Sāriputta. Hoặc (sẽ là vị) có nhiều thần thông như trưởng lão Mahāmoggallāna, hoặc (sẽ là vị) gìn giữ hạnh đầu đà như trưởng Lão Mahākassapa, hoặc (sẽ là vị) có Thiên nhãn như trưởng lão Anuruddha, hoặc bậc lão luyện thông thạo Luật như trưởng lão Upāli, hay một vị pháp sư như trưởng lão Puṇṇa Mantāniputta, hay vị trú ngụ trong rừng như trưởng lão Revata, hoặc bậc đa văn như trưởng lão Ānanda, hoặc (sẽ là vị) khao khát học tập như con trai của đức Phật, tức vị Trưởng lão Rāhula. Trong bốn điều này vị tỳ khưu nào vừa mang đi và mang trở lại, nhận biết rõ về các đề mục thiền ấy đạt đến tột đỉnh của việc thực hành [minh sát tuệ] là như thế.
Abhikkamādīsu pana asammuyhanaṃ asammohasampajaññaṃ, taṃ evaṃ veditabbaṃ — Idha bhikkhu abhikkamanto vā paṭikkamanto vā yathā andhabālaputhujjanā abhikkamādīsu — “attā abhikkamati, attanā abhikkamo nibbattito”ti vā, “ahaṃ abhikkamāmi, mayā abhikkamo nibbattito”ti vā sammuyhanti, tathā asammuyhanto “abhikkamāmī”ti citte uppajjamāne teneva cittena saddhiṃ cittasamuṭṭhānā vāyodhātu viññattiṃ janayamānā uppajjati. Iti cittakiriyavāyodhātuvipphāravasena ayaṃ kāyasammato aṭṭhisaṅghāto abhikkamati. Tassevaṃ abhikkamato ekekapāduddharaṇe pathavīdhātu āpodhātūti dve dhātuyo omattā honti mandā, itarā dve adhimattā honti balavatiyo; Tathā atiharaṇavītiharaṇesu. Vossajjane tejodhātu vāyodhātūti dve dhātuyo omattā honti mandā, itarā dve adhimattā balavatiyo, tathā sannikkhepanasannirujjhanesu.
Hơn nữa, sự không bị lẫn lộn trong việc bước tới v.v., gọi là vô hỗn loạn tỉnh giác (việc nhận biết rõ các đối tượng thực tính pháp trong pháp minh sát), điều đó nên được biết như vậy: Những hạng phàm phu bị say mê khi bước tới v.v, rằng: “Tự ngã bước tới, trong khi bước tới tự ngã khiến sanh khởi”, hoặc “Tôi bước tới, trong khi bước tới tôi làm cho sanh khởi”, như thế nào; Vị tỳ khưu trong giáo pháp này trong khi bước tới hoặc trong khi bước lùi không bị lẫn lộn cũng như thế ấy khi tâm nghĩ rằng “tôi bước tới” Phong đại có tâm làm sở sanh khiến cho thức sanh khởi, đồng sanh với chính tâm đó. Bộ xương được giả thuyết là sắc thân này bước tới do lực khuếch tán của Phong đại từ tâm duy tác. Khi bộ xương đó bước đi như vậy, trong sát-na nhấc chân lên ở mỗi bên, cả 2 nguyên tố là Địa đại và Thủy đại trở nên yếu dần, trừ 2 nguyên tố là Địa đại và Thủy đại thì 2 nguyên tố còn lại là Hỏa giới và Phong giới có năng lực vượt trội hơn; giống như trong trường hợp dịch chuyển chân [atiharaṇa] và bước chân tới trước [vītiharaṇa]; Trong thời thăm dò chân xuống phía dưới thì Hoả đại và Phong đại sẽ yếu đi, trừ Hỏa đại và Phong đại thì 2 nguyên tố còn lại là Đia đại và Thủy đại sẽ có năng lực vượt trội hơn, giống như trong trường hợp chân chạm xuống đất [sannikkhepana] và chân đạp trên mặt đất [sannirumbhana].
Tattha uddharaṇe pavattā rūpārūpadhammā atiharaṇaṃ na pāpuṇanti, tathā atiharaṇe pavattā vītiharaṇaṃ, vītiharaṇe pavattā vossajjanaṃ, vossajjane pavattā sannikkhepanaṃ, sannikkhepane pavattā sannirujjhanaṃ na pāpuṇanti. Tattha tattheva pabbaṃ pabbaṃ sandhi sandhi odhi odhi hutvā tattakapāle pakkhittatilāni viya paṭapaṭāyantā[97] bhijjanti. Tattha ko eko abhikkamati, kassa vā ekassa abhikkamanaṃ? Paramatthato hi dhātūnaṃyeva gamanaṃ, dhātūnaṃ ṭhānaṃ, dhātūnaṃ nisajjanaṃ, dhātūnaṃ sayanaṃ. tasmiṃ tasmiṃ koṭṭhāse saddhiṃ rūpena.
Aññaṃ uppajjate cittaṃ, aññaṃ cittaṃ nirujjhati.
Avīcimanusambandho, nadīsotova vattatīti.
Evaṃ abhikkamādīsu asammuyhanaṃ asammohasampajaññaṃ nāmāti.
Niṭṭhito abhikkante paṭikkante sampajānakārī hotīti padassa attho.
Ở đây, sắc pháp và phi sắc pháp được vận hành ở sát-na nhấc chân lên khỏi mặt đất [uddharaṇa] nhưng chưa đến sát-na dịch chuyển chân [atiharaṇa]. Sắc pháp và Danh pháp vận hành ở sát sát-na dịch chuyển chân [atiharaṇa] nhưng chưa đến sát-na bước chân tới trước [vītiharaṇa]; (tương tự) vận hành ở sát-na bước chân tới trước nhưng chưa đến sát-na duỗi chân xuống [vossajjaṇa], (tương tự) vận hành ở sát-na duỗi chân xuống nhưng chưa chạm đến sát-na chân chạm nơi đất [sannikkhepana], (tương tự) ở sát-na chân chạm nơi đất nhưng chưa đến sát-na chân đạp trên mặt đất [sannirumbhana]. Sắc pháp và Phi sắc pháp ở từng phần, từng đoạn, từng phạm vi diệt tắt trong chính mỗi oai nghi ấy giống như hạt vừng bỏ vào chảo nóng nổ lộp bộp. Về vấn đề này (việc bước tới ấy), cử chỉ bước tới trước đó của ai, hay của kẻ nào? Bởi vì theo Pháp Chân Đế [paramattha] chỉ là có các Giới-dhātu bước đi lại của giới, chỉ là có các Giới-dhātu đứng, chỉ là có các Giới-dhātu ngồi, chỉ là có các Giới-dhātu nằm (không phải của ai). Trong phần các oai nghi đó:
Tâm khác sanh, tâm khác diệt, cùng với sắc pháp được vận hành tựa như dòng nước đang chảy liên tục không bị đứt quãng.
Sự không lẫn lộn trong việc bước tới v.v., như vậy được gọi là vô hỗn loạn tỉnh giác (việc nhận biết rõ các đối tượng thực tính pháp trong pháp minh sát), việc giảng giải ý nghĩa đoạn văn “(hành giả) có sự thực hành việc nhận biết rõ trong khi bước tới và bước lui” được kết thúc tại đây.
Ālokite vilokiteti ettha pana ālokitaṃ nāma purato pekkhaṇaṃ. Vilokitaṃ nāma anudisāpekkhaṇaṃ. Aññānipi heṭṭhā upari pacchato pekkhaṇavasena olokitaullokitāpalokitāni nāma honti, tāni idha na gahitāni. Sāruppavasena pana imāneva dve gahitāni, iminā vā mukhena sabbānipi tāni gahitānevāti.
Thêm nữa, ở đây ‘nhìn qua, nhìn lại’ thì việc nhìn về phía trước gọi là nhìn thẳng; việc nhìn nghiêng bên trái và nghiêng bên phải gọi là nhìn trái nhìn phải. Những cử chỉ (cách nhìn) khác cũng được gọi là olokita ullokita apalokita về phương diện nhìn đằng dưới, nhìn phía trên, nhìn đằng sau, những cách nhìn này không liên quan đến ở đây. Mà chỉ lấy theo sự thích hợp, ngài chỉ đề cập đến hai cách nhìn này mà thôi, hoặc toàn bộ những cách nhìn này ngài đề cập đến việc nhìn về phía trước này đây.
Tattha “ālokessāmī”ti citte uppanne cittavaseneva anoloketvā atthapariggaṇhanaṃ sātthakasampajaññaṃ, taṃ āyasmantaṃ nandaṃ kāyasakkhiṃ katvā veditabbaṃ. vuttañhetaṃ bhagavatā — “Sace, bhikkhave, nandassa puratthimā disā āloketabbā hoti, sabbaṃ cetasā samannāharitvā nando puratthimaṃ disaṃ āloketi — ‘evaṃ me puratthimaṃ disaṃ ālokayato na abhijjhādomanassā pāpakā akusalā dhammā anvāssavissantī’ti[98]. Itiha tattha sampajāno hoti. Sace, bhikkhave, nandassa pacchimā disā … pe … uttarā disā … pe … dakkhiṇā disā … pe … uddhaṃ … pe … adho … pe … anudisā anuviloketabbā hoti, sabbaṃ cetasā samannāharitvā nando anudisaṃ anuviloketi — ‘Evaṃ me anudisaṃ anuvilokayato na abhijjhādomanassā pāpakā akusalā dhammā anvāssavissantī’ti. Itiha tattha sampajāno hotī”ti.[99]
Ở đây, khi tâm nghĩ rằng: “ta sẽ nhìn về phía trước” khởi lên vẫn chưa kịp đi theo mãnh lực tâm ấy, cân nhắc nắm lấy điều lợi ích gọi là việc nhận biết rõ về lợi ích; việc nhận biết rõ về lợi ích có thể thấy đại đức Nanda bậc thân chứng; Bởi điều đó được nói bởi Đức Phật rằng: “Này các tỳ khưu, nếu Nanda phải nhìn về phương Ðông, tập trung tất cả tâm tư, Nanda nhìn về hướng Ðông và suy nghĩ – ‘Như vậy, khi Ta đang nhìn về hướng Ðông, thời tham, ưu, các ác bất thiện pháp sẽ không có xâm nhập’. Như vậy, đây gọi là vị có sự nhận biết rõ về lợi ích. Này chư tỳ khưu, nếu Nanda phải nhìn về hướng Tây …nt… về hướng Bắc …nt… về hướng Nam …nt… hướng trên …nt… hướng dưới …nt… hướng phụ, tập trung tất cả tâm tư Nanda sẽ nhìn về các hướng phụ và suy nghĩ – ‘Như vậy, khi Ta đang nhìn về hướng Ðông, thời tham, ưu, các ác bất thiện pháp sẽ không có xâm nhập. Như vậy, đây gọi là vị có sự nhận biết rõ về lợi ích”.
