Giải Thích Kinh Quả Báo Hạnh Sa Môn (Sa môn quả) – 03

(Sāmaññaphalasuttavaṇṇanā)

      Xem Trường Bộ Kinh – Kinh Sa Môn Quả

Giảng Giải Về Sự Tri Túc

215. Idha, mahārāja, bhikkhu santuṭṭho hotīti ettha santuṭṭhoti itarītarapaccayasantosena samannāgato. So panesa santoso dvādasavidho hoti, seyyathidaṃ — cīvare yathālābhasantoso, yathābalasantoso, yathāsāruppasantosoti tividho. Evaṃ piṇḍapātādīsu. Tassāyaṃ pabhedavaṇṇanā –

215. ‘Sự tri túc’ trong cụm từ ‘Ở đây, này đại vương, vị tỳ khưu được hài lòng’ này: là vị được thành tựu bằng sự hài lòng các món vật dụng bất kỳ. Hơn nữa, sự tri túc này đây có mười hai loại, tức là – sự tri túc trong 3 lại y phục là sự hài lòng với lợi lộc có được (yathālābhasantosa), sự hài lòng theo sức mình (yathābalasantosa), và sự hài lòng theo sự thích hợp (yathāsāruppasantosa). Trong việc đi khất thực cũng như vậy. Mười hai sự tri túc ấy được giải thích như sau –

Idha bhikkhu cīvaraṃ labhati, sundaraṃ vā asundaraṃ vā. So teneva yāpeti, aññaṃ na pattheti, labhantopi na gaṇhati. ayamassa cīvare yathālābhasantoso. Atha pana pakatidubbalo vā hoti, ābādhajarābhibhūto vā, garucīvaraṃ pārupanto kilamati. so sabhāgena bhikkhunā saddhiṃ taṃ parivattetvā lahukena yāpentopi santuṭṭhova hoti. Ayamassa cīvare yathābalasantoso. Aparo paṇītapaccayalābhī hoti. So pattacīvarādīnaṃ aññataraṃ mahagghapattacīvaraṃ bahūni vā pana pattacīvarāni labhitvā idaṃ therānaṃ cirapabbajitānaṃ, idaṃ bahussutānaṃ anurūpaṃ, idaṃ gilānānaṃ, idaṃ appalābhīnaṃ hotūti datvā tesaṃ purāṇacīvaraṃ vā gahetvā saṅkārakūṭādito vā nantakāni uccinitvā tehi saṅghāṭiṃ katvā dhārentopi santuṭṭhova hoti. ayamassa cīvare yathāsāruppasantoso.

Vị tỳ khưu trong Pháp và Luật này nhận được y phục, dù tốt hay không tốt đi chăng nữa, vị ấy chỉ sử dụng y phục đó mà thôi, không ước muốn đến y phục khác, dù được cũng không nhận, đây là sự hài lòng với lợi lộc có được. Sau đó, vị có sức khỏe kém theo lẽ thường, bị bệnh tật chi phối, bị già chi phối, khi mặc y phục nặng nề sẽ khó nhọc, vị ấy thay đổi y phục ấy với vị tỳ khưu ưa thích ngang bằng, ngay cả sử dụng y phục nhẹ, cũng vẫn là vị sống tri túc, đây là sự hài lòng với lợi lộc có được trong y phục của vị ấy. Một vị tỳ khưu có được y phục thượng hạng, khi vị ấy nhận được bất kỳ một bình bát và y phục v.v, nào là bình bát và y phục có nhiều giá trị hoặc có số lượng nhiều, vị ấy cúng dường với suy nghĩ rằng: “Điều này thích hợp đối với các vị trưởng lão xuất gia lâu năm, điều này thích hợp đối với vị tỳ khưu đa văn, điều này thích hợp đối với vị tỳ khưu bệnh, điều này hãy có cùng vị tỳ khưu có ích lợi lộc, hoặc sau khi lấy những y phục cũ này làm thành tấm y hai lớp, cũng vẫn được xem là vị sống tri túc. Đây là sự hài lòng theo sự thích hợp trong y phục của vị ấy.

Idha pana bhikkhu piṇḍapātaṃ labhati lūkhaṃ vā paṇītaṃ vā, so teneva yāpeti, aññaṃ na pattheti, labhantopi na gaṇhati. Ayamassa piṇḍapāte yathālābhasantoso. Yo pana attano pakativiruddhaṃ vā byādhiviruddhaṃ vā piṇḍapātaṃ labhati, yenassa paribhuttena aphāsu hoti. So sabhāgassa bhikkhuno taṃ datvā tassa hatthato sappāyabhojanaṃ bhuñjitvā samaṇadhammaṃ karontopi santuṭṭhova hoti. Ayamassa piṇḍapāte yathābalasantoso. Aparo bahuṃ paṇītaṃ piṇḍapātaṃ labhati. So taṃ cīvaraṃ viya theracirapabbajitabahussutāppalābhīgilānānaṃ datvā tesaṃ vā sesakaṃ piṇḍāya vā caritvā missakāhāraṃ bhuñjantopi santuṭṭhova hoti. Ayamassa piṇḍapāte yathāsāruppasantoso.

Hơn nữa, vị tỳ khưu trong Pháp và Luật này nhận được đồ ăn khất thực, thô tệ hoặc thượng vị, vị ấy chỉ sử dụng chính đồ ăn khất thực ấy, không tha thiết đồ ăn khất thực khác, dầu có được cũng không thọ nhận. Đây là sự hài lòng với lợi lộc có được ở đồ ăn khất thực của vị ấy. Hơn nữa, vị tỳ khưu nào nhận được đồ ăn khất thực không thích hợp cơ thể bình thường, hoặc không phù hợp với bệnh tật của mình mà vị ấy sau khi thọ dụng sẽ không thích hợp, vị ấy cho đồ ăn khất thực đến vị khác ngang bằng, sau khi thọ dụng vật thực thích hợp từ bàn tay của vị tỳ khưu ấy rồi thực hành Sa-môn Pháp cũng được xem là vị sống tri túc. Đây là sự hài lòng theo sức mình trong đồ ăn khát thực của vị ấy. Còn một vị tỳ khưu có được đồ ăn khất thực thượng vị số lượng nhiều, vị ấy cúng dường vật thực ấy đến vị trưởng lão xuất gia lâu năm, đến vị đa văn, đến vị có ích lợi lộc, đến vị bị bệnh, tương tự như phần y phục, mặc dầu thọ nhận phần vật thực còn thừa, hoặc sau khi đi khất thực thọ dụng vật thực được trộn lẫn với nhau cũng vẫn được gọi là vị sống tri túc. Đây là sống hài lòng theo sự thích hợp trong vật thực khất thực của vị ấy.

Idha pana bhikkhu senāsanaṃ labhati, manāpaṃ vā amanāpaṃ vā, so tena neva somanassaṃ, na domanassaṃ uppādeti; Antamaso tiṇasanthārakenapi yathāladdheneva tussati. Ayamassa senāsane yathālābhasantoso. Yo pana attano pakativiruddhaṃ vā byādhiviruddhaṃ vā senāsanaṃ labhati, yatthassa vasato aphāsu hoti, so taṃ sabhāgassa bhikkhuno datvā tassa santake sappāyasenāsane vasantopi santuṭṭhova hoti. Ayamassa senāsane yathābalasantoso.

Hơn nữa, vị tỳ khưu trong Pháp và Luật này nhận được trú xứ, hài lòng hoặc không hài lòng, vi ấy không khởi lên vui mừng cũng không buồn bực bởi chính sàng tọa đó; thậm chí cho dù nhận được tấm thảm được làm bằng cỏ rơm. Đây là sự hài lòng với lợi lộc có được trong sàng tọa của vị ấy. Thêm nữa, vị tỳ khưu nào có được sàng tọa không phù hợp với cơ thể, hoặc không phù hợp với bệnh tật của bản thân khi an trú không thoải mái, vị tỳ khưu đó dâng trú xứ ấy đến vị tỳ khưu đồng đẳng, ngay cả khi an trú ở trong trú xứ của vị ấy cũng vẫn là vị sống tri túc. Đây gọi là sự hài lòng với khả năng ở trú xứ của vị ấy.

Aparo mahāpuñño leṇamaṇḍapakūṭāgārādīni bahūni paṇītasenāsanāni labhati. so tāni cīvaraṃ viya theracirapabbajitabahussutāppalābhīgilānānaṃ datvā yattha katthaci vasantopi santuṭṭhova hoti. Ayamassa senāsane yathāsāruppasantoso. Yopi[1] — “Uttamasenāsanaṃ[2] nāma pamādaṭṭhānaṃ, tattha nisinnassa thinamiddhaṃ[3] okkamati, niddābhibhūtassa puna paṭibujjhato kāmavitakkā pātubhavantī”ti paṭisañcikkhitvā tādisaṃ senāsanaṃ pattampi na sampaṭicchati. so taṃ paṭikkhipitvā abbhokāsarukkhamūlādīsu vasantopi santuṭṭhova hoti. Ayampissa senāsane yathāsāruppasantoso.

Hơn nữa, một vị tỳ khưu có đại phước nhận được nhiều trú xứ sang trọng gồm cả hang động, lều vải và ngôi nhà tạm v.v, vị ấy dâng trú xứ đó đến vị tỳ khưu đã xuất gia lâu năm, bậc đa văn, vị có lợi lộc ít và vị tỳ khưu bệnh giống như y phục v.v, dầu vị ấy cư trú ở một trong bất cứ nơi nào thì vẫn gọi là vị sống tri túc. Đây gọi là sự hài lòng theo sự thích hợp trong trú xứ của vị ấy. Thậm chí vị tỳ khưu nào quán chiếu rằng “trú xứ cao quý làm chỗ thiết lập sự xao lãng, khi ngồi ở nơi đó dễ rơi vào sự lờ đờ buồn ngủ, sau khi khi tỉnh thức cũng chỉ khởi lên những suy nghĩ liên hệ đến dục lạc” (vị ấy) không chấp nhận trú xứ như vậy mặc dầu đã đạt được, vị ấy từ bỏ trú xứ ấy, ngay cả ở ngoài trời và ở dưới gốc cây, cũng gọi là vị sống tri túc. Dù như thế đây cũng gọi là sự hài lòng theo sự thích hợp trong trú xứ.

Idha pana bhikkhu bhesajjaṃ labhati, lūkhaṃ vā paṇītaṃ vā, so yaṃ labhati, teneva tussati, aññaṃ na pattheti, labhantopi na gaṇhati. ayamassa gilānapaccaye yathālābhasantoso. yo pana telena atthiko phāṇitaṃ labhati. so taṃ sabhāgassa bhikkhuno datvā tassa hatthato telaṃ gahetvā aññadeva vā pariyesitvā bhesajjaṃ karontopi santuṭṭhova hoti. ayamassa gilānapaccaye yathābalasantoso.

Hơn nữa, vị tỳ khưu trong Pháp và Luật này nhận được dược phẩm, dù kém chất lượng hoặc chất lượng tốt, vị ấy hoan hỷ với chính dược phẩm đã nhận, không ước muốn dược phẩm khác, dầu có thể có được (vị ấy) cũng không nhận, đây gọi là sự hài lòng với lợi lộc có được trong dược phẩm trị bệnh của vị ấy. Lại nữa, vị nào cần dầu, nhưng lại nhận được nước mía vị ấy dâng nước mía đến cho vị tỳ khưu đồng đẳng, cầm lấy dầu từ tay của vị tỳ khưu ấy hoặc tìm kiếm thứ khác liên quan đến dầu đó cũng vẫn gọi là vị sống tri túc, đây gọi là sự hài lòng theo sức mình trong dược phẩm trị bệnh.

Aparo mahāpuñño bahuṃ telamadhuphāṇitādipaṇītabhesajjaṃ labhati. so taṃ cīvaraṃ viya theracirapabbajitabahussutāppalābhīgilānānaṃ datvā tesaṃ ābhatena yena kenaci yāpentopi santuṭṭhova hoti. Yo pana ekasmiṃ bhājane muttaharīṭakaṃ[4] ṭhapetvā ekasmiṃ catumadhuraṃ — “gaṇhāhi, bhante, yadicchasī”ti vuccamāno sacassa tesu aññatarenapi rogo vūpasammati, atha muttaharīṭakaṃ nāma buddhādīhi vaṇṇitanti catumadhuraṃ paṭikkhipitvā muttaharīṭakeneva bhesajjaṃ karonto paramasantuṭṭhova hoti. Ayamassa gilānapaccaye yathāsāruppasantoso.

Và hơn nữa, vị tỳ khưu có phước báu to lớn có được dược phẩm thượng hạng, có nhiều dầu, mật ong, nước mía v.v, vị ấy cúng dường dược phẩm ấy đến vị tỳ khưu trưởng lão xuất gia lâu năm, bậc đa văn, vị có ít lợi lộc và vị tỳ khưu bệnh như y phục rồi chữa trị tự thân bằng bất kỳ một loại dược phẩm nào được những vị tỳ khưu ất đem lại, đó cũng vẫn gọi là vị sống tri túc. Hơn nữa, vị tỳ khưu nào ngâm (hợp chất) nước tiểu bò và trái harīṭaka vào một chum, có một người đi đến đã nói về bốn món có vị ngon ngọt trong một chum rồi rồi nói rằng: – “Mời các ngài lấy những thứ cần thiết” (vị ấy nghĩ) nếu như bệnh của vị ấy khỏi nhờ bất kỳ một món nào trong bốn món ngon ngọt đó, mặc dù vậy gọi là (hợp chất) nước tiểu bò và trái harīṭaka, đức Thế Tôn v.v, đã tán thán như thế rồi từ chối bốn món có vị ngon ngọt, chỉ sử dụng dược phẩm trị bệnh bằng (hợp chất) nước tiểu bò và trái harīṭaka, gọi là vị sống tri túc tối thượng. Đây gọi là sự hài lòng theo sự thích hợp trong dược phẩm trị bệnh của vị ấy.

Iminā pana dvādasavidhena itarītarapaccayasantosena samannāgatassa bhikkhuno aṭṭha parikkhārā vaṭṭanti. Tīṇi cīvarāni, patto, dantakaṭṭhacchedanavāsi, ekā sūci, kāyabandhanaṃ parissāvananti. Vuttampi cetaṃ —

“Ticīvarañca patto ca, vāsi sūci ca bandhanaṃ.

Parissāvanena aṭṭhete, yuttayogassa bhikkhuno”ti.[5]

Thêm nữa, tám món vật dụng thiết yếu là tam y, bình bát, dao nhỏ dùng để vót tăm xỉa răng, kim may vá, dây thắt lưng, vải lọc nước, cần thiết đối với vị tỳ khưu gắn liền với sự hài lòng trong 12 món vật dụng có được. Và điều này như các vị thầy xưa nói –

“Những vật dụng thiết yếu này là tam y, bình bát, và dao nhỏ, kim và dây thắt lưng với vải lọc nước là thứ tám, cần thiết đối với vị tỳ khưu gắn liền với sự tinh tấn”.

Te sabbe kāyaparihārikāpi honti kucchiparihārikāpi. Kathaṃ? Ticīvaraṃ tāva nivāsetvā ca pārupitvā ca vicaraṇakāle kāyaṃ pariharati, posetīti kāyaparihārikaṃ hoti. cīvarakaṇṇena udakaṃ parissāvetvā pivanakāle khāditabbaphalāphalagahaṇakāle ca kucchiṃ pariharati; posetīti kucchiparihārikaṃ hoti.

Thậm chí tất cả các món vật dụng thiết yếu đó chính là sự che thân, hay sự nuôi mạng. Là thế nào? Nói đến tam y trước, vị tỳ khưu sử dụng y phục để bảo vệ thân trong lúc mặc (y phục) hoặc đắp (y hai lớp) để đi, do đó y phục mới gọi là phương tiện để bảo vệ thân thể. Vị tỳ khưu sử dụng y phục để nuôi bụng, trong lúc lấy một góc y để lọc nước rồi uống và trong lúc bao bọc trái cây lớn nhỏ, vì thế mới gọi là phương tiện để bảo vệ cái bụng.

Pattopi tena udakaṃ uddharitvā nhānakāle kuṭiparibhaṇḍakaraṇakāle ca kāyaparihāriko hoti. Āhāraṃ gahetvā bhuñjanakāle kucchiparihāriko.

Cả bình bát cũng là phương tiện nuôi thân trong lúc lấy bình bát để múc nước tắm và trong lúc múc nước bằng bình bát để lau chùi cốc liêu; là phương tiện nuôi bụng trong lúc thọ nhận vật thực để thọ dụng.

Vāsipi tāya dantakaṭṭhacchedanakāle mañcapīṭhānaṃ aṅgapādacīvarakuṭidaṇḍakasajjanakāle[6] ca kāyaparihārikā hoti. ucchuchedananāḷikerāditacchanakāle kucchiparihārikā.

Cả dao nhỏ là phương tiện bảo vệ thân trong lúc gọt tăm xỉa răng và trong lúc làm chân giường, chân ghế và cây dù; là phương tiện nuôi bụng trong lúc gọt mía và chặt dừa v.v.

Sūcipi cīvarasibbanakāle kāyaparihārikā hoti. pūvaṃ vā phalaṃ vā vijjhitvā khādanakāle kucchiparihārikā.

Cả cây kim cũng là phương tiện bảo vệ thân trong lúc may vá y phục; là phương tiện nuôi bụng trong lúc nếm bánh và trái cây để ăn.

Kāyabandhanaṃ bandhitvā vicaraṇakāle kāyaparihārikaṃ. ucchuādīni bandhitvā gahaṇakāle kucchiparihārikaṃ.

Dây thắt lưng cũng là phương tiện bảo vệ thân trong lúc đi du hành; là phương tiện nuôi bụng trong lúc bó những cây mía mang đi.