Api ca idhāpi pubbe vuttacetiyadassanādivaseneva sātthakatā ca sappāyatā ca veditabbā, kammaṭṭhānassa pana avijahanameva gocarasampajaññaṃ. Tasmā ettha khandhadhātuāyatanakammaṭṭhānikehi attano kammaṭṭhānavaseneva, kasiṇādikammaṭṭhānikehi vā pana kammaṭṭhānasīseneva ālokanaṃ vilokanaṃ kātabbaṃ. Abbhantare attā nāma āloketā vā viloketā vā natthi, ‘ālokessāmī’ti pana citte uppajjamāne[100] teneva cittena saddhiṃ cittasamuṭṭhānā vāyodhātu viññattiṃ janayamānā uppajjati. Iti cittakiriyavāyodhātuvipphāravasena heṭṭhimaṃ akkhidalaṃ adho sīdati, uparimaṃ uddhaṃ laṅgheti. Koci yantakena vivaranto nāma natthi. Tato cakkhuviññāṇaṃ dassanakiccaṃ sādhentaṃ uppajjatīti evaṃ pajānanaṃ panettha asammohasampajaññaṃ nāma. Api ca mūlapariññā āgantukatāva kālikabhāvavasena pettha[101] asammohasampajaññaṃ veditabbaṃ. mūlapariññāvasena tāva —
Bhavaṅgāvajjanañceva, dassanaṃ sampaṭicchanaṃ.
Santīraṇaṃ voṭṭhabbanaṃ, javanaṃ bhavati sattamaṃ.
Còn nữa, luôn cả ở trong trường hợp này cũng nên biết rằng: việc nhìn về phía trước và việc nhìn trái nhìn phải là việc nhận biết rõ về lợi ích và việc nhận biết rõ về điều thích hợp về phương diện nhìn thấy Bảo điện như đã đề cập ở phần đầu. Còn việc nhận biết rõ về các đề mục thiền, chính là việc không từ bỏ đề mục thiền; do đó, việc nhìn về phía trước và việc nhìn trái nhìn phải trong Pāḷī này vị tỳ khưu phát triển Minh Sát nghiệp xứ nắm lấy Uẩn-khandha, Giới-dhātu, và Xứ-āyatana làm đối tượng có thể thực hiện nhờ năng lực đề mục tham thiền của chính mình, hoặc vị tỳ khưu thực hành Chỉ Tịnh nghiệp xứ nắm lấy các biến xứ-kasiṇa v.v., làm đối tượng hoàn toàn có thể thực hành bằng việc xác định đề mục thiền làm nền tảng. Không có cái gọi là tự ngã ở bên trong thân nhìn về phía trước hoặc nhìn trái nhìn phải; nhưng khi khởi lên suy nghĩ rằng: ‘ta sẽ nhìn về phía trước’ thì Phong đại có tâm làm sở sanh khiến cho thức sanh khởi, đồng sanh với chính tâm đó. Vì vậy, mí mắt dưới lõm xuống dưới, mí mắt trên nhô lên trên nhờ vào lực khuếch tán của Phong đại sanh lên từ tâm duy tác, chẳng có ai gọi là đang mở mắt bởi cái chốt cửa cả. Sau đó, tâm nhãn thức làm cho phận sự thấy được thành tựu cũng sanh khởi, việc tuệ tri như vậy được gọi là vô hỗn loạn tỉnh giác (việc nhận biết rõ các đối tượng thực tính pháp trong pháp minh sát). Và hơn nữa, vô hỗn loạn tỉnh giác này nên biết về phương diện hiểu biết trọn vẹn nhân ban đầu (mūlapariññā), người khách (āgantuka) và diễn ra tạm thời (tāvakālika). Trước hết nên biết rằng vô hỗn loạn tỉnh giác với mãnh lực hiểu biết trọn vẹn các căn như sau:
(Phận sự) hộ kiếp và (phận sự) khai môn, (phận sự) thấy, (phận sự) tiếp thâu.
(Phận sự) quan sát, (phận sự) phân đoán, thứ 7 là (phận sự) đổng lực.
Tattha bhavaṅgaṃ upapattibhavassa aṅgakiccaṃ sādhayamānaṃ pavattati, taṃ āvaṭṭetvā kiriyamanodhātu āvajjanakiccaṃ sādhayamānā, taṃnirodhā cakkhuviññāṇaṃ dassanakiccaṃ sādhayamānaṃ, taṃnirodhā vipākamanodhātu sampaṭicchanakiccaṃ sādhayamānā, taṃnirodhā vipākamanoviññāṇadhātu santīraṇakiccaṃ sādhayamānā, taṃnirodhā kiriyamanoviññāṇadhātu voṭṭhabbanakiccaṃ sādhayamānā, taṃnirodhā sattakkhattuṃ javanaṃ javati. Tattha paṭhamajavanepi — “ayaṃ itthī, ayaṃ puriso”ti rajjanadussanamuyhanavasena ālokitavilokitaṃ nāma na hoti. dutiyajavanepi … pe … sattamajavanepi. Etesu pana yuddhamaṇḍale yodhesu viya heṭṭhupariyavasena bhijjitvā patitesu — “ayaṃ itthī, ayaṃ puriso”ti rajjanādivasena ālokitavilokitaṃ hoti. Evaṃ tāvettha mūlapariññāvasena asammohasampajaññaṃ veditabbaṃ.
Trong lộ trình tâm ấy, phận sự tâm hộ kiếp vận hành là yếu tố làm cho quá trình tái sanh [sanh hữu, uppattibhava] được thành tựu; tâm duy tác ý giới (kiriyamanodhātu) khi hồi tưởng lại tâm hộ kiếp ấy làm cho phận sự khai môn (āvajjana) được thành tựu; kế tiếp, tâm khai môn diệt thì nhãn thức (sanh khởi) làm cho phận sự thấy (dassana) được thành tựu; kế tiếp, nhãn thức diệt thì tâm quả ý giới-vipākamanodhātu (sanh khởi) làm cho phận sự tiếp thâu-sampaṭicchana được thành tựu; kế tiếp, phận sự tiếp thâu diệt thì tâm quả ý thức giới-vipākamanoviññaṇadhātu (sanh khởi) làm cho phận sự quan sát (santīraṇa) được thành tựu; tiếp đó, phận sự quan sát diệt thì tâm tố ý thức giới-kiriyamanoviññāṇadhātu (sanh khởi) làm cho phận sự đoán định (voṭṭhabbana) được thành tựu; tiếp đó, phận sự đoán định diệt thì đổng lực tâm-javana sanh lên gấp rút 7 sát-na (kết thúc 1 lộ trình tâm). Trong lộ trình tâm ấy, ngay cả đổng lực tâm thứ nhất thì việc nhìn về phía trước hoặc nhìn trái nhìn phải do mãnh lực của sự luyến ái, sân hận và si mê (nghĩ rằng) – “Đây là đàn bà, đây là đàn ông” là không có. Luôn cả ở đổng lực tâm thứ hai …nt…thậm chí ở đổng thứ bảy cũng như thế. Nhưng khi lộ trình tâm ấy diệt từ tâm thứ nhất (đổng lực tâm thứ nhất) cho đến tâm cuối cùng, cũng giống như quân lính trên chiến trường, được gọi là việc nhìn về phía trước hoặc nhìn trái nhìn phải do mãnh lực của luyến ái v.v, cho rằng “đây là đàn bà, đây là đàn ông” hình thành. Nên biết rằng vô hỗn loạn tỉnh giác (việc nhận biết rõ các đối tượng thực tính pháp trong pháp minh sát) về phương diện hiểu biết trọn vẹn nhân ban đầu [mūlapariññā], có thể hiểu chừng này trước.
Cakkhudvāre pana rūpe āpāthamāgate bhavaṅgacalanato uddhaṃ sakakiccanipphādanavasena āvajjanādīsu uppajjitvā niruddhesu avasāne javanaṃ uppajjati, taṃ pubbe uppannānaṃ āvajjanādīnaṃ gehabhūte cakkhudvāre āgantukapuriso viya hoti. Tassa yathā paragehe kiñci yācituṃ paviṭṭhassa āgantukapurisassa gehassāmikesu tuṇhīmāsinesu āṇākaraṇaṃ na yuttaṃ, evaṃ āvajjanādīnaṃ gehabhūte cakkhudvāre āvajjanādīsupi arajjantesu adussantesu amuyhantesu ca rajjanadussanamuyhanaṃ ayuttanti evaṃ āgantukabhāvavasena asammohasampajaññaṃ veditabbaṃ.
Hơn nữa, khi đối tượng sắc đến xuất hiện trong lộ nhãn môn, tiếp đó từ hộ kiếp rúng động (bhavaṅgacalana) khi lộ trình tâm có tâm khai môn (āvajjana) v.v, sanh rồi diệt do mãnh lực hoàn thành phận sự của chính mình, tâm đổng lực sanh lên sau cùng. Tâm đổng lực đó tựa như người khách đi đến trong lộ nhãn môn, y như ngôi nhà của tâm khai môn v.v, sanh lên trước. Khi người khách ấy đi vào nhà của một người khác để xin một thứ gì đó, dù chủ nhà im lặng thì người khách cũng không nên sử dụng quyền lực (đối với chủ nhà) như thế nào. Ngay cả tâm khai môn (āvajjana) v.v, không luyến ái, không sân hận, không si mê trong lộ nhãn môn như thể ngôi nhà của tâm khai môn v.v, cũng không nên luyến ái, sân hận và si mê tương tự y như thế ấy. Do đó, nên biết rằng vô hỗn loạn tỉnh giác do tác động như tính chất người khách viếng thăm là như thế.
Yāni panetāni cakkhudvāre voṭṭhabbanapariyosānāni cittāni uppajjanti, tāni saddhiṃ sampayuttadhammehi tattha tattheva bhijjanti, aññamaññaṃ na passantīti, ittarāni[102] tāvakālikāni honti. Tattha yathā ekasmiṃ ghare sabbesu mānusakesu[103] matesu avasesassa ekassa taṅkhaṇaññeva maraṇadhammassa na yuttā naccagītādīsu abhirati nāma. Evameva ekadvāre sasampayuttesu[104] āvajjanādīsu tattha tattheva matesu avasesassa taṅkhaṇeyeva maraṇadhammassa javanassāpi rajjanadussanamuyhanavasena abhirati nāma na yuttāti. Evaṃ tāvakālikabhāvavasena asammohasampajaññaṃ veditabbaṃ.
Lại nữa, tất cả tâm có tâm đoán định (voṭṭhabbana) là cuối cùng này đây sanh lên ở lộ nhãn môn, những tâm ấy đều diệt ở ngay tại chỗ đó cùng với các pháp tương ưng, không nhìn thấy lẫn nhau, ngoài những tâm này ra thì những tâm còn lại có tính chất tạm thời. Ở đó, giống như trong một ngôi nhà tất cả mọi người đều chết hết chỉ còn một người sống sót và người đó sớm muộn cũng phải chết ngay sau đó. Thật không thích hợp chút nào nếu nói rằng: người này phấn khởi, nhảy múa, ca hát v.v., như thế nào; Tương tự y như thế, khi tâm khai môn v.v, cùng với pháp tương ưng trong cùng một môn-dvāra diệt đi trong chính nơi đó; Gọi là có sự phấn khởi do mãnh lực ái luyến, sân hận, hay si mê cũng không thích hợp luôn cả những tâm đổng lực còn lại cũng phải diệt ngay tại sát-na ấy. Do đó, nên biết rằng: vô hỗn loạn tỉnh giác do tác động tính chất tạm thời là như thế.
Api ca khandhāyatanadhātupaccayapaccavekkhaṇavasena petaṃ veditabbaṃ. Ettha hi cakkhu ceva rūpā ca[105] rūpakkhandho, dassanaṃ viññāṇakkhandho, taṃsampayuttā vedanā vedanākkhandho, saññā saññākkhandho, phassādikā saṅkhārakkhandho. Evametesaṃ pañcannaṃ khandhānaṃ samavāye ālokanavilokanaṃ paññāyati. Tattha ko eko āloketi, ko viloketi?
Và thêm nữa, vô hỗn loạn tỉnh giác này có thể biết với mãnh lực quán chiếu Uẩn-khandha, Xứ-āyatana, Giới- dhātu và Duyên-paccaya. Ở trong trường hợp này, Nhãn và Sắc gọi là Sắc uẩn; sự thấy là Thức uẩn; Thọ tương ưng với Thức uẩn đó (để thấy cảnh) gọi là Thọ uẩn, Tưởng là Tưởng uẩn; Pháp (còn lại) có Xúc v.v., gọi là Hành uẩn. Như vậy việc nhìn thẳng và nhìn trái nhìn phải hiện hữu trong Ngũ uẩn này kết hợp với nhau là như thế. Ở đây “có một ai nhìn thẳng? có một ai nhìn trái nhìn phải?”
Tathā cakkhu cakkhāyatanaṃ, rūpaṃ rūpāyatanaṃ, dassanaṃ manāyatanaṃ, vedanādayo sampayuttadhammā dhammāyatanaṃ. Evametesaṃ catunnaṃ āyatanānaṃ samavāye ālokanavilokanaṃ paññāyati. Tattha ko eko āloketi, ko viloketi?
Trong cách đó, Nhãn là Nhãn xứ, Sắc là Sắc xứ, sự thấy là Ý xứ, các Pháp tương ưng có Thọ v.v, là Pháp xứ. ‘Việc nhìn thẳng và nhìn trái nhìn phải’ hiện hữu do bốn Xứ-āyatana này kết hợp với nhau là như thế. Ở đây, “có một ai nhìn thẳng; có một ai nhìn trái nhìn phải?”
Tathā cakkhu cakkhudhātu, rūpaṃ rūpadhātu, dassanaṃ cakkhuviññāṇadhātu, taṃsampayuttā vedanādayo dhammā dhammadhātu. evametāsaṃ catunnaṃ dhātūnaṃ samavāye ālokanavilokanaṃ paññāyati. tattha ko eko āloketi, ko viloketi?
Trong cách đó, Nhãn là Nhãn giới; sắc gọi là sắc giới; sự thấy gọi là Nhãn thức giới; các Pháp tương ưng có Thọ v.v gọi là Pháp giới. Việc nhìn thẳng và nhìn trái nhìn phải hiện hữu do bốn Giới này kết hợp với nhau là như thế. Ở đây, “có một ai nhìn thẳng; có một ai nhìn trái nhìn phải?”
Tathā cakkhu nissayapaccayo, rūpā ārammaṇapaccayo, āvajjanaṃ anantara-samanantarūpanissayanatthivigatapaccayo, āloko upanissayapaccayo, vedanādayo sahajātapaccayo[106]. Evametesaṃ paccayānaṃ samavāye ālokanavilokanaṃ paññāyati. Tattha ko eko āloketi, ko viloketīti? Evamettha khandhāyatanadhātupaccayapaccavekkhaṇavasenapi asammohasampajaññaṃ veditabbaṃ.
Theo cách đó, Nhãn làm y chỉ duyên [nissayapaccayo]; Sắc làm cảnh duyên [ārammaṇapaccayo]; Tâm Khai Môn làm vô gián duyên [anantarapaccayo], đẳng vô gián duyên [samanantarapaccayo], cận y duyên [upanissayapaccayo], vô hữu duyên [natthipaccayo] và ly khứ duyên [vigatapaccayo]; Ánh sáng làm cận y duyên [upanissayapaccayo]; Thọ v.v., làm câu sanh duyên [sahajātapaccayo]. Như vậy, việc nhìn thẳng và nhìn trái nhìn phải hiện hữu do các duyên này kết hợp với nhau là như thế. Ở đây “có một ai nhìn thẳng; có một ai nhìn trái nhìn phải?” Nên biết rằng vô hỗn loạn tỉnh giác này do mãnh lực quán xét Uẩn-khandha, Xứ-āyatana, Giới-dhātu và Duyên trợ-paccaya ở đây là như vậy.
Samiñjite[107] pasāriteti pabbānaṃ[108] samiñjanapasāraṇe. tattha cittavaseneva samiñjanapasāraṇaṃ akatvā hatthapādānaṃ samiñjanapasāraṇapaccayā atthānatthaṃ pariggaṇhitvā atthapariggaṇhanaṃ sātthakasampajaññaṃ. tattha hatthapāde aticiraṃ samiñjetvā vā pasāretvā vā ṭhitassa khaṇe khaṇe vedanā uppajjati, cittaṃ ekaggataṃ na labhati, kammaṭṭhānaṃ paripatati, visesaṃ nādhigacchati. kāle samiñjentassa kāle pasārentassa pana tā vedanā nuppajjanti, cittaṃ ekaggaṃ hoti, kammaṭṭhānaṃ phātiṃ gacchati, visesamadhigacchatīti, evaṃ atthānatthapariggaṇhanaṃ veditabbaṃ.
Khi co vào và duỗi ra (tay chân): hành động co vào và duỗi ra của các chi (tay chân). Ở đây, sau khi cân nhắc đến điều lợi ích và không lợi ích vì sự co tứ chi vào và duỗi tứ chi ra làm duyên trợ, không co tứ chi vào và duỗi tứ chi, do mãnh lực tâm điều khiển, lựa chọn điều lợi ích trong sự co tứ chi vào và duỗi tứ chi ra đó, gọi là “việc nhận biết rõ điều lợi ích”. Như vậy, khi hành giả co tay hoặc chân quá lâu, hoặc duỗi tay hoặc chân quá lâu (đặt ở một tư thế) thì các cảm thọ sanh khởi liên tục trong từng sát-na , tâm không đạt đến (trạng thái) định, đề mục thiền định sẽ mất đi, không đắc được pháp cao thượng. Tuy nhiên, khi hành giả co tứ chi vào hợp thời và duỗi tứ chi ra vừa phải, các cảm thọ ấy sẽ không sanh, (đạt được) trạng thái chuyên nhất của tâm, đề mục thiền đi đến tăng trưởng, hành giả (sẽ) chứng đắc pháp cao thượng. Việc cân nhắc đến điều lợi ích và không lợi ích (hành giả) nên biết là như vậy.
Atthe pana satipi sappāyāsappāyaṃ pariggaṇhitvā sappāyapariggaṇhanaṃ sappāyasampajaññaṃ. Tatrāyaṃ nayo – Mahācetiyaṅgaṇe kira daharabhikkhū sajjhāyaṃ gaṇhanti, tesaṃ piṭṭhipassesu daharabhikkhuniyo dhammaṃ suṇanti. tatreko daharo hatthaṃ pasārento kāyasaṃsaggaṃ patvā teneva kāraṇena gihī jāto. aparo bhikkhu pādaṃ pasārento aggimhi pasāresi, aṭṭhimāhacca pādo jhāyi. aparo vammike pasāresi, so āsīvisena ḍaṭṭho. aparo cīvarakuṭidaṇḍake pasāresi, taṃ maṇisappo ḍaṃsi. tasmā evarūpe asappāye apasāretvā sappāye pasāretabbaṃ. Idamettha sappāyasampajaññaṃ.