Parissāvanaṃ tena udakaṃ parissāvetvā nhānakāle, senāsanaparibhaṇḍakaraṇakāle ca kāyaparihārikaṃ. pānīyaṃ parissāvanakāle, teneva tilataṇḍulaputhukādīni[7] gahetvā khādanakāle ca kucchiparihāriyaṃ. Ayaṃ tāva aṭṭhaparikkhārikassa parikkhāramattā. Navaparikkhārikassa pana seyyaṃ pavisantassa tatraṭṭhakaṃ paccattharaṇaṃ vā kuñcikā vā vaṭṭati. Dasaparikkhārikassa nisīdanaṃ vā cammakhaṇḍaṃ vā vaṭṭati. ekādasaparikkhārikassa pana kattarayaṭṭhi vā telanāḷikā vā vaṭṭati. Dvādasaparikkhārikassa chattaṃ vā upāhanaṃ vā vaṭṭati. Etesu ca aṭṭhaparikkhārikova santuṭṭho, itare asantuṭṭhā mahicchā mahābhārāti[8] na vattabbā. Etepi hi appicchāva santuṭṭhāva subharāva sallahukavuttinova. bhagavā pana na yimaṃ suttaṃ tesaṃ vasena kathesi, aṭṭhaparikkhārikassa vasena kathesi. So hi khuddakavāsiñca sūciñca parissāvane pakkhipitvā pattassa anto ṭhapetvā pattaṃ aṃsakūṭe laggetvā ticīvaraṃ kāyapaṭibaddhaṃ[9] katvā yenicchakaṃ[10] sukhaṃ pakkamati. Paṭinivattetvā gahetabbaṃ nāmassa na hoti. Iti imassa bhikkhuno sallahukavuttitaṃ dassento bhagavā — “santuṭṭho hoti kāyaparihārikena cīvarenā”tiādimāha.

Ngay cả tấm vải lọc nước cũng là phương tiện bảo vệ thân trong lúc lọc nước với tấm vải đó rồi (sau đó đi) tấm, và trong lúc lọc nước với tấm vải đó rồi (sử dụng), và việc lau chùi chỗ trú ngụ; là phương tiện để nuôi bụng trong lúc lọc nước uống và trong lúc gói hạt mè gạo và cốm nếp v.v, bằng tấm vải đó rồi thọ dụng. Đây là sự tri túc về vật phụ tùng của vị tỳ khưu với tám món vật dụng thiết yếu. Thêm nữa, tấm trải dùng để trải ra ở nơi trú ngụ ấy hoặc chìa khóa thích hợp đối với vị tỳ khưu có 9 món vật dụng thiết yếu để đi vào chỗ nằm nghỉ. Tấm trải để ngồi hoặc miếng da phù hợp đối với vị tỳ khưu có 10 món vật dụng thiết yếu. Cây gậy cho người già hoặc bình đựng dầu thích hợp đối với vị Tỳ khưu có 11 món vật dụng thiết yếu. Cây dù và đôi dép phù hợp đối với vị tỳ khưu có 12 món vật dụng thiết yếu. Trong số những vị tỳ khưu ấy thì vị tỳ khưu chỉ có 8 món vật dụng thiết yếu gọi là vị tri túc, ngoài ra thì bất cứ ai cũng không nên nói rằng – ‘là vị không tri túc, là vị đa dục, là vị khó nuôi dưỡng’ tất cả đều là vị sống thiểu dục, tri túc, dễ nuôi và có các hành vi nhẹ nhàng giống nhau (làm cho thân nhẹ nhàng). Tuy nhiên, đức Thế Tôn không thuyết giảng bài Kinh này dành cho các vị tỳ khưu ấy, mà ngài thuyết dành cho vị tỳ khưu có 8 món vật dụng thiết yếu. Thật vậy vị tỳ khưu có 8 món vật dụng thiết yếu ấy quấn lấy dao nhỏ và cây kim trong tấm vải lọc nước cất vào trong bình bát rồi đeo bình bát lên trên vai, mặc tam y, cột dây thắt lưng rồi ra đi an lạc theo ý muốn, vị ấy không cần quay trở lại để lấy bất kỳ thứ gì nữa. Ở đây, đức Thế Tôn trong khi thuyết giảng về bản thể vị tỳ khưu có hành vi nhẹ nhàng bằng cách này, ngài đã nói rằng: “Vị tỳ khưu này là vị sống tri túc trong y phục với việc bảo vệ thân thể v.v.

Tattha kāyaparihārikenāti kāyapariharaṇamattakena. Kucchiparihārikenāti kucchipariharaṇamattakena. Samādāyeva pakkamatīti aṭṭhaparikkhāramattakaṃ sabbaṃ gahetvāva kāyapaṭibaddhaṃ katvāva gacchati. “Mama vihāro pariveṇaṃ upaṭṭhāko”ti āsaṅgo vā bandho vā[11] na hoti. So jiyā mutto saro viya, yūthā apakkanto madahatthī[12] viya ca icchiticchitaṃ senāsanaṃ vanasaṇḍaṃ rukkhamūlaṃ vanapabbhāraṃ paribhuñjanto ekova tiṭṭhati, ekova nisīdati. Sabbiriyāpathesu ekova adutiyo.

“Cātuddiso appaṭigho ca hoti, santussamāno itarītarena.

Parissayānaṃ sahitā achambhī, eko care khaggavisāṇakappo”ti.[13]

Evaṃ vaṇṇitaṃ khaggavisāṇakappataṃ āpajjati.

Ở đó, với việc bảo vệ thân thể: chỉ là vật dụng bảo vệ thân. với việc bảo vệ bụng: chỉ là phương tiện để nuôi bụng. Tự mình mang theo được: vị ấy chỉ mang theo tám món vật dụng thiết yếu, toàn bộ chỉ có bấy nhiêu bên mình rồi ra đi. Không bị trói buộc, hoặc không bị dính mắc rằng: “Tịnh xá, trú xứ, thị giả của tôi v.v, ” vị ấy giống như mũi tên bay ra khỏi dây cung và tựa như con voi nổi cơn rời khỏi đàn, sử dụng trú xứ theo ý muốn là khu rừng sâu thẳm, dưới gốc cây, vách đá trong rừng, chỉ đứng một mình, chỉ ngồi một mình không có bè bạn trong tất cả mọi oai nghi, vị tỳ khưu ấy đạt đến tính chất tợ như sừng của loài tê giác.

Vị Tỳ khưu tri túc, sống an lạc ở khắp cả bốn phương, không bực tức khó chịu, tự biết đủ với bất cứ vật dụng nào dầu tốt hay xấu, chịu đựng các nguy hiểm, không có kinh hãi, bước đi một mình tựa như sừng của loài tê giác .” Ngài giải thích như vậy.

Idāni tamatthaṃ upamāya sādhento — “seyyathāpī”tiādimāha. Tattha pakkhī sakuṇoti pakkhayutto sakuṇo. Ḍetīti uppatati. Ayaṃ panettha saṅkhepattho — sakuṇā nāma “asukasmiṃ padese rukkho paripakkaphalo”ti ñatvā nānādisāhi āgantvā nakhapattatuṇḍādīhi[14] tassa phalāni vijjhantā vidhunantā[15] khādanti. ‘idaṃ ajjatanāya, idaṃ svātanāya bhavissatī’ti tesaṃ na hoti. phale pana khīṇe neva rukkhassa ārakkhaṃ ṭhapenti, na tattha pattaṃ vā nakhaṃ vā tuṇḍaṃ vā ṭhapenti. atha kho tasmiṃ rukkhe anapekkho hutvā, yo yaṃ disābhāgaṃ icchati, so tena sapattabhārova uppatitvā gacchati. Evameva ayaṃ bhikkhu nissaṅgo nirapekkho yena kāmaṃ pakkamati[16]. Tena vuttaṃ “samādāyeva pakkamatī”ti.

Bây giờ, khi hoàn thành ý nghĩa đó với ví dụ minh họa mới thuyết rằng – “cũng giống như v.v.” Ở đó, con chim có đôi cánh: con chim có đôi cánh. Ḍeti dịch là bay. Và ở đây, điều này có ý nghĩa vắn tắt như vầy – Thường tất cả các loài chim đều biết rằng: cây cối ở nơi ấy có trái chín v.v, chúng cùng nhau bay đến từ mọi phương hướng khác nhau để chọc thủng và ăn quả chín của cây đó bằng móng, cánh và mỏ, v.v. chúng không có suy nghĩ rằng “trái cây này để dành (ăn) cho ngày hôm nay, trái cây này để dành (ăn) cho ngày mai” nhưng khi trái cây hết, chúng không cần bảo vệ cây đó nữa, không cần dùng cánh, móng và mỏ giữ trái cây đó. Thật vậy, không có lòng khao khát ở cây đó, con nào muốn bay hướng nào? Con đó chỉ có đôi cánh của chính mình để bay đến hướng đó như thế nào, tương tự y như thế vị tỳ khưu không có sự dính mắc, không có sự khao khát, ra đi theo ý muốn. Vì thế mới nói rằng: ‘tự mình mang theo (tám món vật dụng) rồi ra đi’.

 

Nói Về Việc Dứt Trừ Pháp Ngăn Che

216. So iminā cātiādinā kiṃ dasseti? araññavāsassa paccayasampattiṃ dasseti. Yassa hi ime cattāro paccayā natthi, tassa araññavāso na ijjhati. Tiracchānagatehi vā vanacarakehi vā saddhiṃ vattabbataṃ āpajjati. Araññe adhivatthā devatā — “Kiṃ evarūpassa pāpabhikkhuno araññavāsenā”ti bheravasaddaṃ sāventi, hatthehi sīsaṃ paharitvā palāyanākāraṃ karonti. “Asuko bhikkhu araññaṃ pavisitvā idañcidañca pāpakammaṃ akāsī”ti ayaso pattharati. Yassa panete cattāro paccayā atthi, tassa araññavāso ijjhati. So hi attano sīlaṃ paccavekkhanto kiñci kāḷakaṃ vā tilakaṃ vā apassanto pītiṃ uppādetvā taṃ khayavayato sammasanto ariyabhūmiṃ okkamati. Araññe adhivatthā devatā attamanā vaṇṇaṃ bhaṇanti. Tissa udake pakkhittatelabindu viya yaso vitthāriko hoti.

216. Đức Thế Tôn thuyết giảng điều gì với cụm từ ‘vị tỳ khưu ấy…với sự tri túc v.v.?’ Thuyết về điều kiện thành tựu của vị tỳ khưu cư ngự ở trong rừng. Thật vậy, vị tỳ khưu nào không có đủ bốn điều kiện này (chắc chắn) thì việc sống trong rừng của vị tỳ khưu ấy không có kết quả, vị ấy sẽ bị so sánh giống như loài bàng sanh hoặc người thợ săn ở rừng. Chư thiên ẩn trú ở trong rừng khiến (vị ấy) phải lắng nghe những âm thanh đáng sợ (và) nói rằng: “Một vị tỳ khưu ác giới như vậy, sống ở trong rừng có lợi ích gì?” Đã đánh vào đầu lộ (vị ấy) bằng cánh tay rồi bỏ đi, sự đánh mất danh tiếng lan truyền rộng rãi (rằng): “Vị tỳ khưu đó đã đi vào rừng và tạo những ác nghiệp như vậy.” Nhưng việc sống trong rừng của vị tỳ khưu có bốn điều kiện này sẽ có kết quả. Thật vậy vị ấy khi quán xét đến giới hạnh của mình không nhìn thấy bất kỳ một bợn nhơ nào, làm phát sanh sự hoan hỷ, quán xét thấy điều đó có sự diệt tận, có sự biến hoại (vị ấy) bước vào địa phận của bậc Thánh. Chư Thiên ẩn trú trong rừng hoan hỷ tán thán. Danh tiếng của vị tỳ khưu ấy được lan toả cũng giống như mảng dầu được đổ xuống nước.

Attha vivittanti suññaṃ, appasaddaṃ, appanigghosanti attho. Etadeva hi sandhāya vibhaṅge — “vivittanti santike cepi senāsanaṃ hoti, tañca anākiṇṇaṃ gahaṭṭhehi pabbajitehi. Tena taṃ vivittan”ti[17] vuttaṃ. Seti ceva āsati ca etthāti senāsanaṃ mañcapīṭhādīnametaṃ adhivacanaṃ. Tenāha — “Senāsananti mañcopi, senāsanaṃ pīṭhampi, bhisipi, bimbohanampi, vihāropi, aḍḍhayogopi, pāsādopi, hammiyampi, guhāpi, aṭṭopi, māḷopi, leṇampi, veḷugumbopi, rukkhamūlampi, maṇḍapopi senāsanaṃ, yattha vā pana bhikkhū paṭikkamanti, sabbametaṃ senāsanan”ti[18].

Ở đó, tĩnh mịch: trống không, có nghĩa là không có âm thanh, mất âm thanh. Thật vậy, trong bộ Phân Tích đã nói đề cập đến sự tĩnh mịch này (rằng): “Tĩnh mịch nghĩa là như là trú xứ ở gần, mà chỗ ấy không lẫn lộn với người tại gia, bậc xuất gia, do đó chỗ ấy gọi là tĩnh mịch.” Gọi là trú xứ bởi vì vừa làm chỗ nằm và vừa làm chỗ ngồi, từ đó là tên gọi của giường và ghế v.v. Vì thế, ngài mới nói rằng ‘trú xứ’ – “Giường cũng là trú xứ, ghế cũng là trú xứ, nệm lót cũng là trú xứ, gối cũng là trú xứ, tịnh xá cũng là trú xứ, nhà một mái cũng là trú xứ, lâu đài cũng là trú xứ, dãy nhà cũng là trú xứ, chòi canh cũng là trú xứ, lều vải cũng là trú xứ, cốc hang cũng là trú xứ, bụi tre cũng là trú xứ, gốc cây cũng là trú xứ, mái che cũng là trú xứ; hoặc là bất cứ chỗ nào mà các vị tỳ khưu lui tới thì tất cả chỗ đó là trú xứ.

Api ca — “vihāro aḍḍhayogo pāsādo hammiyaṃ guhā”ti idaṃ vihārasenāsanaṃ nāma. “mañco pīṭhaṃ bhisi bimbohanan”ti idaṃ mañcapīṭhasenāsanaṃ nāma. “Cimilikā cammakhaṇḍo tiṇasanthāro paṇṇasanthāro”ti idaṃ santhatasenāsanaṃ nāma. “yattha vā pana bhikkhū paṭikkamantī”ti idaṃ okāsasenāsanaṃ nāmāti. Evaṃ catubbidhaṃ senāsanaṃ hoti, taṃ sabbaṃ senāsanaggahaṇena saṅgahitameva.

Hơn nữa “tịnh xá, nhà một mái, lâu đài, dãy nhà, hang động” đây gọi là vihāra-senāsana. “Giường, ghế, nệm lót, gối” đây gọi là mañcapīṭha-senāsana. “tấm lót nền, tấm da thú, thảm cỏ, thảm lá” đây gọi là santhata-senāsana. Trú xứ nơi mà vị tỳ khưu sẽ trở lại, đây gọi là okāsa-senāsana. Có bốn loại trú xứ như vậy, tất cả đều được hoàn toàn được tổng hợp với sự tổng hợp thành ‘trú xứ – senāsana’ đó.

Idha panassa sakuṇasadisassa cātuddisassa bhikkhuno anucchavikasenāsanaṃ dassento araññaṃ rukkhamūlantiādimāha. Tattha araññanti nikkhamitvā bahi indakhīlā sabbametaṃ araññanti. Idaṃ bhikkhunīnaṃ vasena āgataṃ. “Āraññakaṃ nāma senāsanaṃ pañcadhanusatikaṃ pacchiman”ti[19] idaṃ pana imassa bhikkhuno anurūpaṃ. Tassa lakkhaṇaṃ visuddhimagge dhutaṅganiddese vuttaṃ. Rukkhamūlanti yaṃ kiñci sandacchāyaṃ[20] vivittarukkhamūlaṃ. Pabbatanti selaṃ. Tattha hi udakasoṇḍīsu udakakiccaṃ katvā sītāya rukkhacchāyāya nisinnassa nānādisāsu khāyamānāsu sītena vātena bījiyamānassa cittaṃ ekaggaṃ hoti. Kandaranti kaṃ vuccati udakaṃ, tena dāritaṃ, udakena bhinnaṃ pabbatapadesaṃ. Yaṃ nadītumbantipi, nadīkuñjantipi[21] vadanti. Tattha hi rajatapaṭṭasadisā vālikā hoti, matthake maṇivitānaṃ viya vanagahaṇaṃ, maṇikhandhasadisaṃ udakaṃ sandati. Evarūpaṃ kandaraṃ oruyha pānīyaṃ pivitvā gattāni sītāni[22] katvā vālikaṃ ussāpetvā paṃsukūlacīvaraṃ paññapetvā nisinnassa samaṇadhammaṃ karoto cittaṃ ekaggaṃ hoti. Giriguhanti dvinnaṃ pabbatānaṃ antare, ekasmiṃyeva vā umaggasadisaṃ[23] mahāvivaraṃ. Susānalakkhaṇaṃ visuddhimagge vuttaṃ. Vanapatthanti gāmantaṃ atikkamitvā manussānaṃ anupacāraṭṭhānaṃ[24]. Yattha na kasanti na vapanti, tenevāha — “vanapatthanti dūrānametaṃ senāsanānaṃ adhivacanan”tiādi. Abbhokāsanti acchannaṃ. ākaṅkhamāno panettha cīvarakuṭiṃ katvā vasati. Palālapuñjanti palālarāsi. Mahāpalālapuñjato hi palālaṃ nikkaḍḍhitvā pabbhāraleṇasadise ālaye karonti, gacchagumbhādīnampi upari palālaṃ pakkhipitvā heṭṭhā nisinnā samaṇadhammaṃ karonti. Taṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ.

Đức Thế Tôn khi thuyết giảng trú xứ phù hợp đối với các tỳ khưu du hành ở bốn phương tương tự như loài chim ấy mới nói rằng ‘khu rừng rậm, gốc cây’ v.v. Ở đó, ‘khu rừng’: Sau khi đi ra khỏi bên ngoài cọc ranh, toàn bộ khoảng (đất) bên ngoài là khu rừng. Khu rừng này thích hợp đối với những vị tỳ khưu ni. “Chỗ trú ngụ ở trong rừng nghĩa là cách (căn nhà) cuối cùng khoảng cách năm trăm cây cung”, trú xứ này thích hợp đối với vị tỳ khưu này. Các đặc điểm của khu rừng đó đã được nói trong phần diễn giải Dhutaṅga trong bộ Thanh Tịnh Đạo. Gốc cây: gốc cây chỗ yên tĩnh có bóng râm mát mẻ ở bất kỳ nơi nào. Đồi núi gồm các tảng đá. Thật vậy, khi vị tỳ khưu sử dụng nước từ hồ nước ở nơi ấy và ngồi dưới bóng cây mát mẻ, dưới cơn gió mát được thổi theo nhiều hướng khác nhau, có tâm chuyên nhất. Nước ngài gọi là ‘kaṃ’ trong từ ‘kaṇdaraṃ-thung lũng’, nơi bị xói mòn bởi nước, nơi tách ra bởi nước gồm bề mặt của ngọn núi mà ngài gọi là sông Tumba, hay sông Kuñja. Thật vậy, ở bề mặt của ngọn đó có cát tợ như tấm bạc, dòng nước như chuỗi ngọc lưu ly, chảy xuyên qua tán rừng tựa như những tầng ngọc lưu ly trên đỉnh. Vị tỳ khưu bước xuống dòng nước nhìn thấy như vậy đã uống nước, lặng mình xuống cho mát, đưa cát lên, đã trải tấm y phấn tảo ngồi thực hành Sa-môn Pháp, có tâm chuyên nhất. Khe núi: có khe hở to lớn ở giữa hai quả núi hoặc lỗ trống lớn giống như đường hầm ở khoảng giữa một ngọn núi. Đặc điểm của nghĩa trang đã được nói trong bộ Thanh Tịnh Đạo. Khu rừng thưa: nơi ngoài ranh giới làng mạc, không phải nơi gieo gặt của những người nông dân. Bởi chính nguyên nhân ấy ngài mới nói rằng: “Khu rừng thưa, đây là tên gọi của trú xứ xa vắng.” Đồng trống: là nơi không có mái che. Nhưng vị tỳ khưu mong muốn có mái che ở nơi đó cũng vẫn đực. Palālapuñjaṃ đồng nghĩa với palālarāsiṃ (chỗ đống rơm). Thật vậy, các tỳ khưu đã kéo rơm từ đống rơm lớn, làm chỗ trú ngụ (nhô lên) như đỉnh núi và nơi ẩn náu đặt rơm cạnh lùm cây v.v, rồi ngồi thực hành Sa-môn Pháp bên dưới, ngài muốn đề cập đến đống rơm ấy mới nói lời này.

Pacchābhattanti bhattassa pacchato. Piṇḍapātapaṭikkantoti piṇḍapātapariyesanato paṭikkanto. Pallaṅkanti samantato ūrubaddhāsanaṃ. Ābhujitvāti bandhitvā. Ujuṃ kāyaṃ paṇidhāyāti uparimaṃ sarīraṃ ujuṃ ṭhapetvā aṭṭhārasa piṭṭhikaṇṭakaṭṭhike[25] koṭiyā koṭiṃ paṭipādetvā. Evañhi nisinnassa cammamaṃsanhārūni na paṇamanti. athassa yā tesaṃ paṇamanapaccayā khaṇe khaṇe vedanā uppajjeyyuṃ, tā nuppajjanti. Tāsu anuppajjamānāsu cittaṃ ekaggaṃ hoti, kammaṭṭhānaṃ na paripatati, vuḍḍhiṃ phātiṃ vepullaṃ upagacchati.

Sau bữa ăn là sau khi thọ dụng thức ăn. Trên đường đi khất thực trở về: là trở về sau khi đi khất thực. Xếp chân ngồi thế kiết già: ngồi kiết già, hai bắp vế chân buộc tréo lại trọn vẹn. Ngồi xếp bằng: (ngồi) xếp (hai chân) lại. Giữ thân thẳng: giữ phần thân trên thẳng, làm cho phần cuối nối với phần cuối 18 đốt xương sống ở phần xương lưng được áp sát lại với nhau. Thật vậy, vị tỳ khưu ngồi như vậy, da thịt và gân (sẽ) không bị căng cứng, như vậy các thọ có thể khởi lên trong mỗi sát-na. Bởi vì da thịt và gân căng cứng là duyên, cũng không khởi lên đối với vị tỳ khưu ấy, khi những cảm thọ đó không sanh khởi, thì tâm đi đến trạng thái chuyên nhất, đề mục thiền không bị đứt quãng, đạt đến sự tăng trưởng tốt đẹp.

Parimukhaṃ satiṃ upaṭṭhapetvāti kammaṭṭhānābhimukhaṃ satiṃ ṭhapayitvā. mukhasamīpe vā katvāti attho. Teneva vibhaṅge vuttaṃ — “Ayaṃ sati upaṭṭhitā hoti sūpaṭṭhitā nāsikagge vā mukhanimitte vā, tena vuccati parimukhaṃ satiṃ upaṭṭhapetvā”ti[26]. Athavā parīti pariggahaṭṭho. Mukhanti niyyānaṭṭho. Satīti upaṭṭhānaṭṭho. Tena vuccati — “parimukhaṃ satin”ti.[27] Evaṃ paṭisambhidāyaṃ vuttanayenapettha attho daṭṭhabbo. Tatrāyaṃ saṅkhepo — “pariggahitaniyyānasatiṃ katvā”ti.

Thiết lập niệm luôn hiện diện: thiết lập niệm luôn hiện diện từ đề mục thiền hoặc thiết lập đề mục thiền ở trước mặt. Vì thế, trong bộ Phân Tích ngài đã nói rằng: “Niệm mà vị tỳ khưu khéo thiết lập ở chót mũi hoặc tướng ở môi trên, vì thế ngài nói rằng: ‘thiết lập niệm luôn hiện diện’”. Hoặc là ‘luôn’ với ý nghĩa sự gìn giữ, ‘hiện diện’ với ý nghĩa dẫn xuất, ‘niệm’ theo ý nghĩa thiết lập; vì thế được nói rằng: “Thiết lập niệm luôn hiện diện.” Nên biết ý nghĩa trong lời này theo phương thức được nói trong Phân Tích Đạo như vậy. Trong lời đó có ý nghĩa vắn tắt (như sau): “làm cho niệm trở nên vững chắc không để tán loạn”.

217. Abhijjhaṃ loketi ettha lujjanapalujjanaṭṭhena pañcupādānakkhandhā loko, tasmā pañcasu upādānakkhandhesu rāgaṃ pahāya kāmacchandaṃ vikkhambhetvāti ayametthattho. Vigatābhijjhenāti vikkhambhanavasena pahīnattā vigatābhijjhena, na cakkhuviññāṇasadisenāti attho. Abhijjhāya cittaṃ parisodhetīti abhijjhāto cittaṃ parimoceti. Yathā taṃ sā muñcati ceva, muñcitvā ca na puna gaṇhati, evaṃ karotīti attho. Byāpādapadosaṃ pahāyātiādīsupi eseva nayo. Byāpajjati iminā cittaṃ pūtikummāsādayo viya purimapakatiṃ vijahatīti[28] byāpādo. Vikārāpattiyā padussati, paraṃ vā padūseti vināsetīti padoso. Ubhayametaṃ[29] kodhassevādhivacanaṃ . thinaṃ cittagelaññaṃ. middhaṃ cetasikagelaññaṃ, thinañca middhañca thinamiddhaṃ. Ālokasaññīti rattimpi divādiṭṭhālokasañjānanasamatthāya vigatanīvaraṇāya parisuddhāya saññāya samannāgato. Sato sampajānoti satiyā ca ñāṇena ca samannāgato. Idaṃ ubhayaṃ ālokasaññāya upakārattā vuttaṃ. Uddhaccañca kukkuccañca uddhaccakukkuccaṃ. Tiṇṇavicikicchoti vicikicchaṃ taritvā atikkamitvā ṭhito. “Kathamidaṃ kathamidan”ti evaṃ nappavattatīti akathaṃkathī. Kusalesu dhammesūti anavajjesu dhammesu. “Ime nu kho kusalā kathamime kusalā”ti evaṃ na vicikicchati. na kaṅkhatīti attho. Ayamettha saṅkhepo. Imesu pana nīvaraṇesu vacanatthalakkhaṇādibhedato yaṃ vattabbaṃ siyā, taṃ sabbaṃ visuddhimagge vuttaṃ.

Ở đây, ngũ thủ uẩn gọi là thế gian trong cụm từ ‘sau khi dứt bỏ tham đắm ở thế gian’ này bởi ý nghĩa (dễ) đổ nát vỡ vụn, do đó, trong câu này có ý nghĩa như vầy – sau khi dứt trừ ái luyến trong ngũ thủ uẩn, tức là đã chế ngự được sự ước muốn trong các dục. Đã xa lìa khỏi tham đắm: có nghĩa là đã thoát khỏi tham đắm do trạng thái đã được dứt bỏ nhờ mãnh lực chế ngự, giống như Nhãn thức. Làm trong sạch tâm khỏi tham đắm: giải thoát tâm khỏi tham đắm. Tức là thực hành như vầy, giống như thoát khỏi sự tham muốn đó, khi đã thoát ra khỏi rồi thì không nắm lấy tâm đó nữa. Sau khi dứt bỏ thù oán và ám hại v.v, cũng có cách thức tương tự. Gọi là thù oán với ý nghĩa gây tổn hại, khiến tâm dứt bỏ trạng thái bình thường giống như cái bánh làm bằng đậu xanh bị ôi thối v.v, sự ám hại bởi làm tổn thương bằng việc tấn công dẫn đến biến dạng hoặc gây tổn hại người khác khiến (người đó) bị tổn thương. Cả 2 từ này cũng chính là tên gọi của sự sân hận. Sự dã dượi là bệnh của tâm. Buồn ngủ là tính chất bệnh của tâm sở. Cả sự dã dượi lẫn buồn ngủ đều gọi là lờ hôn trầm và thụy miên. Có tưởng hướng đến ánh sáng: đầy đủ với tưởng thanh tịnh, viễn ly các sự ngăn che bởi có thể tưởng tri đến ánh sáng mà bản thân đã nhìn thấy cả ban đêm và lẫn ban ngày. Có niệm, có sự nhận biết rõ: đầy đủ với niệm và tuệ. Cả 2 pháp này được nói bởi vì do là Pháp hỗ trợ cho sự tưởng đến ánh sáng. Phóng dật và hối hận gọi là phóng dật và hối hận. Vượt qua sự hoài nghi: đã vượt qua, đã bước qua sự hoài nghi, rồi an trú. Không phân vân lưỡng lự: không có sự nghi hoặc (với ý nghĩa) không diễn ra như vầy (rằng) “đây là như thế nào? đây là như thế nào?” Trong tất cả các thiện Pháp: Pháp không có lỗi lầm. Tức là không có sự hoài nghi như vầy – “Phải chăng các Pháp này là thiện? hoặc các Pháp này được xem là thiện ra sao?” Điều này, ở đây có ý nghĩa vắn tắt như thế. Hơn nữa, lời nói nào cần nói về các pháp ngăn che này theo sự phân tích ý nghĩa và trạng thái của từ v.v, toàn bộ những lời đó đã được nói trong bộ Thanh Tịnh Đạo.

218. Yā panāyaṃ seyyathāpi mahārājāti upamā vuttā. Tattha iṇaṃ ādāyāti vaḍḍhiyā dhanaṃ gahetvā. Byantiṃ kareyyāti vigatantaṃ kareyya, yathā tesaṃ kākaṇikamattopi pariyanto nāma nāvasissati, evaṃ kareyya; sabbaso paṭiniyyāteyyāti attho. Tato nidānanti āṇaṇyanidānaṃ[30]. So hi “aṇaṇomhī”ti āvajjanto balavapāmojjaṃ labhati, somanassaṃ adhigacchati, tena vuttaṃ — “labhetha pāmojjaṃ, adhigaccheyya somanassa”nti.

218. Thêm nữa, cũng trong ví dụ ngài nói ‘này đại vương, cũng giống như…’ Ở đây, ‘vay nợ’: đã cầm lấy tài sản vì sự phát triển. Có thể sử dụng hết: Có thể sử dụng hết, có thể sử dụng hết không để món nợ ấy còn thừa lại dù chỉ một cắc kākaṇika, tức là sử dụng hết toàn bộ. Tính chất không mắc nợ làm nhân: có tính chất không mắc nợ làm nhân. Thật vậy, khi vị ấy suy nghĩ rằng: “tôi không mắc nợ” (vị ấy) có được sự hân hoan làm sức mạnh, có được sự hoan hỷ, vì lý do đó thế ngài mới nói rằng: “Có được sự hân hoan, đạt được sự thích ý.”

219. Visabhāgavedanuppattiyā kakaceneva catuiriyāpathaṃ[31] chindanto ābādhatīti ābādho, svāssa atthīti ābādhiko. Taṃ samuṭṭhānena dukkhena dukkhito. Adhimattagilānoti bāḷhagilāno. Nacchādeyyāti adhimattabyādhiparetatāya na rucceyya. Balamattāti balameva, balañcassa kāye na bhaveyyāti attho. Tatonidānanti ārogyanidānaṃ. Tassa hi — “arogomhī”ti āvajjayato tadubhayaṃ hoti. Tena vuttaṃ — “labhetha pāmojjaṃ, adhigaccheyya somanassa”nti.

219. Sự đau đớn: với ý nghĩa rằng – cắt đứt bốn oai nghi giống như cắt đứt với cây cưa gây tổn thương do khởi lên cảm thọ đối nghịch, đau khổ vì bệnh với ý nghĩa có bệnh. Đạt đến tính chất đau khổ: bởi sự khổ đau khởi lên từ bệnh tật ấy. bị bệnh trầm trọng: bị bệnh nghiêm trọng. Thọ dụng vật thực không được: Không thể thích thú bởi có bệnh trầm trọng chi phối. Có sức mạnh: chính là có sức lực, tức là vị ấy có năng lực thân. Do nguyên nhân ấy (không bệnh): có tính chất không có bệnh làm nhân. Bởi khi vị ấy suy nghĩ – “Tôi không có bệnh” (vị ấy) có được cả hai là được sự hân hoan, và đạt được sự thích ý. Vì lý do đó thế ngài mới nói rằng: “Có được sự hân hoan, đạt được sự thích ý.”

220. Na cassa kiñci bhogānaṃ vayoti kākaṇikamattampi bhogānaṃ vayo na bhaveyya. Tatonidānanti bandhanāmokkhanidānaṃ. Sesaṃ vuttanayeneva sabbapadesu yojetabbaṃ.

220. Không có bất cứ sự thất thoát nào về các của cải: Không có sự thất thoát tài sản dầu chỉ là một cắc kākaṇika. Do việc ấy (thoát khỏi nhà tù): Có việc thoát khỏi gông cùm làm nhân. Từ còn lại trong tất cả các câu theo phương thức đã được trình bày.

221-222. Anattādhīnoti na attani adhīno, attano ruciyā kiñci kātuṃ na labhati. Parādhīnoti paresu adhīno parasseva ruciyā vattati. Na yena kāmaṃ gamoti yena disābhāgenassa gantukāmatā[32] hoti, icchā uppajjati gamanāya, tena gantuṃ na labhati. Dāsabyāti dāsabhāvā. Bhujissoti attano santako. Tatonidānanti bhujissanidānaṃ. Kantāraddhānamagganti kantāraṃ addhānamaggaṃ, nirudakaṃ dīghamagganti attho. Tatonidānanti khemantabhūminidānaṃ.

221-222. Không tự chủ: Không thể tự chủ bản thân, sẽ không thể làm bất cứ điều gì theo sở thích của mình. Lệ thuộc vào người khác: cần phải nương tựa vào người khác, chỉ hành xử theo sự hài lòng của người khác. Không thể đi đâu theo sự ước muốn: vị ấy có mong muốn đi theo hướng nào thì cũng không thể đi theo hướng ấy. Bản thể người nô lệ: bản thể người nô lệ. Là người tự do: là chủ của bản thân. Do việc ấy: có tính chất làm chủ là nguyên nhân. Đi qua con đường dài ở sa mạc: con đường dài hiểm trở, có nghĩa là còn đường dài (ở sa mạc) không có nước uống. Do việc ấy: có nơi chốn an toàn làm nhân.

223. Ime pañca nīvaraṇe appahīneti ettha bhagavā appahīnakāmacchandanīvaraṇaṃ iṇasadisaṃ, sesāni rogādisadisāni katvā dasseti. Tatrāyaṃ sadisatā. Yo hi paresaṃ iṇaṃ gahetvā vināseti, so tehi iṇaṃ dehīti vuccamānopi pharusaṃ vuccamānopi bajjhamānopi vadhīyamānopi kiñci paṭibāhituṃ[33] na sakkoti, sabbaṃ titikkhati. Titikkhākāraṇaṃ hissa taṃ iṇaṃ hoti. Evameva yo yamhi kāmacchandena rajjati, taṇhāsahagatena taṃ vatthuṃ gaṇhati, so tena pharusaṃ vuccamānopi bajjhamānopi vadhīyamānopi sabbaṃ titikkhati, titikkhākāraṇaṃ hissa so kāmacchando hoti, gharasāmikehi vadhīyamānānaṃ itthīnaṃ viyāti, evaṃ iṇaṃ viya kāmacchando daṭṭhabbo.