Lại nữa, dầu có lợi ích thì sau khi cân nhắc đến đối tượng thích hợp và không thích hợp, vị ấy suy xét đến đối tượng thích hợp gọi là ‘việc nhận biết rõ về điều thích hợp’. Trong trường hợp này có phương cách như sau – Được biết rằng: các vị tỳ khưu trẻ đang tụng kinh ở Đại bảo điện. Đằng sau họ là các vị tỳ khưu ni trẻ đang lắng tai nghe Pháp. Trong số các vị tỳ khưu đó, có một tỳ khưu trẻ duỗi tay ra và đã đụng vào thân một tỳ khưu ni trẻ. Vì chính lý do đó mà vị ấy đã trở thành người cư sĩ. Một vị tỳ khưu khác, khi duỗi chân ra lại đụng phải lò lửa đang cháy gần đó và chân đã bị bỏng tới xương. Một vị khác lại duỗi tay ra đụng phải gò mối và đã bị rắn độc cắn. Một vị khác duỗi tay đụng cây cột phơi y và thế là bị con rắn lục cắn. Do đó, khi duỗi chân ra cũng không nên duỗi vào những vị trí không thích hợp như vậy, cần duỗi ra ở những nơi thích hợp. Điều này ở đây là việc nhận biết rõ về điều thích hợp.
Gocarasampajaññaṃ pana mahātheravatthunā dīpetabbaṃ — mahāthero kira divāṭhāne nisinno antevāsikehi saddhiṃ kathayamāno sahasā hatthaṃ samiñjetvā puna yathāṭhāne ṭhapetvā saṇikaṃ samiñjesi[109]. Taṃ antevāsikā pucchiṃsu — “kasmā, bhante, sahasā hatthaṃ samiñjitvā puna yathāṭhāne ṭhapetvā saṇikaṃ samiñjiyitthā”ti? Yato paṭṭhāyāhaṃ, āvuso, kammaṭṭhānaṃ manasikātuṃ āraddho, na me kammaṭṭhānaṃ muñcitvā hattho samiñjitapubbo, idāni pana me tumhehi saddhiṃ kathayamānena kammaṭṭhānaṃ muñcitvā samiñjito. Tasmā puna yathāṭhāne ṭhapetvā samiñjesinti. Sādhu, bhante, bhikkhunā nāma evarūpena bhavitabbanti. Evametthāpi kammaṭṭhānāvijahanameva gocarasampajaññanti veditabbaṃ.
Lại nữa, việc nhận biết rõ về các đề mục thiền (gocārasampajañña) có thể mô tả bằng câu chuyện của vị Đại trưởng lão – Kể rằng vị Đại trưởng lão ngồi nghỉ trưa. Khi nói chuyện với các đệ tử (vị ấy) nắm nắm tay và lại mở ra như trước, (rồi) lại từ từ nắm nắm tay lại, Các đệ tử hỏi Ngài – “Bạch Ngài, vì sao Ngài lại nhanh chóng nắm nắm tay lại rồi lại mở ra về vị trí ban đầu? Rồi từ từ nắm lại”. – Ngài trả lời rằng: “Này các con, kể từ khi thầy bắt đầu chú ý đến thiền định. Thầy chưa bao giờ từ bỏ thiền định rồi nắm tay. Nhưng giờ thầy nói với các con, ta đã rời bỏ đề mục thiền định rồi mới nắm tay lại, vì vậy thầy đã mở bàn tay ra như cũ và từ từ nắm lại”. – Các đệ tử liền tán thán: “Lành thay, thưa Ngài, chư tỳ khưu cần phải hành theo như vậy. Nên hiểu rằng Việc không từ bỏ đề mục thiền trong trường hợp này nên biết rằng – việc nhận biết rõ về các đề mục thiền (gocārasampajañña) là như thế.
Abbhantare attā nāma koci samiñjento vā pasārento vā natthi, vuttappakāracittakiriyavāyodhātuvipphārena pana suttākaḍḍhanavasena dāruyantassa hatthapādalacalanaṃ viya samiñjanapasāraṇaṃ hotīti evaṃ parijānanaṃ panettha asammohasampajaññanti veditabbaṃ.
Không có ai gọi là bản ngã ở bên trong việc co tứ chi vào hoặc duỗi tứ chi, chỉ có việc co tứ chi vào và duỗi tứ chi do nhờ vào sự khuếch tán của Phong đại sanh lên từ tâm duy tác theo cách thức đã được nói. Giống như sự chuyển động tay và chân của con robot do tác động của sợi dây cót. Sự biết toàn diện như vậy nên biết rằng đây là “vô hỗn loạn tỉnh giác” trong việc co tứ chi vào hoặc duỗi tứ chi.
Saṅghāṭipattacīvaradhāraṇeti ettha saṅghāṭicīvarānaṃ nivāsanapārupanavasena pattassa bhikkhāpaṭiggahaṇādivasena[110] paribhogo dhāraṇaṃ nāma. Tattha saṅghāṭicīvaradhāraṇe tāva nivāsetvā vā pārupitvā vā piṇḍāya carato āmisalābho sītassa paṭighātāyātiādinā nayena bhagavatā vuttappakāroyeva ca attho attho nāma. tassa vasena sātthakasampajaññaṃ veditabbaṃ.
Với việc mang y hai lớp và y phục, và với việc thọ nhận vật thực khất thực bằng bình bát v.v, gọi là ‘mang, mặc’ trong cụm từ ‘trong việc mang y hai lớp, bình bát, y phục’ này. Việc mang y hai lớp và y phục ấy được lý giải trong việc mang y hai lớp và y phục trước, việc vị tỳ khưu mặc (y nội) hoặc đắp y (hai lớp) đi khất thực (nhận được y phục), tức là nhận được vật chất, lợi ích được đức Thế Tôn nói theo cách thức v.v, sau – “để ngăn ngừa gió lạnh” chính vì điều này gọi là điều lợi ích. Nên biết việc nhận biết rõ điều lợi ích do tác động của lợi ích đó.
Uṇhapakatikassa pana dubbalassa ca cīvaraṃ sukhumaṃ sappāyaṃ, sītālukassa ghanaṃ dupaṭṭaṃ. viparītaṃ asappāyaṃ. yassa kassaci jiṇṇaṃ asappāyameva, aggaḷādidānena hissa taṃ palibodhakaraṃ hoti. Tathā paṭṭuṇṇadukūlādibhedaṃ[111] lobhanīyacīvaraṃ. Tādisañhi araññe ekakassa nivāsantarāyakaraṃ jīvitantarāyakarañcāpi hoti. Nippariyāyena pana yaṃ nimittakammādimicchājīvavasena uppannaṃ, yañcassa sevamānassa akusalā dhammā abhivaḍḍhanti, kusalā dhammā parihāyanti, taṃ asappāyaṃ. viparītaṃ sappāyaṃ. Tassa vasenettha sappāyasampajaññaṃ. Kammaṭṭhānāvijahanavaseneva gocarasampajaññaṃ veditabbaṃ.
Còn y phục chất vải mỏng là (loại vải) phù hợp với vị tỳ khưu hay nóng và có sức khỏe yếu, nhưng y phục chất vải dày sáu lớp là phù hợp với vị tỳ khưu hay lạnh, y phục trái ngược (với những điều đã nói) là không phù hợp. Một tấm y cũ kỹ chẳng thích hợp cho bất kỳ vị tỳ khưu nào; vì nó là nguyên nhân gây trở ngại cho vị ấy trong việc phải may vá lại v.v. Y phục được làm nguyên mảnh [chưa cắt thành từng khối (khandha)] và vải lụa tốt v.v, gây ra sự dính mắc, cũng vì vậy mà y phục loại này cũng gây ra tai hoạ hoặc ảnh hưởng đến tánh mạng đối với những hành giả sống độc cư trong rừng. Hơn nữa theo cách không vòng vo, bất kỳ y phục nào phát sanh do năng lực của tà mạng như việc ra dấu, gợi ý v.v, và y phục nào mà vị ấy sử dụng khiến pháp bất thiện tăng trưởng, thiện pháp suy giảm thì y phục đó là hoàn toàn không thích hợp. Những y phục có được trái ngược lại với điều đã nói là thích hợp. Trong trường hợp này, bậc trí nên hiểu rằng “việc nhận thức rõ điếu thích hợp” về phương diện y phục đó và “việc nhận biết rõ về hành xứ” về phương diện không từ bỏ đề mục thiền.
Abbhantare attā nāma koci cīvaraṃ pārupento natthi, vuttappakārena cittakiriyavāyodhātuvipphāreneva pana cīvarapārupanaṃ hoti. Tattha cīvarampi acetanaṃ, kāyopi acetano. Cīvaraṃ na jānāti — “mayā kāyo pārupito”ti. Kāyopi na jānāti — “Ahaṃ cīvarena pārupito”ti. Dhātuyova dhātusamūhaṃ paṭicchādenti paṭapilotikāyapotthakarūpapaṭicchādane viya. Tasmā neva sundaraṃ cīvaraṃ labhitvā somanassaṃ kātabbaṃ, na asundaraṃ labhitvā domanassaṃ.
Không có ai gọi là bản ngã ở bên trong việc mặc y phục. Chỉ có việc mặc y phục do nhờ sự khuếch tán của Phong đại sanh lên từ tâm duy tác theo cách đã được trình bày. Ở đây, cả tấm y không có tâm tư, và cả thân cũng không tâm tư. Tấm y không biết rằng: “Tôi (tấm y) được mặc vào thân.” Luôn cả thân cũng không biết được: “Tấm y được khoác lên tôi.” Chỉ có các Đại hay nguyên tố-dhātu được bao phủ bằng tập hợp các Đại; Tựa như một tấm vải cũ quấn lấy bức tượng. Do đó, vị tỳ khưu có được một tấm y tốt cũng không nên hoan hỷ, có được tấm y xấu cũng không nên buồn lòng.
Nāga-vammika-cetiya-rukkhādīsu hi keci mālāgandhadhūmavatthādīhi[112] sakkāraṃ karonti, keci gūthamuttakaddamadaṇḍasatthappahārādīhi asakkāraṃ, na te nāgavammikarukkhādayo somanassaṃ vā domanassaṃ vā karonti; evameva neva sundaraṃ cīvaraṃ labhitvā somanassaṃ kātabbaṃ, na asundaraṃ labhitvā domanassanti evaṃ pavattapaṭisaṅkhānavasena panettha asammohasampajaññaṃ veditabbaṃ.
Bởi vì, một vài nhóm người thực hiện lễ bái đối với loài rồng, gò mối, miếu thờ và cây cối v.v., bằng các lễ vậy như hoa quả, hương thơm, vải vóc v.v. Nhưng một số khác lại thiếu sự tôn trọng như đại tiện, tiểu tiện, lấy bùn đất, dùng gậy gộc, vũ khí để phá hoại v.v., loài rồng, gò mối, cây cối v.v… cũng không khiến chúng vui vẻ hay buồn rầu với sự tôn trọng hay thiếu tôn trọng như thế nào; vị tỳ khưu cũng tương tự như thế đó, không nên bày tỏ sự vui mừng khi nhận được y phục tốt, mà cũng không nên buồn rầu khi nhận được y phục xấu. Bậc trí nên hiểu rằng “vô hỗn loạn tỉnh giác” trong việc sử dụng y hai lớp, bình bát và y phục về phương diện suy xét được diễn tiến như vậy.
Pattadhāraṇepi pattaṃ sahasāva aggahetvā imaṃ gahetvā piṇḍāya caramāno bhikkhaṃ labhissāmīti, evaṃ pattaggahaṇapaccayā paṭilabhitabbaṃ atthavasena sātthakasampajaññaṃ veditabbaṃ.
Ngay cả việc ôm bình bát, không vội vàng lấy bình bát, mà chỉ lấy bình bát bằng cách quán xét (với đề mục thiền định) ta sẽ nhận được vật thực trong khi bước đi khất thực. Nên biết rằng “việc nhận biết rõ về điều lợi ích” về phương diện điều lợi ích có thể đạt được do duyên cầm lấy bình bát như vậy.
Kisadubbalasarīrassa pana garupatto asappāyo, yassa kassaci catupañcagaṇṭhikāhato dubbisodhanīyo asappāyova. Duddhotapattopi na vaṭṭati, taṃ dhovantasseva cassa palibodho hoti. Maṇivaṇṇapatto pana lobhanīyo, cīvare vuttanayeneva asappāyo, nimittakammādivasena laddho pana yañcassa sevamānassa akusalā dhammā abhivaḍḍhanti, kusalā dhammā parihāyanti, ayaṃ ekantāsappāyova. viparīto sappāyo. Tassa vasenettha sappāyasampajaññaṃ. kammaṭṭhānāvijahanavaseneva ca gocarasampajaññaṃ veditabbaṃ.
Bình bát nặng nề là không thích hợp đối với vị tỳ khưu gầy yếu, có sức khỏe yếu; và bình bát được hàn bằng 4-5 miếng sắt lại với nhau, mài giũa không hoàn thiện, không thích hợp cho bất cứ ai cả. Luôn cả bình bát khó rửa cũng không thích hợp (vì) khi rửa sẽ gặp trở ngại. Còn bình bát nhận được có màu sắc như màu ngọc bích là chỗ vững trú của tham cũng không thích hợp không thích hợp theo phương thức được nói theo phương cách được nói trong chính phần y phục. Hơn nữa, bình bát có được nhờ hành động ra dấu, gợi ý v.v, không thích hợp và bình bát khi vị tỳ khưu sử dụng làm cho các bất thiện tăng trưởng, các thiện pháp suy giảm, bình bát này là hoàn toàn không thích hợp. Bình bát có được trái ngược lại với điều đã nói là thích hợp. Trong trường hợp này, bậc trí nên hiểu rằng “việc nhận thức rõ điếu thích hợp” về phương diện bình bát đó và “việc nhận biết rõ về hành xứ” về phương diện không từ bỏ đề mục thiền.
Abbhantare attā nāma koci pattaṃ gaṇhanto natthi, vuttappakārena cittakiriyavāyodhātuvipphāravaseneva pattaggahaṇaṃ nāma hoti. Tattha pattopi acetano, hatthāpi acetanā. Patto na jānāti — “ahaṃ hatthehi gahito”ti. hatthāpi na jānanti — “amhehi patto gahito”ti. Dhātuyova dhātusamūhaṃ gaṇhanti, saṇḍāsena aggivaṇṇapattaggahaṇe viyāti. evaṃ pavattapaṭisaṅkhānavasenettha asammohasampajaññaṃ veditabbaṃ.
Không có ai gọi là bản ngã ở bên trong việc cầm lấy bình bát. Chỉ có việc cầm lấy bình bát do nhờ sự khuếch tán của Phong giới sanh lên từ tâm duy tác theo cách thức đã được nói. Ở đây, cả tấm y không có tâm tư, và luôn cả bàn tay cũng không tâm tư, bình bát không biết rằng: “Tôi (bình bát) được ôm lấy bằng bàn tay.” Và bàn tay cũng không biết được: “Bình bát được ôm bởi tôi.” Chỉ có các Đại hay nguyên tố-dhātu được ôm bằng tập hợp các Đại; giống như lấy dụng cụ gắp thức ăn để gắp bình bát ở lò lửa. Do đó, nên biết rằng “vô hỗn loạn tỉnh giác” này về phương diện suy xét điều đang diễn ra như vậy.
Api ca yathā chinnahatthapāde vaṇamukhehi paggharitapubbalohitakimikule nīlamakkhikasamparikiṇṇe anāthasālāyaṃ nipanne[113] anāthamanusse disvā, ye dayālukā purisā, te tesaṃ vaṇamattacoḷakāni[114] ceva kapālādīhi ca bhesajjāni upanāmenti. tattha coḷakānipi kesañci saṇhāni, kesañci thūlāni pāpuṇanti. bhesajjakapālakānipi kesañci susaṇṭhānāni, kesañci dussaṇṭhānāni pāpuṇanti, na te tattha sumanā vā dummanā vā honti . vaṇapaṭicchādanamatteneva hi coḷakena, bhesajjapaṭiggahaṇamatteneva ca kapālakena tesaṃ attho. evameva yo bhikkhu vaṇacoḷakaṃ viya cīvaraṃ, bhesajjakapālakaṃ viya ca pattaṃ, kapāle bhesajjamiva ca patte laddhaṃ bhikkhaṃ sallakkheti, ayaṃ saṅghāṭipattacīvaradhāraṇe asammohasampajaññena uttamasampajānakārīti veditabbo.
Lại nữa, cũng giống như sau khi nhìn thấy những người lâm vào hoàn cảnh khó khăn, nằm ngủ ở những ngôi nhà dành cho những người không có nơi nương tựa, cụt tay, cụt chân, máu mủ rỉ ra từ miệng vết thương, đầy những con ruồi đầu xanh bu quanh, một người có đầy lòng thương cảm tìm kiếm vải băng vết thương và thuốc men, cùng với những lọ đựng thuốc mang đến hỗ trợ họ. Trong số những thứ đó, một số người nhận được loại vải có chất liệu tốt mềm mại, nhưng số còn lại lại nhận các loại vải xấu thô cứng. Một số người nhận được lọ đựng thuốc có kiểu dáng đẹp, số còn lại lại nhận được những lọ đựng thuốc có kiểu dáng xấu. Tuy nhiên, chẳng có ai tỏ ra sung sướng hay buồn rầu về những điều đó cả, bởi vì họ chỉ cần vải băng vết thương để băng bó vết thương, và lọ đựng thuốc chỉ dùng để nhận thuốc mà thôi. Vị tỳ khưu nào quán tưởng y phục giống như vải băng vết thương, bình bát giống như lọ đựng thuốc, thức ăn có được trong bình bát tựa như thuốc men trong lọ thuốc. Bậc trí nên biết rằng: đây là vị đang thực hành việc nhận biết rõ cao thượng nhờ “vô hỗn loạn tỉnh giác” trong việc mang y hai lớp, mang bình bát và mặc y phục.
Asitādīsu asiteti piṇḍapātabhojane. Pīteti yāguādipāne. Khāyiteti piṭṭhakhajjādikhādane. sāyiteti madhuphāṇitādisāyane. Tattha neva davāyātiādinā nayena vutto aṭṭhavidhopi attho attho nāma. Tasseva vasena sātthakasampajaññaṃ veditabbaṃ. Lūkhapaṇītatittamadhurarasādīsu pana yena bhojanena yassa phāsu na hoti, taṃ tassa asappāyaṃ. Yaṃ pana nimittakammādivasena paṭiladdhaṃ, yañcassa bhuñjato akusalā dhammā abhivaḍḍhanti, kusalā dhammā parihāyanti, taṃ ekantāsappāyameva, viparītaṃ sappāyaṃ. Tassa vasenettha sappāyasampajaññaṃ. Kammaṭṭhānāvijahanavaseneva ca gocarasampajaññaṃ veditabbaṃ.