223. Năm pháp ngăn che này khi chưa được dứt bỏ: Đức Thế Tôn thuyết giảng sự mong muốn trong các dục khi chưa được dứt bỏ giống như khoản nợ, thuyết giảng các pháp ngăn che còn lại tương tự như tật bệnh, trong câu ấy có ví dụ như sau – Thật vậy, một người đã vay nợ của người khác, làm mất mát, người ấy dù bị chủ nợ đòi lại khoản nợ, dù có nói những lời cay nghiệt, dù bị cầm tù, luôn cả việc bị giết, cũng không thể nói gì được phải chịu đựng mọi thứ, bởi vì món nợ của kẻ ấy làm nhân. Bởi vì món nợ của kẻ ấy làm nhân khiến (kẻ ấy) phải chịu đựng, người bị quyến luyến vào các vật do sự mong muốn các dục cũng tương tự như thế, nắm lấy vật đó bởi câu hữu với tham ái, vị ấy dẫu cho bị nói những lời cay nghiệt, dù bị cầm tù, luôn cả việc bị giết, cũng buộc phải chịu đựng mọi thứ. Bởi vì, sự ước muốn các dục của vị ấy làm nhân, giống như sự ước muốn các dục của những người nữ bị chủ nhà sát hại, có thể thấy sự ước muốn các dục cũng giống như khoản nợ như vậy.

Yathā pana pittarogāturo madhusakkarādīsupi dinnesu pittarogāturatāya tesaṃ rasaṃ na vindati, “tittakaṃ tittakan”ti uggiratiyeva. Evameva byāpannacitto hitakāmehi ācariyupajjhāyehi appamattakampi ovadiyamāno ovādaṃ na gaṇhati. “Ati viya me tumhe upaddavethā”tiādīni vatvā vibbhamati. Pittarogāturatāya so puriso madhusakkarādīnaṃ viya kodhāturatāya jhānasukhādibhedaṃ sāsanarasaṃ na vindatīti. Evaṃ rogo viya byāpādo daṭṭhabbo.

Hơn nữa, cũng giống như một người rối loạn do bệnh tật, mặc dầu vị ấy được cho mật ong và đường phên v.v, cũng không thể cảm nhận được những vị ngọt đó, chỉ than phiền rằng: “đắng, đắng”, bởi bản thân bị rối loạn do bệnh tật như thế nào; người có tâm sân hận cũng tương tự như thế ấy, ngay cả thầy tế độ và thầy dạy học vị ước muốn điều lợi ích, trong khi các thầy chỉ nói một vài lời để giáo huấn thì (vị ấy) cũng không nắm lấy lời giáo huấn ấy, mà lại nói rằng: “các thầy thật phiền phức v.v,” rồi từ bỏ các học giới rời đi, vị ấy không đạt được hương vị của Giáo Pháp là sự an lạc thuộc thể loại thiền v.v,  bởi người có tính nóng nảy do sự sân hận, giống như người không nếm được vị ngọt mật ong và đường phên v.v, bởi vì rối loạn do bệnh tật. Nên thấy sự sân hận cũng giống như bệnh tật là như thế.

Yathā pana nakkhattadivase bandhanāgāre baddho puriso nakkhattassa neva ādiṃ na majjhaṃ na pariyosānaṃ passati. so dutiyadivase mutto aho hiyyo nakkhattaṃ manāpaṃ, aho naccaṃ, aho gītantiādīni sutvāpi paṭivacanaṃ na deti. kiṃ kāraṇā? nakkhattassa ananubhūtattā. Evameva thinamiddhābhibhūto bhikkhu vicittanayepi dhammassavane pavattamāne neva tassa ādiṃ na majjhaṃ na pariyosānaṃ jānāti. Sopi uṭṭhite dhammassavane aho dhammassavanaṃ, aho kāraṇaṃ, aho upamāti dhammassavanassa vaṇṇaṃ bhaṇamānānaṃ sutvāpi paṭivacanaṃ na deti. Kiṃ kāraṇā? Thinamiddhavasena dhammakathāya ananubhūtattā. Evaṃ bandhanāgāraṃ viya thinamiddhaṃ daṭṭhabbaṃ.

Giống như hạng người bị giam cầm trong ngục tù vào ngày hội Nakkhatta không được tận mắt chứng kiến từ lúc khai mạc, lúc diễn ra (khoảng giữa), và lúc bế mạc của lễ hội Nakkhatta, kẻ ấy được thoát khỏi ngục tù vào ngày thứ hai đã được nghe rằng: “Ồ, ngày hôm qua có lễ hội rộn ràng tràn ngập niềm vui, khiêu vũ, ca hát cũng vui vẻ.” v.v, (vị ấy) cũng không thể trả lời. Vì sao? Bởi vì không được (trực tiếp) tham gia lễ hội Nakkhatta như thế nào, thì vị Tỳ khưu bị hôn trầm và thụy miên chế ngự cũng tương tự như thế ấy, trong khi lắng nghe thuyết giảng Giáo Pháp, mặc dù (được nghe) bằng nhiều phương pháp đang diễn ra cũng không biết được điểm bắt bắt, điểm giữa và điểm kết thúc của việc lắng nghe Giáo Pháp, thậm chí vị ấy đến khi Pháp thoại được hoàn mãn, mọi người cùng nhau nói tán thán việc lắng nghe Pháp rằng: “Ôi! việc lắng nghe Giáo Pháp! Ôi, có nhân có quả! Ôi, có ví dụ tuyệt vời!” v.v, (vị ấy) cũng không thể trả lời được. Do nguyên nhân gì? Bởi vì bản thân không lắng nghe Giáo Pháp do tác động của hôn trầm và thụy miên. Bậc trí giả nên biết hôn trầm và thuỵ miên giống như ngục tù là như vậy.

Yathā pana nakkhattaṃ kīḷantopi dāso — “Idaṃ nāma accāyikaṃ karaṇīyaṃ atthi, sīghaṃ tattha gacchāhi. No ce gacchasi, hatthapādaṃ vā te chindāmi kaṇṇanāsaṃ vā”ti vutto[34] sīghaṃ[35] gacchatiyeva . Nakkhattassa ādimajjhapariyosānaṃ anubhavituṃ na labhati, kasmā? Parādhīnatāya, evameva vinaye apakataññunā[36] vivekatthāya araññaṃ paviṭṭhenāpi kismiñcideva antamaso kappiyamaṃsepi akappiyamaṃsasaññāya uppannāya vivekaṃ pahāya sīlavisodhanatthaṃ vinayadharassa santikaṃ gantabbaṃ hoti, vivekasukhaṃ anubhavituṃ na labhati, kasmā? Uddhaccakukkuccābhibhūtatāyāti. Evaṃ dāsabyaṃ viya uddhaccakukkuccaṃ daṭṭhabbaṃ.

Giống như người nô lệ vui chơi trong ngày hội Nakkhatta, bị người chủ dặn dò rằng: “Trường hợp khẩn cấp này xảy ra, các ngươi hãy đi đến chỗ đó ngay lập tức, nếu các người không đi thì ta sẽ cắt tay và chân, hoặc lỗ tai, mũi của các ngươi,” họ nhanh chóng chạy đi, không được tham dự để cảm nghiệm lúc bắt đầu, giai đoạn giữa, và kết thúc của lễ hội Nakkhatta. Tại sao? Bởi vì (bản thân) có người khác làm chỗ dựa như thế nào, vị Tỳ khưu không biết con đường thực hành trong Luật thậm chí đi vào rừng vì mục đích sống viễn ly, khi có chút ít hoài nghi khởi lên, thậm chí trong vấn đề loại thịt nên thọ dụng được cũng nói không nên thọ dụng, từ bỏ sự viễn ly, đi tìm kiếm vị tinh thông Luật để thanh lọc giới hạnh, vì thế vị ấy không được cảm nghiệm thọ hưởng sự an lạc khởi lên từ sự viễn ly như thế, vì sao? Bởi bị phóng dật và hối hận chi phối. Bậc trí giả nên hiểu phóng dật và hối hận giống như người nô lệ là như vậy.

Yathā pana kantāraddhānamaggappaṭipanno puriso corehi manussānaṃ viluttokāsaṃ[37] pahatokāsañca[38] disvā daṇḍakasaddenapi sakuṇasaddenapi “corā āgatā”ti ussaṅkitaparisaṅkitova hoti, gacchatipi tiṭṭhatipi nivattatipi, gataṭṭhānato agataṭṭhānameva bahutaraṃ hoti. So kicchena kasirena khemantabhūmiṃ pāpuṇāti vā na vā pāpuṇāti. evameva yassa aṭṭhasu ṭhānesu vicikicchā uppannā hoti, so — “buddho nu kho, no nu kho buddho”tiādinā nayena vicikicchanto adhimuccitvā saddhāya gaṇhituṃ na sakkoti. Asakkonto maggaṃ vā phalaṃ vā na pāpuṇātīti. yathā kantāraddhānamagge — “corā atthi natthī”ti punappunaṃ āsappanaparisappanaṃ apariyogāhanaṃ chambhitattaṃ cittassa uppādento khemantapattiyā antarāyaṃ karoti, evaṃ vicikicchāpi — “buddho nu kho, na buddho”tiādinā nayena punappunaṃ āsappanaparisappanaṃ apariyogāhanaṃ chambhitattaṃ cittassa uppādayamānā ariyabhūmippattiyā antarāyaṃ karotīti kantāraddhānamaggo viya vicikicchā daṭṭhabbā.

Cũng giống như người lữ khách đi quãng đường dài trên sa mạc, nhìn thấy khoảng trống mà một nhóm người đã bị bọn cướp cướp bóc và sát hại, vừa mới nghe được âm thanh gậy gộc, hay tiếng chim chóc cũng khởi lên nỗi nghi hoặc rằng: “Bọn cướp đã đến”, dù đang đi, dù đang đứng, dù đang đi trở lại, ở vị trí đến từ vị trí đi nhiều hơn, vị ấy đi đến địa phận an toàn rất gian nan do túng thiếu, hoặc (có thế) không đi đến như thế nào; người khởi lên sự nghi ngờ ở tám trường hợp-ṭhāna đã sanh khởi cũng tương tự như thế đó, sự nghi hoặc khởi lên như vầy: “Phải chăng đức Phật tồn tại? Phải chăng đức Phật không tồn tại?” khi đã khởi lên sự nghi hoặc thì không thể nắm lấy bởi đức tin, khi không thể thì cũng không thể nào chứng đắc được Đạo và Quả. Khi người ấy vẫn còn sự hoài nghi, sự không chắc chắn, và sự lay động thường xuyên khởi lên trong tâm rằng: “Bọn cướp có hay không?” Làm cho tâm không tin tưởng, có trạng thái kinh hãi khởi lên, gây trở ngại đối với việc đi đến nơi an toàn như thế nào; ngay cả hoài nghi cũng tương tự như thế đó, sự nghi ngờ, sự không chắc chắn, sự lay động thường khởi lên nơi tâm theo cách (đã được nói) – “Phải chăng đức Phật tồn tại? Phải chăng đức Phật không tồn tại?” sẽ làm cản trở đến việc chứng đắc Thánh Đạo. Bậc trí giả nên biết hoài nghi giống như người lữ khách đi quãng đường dài trên sa mạc.

224. Idāni — “seyyathāpi, mahārāja, āṇaṇya”nti ettha bhagavā pahīnakāmacchandanīvaraṇaṃ āṇaṇyasadisaṃ, sesāni ārogyādisadisāni katvā dasseti. Tatrāyaṃ sadisatā, yathā hi puriso iṇaṃ ādāya kammante payojetvā samiddhataṃ patto — “idaṃ iṇaṃ nāma palibodhamūlan”ti cintetvā savaḍḍhikaṃ iṇaṃ niyyātetvā paṇṇaṃ phālāpeyya. athassa tato paṭṭhāya neva koci dūtaṃ peseti, na paṇṇaṃ. so iṇasāmike disvāpi sace icchati, āsanā uṭṭhahati, no ce na uṭṭhahati, kasmā? tehi saddhiṃ nillepatāya alaggatāya. evameva bhikkhu — “ayaṃ kāmacchando nāma palibodhamūlan”ti cintetvā cha dhamme bhāvetvā kāmacchandanīvaraṇaṃ pajahati. te pana cha dhamme mahāsatipaṭṭhāne vaṇṇayissāma. tassevaṃ pahīnakāmacchandassa yathā iṇamuttassa purisassa iṇassāmike disvā neva bhayaṃ na chambhitattaṃ hoti. Evameva paravatthumhi neva saṅgo na baddho hoti.  Dibbānipi rūpāni passato kileso na samudācarati. tasmā bhagavā āṇaṇyamiva kāmacchandappahānaṃ āha.

224. Bây giờ, “này chư Tỳ khưu…giống như không mắc nợ” này đức Thế Tôn so sánh vị đã dứt trừ sự ngăn che do mong muốn ở các dục cũng giống như người không mắc nợ, vị dứt trừ các sự ngăn che còn lại cũng giống như người không bệnh tật v.v. Trong câu đó, có ví dụ như vầy. Giống như người vay khoản nợ rồi bắt tay vào làm việc, sau khi hoàn thành công việc nghĩ rằng: “Đây là khoản nợ làm nhân khiến cho ta lo lắng” hoàn trả được khoản nợ cùng với khoản lãi rồi lấy giấy nợ vứt bỏ. Khi đó chẳng còn ai đến để đề cập khoản nợ này hoặc gửi giấy nợ để đòi nợ như trước nữa. Khi nhìn thấy chủ nợ, nếu muốn tiếp rước (có thế) đứng dậy từ chỗ ngồi, nếu không muốn thì cũng chẳng cần phải đứng dậy. Vì sao? Bởi vì (họ) đã không còn mắc nợ, không còn liên quan gì đến chủ nợ đó nữa như thế nào; Sau khi suy nghĩ “gọi là mong muốn các dục có sự lo lắng làm nhân” (vị ấy) đã tu tập cả sáu Pháp để dứt trừ sự ngăn che do mong muốn trong các dục tương tự như thế đó. Hơn nữa, sau Pháp ấy tôi đã giảng giải trong bài Đại Kinh Thiết Lập Niệm – Mahāsatipaṭṭhāna,Sự lo lắng, sự lay động do nhìn thấy chủ nợ không còn ở nơi người đã trả hết khoản nợ như thế nào; thì sự không bám víu, sự không trói chặt của vị Tỳ khưu đã dứt trừ sự mong muốn trong các dục, sẽ không còn xuất hiện ở đối tượng khác cũng tương tự như thế đó. Giống như nhìn thấy các sắc thậm chí thuộc về thiên giới thì phiền não cũng không xuất hiện. Vì thế, đức Thế Tôn mới thuyết việc dứt trừ mong muốn các dục giống như người trả hết nợ.

Yathā pana so pittarogāturo puriso bhesajjakiriyāya taṃ rogaṃ vūpasametvā tato paṭṭhāya madhusakkarādīnaṃ rasaṃ vindati. Evameva bhikkhu “ayaṃ byāpādo nāma mahā anatthakaro”ti cha dhamme bhāvetvā byāpādanīvaraṇaṃ pajahati. sabbanīvaraṇesu cha dhamme mahāsatipaṭṭhāneyeva vaṇṇayissāma. Na kevalañca teyeva, yepi thinamiddhādīnaṃ pahānāya bhāvetabbā, tepi sabbe tattheva vaṇṇayissāma. So evaṃ pahīnabyāpādo yathā pittarogavimutto puriso madhusakkarādīnaṃ rasaṃ sampiyāyamāno paṭisevati, evameva ācārapaṇṇattiādīni sikkhāpadāni sirasā sampaṭicchitvā sampiyāyamāno sikkhati. tasmā bhagavā ārogyamiva byāpādappahānaṃ āha.

Lại nữa, giống như người khó chịu bởi bệnh tật đó, để làm cho bệnh tình ấy thuyên giảm bằng việc sử dụng thuốc trị bệnh, từ đó biết được hương vị của mật ong và đường phên như thế nào; vị tỳ khưu cũng tương tự như thế đó, khởi lên suy nghĩ rằng: “Sự sân hận này khiến cho ta bị hủy hoại mất đi lợi ích to lớn” đã tu tập 6 Pháp để dứt trừ sự ngăn che do sân hận. Ta sẽ giảng giải sáu Pháp trong toàn bộ các sự ngăn che trong bài Đại Kinh Thiết Lập Niệm. Sáu Pháp này không chỉ tu tập để dứt trừ hôn trầm và thụy miên mà tôi còn sẽ giảng giải toàn bộ các sự ngăn che ấy trong bài Đại Kinh Thiết Lập nữa. Vị tỳ khưu ấy đã dứt trừ sân hận như vậy cũng giống như một người khỏi bệnh ưa thích hương vị của mật ong và đường phên v.v, như thế nào; cũng tương tự như thế ấy (vị tỳ khưu) được thầy cho học tập các phẩm hạnh và giới luật chế định v.v, thọ nhận bằng đầu, ưa thích học tập. Vì thế, đức Thế Tôn mới thuyết việc dứt trừ sân hận giống như (người) không có bệnh.

Yathā so nakkhattadivase bandhanāgāraṃ pavesito puriso aparasmiṃ nakkhattadivase — “pubbepi ahaṃ pamādadosena baddho, tena nakkhattaṃ nānubhaviṃ. Idāni appamatto bhavissāmī”ti yathāssa paccatthikā okāsaṃ na labhanti, evaṃ appamatto hutvā nakkhattaṃ anubhavitvā — ‘aho nakkhattaṃ, aho nakkhattan’ti udānaṃ udānesi, evameva bhikkhu — “idaṃ thinamiddhaṃ nāma mahāanatthakaran”ti cha dhamme bhāvetvā thinamiddhanīvaraṇaṃ pajahati, so evaṃ pahīnathinamiddho yathā bandhanā mutto puriso sattāhampi nakkhattassa ādimajjhapariyosānaṃ anubhavati, evameva dhammanakkhattassa ādimajjhapariyosānaṃ anubhavanto saha paṭisambhidāhi arahattaṃ pāpuṇāti. Tasmā bhagavā bandhanā mokkhamiva thinamiddhappahānaṃ āha.