Khi ăn v.v, khi ăn: trong việc thọ dụng vật thực khất thực; khi uống: trong việc uống nước cháo v.v., khi nhai: trong việc nhai và ăn các loại thức ăn được chế biến từ bột v.v., khi nếm: trong việc nếm mật ong và nước mía v.v. Trong việc thọ thực đó, tám điều lợi ích đã được Thế Tôn nói theo phương thức sau: “neva davāyā = không phải để vui đùa” gọi là lợi ích. Nên biết rằng “việc nhận biết rõ điều lợi ích” về phương diện lợi ích đối với vị tỳ khưu ấy. Hơn nữa, loại vật thực nào có được do hành động ra dấu và loại vật thực nào làm cho các bất thiện pháp tăng trưởng, các thiện pháp suy giảm, thì vật thức đó là hoàn toàn không thích hợp. Những vật thực có được trái ngược lại với điều đã nói là thích hợp. Trong việc thọ dụng v.v, này nên biết “việc nhận biết rõ điều thích hợp” về phương diện thích hợp, và “việc nhận biết rõ hành xứ” về phương diện không từ bỏ đề mục thiền.
Abbhantare attā nāma koci bhuñjako natthi, vuttappakāracittakiriyavāyodhātuvipphāreneva pattappaṭiggahaṇaṃ nāma hoti. Cittakiriyavāyodhātuvipphāreneva hatthassa patte otāraṇaṃ nāma hoti. Cittakiriyavāyodhātuvipphāreneva ālopakaraṇaṃ ālopauddhāraṇaṃ mukhavivaraṇañca hoti, na koci kuñcikāya yantakena vā hanukaṭṭhīni vivarati. Cittakiriyavāyodhātuvipphāreneva ālopassa mukhe ṭhapanaṃ, uparidantānaṃ musalakiccasādhanaṃ, heṭṭhimadantānaṃ udukkhalakiccasādhanaṃ, jivhāya hatthakiccasādhanañca hoti. Iti tattha aggajivhāya tanukakheḷo mūlajivhāya bahalakheḷo makkheti. Taṃ heṭṭhādantaudukkhale jivhāhatthaparivattakaṃ kheḷodakena temitaṃ uparidantamusalasañcuṇṇitaṃ koci kaṭacchunā vā dabbiyā vā antopavesento nāma natthi, vāyodhātuyāva pavisati. Paviṭṭhaṃ paviṭṭhaṃ koci palālasanthāraṃ katvā dhārento nāma natthi, vāyodhātuvaseneva tiṭṭhati. Thitaṃ ṭhitaṃ koci uddhanaṃ katvā aggiṃ jāletvā pacanto nāma natthi, tejodhātuyāva paccati[115]. Pakkaṃ pakkaṃ[116] koci daṇḍakena vā yaṭṭhiyā vā bahi nīhārako nāma natthi, vāyodhātuyeva nīharati. Iti vāyodhātu paṭiharati ca, vītiharati ca, dhāreti ca, parivatteti ca, sañcuṇṇeti ca, visoseti ca, nīharati ca. Pathavīdhātu dhāreti ca, parivatteti ca, sañcuṇṇeti ca, visoseti ca. āpodhātu sineheti ca, allattañca anupāleti. tejodhātu antopaviṭṭhaṃ paripāceti. Ākāsadhātu añjaso hoti. Viññāṇadhātu tattha tattha sammāpayogamanvāya ābhujatīti. evaṃ pavattapaṭisaṅkhānavasenettha asammohasampajaññaṃ veditabbaṃ.
Không có ai là bản ngã ở bên trong là người thọ thực, chỉ có việc cầm lấy bình bát nhờ sự khuếch tán của Phong đại sanh lên từ tâm duy tác theo cách thức đã được nói. Việc hạ tay thấp xuống bình bát cũng nhờ vào sự khuếch tán Phong đại khởi lên từ tâm duy tác mà thôi, việc làm thành một vắt cơm, việc đưa vắt cơm lên miệng và mở miệng ra để đưa vắt cơm vào miệng cũng chỉ do sự khuếch tán phong đại khởi lên từ tâm duy tác. Chẳng ai có thể mở xương hàm bằng chìa khóa và bất kỳ dùng cụ nào cả, chỉ có việc để vắt cơm vào miệng. Răng hàm trên làm nhiệm vụ thay cho cái chày, răng hàm dưới làm nhiệm vụ thay cho cái cối và cái lưỡi có nhiệm vụ thay cho bàn tay, cũng chỉ nhờ vào sự khuếch tán của Phong đại sanh lên từ tâm duy tác. Như vậy, hàm lượng nhỏ nước bọt ở đầu lưỡi và hàm lượng nước bọt đặc hơn ở cuối lưỡi sẽ hoà vào vắt cơm. Vắt cơm ấy được vo tròn bằng tay, là lưỡi; trong cối giã, là hàm răng dưới; được làm ướt bằng nước bọt và giã nhuyễn bằng cái chày, là hàm răng trên; Không có ai gọi là lấy muỗng hoặc vá đặt vào trong miệng cả. (Vắt cơm) được đặt vào trong miệng do nhờ vào Phong đại. Khi vắt cơm đã vào bên trong cổ họng từ từ xuống (bào tử) chẳng có ai dùng gì để giữ lại (như) trải tấm thảm rơm để tiếp nhận. Vật thực được đưa vào bên trong nhờ vào mãnh lực của Phong đại. Sau khi vật thực được đưa vào bên trong, cũng không có ai đốt lò để nấu chín (vật thực), vật thực được nấu chín nhờ vào Hỏa đại, (vật thực) sau khi đã nấu nhừ, cũng không có ai lấy que hay gậy để đẩy nó ra ngoài, cũng chỉ do Phong đại, mà chính nhờ Phong đại đẩy nó ra ngoài. Chính vì thế Phong đại đưa (vắt cơm) vào, đưa (vắt cơm) ra, giữ (vắt cơm) lại, xoay tròn (vắt cơm) tới lui, nghiền nát (vắt cơm), làm cho khố và đẩy (vật thực cũ) ra ngoài. Địa đại giữ lại (vắt cơm), xoay tròn tới lui, và nghiền nát (vắt cơm). Thuỷ đại khiến (vật thưc) được kết dính, và giữ cho tươi. Hoả đại tiêu hóa thức ăn đi vào bên trong. Hư không giới (ākāsadhātu) là tách vật thực thành từng phần. Thức giới (viññāṇadhātu) biết rõ dựa trên sự kết hợp đúng đắn trong nguyên tố đó. Nên biết rằng “vô hỗn loạn tỉnh giác” trong việc thọ dụng vật thực này về phương diện suy xét được vận hành như vậy.
Api ca gamanato pariyesanato paribhogato āsayato nidhānato aparipakkato paripakkato phalato nissandato sammakkhanatoti, evaṃ dasavidhapaṭikūlabhāvapaccavekkhaṇato pettha asammohasampajaññaṃ veditabbaṃ. vitthārakathā panettha visuddhimagge āhārapaṭikūlasaññāniddesato gahetabbā.
Lại nữa, hành giả nên biết ‘vô hỗn loạn tỉnh giác (việc nhận biết rõ các đối tượng thực tính pháp trong pháp minh sát)’ trong việc thọ dụng vật thực này bằng việc quán xét 10 tính chất nhờm gớm là (1) việc đi đến nơi có vật thực [gamanato]; (2) việc tìm kiếm vật thực [pariyesanato]; (3) do thọ dụng vật thực [paribhogato]; (4) do chỗ vật thực nương nhờ [āsayato]; (5) do bao tử chứa đựng vật thực [nidhānato]; (6) do vật thực chưa tiêu hóa [aparipakkato]; (7) do vật thực đã tiêu hóa rồi [paripakkato]; (8) do hiệu quả của vật thực trong cơ thể [phalato]; (9) do hấp thụ và đào thải cặn bã ra khỏi cơ thể [nissandato]; (10) do dính bẩn [sammakkhanato]. Còn sự giải thích chi tiết trong vấn đề này có thể tham khảo trong phần giảng giải về tính chất ghê tởm của vật thực [āhārapaṭikūlasaññāniddesa] trong bộ Visuddhimaga.
Uccārapassāvakammeti uccārassa ca passāvassa ca karaṇe. Tattha pattakāle uccārapassāvaṃ akarontassa sakalasarīrato sedā muccanti, akkhīni bhamanti, cittaṃ na ekaggaṃ hoti, aññe ca rogā uppajjanti. Karontassa pana sabbaṃ taṃ na hotīti ayamettha attho. Tassa vasena sātthakasampajaññaṃ veditabbaṃ.
Trong việc đại tiện tiểu tiện: trong hành động đại tiện và tiểu tiện. Việc đào thải phân và nước tiểu do đến giờ (buộc phải đi), nếu phân và nước không được đào thải ra ngoài thì toàn thân sẽ toát mồ hôi, tròng mắt sẽ nhoè đi, hoa mắt, tâm không đạt được định tĩnh, và những tật bệnh khác cũng có thể sẽ phát sanh, nhưng khi được đào thải thì sẽ không có chuyện gì xảy ra, đây là ý nghĩa giải thích trong việc đại tiện và tiểu tiện. Nên hiểu rằng “việc nhận biết rõ điều lợi ích” về phương diện ý nghĩa đó.
Aṭṭhāne uccārapassāvaṃ karontassa pana āpatti hoti, ayaso vaḍḍhati, jīvitantarāyo hoti, patirūpe ṭhāne karontassa sabbaṃ taṃ na hotīti idamettha sappāyaṃ tassa vasena sappāyasampajaññaṃ. kammaṭṭhānāvijahanavaseneva ca gocarasampajaññaṃ veditabbaṃ.
Hơn nữa, vị tỳ khưu đi đại tiện và tiểu tiện ở nơi không thích hợp (vị ấy) sẽ phạm āpatti, mất danh tiếng, nguy hiểm đến tánh mạng. Nhưng khi đi đại tiện và tiểu tiện ở đúng nơi quy định thì tất cả điều đó sẽ không có (không vi phạm āpatti v.v.,). Vì thế, đi đại tiện và tiểu tiện đúng nơi quy định gọi là điều thích hợp, “việc nhận biết điều lợi ích” nên biết về phương diện lợi ích ấy. Còn “việc nhận biết rõ hành xứ” nên biết về phương diện không từ bỏ đề mục thiền.