Giống như hạng người bị bắt tống vào ngục vào ngày diễn ra lễ hội Nakkhatta, vào ngày lễ hội Nakkhatta tiếp theo anh ta nghĩ rằng: – “Ta đã từng bị bắt bởi lỗi lầm của sự khinh suất, mới không được vui chơi vào ngày lễ hội Nakkhatta do bởi lỗi lầm đó. Bây giờ ta sẽ là người không lơ đễnh,” kẻ thù của anh ta sẽ không có cơ hội, do không khinh suất như vậy, cho nên (anh ta) được vui chơi vào ngày lễ hội Nakkhatta rồi thốt lên lời như sau – “Ôi! ngày lễ hội Nakkhatta, Ôi! ngày lễ hội Nakkhatta”; vị tỳ khưu cũng tương tự như vậy, vị ấy nghĩ rằng: – “Hôn trầm và thụy miên này đã khiến cho ta bị mất mát to lớn” vì thế đã tu tập 6 Pháp để đoạn trừ hôn trầm và thụy miên như vậy, hạng người thoát khỏi ngục tù vui chơi trong ngày hội Nakkhatta xuyên suốt từ lúc khai mạc, lúc diễn ra (đoạn giữa), cho đến khi bế mạc cả 7 ngày, cũng đã cảm nghiệm được cả từ lúc khai mạc, lúc giữa, và lúc bế mạc như thế nào; vị tỳ khưu đoạn trừ hôn trầm và thuỵ miên cũng như thế ấy thỏa thích trong Pháp Nakkhatta xuyên suốt ở đoạn đầu, đoạn giữa và đoạn cuối đã chứng đắc A-ra-hán cùng với Tuệ phân tích. Cho nên, đức Thế Tôn thuyết giảng việc dứt trừ hôn trầm và thụy miên giống như việc đã thoát khỏi sự giam cầm.

Yathā pana dāso kiñcideva mittaṃ upanissāya sāmikānaṃ dhanaṃ datvā attānaṃ bhujissaṃ katvā tato paṭṭhāya yaṃ icchati, taṃ karoti. evameva bhikkhu — “idaṃ uddhaccakukkuccaṃ nāma mahā anatthakaran”ti cha dhamme bhāvetvā uddhaccakukkuccaṃ pajahati. So evaṃ pahīnauddhaccakukkucco yathā bhujisso puriso yaṃ icchati, taṃ karoti, na taṃ koci balakkārena tato nivatteti, evameva yathā sukhaṃ nekkhammapaṭipadaṃ paṭipajjati, na taṃ uddhaccakukkuccaṃ balakkārena tato nivatteti. tasmā bhagavā bhujissaṃ viya uddhaccakukkuccappahānaṃ āha.

Lại nữa giống như người nô lệ nương nhờ một số người bạn nào đó, đưa tiền của cho người chủ, làm cho bản thân được trở thành người tự do, kể từ đó người ấy có thể tự làm những điều mình mong muốn như thế nào; vị tỳ khưu cũng tương tự như thế, vị ấy nghĩ rằng: “Phóng dật và hối hận này khiến (ta) bị mất mát to lớn” (vị ấy) mới thực tu tập 6 Pháp để đoạn trừ phóng dật và hối hận. Vị tỳ khưu đó gọi là đã đoạn trừ phóng dật và hối hận bằng biểu hiện như vậy. Người được tự chủ về bản thân mong muốn làm điều nào sẽ làm điều đó, không ai có thể tùy tiện cản trở việc làm đó được như thế nào; vị tỳ khưu thực hành đạo lộ của sự xuất ly theo ý muốn cũng tương tư thế ấy, không có bất cứ ai có thể tùy tiện làm cho vị ấy quay trở lại đạo lộ của sự xuất ly ấy để đi đến phóng dật và hối hận. Vì thế Đức Thế Tôn thuyết việc đoạn trừ phóng dật và hối hận giống như việc tự chủ bản thân.

Yathā balavā puriso hatthasāraṃ gahetvā sajjāvudho saparivāro kantāraṃ paṭipajjeyya, taṃ corā dūratova disvā palāyeyyuṃ. so sotthinā taṃ kantāraṃ nittharitvā khemantaṃ patto haṭṭhatuṭṭho assa. Evameva bhikkhu “ayaṃ vicikicchā nāma mahā anatthakārikā”ti cha dhamme bhāvetvā vicikicchaṃ pajahati . So evaṃ pahīnavicikiccho yathā balavā puriso sajjāvudho saparivāro nibbhayo core tiṇaṃ viya agaṇetvā sotthinā nikkhamitvā khemantabhūmiṃ pāpuṇāti, evameva bhikkhu duccaritakantāraṃ nittharitvā paramaṃ khemantabhūmiṃ amataṃ mahānibbānaṃ pāpuṇāti. tasmā bhagavā khemantabhūmiṃ viya vicikicchāpahānaṃ āha.

Giống như người có sức mạnh đã cầm lấy những thứ có giá trị nhất, chuẩn bị vũ khí cùng với các tùy tùng đi đến sa mạc, bọn cướp nhìn thấy từ đằng xa đã bỏ chạy, người đó vượt qua bãi sa mạc đế đế nơi an toàn một cách tốt đẹp, trở nên vui mừng hoan hỷ như thế nào; vị tỳ khưu cũng tương tự như thế, vị ấy nghĩ rằng: “Hoài nghi này làm (cho ta) bị mất mát to lớn” vị ấy đã tu tập sáu Pháp để đoạn trừ hoài nghi. Sau khi dứt trừ được hoài nghi bằng tính chất như vậy. Người có sức mạnh, có vũ khí đã chuẩn bị trước, cùng với các tùy tùng, khi nhìn thấy bọn cướp, họ không sợ hãi, không quan tâm bọn cướp coi bọn chúng như cỏ, đi đến nơi an toàn một cách tốt đẹp như thế nào; vi tỳ khưu cũng như thế vượt qua bãi sa mạc là các ác hạnh để đạt đến bất tử Niết bàn an lạc tối thượng. Vì thế đức Thế Tôn thuyết hoài nghi giống như người đạt đến nơi an toàn.

225. Pāmojjaṃ jāyatīti tuṭṭhākāro jāyati. Pamuditassa pīti jāyatīti tuṭṭhassa sakalasarīraṃ khobhayamānā pīti jāyati. Pītimanassa kāyo passambhatīti pītisampayuttacittassa puggalassa nāmakāyo passambhati, vigatadaratho hoti. Sukhaṃ vedetīti kāyikampi cetasikampi sukhaṃ vedayati. cittaṃ samādhiyatīti iminā nekkhammasukhena sukhitassa upacāravasenapi appanāvasenapi cittaṃ samādhiyati.

225. Sự hân hoan sanh khởi: sanh khởi trạng thái vui mừng. Đối với người được hân hoan, hỷ sanh khởi: hỷ sanh khởi tràn ngập khắp châu thân của người được vui mừng. Đối với người có tâm hỷ, thân khinh an: danh thân của hạng người có tâm tương ưng với hỷ được khinh an. Cảm nhận sự an lạc: thọ hưởng sự an lạc qua lộ thân và cả lộ tâm. Tâm được định tĩnh: Tâm của hạng người có sự an lạc với lạc của sự xuất ly được an trú vũng chắc nhờ mãnh lực của cận định, và nhờ mãnh lực của an chỉ định.

 

Giảng Giải Về Sơ Thiền

226. So vivicceva kāmehi … pe … paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja viharatītiādi pana upacārasamādhinā samāhite citte uparivisesadassanatthaṃ appanāsamādhinā samāhite citte tassa samādhino pabhedadassanatthaṃ vuttanti veditabbaṃ. Imameva kāyanti imaṃ karajakāyaṃ. Abhisandetīti temeti sneheti, sabbattha pavattapītisukhaṃ karoti. Parisandetīti samantato sandeti. Paripūretīti vāyunā bhastaṃ viya pūreti. Parippharatīti samantato phusati[39]. Sabbāvato kāyassāti assa bhikkhuno sabbakoṭṭhāsavato kāyassa kiñci upādinnakasantatipavattiṭṭhāne chavimaṃsalohitānugataṃ aṇumattampi ṭhānaṃ paṭhamajjhānasukhena aphuṭaṃ nāma na hoti.

226. Vị ấy, ngay sau khi tách ly khỏi các dục …nt… đạt đến và trú thiền thứ nhất: Nên biết rằng đức Thế Tôn thuyết để chỉ ra ân đức đặc biệt cao thượng trong khi tâm định tĩnh nhờ cận định và để chỉ ra thể loại của định ấy trong khi tâm định tĩnh bởi an chỉ định. Chính thân này: Sắc thân này. Làm thấm ướt: làm ướt, chảy ra, khiến hỷ lạc được vận hành ở mọi nơi (trong thân). Làm tẩm ướt: chảy khắp ở xung quanh. Làm tràn ngập: tràn đầy tựa như bơm bởi gió. Làm thấm đẫm: trải ra khắp ở xung quanh. Toàn bộ thân thể: Thân của vị tỳ khưu (vị đắc thiền) ấy mọi phần chẳng có vị trí nào dù một chút ít, dù chỉ làn da, thịt và máu trong thân có tâm chiếm hữu và vẫn có sự liên tục bởi không được thấm nhuần bởi sự an lạc trong sơ thiền.

227. Dakkhoti cheko paṭibalo nhānīyacuṇṇāni kātuñceva payojetuñca sannetuñca[40]. Kaṃsathāleti yena kenaci lohena katabhājane. Mattikabhājanaṃ pana thiraṃ na hoti. sannentassa[41] bhijjati. Tasmā taṃ na dasseti. Paripphosakaṃ paripphosakanti siñcitvā siñcitvā. Sanneyyāti vāmahatthena kaṃsathālaṃ gahetvā dakkhiṇahatthena pamāṇayuttaṃ udakaṃ siñcitvā siñcitvā parimaddanto piṇḍaṃ kareyya. Snehānugatāti udakasinehena anugatā. Snehaparetāti udakasinehena pariggahitā. Santarabāhirāti saddhiṃ antopadesena ceva bahipadesena ca sabbatthakameva udakasinehena phuṭāti attho. na ca paggharaṇīti na ca bindu bindu udakaṃ paggharati, sakkā hoti hatthenapi dvīhipi tīhipi aṅgulīhi gahetuṃ ovaṭṭikāyapi kātunti attho.

227. Khéo tay: người thiện xảo có khả năng để làm, để kết dính, để nặn (sau khi) trộn bột với nước ướt. Vào chậu đồng: trong cái chậu được làm bằng bất kỳ loại đồng nào. Chậu đất là vật không bền, dễ bể khi nhào trộn với nước. Vì thế mới không đem chậu đất để trình bày. Từ từ rưới nước vào và nhồi chung lại: rưới nước vào và nhồi chung lại. Nhồn trộn: Tay trái cầm lấy chậu đồng,  dùng tay phải rưới một lượng nước vừa phải, rồi nào nhào nặn tạo thành khối. Kết dính lại: sự ngấm của nước lan tỏa khắp. Được trộn đều: ngấm bởi sự lan khắp của nước. Cả bên trong lẫn bên ngoài: sự ngấm của nước được thấm nhuần cả bên trong lẫn bên ngoài ở mọi phần. và không tung tóe nước ra ngoài: Không phải là nước sẽ nhỏ ra thành từng giọt, từng giọt, nước ấy có thể rưới bằng tay, bằng 2-3 lóng tay, hoặc thậm chí bằng cái cạp váy.

 

Giảng Giải Về Nhị Thiền

228-229. Dutiyajjhānasukhūpamāyaṃ ubbhidodakoti ubbhinnaudako, na heṭṭhā ubbhijjitvā uggacchanakaudako. antoyeva pana ubbhijjanakaudakoti attho. Āyamukhanti āgamanamaggo. Devoti megho. Kālena kālanti kāle kāle, anvaddhamāsaṃ vā anudasāhaṃ vāti attho. Dhāranti vuṭṭhiṃ. na anuppaveccheyyāti na ca paveseyya, na vasseyyāti attho. Sītā vāridhārā ubbhijjitvāti sītaṃ dhāraṃ uggantvā rahadaṃ pūrayamānaṃ ubbhijjitvā. Heṭṭhā uggacchanaudakañhi uggantvā uggantvā bhijjantaṃ udakaṃ khobheti, catūhi disāhi pavisanaudakaṃ purāṇapaṇṇatiṇakaṭṭhadaṇḍakādīhi udakaṃ khobheti, vuṭṭhiudakaṃ dhārānipātapubbuḷakehi udakaṃ khobheti. sannisinnameva pana hutvā iddhinimmitamiva uppajjamānaṃ udakaṃ imaṃ padesaṃ pharati, imaṃ padesaṃ na pharatīti natthi, tena aphuṭokāso nāma na hotīti. Tattha rahado viya karajakāyo. Udakaṃ viya dutiyajjhānasukhaṃ. sesaṃ purimanayeneva veditabbaṃ.

228-229. Ví dụ về lạc trong Nhị thiền (lý giải như sau), Có nguồn nước: Nước tung tóe. Giải thích không phải nước vỡ ra từ bên dưới rồi phun lên, mà chính là nước phun lên từ chính bên trong đó. Có đường dẫn nước vào: đường dẫn nước vào. Mây mưa: mây mưa. Đúng theo thời tiết: mọi thời. Được giải thích – ở mỗi nửa tháng hoặc mỗi mười ngày. Cơn mưa: cơn mưa. Không đem lại: mưa không chảy, không rơi xuống. Các dòng nước mát phun lên từ hồ nước: dòng nước mát phun lên làm cho hồ nước được tràn đầy được sanh ra. Thât vậy, nước phun lên từ bên dưới, sau khi phun lên đã vỡ ra làm cho gợn sóng, dòng nước chảy từ bốn hướng khiến dòng nước gợn sóng bởi những lá già, cỏ và cành cây v.v. Nước mưa khiến cho dòng nước gợn sóng bởi dòng nước rơi xuống và bong bóng nước. Dòng nước xuất hiện bị nhận chìm như thế tương tự y như hóa hiện bởi thần thông lan tỏa ra khắp quốc độ này, không thể nói không thấm đẫm khắp quốc độ, gọi là hư không mà dòng nước ấy không tràn ngập là không có. Trong vấn đề này đây sắc thân tợ như hồ nước, sự an lạc trong Nhị thiền tợ như nước. Từ còn lại nên biết theo phương cách trước.

 

Giảng Giải Về Tam Thiền

230-231. Tatiyajjhānasukhūpamāyaṃ uppalāni ettha santīti uppalinī. sesapadadvayepi eseva nayo. Ettha ca setarattanīlesu yaṃ kiñci uppalaṃ uppalameva. Ūnakasatapattaṃ puṇḍarīkaṃ, satapattaṃ padumaṃ. Pattaniyamaṃ vā vināpi setaṃ padumaṃ, rattaṃ puṇḍarīkanti ayamettha vinicchayo. Udakānuggatānīti udakato na uggatāni. Anto nimuggaposīnīti udakatalassa anto nimuggāniyeva hutvā posīni, vaḍḍhīnīti attho[42]. Sesaṃ purimanayeneva veditabbaṃ.

230-231. Sự an lạc trong Tam thiền (lý giải như sau), hồ sen xanh: ở chỗ có hoa sen. Luôn cả hai từ còn lại cũng có phương cách này. Và trong ví dụ này trong số hoa sen trắng, hoa sen hồng và hoa sen xanh thì bất kỳ một loại hoa sen nào cũng đều được gọi là hoa sen, hoa sen có cánh hoa ít hơn một trăm gọi là puṇḍarīka, có cánh hoa đến một trăm gọi là paduma. Thêm nữa, ngoại trừ hoa sen được xác định về cánh hoa thì hoa sen trắng gọi là paduma, hoa sen hồng gọi là puṇḍarīka. Trong vấn đề hoa sen này chỉ lý giải chừng ấy. Không vươn ra khỏi nước: Không vươn lên khỏi mặt nước. Chìm trong nước: Chìm ở bên trong nước, được nước nuôi dưỡng, vẫn xinh đẹp. Từ còn lại nên biết theo phương cách trước.

 

Giảng Giải Về Tứ Thiền

232-233. Catutthajjhānasukhūpamāyaṃ parisuddhena cetasā pariyodātenāti ettha nirupakkilesaṭṭhena parisuddhaṃ, pabhassaraṭṭhena pariyodātanti veditabbaṃ. Odātena vatthenāti idaṃ utupharaṇatthaṃ vuttaṃ. kiliṭṭhavatthena hi utupharaṇaṃ na hoti, taṅkhaṇadhotaparisuddhena utupharaṇaṃ balavaṃ hoti. Imissāya hi upamāya vatthaṃ viya karajakāyo, utupharaṇaṃ viya catutthajjhānasukhaṃ. Tasmā yathā sunhātassa purisassa parisuddhaṃ vatthaṃ sasīsaṃ pārupitvā nisinnassa sarīrato utu sabbameva vatthaṃ pharati. Na koci vatthassa aphuṭokāso hoti. Evaṃ catutthajjhānasukhena bhikkhuno karajakāyassa na koci okāso aphuṭo hotīti. Evamettha attho daṭṭhabbo. Imesaṃ pana catunnaṃ jhānānaṃ anupadavaṇṇanā ca bhāvanānayo ca visuddhimagge vuttoti idha na vitthārito.

232-233. Ví dụ sự an lạc trong Tứ thiền (lý giải như sau), với tâm ý hoàn toàn trong sạch, thuần khiết: này có thể biết rằng – được gọi là trong sạch với ý nghĩa không có phiền não ngủ ngầm. Được gọi là thuần khiết với ý nghĩa trong sáng. Bằng tấm vải trắng (chiếc khăn): điều này nói đến hơi ấm được lan tỏa. Thật vậy, sự lan tỏa của hơi ấm không có bởi tấm vải củ. Cũng bởi ví dụ này thì sắc thân tợ như tấm vải, sự an lạc trong Tứ thiền giống như sự lan tỏa của hơi ấm. Vì thế, giống như một người khi đã tắm gội sạch sẽ, lấy chiếc khăn sạch quấn quanh đầu, hơi ấm từ đầu (sẽ) lan tỏa khắp cả chiếc khăn, không có một phần nào của chiếc khăn không thấm đẫm như thế nào; Sắc thân của vị tỳ khưu cũng tương tự như thế ấy, không có bất cứ phần nào mà sự an lạc trong Tứ thiền không thấm đẫm. Ở đây nên biết ý nghĩa như vậy. Hơn nữa, việc giảng giải theo tuần tự và phương thức tu tập của bốn tầng thiền này đã được nói trong bộ Thanh Tịnh Đạo, cho nên sẽ không nói chi tiết trong trường hợp này.