Abbhantare attā nāma uccārapassāvakammaṃ karonto natthi, cittakiriyavāyodhātuvipphāreneva pana uccārapassāvakammaṃ hoti . yathā vā pana pakke gaṇḍe gaṇḍabhedena pubbalohitaṃ akāmatāya nikkhamati. yathā ca atibharitā udakabhājanā udakaṃ akāmatāya nikkhamati. Evaṃ pakkāsayamuttavatthīsu sannicitā uccārapassāvā vāyuvegasamuppīḷitā akāmatāyapi nikkhamanti. So panāyaṃ evaṃ nikkhamanto uccārapassāvo neva tassa bhikkhuno attano hoti, na parassa, kevalaṃ sarīranissandova hoti. Yathā kiṃ? Yathā udakatumbato purāṇudakaṃ chaḍḍentassa neva taṃ attano hoti, na paresaṃ; Kevalaṃ paṭijagganamattameva hoti; evaṃ pavattapaṭisaṅkhānavasenettha asammohasampajaññaṃ veditabbaṃ.
Không có ai gọi là bản ngã ở bên trong việc đi đại tiện và tiểu tiện. Chỉ có việc đại tiện và tiểu tiện do nhờ sự khuếch tán của Phong đại sanh lên từ tâm duy tác mà thôi. Giống như một ung nhọt đã già, mủ và máu tự chảy ra dù không mong cầu (chảy ra) vì ung nhọt bị vỡ; và cũng giống như nước tự tràn ra khỏi bình đựng được chứa đầy nước, dù không mong cầu (tràn ra) như thế nào; Cũng tương tự như thế, việc bài tiết phân và nước tiểu chứa trong ruột già và bàng quang do bị lực đẩy của chất gió ép mạnh, nó tự đẩy ra ngoài, dù chẳng ai muốn xuất ra. Phân và nước tiểu này đây khi được thải ra ngoài như vậy thì phân và nước tiểu đó không phải của tự ngã của vị tỳ khưu ấy, mà cũng không phải của người nào khác, mà chỉ là các chất cặn bã được cơ thể bài tiết mà thôi. Giống điều gì? Giống như một người khi đổ nước bẩn từ chum nước (ra ngoài), nước cũ ấy không phải của tự ngã, cũng không phải của người khác. Chỉ đơn giản là rửa chum mà thôi; Nên biết rằng “vô hỗn loạn tỉnh giác” trong việc đại tiện và tiểu tiện này về phương diện quán xét được diễn ra như vậy.
Gatādīsu gateti gamane. Ṭhiteti ṭhāne. Nisinneti nisajjāya. Sutteti sayane. Jāgariteti jāgaraṇe. Bhāsiteti kathane. Tuṇhībhāveti akathane. “Gacchanto vā gacchāmīti pajānāti, ṭhito vā ṭhitomhīti pajānāti, nisinno vā nisinnomhīti pajānāti, sayāno vā sayānomhīti pajānātī”ti imasmiñhi sutte addhānairiyāpathā kathitā. “Abhikkante paṭikkante ālokite vilokite samiñjite pasārite”ti imasmiṃ majjhimā. “Gate ṭhite nisinne sutte jāgarite”ti idha pana khuddakacuṇṇiyairiyāpathā kathitā. Tasmā tesupi vuttanayeneva sampajānakāritā veditabbā.
Nên biết lý giải việc đi v.v., như sau: – Từ khi đi: trong khi đi tới; khi đứng: trong khi đứng; khi ngồi: trong khi ngồi; khi nằm: trong khi nằm; khi thức: trong khi thức giấc;khi nói: trong khi nói; khi im lặng: trong khi im lặng. Trong bài kinh này “vị tỳ khưu trong khi đi (vị ấy) tuệ tri ‘tôi đi’; trong khi đứng (vị ấy) tuệ tri ‘tôi đứng’; trong khi ngồi (vị ấy) tuệ tri ‘tôi ngồi’; trong khi nằm (vị ấy) tuệ tri ‘tôi nằm’” (ngài) nói đến oai nghi dài oai dài lâu (hay đại oai nghi, vì được thực hiện trong thời gian dài lâu). “Khi bước tới, khi bước lui, khi nhìn trước, khi nhìn trái nhìn phải, khi co tứ chi vào, và duỗi tứ chi ra” (ngài) nói đến các oai nghi trung bình. Nhưng trong phần này chỉ nói đến tiểu oai nghi: “trong khi đi, trong khi đứng, trong khi ngồi, trong khi nằm, trong khi thức giấc.” Do đó, nên biết rằng – hành giả luôn thực hành trong việc nhận biết rõ với phương thức đã được nói đó.
Tipiṭakamahāsivatthero panāha — yo ciraṃ gantvā vā caṅkamitvā vā aparabhāge ṭhito iti paṭisañcikkhati — “Caṅkamanakāle pavattā rūpārūpadhammā ettheva niruddhā”ti. Ayaṃ gate sampajānakārī nāma.
Lại nữa, ngài trưởng lão Mahāsiva, bậc thống suốt Tam tạng đã nói rằng – Vị nào sau khi đi, hoặc sau khi kinh hành trong thời gian dài, khi đã đứng, quán chiếu như vầy: “sắc pháp và Vô sắc pháp được vận hành trong lúc đi kinh hành, đã diệt đi ngay trong lúc đó (trong lúc đứng lại)”. Vị tỳ khưu này được gọi là sự thực hành việc nhận thức rõ khi đi.
Yo sajjhāyaṃ vā karonto, pañhaṃ vā vissajjento, kammaṭṭhānaṃ vā manasikaronto ciraṃ ṭhatvā aparabhāge nisinno iti paṭisañcikkhati — “Ṭhitakāle pavattā rūpārūpadhammā ettheva niruddhā”ti. ayaṃ ṭhite sampajānakārī nāma.
Vị nào trong khi thực hiện việc trì tụng, trong khi giải quyết vấn đề hoặc trong khi tác ý đến đề mục thiền, khi đã đứng quá lâu, kế đó, đã ngồi xuống quán chiếu như vầy – “Sắc pháp và Vô sắc pháp được vận hành trong lúc đứng, đã diệt ngay chính trong lúc đó”. Vị tỳ khưu này được gọi là sự thực hành việc nhận thức rõ khi đứng.
Yo sajjhāyādikaraṇavaseneva ciraṃ nisīditvā aparabhāge uṭṭhāya iti paṭisañcikkhati — “Nisinnakāle pavattā rūpārūpadhammā ettheva niruddhā”ti. Ayaṃ nisinne sampajānakārī nāma.
Vị nào khi đã ngồi lâu để thực hiện việc trì tụng v.v., sau đó, đã nằm, quán chiếu như vầy như vầy: “Sắc pháp và Vô sắc pháp được vận hành trong lúc ngồi, đã diệt ngay trong lúc đó”. Vị tỳ khưu này được gọi là sự thực hành việc nhận thức rõ khi ngồi.
Yo pana nipannako sajjhāyaṃ vā karonto kammaṭṭhānaṃ vā manasikaronto niddaṃ okkamitvā aparabhāge uṭṭhāya iti paṭisañcikkhati — “Sayanakāle pavattā rūpārūpadhammā ettheva niruddhā”ti. Ayaṃ sutte jāgarite ca sampajānakārī nāma. Kiriyamayacittānañhi appavattanaṃ soppaṃ nāma, pavattanaṃ jāgaritaṃ nāma.
Thêm nữa, vị nào khi đang nằm thực hiện việc trì tụng hoặc trong khi tác ý đến đề mục thiền, sau đó đi vào (trạng thái) ngủ, khi đứng dậy quán chiếu như vầy: “Sắc pháp và Vô sắc pháp được vận hành trong lúc nằm, đã diệt ngay trong lúc đó”. Vị tỳ khưu này được gọi là sự thực hành việc nhận thức rõ khi nằm, và cả khi tỉnh giấc. Bởi vì tâm ngưng lại mọi hành động (kiriyamayacittā) không vận hành (không tạo thành lộ trình tâm) được gọi là ngủ, và cả khi tỉnh thức. Do đó, vị ấy được gọi là thực hiện việc nhận thức rõ [sự biết mình] trong lúc ngủ và cả trong lúc thức giấc.
Yo pana bhāsamāno — “Ayaṃ saddo nāma oṭṭhe ca paṭicca, dante ca jivhañca tāluñca paṭicca, cittassa ca tadanurūpaṃ payogaṃ paṭicca jāyatī”ti sato sampajānova bhāsati. Ciraṃ vā pana kālaṃ sajjhāyaṃ vā katvā, dhammaṃ vā kathetvā, kammaṭṭhānaṃ vā pavattetvā, pañhaṃ vā vissajjetvā, aparabhāge tuṇhībhūto iti paṭisañcikkhati — “Bhāsitakāle uppannā rūpārūpadhammā ettheva niruddhā”ti. Ayaṃ bhāsite sampajānakārī nāma.
Còn vị nào trong khi đang nói có niệm, có sự nhận biết rõ rằng: “Âm thành này xuất phát do nương vào bờ môi, do dựa vào răng, vào lưỡi, và dựa vào vòm miệng, và do sự cố gắng phù hợp đối với vấn đề đó của tâm”. Lại nữa, vị nào đã thực hiện trì tụng, hoặc đã thuyết pháp, hoặc đã tiến hành (thực hiện) đề mục tham thiền, hoặc giải đáp câu hỏi trong thời gian dài, sau đó (vị ấy) đã giữ im lặng (rồi) quán chiếu như vầy: “Sắc pháp và Vô sắc pháp được vận hành trong khi nói, đã diệt ngay trong lúc đó”. Vị đó được gọi là thực hiện việc nhận biết rõ trong khi nói.
Yo tuṇhībhūto ciraṃ dhammaṃ vā kammaṭṭhānaṃ vā manasikatvā aparabhāge iti paṭisañcikkhati — “tuṇhībhūtakāle pavattā rūpārūpadhammā ettheva niruddhā”ti. upādārūpappavattiyañhi sati bhāsati nāma, asati tuṇhī bhavati nāmāti. Ayaṃ tuṇhībhāve sampajānakārī nāmāti.