Ettāvatā cesa rūpajjhānalābhīyeva, na arūpajjhānalābhīti na veditabbo. Na hi aṭṭhasu samāpattīsu cuddasahākārehi ciṇṇavasībhāvaṃ[43] vinā upari abhiññādhigamo hoti. Pāḷiyaṃ pana rūpajjhānāniyeva āgatāni. arūpajjhānāni āharitvā kathetabbāni.

Chỉ chừng ấy lý do, vị tỳ khưu bậc sáng trí nên biết rằng: là vị chỉ đắc thiền Sắc giới, vẫn chưa đắc thiền Vô sắc giới. Bởi vì ngoại trừ vị thiện xảo trong tám thiền chứng với mười bốn biểu hiện thì việc chứng đạt thần thông cao hơn không thể có. Tuy nhiên, trong Pāḷi chỉ đề cập riêng thiền Sắc giới mà thôi, nên mới mang thiền Vô sắc giới ra nói cùng.

 

Giảng Giải Về Minh Sát Trí

234. So evaṃ samāhite citte … pe … āneñjappatteti so cuddasahākārehi aṭṭhasu samāpattīsu ciṇṇavasībhāvo bhikkhūti dasseti . Sesamettha visuddhimagge vuttanayena veditabbaṃ. Ñāṇadassanāya cittaṃ abhinīharatīti ettha ñāṇadassananti maggañāṇampi, vuccati phalañāṇampi, sabbaññutaññāṇampi, paccavekkhaṇañāṇampi, vipassanāñāṇampi. “Kiṃ nu kho, āvuso, ñāṇadassanavisuddhatthaṃ bhagavati brahmacariyaṃ vussatī”ti[44] ettha hi maggañāṇaṃ ñāṇadassananti vuttaṃ. “Ayamañño uttarimanussadhammo alamariyañāṇadassanaviseso adhigato phāsuvihāro”ti[45] ettha phalañāṇaṃ. “Bhagavatopi kho ñāṇadassanaṃ udapādi sattāhakālaṅkato āḷāro kālāmo”ti[46] ettha sabbaññutaññāṇaṃ. “Ñāṇañca pana me dassanaṃ udapādi akuppā me vimutti, ayamantimā jātī”ti[47] ettha paccavekkhaṇañāṇaṃ. Idha pana ñāṇadassanāya cittanti idaṃ vipassanāñāṇaṃ ñāṇadassananti vuttanti.

234. Vị tỳ khưu ấy khi tâm được định tĩnh…không lay động như vậy: này vị tỳ khưu có sự thiện xảo trong tám thiền chứng với mười bốn biểu hiện mà vị ấy đã huân tập. Từ còn lại trong Chánh văn này nên biết theo phương cách đã được nói trong bộ Thanh Tịnh Đạo. Hướng dẫn tâm đến sự biết và sự thấy này thì sự biết và sự thấy ngài nói đề cập đến Trí về Đạo, hay Trí về Quả, hay Trí Toàn-giác, hay Trí Độc-giác, hay Minh sát trí đều được. Thật vậy, Trí về Đạo ngài gọi là sự biết và sự thấy trong câu Pāḷī sau: “Này hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích tri kiến thanh tịnh?”; Ở đây, Trí về Quả ngài gọi là sự biết và sự thấy trong câu Pāḷī sau: “Pháp thượng nhân khác này là tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh có (trạng thái) trú ngụ thoải mái, mà ta đã được chứng đạt.” Ở đây, Trí Toàn-giác ngài gọi là sự biết và sự thấy trong câu Pāḷī sau: “Sự biết và sự thấy của đức Thế Tôn cũng đã khởi lên rằng – ‘Vị Āḷāra Kālāma đã từ trần được bảy ngày rồi.’” Ở đây, Trí Độc-giác ngài gọi là sự biết và sự thấy trong câu Pāḷī sau: “Hơn nữa, trí tuệ và sự thấy biết cũng đã khởi sanh nơi ta, sự giải thoát tâm của ta là không thể thay đổi, kiếp sống này là kiếp sống cuối cùng.” Tuy nhiên, ‘hướng dẫn tâm đến sự biết và sự thấy’ trong trường hợp này ngài muốn ám chỉ đến ‘sự biết và sự thấy’ chính là ‘Minh sát trí’.

Abhinīharatīti vipassanāñāṇassa nibbattanatthāya tanninnaṃ tappoṇaṃ tappabbhāraṃ karoti. Rūpīti ādīnamattho vuttoyeva. Odanakummāsūpacayoti odanena ceva kummāsena ca upacito vaḍḍhito. Aniccucchādana-parimaddana-bhedana-viddhaṃsanadhammoti hutvā abhāvaṭṭhena aniccadhammo. Duggandhavighātatthāya tanuvilepanena ucchādanadhammo. aṅgapaccaṅgābādhavinodanatthāya khuddakasambāhanena parimaddanadhammo. Daharakāle vā ūrūsu sayāpetvā gabbhāvāsena dussaṇṭhitānaṃ tesaṃ tesaṃ aṅgānaṃ saṇṭhānasampādanatthaṃ añchanapīḷanādivasena parimaddanadhammo. Evaṃ pariharitopi bhedanaviddhaṃsanadhammo bhijjati ceva vikirati ca, evaṃ sabhāvoti attho. Tattha rūpī cātumahābhūtikotiādīsu chahi padehi samudayo kathito. aniccapadena saddhiṃ pacchimehi dvīhi atthaṅgamo. Ettha sitaṃ ettha paṭibaddhanti ettha cātumahābhūtike kāye nissitañca paṭibaddhañca.

Hướng tâm đến: làm cho hướng đến, làm cho xuôi theo, làm cho thuận theo nhằm mục đích khởi sanh Minh sát trí. Ý nghĩa của từ ‘sắc tướng’ đã được nói rồi. Có sự tích lũy từ cơm và cháo: Có sự tích lũy, có sự trưởng thành nhờ cơm cháo và sữa đặc. Có tính chất vô thường, có việc thoa dầu, đấm bóp, có sự bể vỡ, tiêu hoại là lẽ thường tình: có tính chất vô thường là lẽ thường tình bởi ý nghĩa có rồi lại không. Kỳ cọ thân thể là lẽ thường do bởi sự thoa xức dầu thơm mỏng nhẹ để ngăn chặn mùi hôi của cơ thể. Có sự xoa bóp là lẽ thường bởi vì việc xoa bóp chút chút vì mục đích giảm nhẹ sự mệt mỏi, đau nhức của các chi phần lớn nhỏ. Hoặc, có sự quan tâm chăm sóc tốt là thường tình bởi vì khi còn thơ ấu cha mẹ cho nằm ở trên (giữa) 2 bắp vế rồi nhỏ thuốc nhỏ mắt và xoa bóp, v.v nhằm mục đích để cho đem lại sự hoàn hảo về hình dáng của các chi phần này chi phần nọ có hình dạng không tốt do tác động lúc còn trong bào thai. Mặc dù, được chăm sóc nuôi dưỡng như vậy (sắc thân) này cũng có bản chất vỡ nát tiêu tan. Trong câu ‘có sắc tướng được hợp thành bởi Bốn Sắc Đại Hiển (đất, nước, lửa, gió)’: ngài nói đến sự sanh khởi bằng sáu câu, nói đến sự đoạn diệt với hai câu sau cùng với tính chất vô thường. (Thức này của ta) nương tựa ở thân này, bị trói buộc vào thân này: nương tựa (vào thân này), và bị trói buộc (vào thân này) được hợp thành bởi Bốn Sắc Đại Hiển.

235. Subhoti sundaro. Jātimāti parisuddhākarasamuṭṭhito. Suparikammakatoti suṭṭhu kataparikammo apanītapāsāṇasakkharo. Acchoti tanucchavi. Vippasannoti suṭṭhu pasanno. Sabbākārasampannoti dhovanavedhanādīhi sabbehi ākārehi sampanno. Nīlantiādīhi vaṇṇasampattiṃ dasseti. Tādisañhi āvutaṃ pākaṭaṃ hoti. Evameva khoti ettha evaṃ upamāsaṃsandanaṃ[48] veditabbaṃ. Maṇi viya hi karajakāyo. Āvutasuttaṃ viya vipassanāñāṇaṃ. Cakkhumā puriso viya vipassanālābhī bhikkhu, hatthe karitvā paccavekkhato ayaṃ kho maṇīti maṇino āvibhūtakālo viya vipassanāñāṇaṃ, abhinīharitvā nisinnassa bhikkhuno cātumahābhūtikakāyassa āvibhūtakālo, tatridaṃ suttaṃ āvutanti suttassāvibhūtakālo viya vipassanāñāṇaṃ, abhinīharitvā nisinnassa bhikkhuno tadārammaṇānaṃ phassapañcamakānaṃ vā sabbacittacetasikānaṃ vā vipassanāñāṇasseva[49] vā āvibhūtakāloti.

235. Tốt đẹp: xinh đẹp. Tự sanh khởi: được thiết lập với biểu hiển thanh tịnh. Chuyên gia cắt ngọc: người thợ cắt ngọc thiện xảo lấy hết đất đá và sỏi ra. Bóng loáng: da (bề mặt) mịn. Trong suốt: tinh khiết. Đầy đủ mọi phẩm chất: trọn vẹn với mọi biểu hiện như cọ rửa v.v. ‘Màu xanh’ v.v, ngài trình bày đến sự thành tựu của màu sắc, bởi sợi chỉ được xâu lại được hiển lộ như thế. Tương tự y như thế: ở đây nên biết việc so sánh như vầy. Bởi sắc thân tựa như ngọc ma-ni. Minh sát trí tựa như sợi chỉ xâu lại (chuỗi ngọc). Thời gian nhận biết rõ thân có Bốn Sắc Đại Hiển của vị tỳ khưu ngồi quán xét Minh sát trí tựa như thời gian nhận biết rõ ngọc ma-ni của người đặt viên ngọc ấy trong lòng bàn tay rồi quán xét thấy rằng: ‘đây là viên ngọc ma-ni.’ Thời gian biết rõ đối tượng có Xúc là thứ năm, hay tất cả Tâm và Tâm sở, chính Minh sát trí ấy hiển lộ rõ ràng cùng vị tỳ khưu ngồi quán xét Minh sát trí tương tự như thời gian sợi chỉ hiển lộ rõ rằng rằng: ‘Sợi chỉ này đã xâu lại chuỗi ngọc ma-ni ấy.’

Idañca vipassanāñāṇaṃ maggañāṇānantaraṃ. Evaṃ santepi yasmā abhiññāvāre āraddhe etassa antarāvāro natthi tasmā idheva dassitaṃ. Yasmā ca aniccādivasena akatasammasanassa dibbāya sotadhātuyā bheravaṃ saddaṃ suṇato, pubbenivāsānussatiyā bherave khandhe anussarato, dibbena cakkhunā bheravampi rūpaṃ passato bhayasantāso uppajjati, na aniccādivasena katasammasanassa tasmā abhiññaṃ pattassa bhayavinodanahetusampādanatthampi idaṃ idheva dassitaṃ. api ca yasmā vipassanāsukhaṃ nāmetaṃ maggaphalasukhasampādakaṃ pāṭiyekkaṃ sandiṭṭhikaṃ sāmaññaphalaṃ tasmāpi āditova idaṃ idha dassitanti veditabbaṃ.

Minh sát trí này thuận theo tuần tự của Trí về Đạo. Mặc dù như vậy bởi vì Minh sát trí này không có khoảng cách trong khi bắt đầu phần thắng trí, vì thế ngài mới thuyết ngay ở trường hợp này. Hơn nữa, do khi vị tỳ khưu không thực hiện việc quán sát theo trạng thái vô thường, lắng nghe âm thanh đáng sợ bằng Thiên nhĩ, nhớ lại Uẩn ghê tởm bằng trí nhớ về các kiếp sống khác, nhìn thấy các sắc tướng ghê rợn bằng Thiên nhãn, sự khiếp đảm và hoảng sợ sanh khởi. Trạng thái kinh sợ như đã nói không sanh khởi đối với vị tỳ khưu, vị thực hiện việc quán sát do mãnh lực (tướng trạng) vô thường v.v, vì thế ngài mới thuyết Minh sát trí này ngay trong trường hợp này, nhằm thuyết đến nhân để xua tan sự sợ hãi của vị tỳ khưu chứng đạt thắng trí cho đầy đủ. Thêm nữa, được gọi là sự an lạc trong Minh sát này làm phương tiện (đưa đến) sự an lạc trong Đạo và Quả được trọn vẹn, là riêng biệt (từng vị), là quả báo hạnh Sa-môn, vì thế, ngài mới thuyết Minh sát trí này trong trường hợp này từ lúc đầu.

 

Nói Về Thần Thông Do Ý Tạo

236-237. Manomayanti manena nibbattitaṃ. Sabbaṅgapaccaṅginti sabbehi aṅgehi ca paccaṅgehi ca samannāgataṃ. ahīnindriyanti saṇṭhānavasena avikalindriyaṃ. iddhimatā nimmitarūpañhi sace iddhimā odāto tampi odātaṃ. Sace aviddhakaṇṇo tampi aviddhakaṇṇanti evaṃ sabbākārehi tena sadisameva hoti. Muñjamhā īsikantiādi upamāttayampi hi sadisabhāvadassanatthameva vuttaṃ. muñjasadisā eva hi tassa anto īsikā hoti. Kosisadisoyeva asi, vaṭṭāya kosiyā vaṭṭaṃ asimeva pakkhipanti, patthaṭāya patthaṭaṃ. Karaṇḍāti idampi ahikañcukassa nāmaṃ, na vilīvakaraṇḍakassa. ahikañcuko hi ahinā sadisova hoti. tattha kiñcāpi “puriso ahiṃ karaṇḍā uddhareyyā”ti hatthena uddharamāno viya dassito, atha kho cittenevassa uddharaṇaṃ veditabbaṃ. Ayañhi ahi nāma sajātiyaṃ ṭhito, kaṭṭhantaraṃ vā rukkhantaraṃ vā nissāya, tacato sarīraṃ nikkaḍḍhanappayogasaṅkhātena thāmena, sarīraṃ khādayamānaṃ[50] viya purāṇatacaṃ jigucchantoti imehi catūhi kāraṇehi sayameva kañcukaṃ pajahati, na sakkā tato aññena uddharituṃ, tasmā cittena uddharaṇaṃ sandhāya idaṃ vuttanti veditabbaṃ. Iti muñjādisadisaṃ imassa bhikkhuno sarīraṃ, īsikādisadisaṃ nimmitarūpanti. Idamettha opammasaṃsandanaṃ. Nimmānavidhānaṃ panettha parato ca iddhividhādipañcābhiññākathā sabbākārena visuddhimagge vitthāritāti tattha vuttanayeneva veditabbā. Upamāmattameva hi idha adhikaṃ.

Hóa hiện ra bởi ý: Được sanh ra bởi tâm. Có tất cả các bộ phận thân thể lớn nhỏ: là hội đủ bởi tất cả các chi phần và với năm bộ phận. Có quyền không bị khiếm khuyết: có giác quan không bị khiếm khuyết về hình dạng. Thật vậy, sắc tướng do thần thông hóa hiện ra của hạng người có thần thông tương tự với sắc tướng ấy với tất cả mọi biểu hiện như thế, giả sử người có thần thông trắng thì chính sắc do thần thông hóa hiện cũng màu trắng. Giả sử người có thần thông có lỗ ta không được xỏ lỗ thì chính sắc (do thần thông hóa hiện) ấy cũng có lỗ tai không được xỏ lỗ. Thậm chí cả 3 ví dụ được bắt đầu rút lấy phần ruột ra từ cọng cỏ muñja: ngài nói nhằm mục đích trình bày sự giống nhau bởi vì phần ruột bên trong của cây cỏ muñja ấy giống với chính thân cỏ muñja, khi rút thanh gươm khỏi vỏ bọc rồi đặt thanh gươm lại chỗ được rút ra, thanh gươm cũng giống như chính loại cỏ ấy. Karaṇḍā đây chính là tên gọi của xác rắn lột, không phải là tên của cái giỏ tre. Bởi vì da rắn lột cũng giống với con rắn. Ở đó ngài thuyết “người đàn ông có thể kéo lớp da rắn ra” cũng giống như một người kéo lớp da rắn bằng tay, quả thật nên hiểu rằng rút ra khỏi bằng tâm của chính hạng người ấy. Thường loài rắn tự lột da bởi 4 lý do sau (1) được đặt trong sự sinh sản của chính nó, (2) do nương vào giữa khúc gỗ hoặc ở giữa thân cây, (3) thay lớp da cũ như thể đang siết chặt thân mình, với sức mạnh được nói là sự cố gắng để kéo thân thể ra khỏi lớp da, (4) có sự ghê tởm lớp da như thế lớp da ăn thân mình, không thể thay da bằng bất kỳ cách nào khác ngoài bốn cách thức đó. Vì thế, nên biết rằng lời này ngài nói đề cập đến sự kéo ra do tâm. Với ví dụ như thế, thân thể của vị Tỳ khưu này giống như thân cây cỏ muñjā v.v, sắc tướng do thần thông hóa hiện cũng giống như phần ruột bên trong v.v, ở trong trường hợp này nói đến quá trình hóa hiện và lời nói về 5 thắng trí có biến hóa thông v.v, ngài đã nói chi tiết mọi khía cạnh trong bộ Thanh Tịnh Đạo. Nên biết theo phương thức như đã được nói trong bộ Thanh Tịnh Đạo ấy. Bởi vì ở đây ngài chỉ đơn thuần nói thêm ví dụ so sánh mà thôi.

 

Nói Về Biến Hóa Thông

238-239. Tattha chekakumbhakārādayo viya iddhividhañāṇalābhī bhikkhu daṭṭhabbo. suparikammakatamattikādayo viya iddhividhañāṇaṃ daṭṭhabbaṃ. icchiticchitabhājanavikatiādikaraṇaṃ viya tassa bhikkhuno vikubbanaṃ daṭṭhabbaṃ.

238-239. Trong Pāḷī ấy, vị tỳ khưu đạt được trí về biến hóa thông, tựa như người thợ gốm thiện xảo. Nên biết trí về biến hóa thông tựa như đất sét (được người thợ gốm) làm trơn láng thật khéo. Nên biết việc biến hóa thông của vị tỳ khưu ấy giống như việc làm ra nhiều loại bình đựng khác nhau mà bản thân mong muốn.

240-241. Dibbasotadhātūpamāyaṃ yasmā kantāraddhānamaggo sāsaṅko hoti sappaṭibhayo. tattha ussaṅkitaparisaṅkitena ‘ayaṃ bherisaddo’, ‘ayaṃ mudiṅgasaddo’ti na sakkā vavatthapetuṃ, tasmā kantāraggahaṇaṃ akatvā khemamaggaṃ dassento addhānamaggappaṭipannoti āha. appaṭibhayañhi khemamaggaṃ sīse sāṭakaṃ katvā saṇikaṃ paṭipanno vuttappakāre sadde sukhaṃ vavatthapeti. Tassa savanena tesaṃ tesaṃ saddānaṃ āvibhūtakālo viya yogino dūrasantikabhedānaṃ dibbānañceva mānussakānañca saddānaṃ āvibhūtakālo veditabbo.

240-241. Ví dụ về Thiên nhĩ giới (lý giải như sau) – đi qua con đường dài ở sa mạc là nơi nguy hiểm, có sự kinh hoàng. Người không tin tưởng, ngờ vực về con đường ấy thì không thể xác định được rằng ‘đây là tiếng trống’, ‘đây là tiếng trống vỗ hai mặt’, trong khi chỉ ra con đường an toàn mới thuyết rằng: “đi qua con đường dài” không sử dụng từ ‘băng qua sa mạc’. Bởi vì con đường an toàn, người lấy chiếc khăn trùm đầu từ từ bước đi (có thể) xác định được các âm thanh khác nhau như đã nói được dễ dàng, nên biết rằng: trong lúc âm thanh thuộc thiên giới và âm thanh loài người ở xa và gần hiện hữu đối với hành giả, tương tự thời gian lắng nghe các âm thanh hiện hữu do tác động xác định âm thanh được dễ dàng ấy.

242-243. Cetopariyañāṇūpamāyaṃ daharoti taruṇo. Yuvāti yobbannena samannāgato. Maṇḍanakajātikoti yuvāpi samāno na ālasiyo na kiliṭṭhavatthasarīro, atha kho maṇḍanapakatiko, divasassa dve tayo vāre nhāyitvā suddhavatthaparidahanālaṅkārakaraṇasīloti attho. sakaṇikanti kāḷatilakavaṅgamukhadūsipīḷakādīnaṃ[51] aññatarena sadosaṃ. Tattha yathā tassa mukhanimittaṃ paccavekkhato mukhe doso pākaṭo hoti, evaṃ cetopariyañāṇāya cittaṃ abhinīharitvā nisinnassa bhikkhuno paresaṃ soḷasavidhaṃ cittaṃ pākaṭaṃ hotīti veditabbaṃ.

242-243. Ví dụ về Trí biết được tâm (lý giải như sau) – một thiếu niên trẻ tuổi: thiếu niên trẻ. Thiếu nữ: sự phối hợp với tính chất trẻ trung. Có tánh ưa thích trang điểm: Khi vẫn còn là một thiếu nữ sẽ không lười biếng, không phải người có y phục và thân hình bẩn thỉu, quả thật đều có tánh ưa thích trang điểm. Có nghĩa là – mỗi ngày tắm 2-3 lần rồi mặc quần áo sạch sẽ và trang điểm. Mặt có nốt ruồi: gương mặt có bất kỳ một nhược điểm nào chẳng hạn như nốt ruồi, sẹo, mụn nhọt, mụn cóc v.v, trong câu này nên biết như vầy: giống như khi người ấy nhìn (vào gương) thấy hình của mình, thì những nhược điểm trên hình ảnh được hiển lộ như thế nào; Nên biết rằng 16 loại tâm của người khác (sẽ) hiện khởi nơi vị tỳ khưu ngồi hướng tâm đến bằng Trí biết được tâm giống như khuyết điểm trên khuôn mặt xuất hiện nơi một thiếu niên trẻ xem xét hình ảnh (của mình) tương tự như thế ấy.

244-245. Pubbenivāsañāṇūpamāyaṃ taṃ divasaṃ katakiriyā pākaṭā hotīti taṃ divasaṃ gatagāmattayameva gahitaṃ. Tattha gāmattayagatapuriso viya pubbenivāsañāṇalābhī daṭṭhabbo, tayo gāmā viya tayo bhavā daṭṭhabbā, tassa purisassa tīsu gāmesu taṃ divasaṃ katakiriyāya āvibhāvo viya pubbenivāsāya cittaṃ abhinīharitvā nisinnassa bhikkhuno tīsu bhavesu katakiriyāya pākaṭabhāvo daṭṭhabbo.

244-245. Ví dụ về Trí nhớ về các kiếp sống trước (lý giải như sau) – hành động đã tạo trong ngày hôm nay được hiển lộ, vì thế mới xác định rằng – chính ba ngôi làng đã đi vào ngày hôm đó. Trong cấu đó, nên biết rằng vị tỳ khưu chứng đắc Túc Mạng Thông giống như hạng người đi đến ba ngôi làng. Ba cõi giống như ba ngôi làng. Sự nhận thức rõ ràng hành động đã làm trong ba cõi hiển lộ đối với vị tỳ khưu ngồi hướng tâm vì Túc Mạng Thông giống như tính chất rõ ràng của hành động đã làm vào ngày hôm đó ở trong ba ngôi làng của người ấy.

246-247. Dibbacakkhūpamāyaṃ vīthiṃ sañcaranteti aparāparaṃ sañcarante. vīthiṃ carantetipi[52] pāṭho. ayamevattho. Tattha nagaramajjhe siṅghāṭakamhi pāsādo viya imassa bhikkhuno karajakāyo daṭṭhabbo, pāsāde ṭhito cakkhumā puriso viya ayameva dibbacakkhuṃ patvā ṭhito bhikkhu, gehaṃ pavisantā viya paṭisandhivasena mātukucchiyaṃ pavisantā, gehā nikkhamantā viya mātukucchito nikkhamantā, rathikāya vīthiṃ sañcarantā viya aparāparaṃ sañcaraṇakasattā, purato abbhokāsaṭṭhāne majjhe siṅghāṭake nisinnā viya tīsu bhavesu tattha tattha nibbattasattā, pāsādatale ṭhitapurisassa tesaṃ manussānaṃ āvibhūtakālo viya dibbacakkhuñāṇāya cittaṃ abhinīharitvā nisinnassa bhikkhuno tīsu bhavesu nibbattasattānaṃ āvibhūtakālo daṭṭhabbo. Idañca desanāsukhatthameva vuttaṃ. Āruppe pana dibbacakkhussa gocaro natthīti.

246-247. Ví dụ Thiên nhãn (lý giải như sau) – đang đi trên đường: đi đi lại lại trên đường, Pāḷī ‘vīthiṃ carante – đang đi trên đường’ cũng có. Điều này có ý nghĩa tương tự. Ở đó, sắc thân của vị tỳ khưu có thể thấy giống như tòa lâu đài ở ngã ba đường ở giữa thành phố, vị tỳ khưu đã đắc chứng Thiên nhãn có thế thấy giống như người có mắt tốt đứng trên tòa lâu đài. Chúng sanh nhập vào mẫu thai do mãnh lực của sự chết và sự tái tục có thể thấy giống như người đi vào nhà. Chúng sanh lọt lòng mẹ có thể thấy giống như người đi ra khỏi nhà. Chúng sanh đang đi đi lại lại có thể thấy giống như người đi đi lại lại trên những con đường khác nhau. Chúng sanh được sanh ra ở nơi này nơi kia trong ba cõi có thể thấy giống như người ngồi ở ngã ba đường ở giữa nơi thoáng đãng phía trước. Thời gian chúng sanh được sanh ra trong ba cõi hiển hiện rõ ràng nơi vị tỳ khưu ngồi hướng tâm vì trí về Thiên nhãn có thể thấy giống như thời gian mọi người được hiển lộ rõ ràng nơi người đang đứng ở trên toàn lâu đài. Và việc so sánh này ngài nói chỉ để thuyết cho được dễ hiểu mà thôi. Tuy nhiên, trong cõi Vô sắc không có đối tượng của Thiên nhãn.

 

Nói Về Lậu Tận Trí

248. So evaṃ samāhite citteti idha vipassanāpādakaṃ catutthajjhānacittaṃ veditabbaṃ. Āsavānaṃ khayañāṇāyāti āsavānaṃ khayañāṇanibbattanatthāya. Ettha ca āsavānaṃ khayo nāma maggopi phalampi nibbānampi bhaṅgopi vuccati. “Khaye ñāṇaṃ, anuppāde ñāṇan”ti ettha hi maggo āsavānaṃ khayoti vutto. “Āsavānaṃ khayā samaṇo hotī”ti[53] ettha phalaṃ.

“Paravajjānupassissa, niccaṃ ujjhānasaññino.

Āsavā tassa vaḍḍhanti, ārā so āsavakkhayā”ti. (dha. pa. 253).

Ettha nibbānaṃ. “Āsavānaṃ khayo vayo bhedo aniccatā antaradhānan”ti ettha bhaṅgo. Idha pana nibbānaṃ adhippetaṃ. arahattamaggopi vaṭṭatiyeva.

248. Vị tỳ khưu ấy khi tâm được định tĩnh: nên biết rằng tâm trong Tứ thiền làm nền tảng của Minh sát. Vì trí diệt trừ các lậu hoặc: Nhằm mục đích cho sanh khởi lậu tận trí. Được gọi là ‘lậu tận’ trong trường hợp này ngài gọi là Đạo, hay Quả, hay Nibbāna, hay sự tan rã. Thật vậy, Đạo ngài gọi là ‘lậu tận’ trong câu sau: “Trí trong Đạo, Trí trong sự không sanh khởi.” Ở đây, Quả ngài gọi là ‘lậu tận’ trong câu sau: “Là Sa-môn do đoạn tận tất cả lậu hoặc.

Ở đây, Nibbāna ngài gọi là ‘lậu tận’ trong câu sau: “Đối với kẻ thường tìm tòi lỗi của người khác, luôn có ý tưởng phê phán, các lậu hoặc của kẻ ấy tăng trưởng, kẻ ấy cách xa sự diệt trừ các lậu hoặc.” Ở đây, Sự tan rã ngài gọi là ‘lậu tận’ trong câu sau: “Các lậu hoặc tiêu hoại, hoại diệt, tan rã, sụp đổ, không tồn tại.” Tuy nhiên, trong trường hợp này ngài muốn đề cập đến Nibbāna, luôn cả A-ra-hán Đạo cũng sử dụng được tương tự.

Cittaṃ abhinīharatīti vipassanā cittaṃ tanninnaṃ tappoṇaṃ tappabbhāraṃ karoti. So idaṃ dukkhantiādīsu “ettakaṃ dukkhaṃ, na ito bhiyyo”ti sabbampi dukkhasaccaṃ sarasalakkhaṇapaṭivedhena yathābhūtaṃ pajānātīti attho. Tassa ca dukkhassa nibbattikaṃ[54] taṇhaṃ “ayaṃ dukkhasamudayo”ti. Tadubhayampi yaṃ ṭhānaṃ patvā nirujjhati, taṃ tesaṃ appavattiṃ nibbānaṃ “ayaṃ dukkhanirodho”ti; tassa ca sampāpakaṃ ariyamaggaṃ “ayaṃ dukkhanirodhagāminī paṭipadā”ti sarasalakkhaṇapaṭivedhena yathābhūtaṃ pajānātīti attho.

Hướng tâm đến: Khiến tâm Minh sát hướng đến, nghiêng theo, thuận theo trí về sự đoạn tận của các lậu hoặc ấy. Vị ấy biết rõ: ‘Đây là khổ’: Biết rõ chân lý về khổ, thậm chí toàn bộ đúng theo thực thể với sự thấu triệt tướng trạng cùng với phận sự (rằng): “Khổ chỉ chừng này, hơn thế này không có”. Và biết rõ tham ái là nhân sanh của khổ ấy rằng: “Đây là nguyên nhân sanh Khổ”. Và biết rõ vị trí khổ và nhân sanh khổ, cả hai pháp đã đạt đến đoạn diệt, là sự không vận hành, sự diệt của khổ và nhân sanh khổ ấy rằng: “Đây là sự diệt của khổ”. Và biết rõ Thánh Đạo làm cho Khổ Diệt ấy đạt đến đúng theo thực thể bằng việc thấu triệt tướng trạng cùng với phận sự rằng: “Đây là đạo lộ đưa đến sự diệt tận khổ.”

Evaṃ sarūpato saccāni dassetvā puna kilesavasena pariyāyato dassento “ime āsavā”tiādimāha. Tassa evaṃ jānato evaṃ passatoti tassa bhikkhuno evaṃ jānantassa evaṃ passantassa, saha vipassanāya koṭippattaṃ maggaṃ kathesi. Kāmāsavāti kāmāsavato. Vimuccatīti iminā maggakkhaṇaṃ dasseti. Vimuttasminti iminā phalakkhaṇaṃ. Vimuttamiti ñāṇaṃ hotīti iminā paccavekkhaṇañāṇaṃ. Khīṇā jātītiādīhi tassa bhūmiṃ. Tena hi ñāṇena khīṇāsavo paccavekkhanto khīṇā jātītiādīni pajānāti.

Như vậy, sau khi thuyết giảng các ‘Chân Lý’ theo cách vắn tắt, bây giờ khi thuyết các ‘Chân Lý’ theo cách gián tiếp do tác động của phiền não đức Thế Tôn thuyết rằng: ​​Ðây là những lậu hoặc v.v. Đối với vị ấy, trong khi biết được như thế, trong khi thấy được như thế: khi vị tỳ khưu đó biết như vậy, thấy như vậy, mới nói đến Đạo đạt đến đỉnh cao cùng với Minh sát. Dục Lậu: Từ dục lậu. ​​Được giải thoát: thuyết đến sát-na Đạo. Khi đã được giải thoát: thuyết đến sát-na Quả. Khi đã được giải thoát, trí khởi lên rằng: ‘Đã được giải thoát.’: thuyết về paccavekkhaṇañāṇa [trí tuệ quán chiếu lại thánh đạo, thánh quả, Niết-bàn, phiền não đã bị diệt tận, và phiền não còn dư sót]. Sự tái sanh đã cạn kiệt v.v,: thuyết về địa phận của paccavekkhaṇañāṇa đó. Bởi vì, bậc Lậu Tận trong khi quán chiếu lại bằng trí tuệ ​đó (vị ấy) biết rõ rằng: Sự tái sanh đã cạn kiệt v.v.

Katamā panassa jāti khīṇā? Kathañca naṃ pajānātīti? na tāvassa atītā jāti khīṇā, pubbeva khīṇattā. na anāgatā, anāgate vāyāmābhāvato. Na paccuppannā, vijjamānattā. yā pana maggassa abhāvitattā uppajjeyya ekacatupañcavokārabhavesu ekacatupañcakkhandhappabhedā jāti, sā maggassa bhāvitattā āyatiṃ anuppādadhammataṃ āpajjanena khīṇā. Taṃ so maggabhāvanāya pahīnakilese paccavekkhitvā “kilesābhāve vijjamānampi kammaṃ āyatiṃ appaṭisandhikaṃva hotī”ti jānanto pajānāti.

Kiếp sống nào của vị tỳ khưu ấy cạn kiệt’? Và vị tỳ khưu ấy biết rõ được kiếp sống đó như thế nào? Không phải kiếp quá khứ của vị ấy đã tận, bởi vì kiếp quá khứ đã qua rồi; không phải kiếp sống vị lai của vị ấy vẫn chưa tận, bởi vì vị ấy không có sự nỗ lực trong tương lai; không phải kiếp sống hiện tại đã tận, bởi vì kiếp sống hiện tại (Ngũ Uẩn) vẫn còn tồn tại; nhưng kiếp sống nào chia rẽ thành (sự sanh của) Nhất Uẩn trong cõi Nhất Uẩn [ekavokārabhava], Tứ Uẩn trong cõi Tứ uẩn [catuvokārabhava], và Ngũ Uẩn trong cõi Ngũ Uẩn [pañcavokārabhava] sanh khởi được do không làm trạng thái phát triển của Thánh Đạo sanh khởi; kiếp sống đó được coi là đã tận bởi đạt đến bản chất không sanh khởi, nhờ trạng thái phát triển của Thánh Đạo. Vị tỳ khưu ấy quán chiếu phiền não đã đoạn trừ nhờ (trạng thái) phát triển của tâm Đạo; và biết rằng: “khi phiền não không còn hiện hữu thì các hành động xuất hiện cũng sẽ không còn tạo tác khiến cho tục sanh tiếp tục nữa” gọi là biết rõ kiếp sống đó.