Vị nào khi tĩnh lặng, đã tác ý pháp hoặc đề mục thiền định, sau đó quán chiếu thấy rằng: “Sắc pháp và Vô sắc pháp được vận hành trong khi giữ im lặng, đã diệt ngay trong lúc đó”. Bởi vì khi Sắc y sinh-upādārūpa khởi lên gọi là nói, khi không sanh gọi là an tịnh (do tâm vắng lặng)”. Vị đó được gọi là thực hiện việc nhận biết rõ trong sự tĩnh lặng.
Tayidaṃ mahāsivattherena vuttaṃ asammohadhuraṃ mahāsatipaṭṭhānasutte adhippetaṃ. Imasmiṃ pana sāmaññaphale sabbampi catubbidhaṃ sampajaññaṃ labbhati. Tasmā vuttanayeneva cettha catunnaṃ sampajaññānaṃ vasena sampajānakāritā veditabbā. Sampajānakārīti ca sabbapadesu satisampayuttasseva sampajaññassa vasena attho veditabbo.
Vấn đề này đây đã được nói bởi đại trưởng lão Mahāsiva, phận sự vô hỗn loạn tỉnh giác ngài mong muốn điều đó trong bài Đại Kinh Thiết Lập Niệm. Lại nữa, trong bài Kinh Sa Môn Quả có được cả 4 sự nhận biết rõ, thậm chí toàn bộ.Do đó, nên biết người thực hành việc nhận thức rõ do mãnh lực của bốn sự tỉnh giác ở trong trường hợp theo chính cách thức đã được nói. Và trong các từ “sự thực hành việc nhận biết rõ” nên biết ý nghĩa do mãnh lực của sự tỉnh giác hoàn toàn phối hợp với niệm. trong tất cả mọi câu.
Satisampajaññena samannāgatoti etassa hi padassa ayaṃ vitthāro. Vibhaṅgappakaraṇe pana — “Sato sampajāno abhikkamati, sato sampajāno paṭikkamatī”ti evaṃ etāni padāni vibhattāneva. Evaṃ, kho mahārājāti evaṃ satisampayuttassa sampajaññassa vasena abhikkamādīni pavattento satisampajaññena samannāgato nāma hotīti attho.
Bởi vì “được thành tựu niệm và sự nhận biết rõ” của câu này có ý nghĩa chi tiết chỉ chừng ấy. Thêm nữa trong bộ Phân Tích, đức Thế Tôn cũng đã phân tích câu này như vầy: “Hành giả có niệm, có sự tỉnh giác (vị ấy) bước tới; có niệm, có sự tỉnh giác (vị ấy) bước lui”. Này đại vương…như vậy: vị tỳ khưu khi bước tới v.v, đã vận hành với sự tỉnh giác tương ưng với niệm như vậy, được gọi là vị được thành tựu niệm và sự nhận biết rõ.
[1] Ettha sammodanīyaṃ (Sī, Ka)
[2] Pīḷentassa tajjentassa vā (Syā, Ka)
[3] Bhaṇḍaharaṇādīhi sokaṃ (Sī, Syā)
[4] Kilamayato (Syā)
[5] Paccayo hetuvevacanameva (Syā), paccayo het|tivevacana meva (Ka)
[6] Dutiyavādena (Sī)
[7] Niyattā (Sā)
[8] Garukammantā (Syā)
[9] a. ni. 6.57
[10] a. ni. 6.57
[11] a. ni. 6.57
[12] Từ này và thêm hai từ nữa đều có ‘ekūnapaññāsa’ nghĩa là bốn mươi chín lần một trăm (tức bốn ngàn chín trăm) tuy nhiên ngài chỉ mang ra giải thích một từ mà thôi.
[13] Sapuṭāti (Ka)
[14] Mahākappānaṃ cullāsāti satasahassāni (Ka)
[15] Bālo ca paṇḍito ca (Syā, Ka)
[16] Hi evaṃ natthi (Ka)
[17] Pahenakasakkāro (Sī), paheṇakasakkāro (Ka)
[18] Sukaṭadukkaṭānanti (Sī)
[19] Sukatadukkatānaṃ (Sī)
[20] Ubhayaṃ paṭibāhakā (Ka)
[21] Tassa bhavassa (Syā)
[22] Vaṭṭakhāṇuko (Syā, Ka)
[23] Animmātabbāti (SÊ)
[24] Na vipariṇāmentīti (Ka)
[25] Sabbavāriphuṭṭhoti (Sī, Syā)
[26] Olokayamāno (Syā, Ka)
[27] “Vatassāyan”tipi (bahūsu) Sī-Ṭī Abhinava 2. 54; Dī-Ṭī 1. 230 piṭṭhepi oloketabbā.
[28] Khu 7. 21 piṭṭhe.
[29] Ahaṃ pavedāmīti cīvarādīhi (Syā), ahaṃ sādhessāmīti cīvarādīhi (Ka)
[30] Pati gahapati (Ka)
[31] Abhikkantataraṃ atimanāpataranti (Sī, Ka)
[32] saṃ. ni. 4.95
[33] ma. ni. 3.86
[34] dī. ni. 3.349
[35] Mittānamadrubbho (Syā, Ka)
[36] jā. 2.17.101
[37] a. ni. 5.192
[38] Āvajjaṃ samannāharāhīti (Syā)
[39] saṃ. ni. 1.214
[40] Desāpadese (Sī, Syā)
[41] dī. ni. 1.190
[42] a. ni. 4.241
[43] dī. ni. 2.369
[44] ma. ni. 1.30
[45] Kajaṅgalaṃ (Sī), Jaṅgalo (Syā)
[46] Salalavatī (Sī), Salaḷavatī (Ka)
[47] Thūnaṃ (Syā), Vi 3. 287 piṭṭhe passitabbaṃ.
[48] Cakkavattirājā (Ka)
[49] Cinteyyuṃ (Ka)
[50] Vibhāvanānukkamo (Syā), bhavānukkamo (Ka)
[51] saṃ. ni. 5.369
[52] ma. ni. 1.324
[53] ma. ni. 1.466
[54] Desento (Sī, Syā)
[55] Pariyosāne ca (Syā) pariyosāneva (Ka)
[56] dī. ni. aṭṭha. 1.190
[57] Damiḷakirātayavanādimilakkhānaṃ (Sī), …yavanādi milakkhūnaṃ (Syā)
[58] Akkhāhi me nāga (Sī)
[59] jā. 2.17.1595
[60] pe. va. 275,277
[61] cūḷava. 311
[62] dī. ni. 2.329
[63] ma. ni. 1.83
[64] jā. 1.4.97
[65] ma. ni. 1.155
[66] jā. 1.8.75
[67] dī. ni. 2.329
[68] dī. ni. 3.174
[69] Vaṭṭati (Syā, Ka)
[70] Rajāpatho (Sī, Syā)
[71] Kasivaṇivajjādikammaṃ (Sī, Syā) Vi-ṭṭha 1. 169 piṭṭhepi passitabbaṃ.
[72] So hi (Sī, Ka)
[73] ma. ni. 2.260
[74] Sampanno (Sī, Syā)
[75] Samannāgato santuṭṭho (Syā, Ka)
[76] mahāva. 9
[77] mahāva. 8
[78] mahāva. 16
[79] mahāva. 15
[80] ma. ni. 1.284
[81] Sampajaññasseva (Sī, Syā)
[82] Sātthakaṃ (Syā)
[83] Vatvā (Sī)
[84] Nivattamānopi (Syā)
[85] Jātaṃ nāma (Syā)
[86] Pokhānupokhaṇ (Syā) Ma-Ṭṭha 1. 261; Saṃ-Ṭṭha 3. 221; Abhi-Ṭṭha 2. 335 piṭṭhesupi.
[87] Kattabbasabbavattāni (Syā)
[88] Vīsatimpi (Sī)
[89] Muñcitukāmā (Syā)
[90] Purimapadesaṃyeva (Sī, Syā)
[91] Nibandho (Syā), nibbuddho (Ka)
[92] Udakagaṇḍasaṃ (Syā)
[93] Sūpaṭṭhitaṃ (Sī), supaṭṭhitaṃ (Syā)
[94] Imaṃ (Sī, Syā)
[95] Dhutavādī vā (Sī), dhutaṅgadharo vā (Syā)
[96] Mantāniputto (Sī), Mantānīputto (Syā, Ka)
[97] Taṭataṭāyantā (bahūsu) Moggallānabyākaraṇaṇ oloketabbaṃ.
[98] Anvāssaveyyunti (Sī, Syā)
[99] a. ni. 8.9
[100] Uppannamatte (Syā), uppajjamānamatte (Ka)
[101] Panettha (Syā)
[102] Itarāni (Sī, Syā) Ṭīkā oloketabbā.
[103] Mānussakesu (Ka)
[104] Sampayuttesu (Syā, Ka)
[105] Rūpañca (Sī)
[106] Sahajātādipaccayā (Syā, Ka) Dī-Ṭī 1. 250; Sī-Ṭī Abhinava 2. 96 piṭṭhesu oloketabbā.
[107] Sammiñjite (Sī, Syā)
[108] Pabbānaṃ hatthapādānaṃ (Ka)
[109] Samiñjati (Ka)
[110] Bhikkhāgahaṇādivasena (Ka); Ma-Ṭṭha 1. 269; Saṃ-Ṭṭha 3. 229; Abhi-Ṭṭha 2. 343 piṭṭhesupi passitabbaṃ.
[111] Paṭṭadukūlādibhedaṃ (Sī), paṭadukūlādibhedaṃ (Syā)
[112] Mālāgandhadhūpavatthādīhi (Sī, Syā)
[113] Nisinne (Ka) natthi Sī-potthake.
[114] Vaṇapaṭṭacoḷakāni (Sī), vaṇapaṭacoḷakāni (Syā)
[115] Pacati (Ka)
[116] Pakkapakkaṃ (Sī)