Vusitanti vutthaṃ parivutthaṃ. Brahmacariyanti maggabrahmacariyaṃ. Puthujjanakalyāṇakena hi saddhiṃ satta sekkhā[55] brahmacariyavāsaṃ vasanti nāma, khīṇāsavo vutthavāso, tasmā so attano brahmacariyavāsaṃ paccavekkhanto vusitaṃ brahmacariyanti pajānāti. Kataṃ karaṇīyanti catūsu saccesu catūhi maggehi pariññā-pahāna-sacchikiriyā-bhāvanāvasena soḷasavidhaṃ kiccaṃ niṭṭhāpitaṃ. Tena tena maggena pahātabbakilesā pahīnā, dukkhamūlaṃ samucchinnanti attho. Puthujjanakalyāṇakādayo hi taṃ kiccaṃ karonti, khīṇāsavo katakaraṇīyo. Tasmā so attano karaṇīyaṃ[56] paccavekkhanto kataṃ karaṇīyanti pajānāti. Nāparaṃ itthattāyāti idāni puna itthabhāvāya evaṃ soḷasakiccabhāvāya kilesakkhayabhāvāya vā kattabbaṃ maggabhāvanākiccaṃ me natthīti pajānāti. Atha vā itthattāyāti itthabhāvato[57] imasmā evaṃ pakārā. Idāni vattamānakhandhasantānā aparaṃ khandhasantānaṃ mayhaṃ natthi. Ime pana pañcakkhandhā pariññātā tiṭṭhanti chinnamūlakā rukkhā viya, te carimakacittanirodhena anupādāno viya jātavedo nibbāyissanti apaṇṇattikabhāvañca gamissantīti pajānāti.

Đã thành: đã sống, đã sống hoàn hảo, có nghĩa là đã được làm, đã được thực hiện, đã hoàn thành. Phạm hạnh: đạo lộ Phạm hạnh. Cả thảy bảy bậc Hữu học tính luôn phàm nhân tốt lành gọi là đang thực hành Phạm hạnh, bậc Lậu Tận có Phạm hạnh đã sống. Bởi thế bậc Lậu Tận trong khi quán chiếu lại sự sống thực hành Phạm hạnh của mình, (vị ấy) biết rõ rằng Phạm hạnh đã sống. Việc cần làm đã làm: tất cả 16 phận sự do tác động sự biết rõ, sự đoạn trừ, tác chứng, và việc phát triển để 4 Đạo sanh khởi trong 4 Chân Lý đã thành tựu. Có nghĩa là phiền não mà Đạo đó cần dứt trừ vị ấy đã dứt trừ, nhân của khổ vị ấy đã đoạn trừ. Thật vậy, phàm nhân tốt lành vẫn đang thực hành phận sự đó, bậc Lậu Tận có việc cần làm đã làm. Bởi thế, bậc Lậu Tận khi quán chiếu đến việc làm mà bản thân đã làm, (vị ấy) biết rõ rằng: “phận sự cần làm ta đã hoàn thành.” Không còn gì khác (phải làm) đối với bản thể (A-ra-hán) này nữa: Biết rõ rằng – phận sự là (trạng thái) phát triển tâm Đạo đối với bản thể (A-ra-hán) này, tức là vì tính chất 16 phận sự hoặc vì tính chất (làm cho) cạn kiệt tất cả mọi phiền não như thế, vào lúc này không còn tồn tại nơi ta. Hơn nữa, đối với bản thể (A-ra-hán) này nữa: Biết rõ rằng sự tiếp nối liên tục của các Uẩn khác từ bản thể này, tức là từ sự tiếp nối liên tục của Uẩn đang vận hành vào lúc này có (tính chất) như vầy không có nơi ta. Hơn nữa, ngũ uẩn này đã được ta biết toàn diện về sự thiết lập giống như thân cây bị chặt đứt gốc rễ, ngũ uẩn ấy sẽ diệt tương tự như ngọn đuốc đã bị hết tim đèn và sẽ đạt đến tính chất không chấp thủ bởi tâm thức cuối cùng đoạn diệt.

249. Pabbatasaṅkhepeti pabbatamatthake. anāviloti nikkaddamo. sippiyo ca sambukā ca[58] sippisambukaṃ. Sakkharā ca kathalāni[59] ca sakkharakathalaṃ. Macchānaṃ gumbā ghaṭāti macchagumbaṃ. Tiṭṭhantampi carantampīti ettha sakkharakathalaṃ tiṭṭhatiyeva, itarāni carantipi tiṭṭhantipi. Yathā pana antarantarā ṭhitāsupi nisinnāsupi vijjamānāsupi “etā gāvo carantī”ti carantiyo upādāya itarāpi carantīti vuccanti. Evaṃ tiṭṭhantameva sakkharakathalaṃ upādāya itarampi dvayaṃ tiṭṭhantanti vuttaṃ. Itarañca dvayaṃ carantaṃ upādāya sakkharakathalampi carantanti vuttaṃ. Tattha cakkhumato purisassa tīre ṭhatvā passato sippikasambukādīnaṃ vibhūtakālo viya āsavānaṃ khayāya cittaṃ abhinīharitvā nisinnassa bhikkhuno catunnaṃ saccānaṃ vibhūtakālo daṭṭhabboti.

249. Pabbatasaṅkhepe đồng nghĩa với pabbatamatthake  (trên đỉnh ngọn núi). Không bị bợn nhơ: Không có bùn lầy. Những con ốc, những con hến: những con ốc  và những con hến. Những hòn đá, những hòn sỏi: Những hòn đá và những hòn sỏi. Đàn cá: với ý nghĩa (sống) thành bầy, thành đàn. Đang di chuyển, (hay) đang dừng lại: này những hòn đá, hay những viên sỏi đứng im, ngoài ra đàn cá, con ốc v.v, đang di chuyển, (hoặc) đang đứng lại. Tương tự như thế giữa một đàn bò có những con bò đang đứng, đang cúi mình, đang nằm xuống, đàn bò đó gọi là ‘những con bò đang đi’, những con bò ngoài ra cũng được gọi là ‘những con bò đang đi’ do y cứ vào những con bò đang đi như thế nào, vị ấy muốn đề cập đến những hòn đá, những viên gạch đang dừng lại ở đó, mới nói rằng hai nhóm ngoài ra dừng lại. Muốn ám chỉ hai nhóm này di chuyển mới nói rằng thậm chi những hòn đá, và những hòn sỏi cũng di chuyển. Trong trí về sự diệt tận các lậu hoặc đó nên biết rằng – thời gian bốn Chân Lý được hiện hữu rõ ràng cùng chư Tỳ khưu ngồi hướng tâm để diệt tận tất cả lâu hoặc, giống như thời gian những con ốc, những con sò v.v, hiển lộ rõ ràng cùng người có mắt tốt đứng ở trên bờ nhìn xuống.

Ettāvatā vipassanāñāṇaṃ, manomayañāṇaṃ, iddhividhañāṇaṃ, dibbasotañāṇaṃ, cetopariyañāṇaṃ, pubbenivāsañāṇaṃ, dibbacakkhuvasena nipphannaṃ anāgataṃsañāṇayathākammūpagañāṇadvayaṃ, dibbacakkhuñāṇaṃ, āsavakkhayañāṇanti dasa ñāṇāni niddiṭṭhāni honti. Tesaṃ ārammaṇavibhāgo jānitabbo — tattha vipassanāñāṇaṃ paritta-mahaggatātītānāgatapaccuppannājjhatta- bahiddhāvasena sattavidhārammaṇaṃ. manomayañāṇaṃ nimmitabba -rūpāyatanamattameva ārammaṇaṃ karotīti paritta-paccuppanna-bahiddhārammaṇaṃ. Āsavakkhayañāṇaṃ appamāṇa-bahiddhā -navattabbārammaṇaṃ. Avasesānaṃ ārammaṇabhedo visuddhimagge vutto. Uttaritaraṃ vā paṇītataraṃ vāti yena kenaci pariyāyena ito seṭṭhataraṃ sāmaññaphalaṃ nāma natthīti bhagavā arahattanikūṭena desanaṃ niṭṭhāpesi.

Chỉ với chừng ấy lời đã giải thích mười trí là (1) Minh sát trí, (2) Ý hóa thông, (3) Biến hóa thông trí, (4) Thiên nhĩ trí, (5) Trí biết được tâm, (6) Trí nhớ về các kiếp sống trước, hai loại trí là Trí biết vị lai và Trí biết tùy nghiệp sở vãng thành tựu do mãnh lực Thiên nhãn trí, (9) Thiên nhãn trí, (10) Lậu tận trí. Nên biết phân tích đối tượng của mười loại trí ấy như sau – trong mười loại trí ấy thì Minh sát trí có bảy đối tượng là (1) đối tượng hy thiểu, (2) đối tượng đáo đại, (3) đối tượng quá khứ, (4) đối tượng vị lai, (5) đối tượng hiện tại, (6) đối tượng bên trong, và (7) đối tượng bên ngoài. Ý hóa thông chỉ có Sắc xứ được hóa hiện trở thành đối tượng, vì thế (có ba đối tượng) – (1) đối tượng hy thiểu, (2) đối tượng hiện tại, và (3) đối tượng bên ngoài. Lậu Tận trí (có ba đối tượng) – (1) đối tượng vô lượng, (2) đối tượng bên ngoài, và (3) đối tượng không thể xếp loại. Phân tích đối tượng (của các thần thông trí) còn lại được nói trong bộ Thanh Tịnh Đạo.  Vượt trội hơn hoặc cao cả hơn: đức Thế Tôn làm cho pháp thoại được kết thúc với đỉnh cao A-ra-hán rằng: Quả báo hạnh Sa-môn tối thượng hơn này theo bất kỳ một thức nào là không có.

 

Đức Vua Ajātasattu Tuyên Bố Bản Thân là Cận Sự Nam

250. Rājā tattha tattha sādhukāraṃ pavattento ādimajjhapariyosānaṃ sakkaccaṃ sutvā “ciraṃ vatamhi ime pañhe puthū samaṇabrāhmaṇe pucchanto, thuse koṭṭento viya kiñci sāraṃ nālatthaṃ, aho vata bhagavato guṇasampadā, yo me dīpasahassaṃ jālento viya mahantaṃ ālokaṃ katvā ime pañhe vissajjesi. Suciraṃ vatamhi dasabalassa guṇānubhāvaṃ ajānanto vañcito”ti cintetvā buddhaguṇānussaraṇasambhūtāya pañcavidhāya pītiyā phuṭasarīro attano pasādaṃ āvikaronto upāsakattaṃ paṭivedesi. taṃ dassetuṃ “evaṃ vutte rājā”tiādi āraddhaṃ.

250. Đức vua đã thốt lên tiếng “Lành thay!” ở mọi thời điểm, đã chăm chú lắng nghe (Pháp thoại) từ phần đầu, phần giữa và phần cuối của Phật ngôn với lòng thành kính, (và) đã suy tư như sau: “Trẫm đã hỏi những vấn đề này cùng các Sa-môn và Bà-la-môn từ rất lâu, (nhưng kết quả) không được lợi ích gì cả, cũng giống như giã vỏ trấu, ôi! đức Thế Tôn quả thật có sự thành tựu về ân đức thật phi thường, (ngài) đã giải đáp mọi vấn đề này cho trẫm, (ngài) đã làm cho ánh sáng chói sáng giống như soi rọi hàng ngàn ngọn đèn cho trẫm, người đã bị đánh lừa không biết đến oai lực ân đức của đấng Thập Lực trong suốt khoảng thời gian dài” (đức vua) có cơ thể đã sanh khởi năm hiện tướng của pháp hỷ nhờ việc tùy niệm ân đức Phật được xúc chạm, khi phơi bày lòng tịnh tín của ngài mới tuyên bố bản thân là người cận sự nam. Để bày tỏ ý nghĩa ấy ngài bắt đầu nói rằng: “Khi được đức Thế Tôn nói như vậy…

Tattha abhikkantaṃ, bhanteti ayaṃ abhikkanta-saddo khayasundarābhirūpābbhanumodanesu dissati. “Abhikkantā bhante, ratti, nikkhanto paṭhamo yāmo, ciranisinno bhikkhusaṅgho”tiādīsu[60] hi khaye dissati. “Ayaṃ me puggalo khamati, imesaṃ catunnaṃ puggalānaṃ abhikkantataro ca paṇītataro cā”tiādīsu[61] sundare.

“Ko me vandati pādāni, iddhiyā yasasā jalaṃ.

Abhikkantena vaṇṇena, sabbā obhāsayaṃ disā”ti.[62]

Ādīsu abhirūpe. “Abhikkantaṃ bho, gotamā”tiādīsu[63] abbhanumodane. Idhāpi abbhanumodaneyeva. yasmā ca abbhanumodane, tasmā ‘sādhu sādhu bhante’ti vuttaṃ hotīti veditabbo.

Ở đây, từ ‘abhikkanta’ trong từ ‘abhikkantaṃ bhante – thật là tuyệt vời! Bạch Ngài’ này xuất hiện với ý nghĩa – (1) cạn kiệt, (2) tốt đẹp hơn, (3) xinh đẹp, (4) nói lời hoan hỷ. Thật vậy, từ ‘abhikkanta’ xuất hiện với ý nghĩa cạn kiệt như câu sau: “Bạch Thế Tôn, đêm đã gần mãn, canh một đã qua, chúng tỳ khưu đã ngồi lâu.” Ý nghĩa tốt đẹp hơn: “hạng người này đối với tôi đáng được chấp nhận là vi diệu hơn, thù thắng hơn trong bốn hạng người trên.”

Ý nghĩa xinh đẹp: “Người nào, trong khi đang chói sáng nhờ vào thần lực và danh vọng, có màu da tươi sáng làm cho tất cả các phương sáng rực lên, đến đảnh lễ các bàn chân của Như Lai?

Ý nghĩa nói lời hoan hỷ: “Bạch ngài, thật là tuyệt vời! Bạch ngài, thật là tuyệt vời!” Và ở đây từ abhikkanta được sử dụng với ý nghĩa nói lời hoan hỷ. Bởi vì từ abhikkanta được sử dụng trong ý nghĩa của từ abbhanumodana, cho nên, nên biết rằng [abhikkantaṃ, bho gotama – Bạch Ngài, thật là tuyệt vời!] được Ngài giải thích là sādhu sādhu bho, gotamā [kính thưa Ngài Gotama lời nói của Ngài thật tốt lành thay, thật tốt lành thay].

Bhaye kodhe pasaṃsāyaṃ, turite kotūhalacchare.

Hāse soke pasāde ca, kare āmeḍitaṃ budhoti.

Iminā ca lakkhaṇena idha pasādavasena, pasaṃsāvasena cāyaṃ dvikkhattuṃ vuttoti veditabbo. Athavā abhikkantanti abhikantaṃ atīṭṭhaṃ atimanāpaṃ atisundaranti vuttaṃ hoti.

(Nguyên nhân từ abhikkantaṃ được sử dụng 2 lần) bậc trí nên biết rằng: đức vua Ajātasattu đã nói lên hai lần với mãnh lực lòng tịnh tín và với mãnh lực sự tán dương trong Phật ngôn này bằng trạng thái sau:

Người biết nói lặp lại trong lúc sợ hãi, lúc sân hận, lúc khen ngợi, lúc vội vã (turite), lúc phấn khởi (kotuhale), lúc kinh ngạc (acchare), lúc hài lòng (hāse), lúc sầu muộn (soke) và lúc tịnh tín (pasāde).

Hoặc là abhikkantaṃ (rất dễ nghe): được giải thích rằng – vô cùng hoan hỷ, rất đáng ước muốn, vô cùng thích ý, tuyệt đẹp.

Ettha ekena abhikkantasaddena desanaṃ thometi, ekena attano pasādaṃ. ayañhettha adhippāyo, abhikkantaṃ bhante, yadidaṃ bhagavato dhammadesanā, ‘abhikkantaṃ’ yadidaṃ bhagavato dhammadesanaṃ āgamma mama pasādoti. Bhagavatoyeva vā vacanaṃ dve dve atthe sandhāya thometi. Bhagavato vacanaṃ abhikkantaṃ dosanāsanato, abhikkantaṃ guṇādhigamanato. Tathā saddhājananato, paññājananato, sātthato, sabyañjanato, uttānapadato, gambhīratthato, kaṇṇasukhato, hadayaṅgamato, anattukkaṃsanato, aparavambhanato, karuṇāsītalato, paññāvadātato, āpātharamaṇīyato, vimaddakkhamato, suyyamānasukhato, vīmaṃsiyamānahitatoti evamādīhi yojetabbaṃ.

Ở đây, đức vua Ajātasattu ca ngợi Pháp thoại với một từ abhikkantaṃ, (và) ca ngợi lòng tịnh tín của mình bằng một từ ​​abhikkantaṃ nữa. Trong 2 ý nghĩa này có lời giải thích như thế này – “Bạch Ngài, sự thuyết giảng Giáo Pháp của đức Thế Tôn thật là tuyệt vời; bạch Ngài, do y cứ vào sự thuyết giảng Giáo Pháp (trẫm) mới tịnh tín.” Hơn nữa, đức vua Ajātasattu này chỉ nhằm mục đích dùng cả hai nghĩa để ca ngợi Pháp thoại của đức Thế Tôn. (nghĩa là khen ngợi) lời dạy của Ngài Gotama thật là tuyệt vời, bởi vì khiến cho các lỗi làm bị tiêu diệt, thật là tuyệt vời bởi vì làm cho chứng đắc ân đức cao thượng. Thêm nữa, có thể liên kết ý nghĩa của từ ‘​​abhikkantaṃ’ với nguyên nhân như sau: Lời dạy của đức Thế Tôn thật là tuyệt vời bởi mười sáu lý do – (1) làm sanh khởi đức tin, (2) làm sanh khởi trí tuệ, (3) có đầy đủ ý nghĩa, (4) có đầy đủ văn tự, (5) câu cú minh bạch rõ ràng, (6) ý nghĩa sâu sắc, (7) (sau khi nghe) cảm giác êm tai, (8) (sau khi nghe) cảm giác thoải mái, (9) bởi vì không khen mình (tự cao tự đại), (10) bởi vì không chê người, (11) bởi vì sự mát mẻ của tâm bi, (12) bởi vì sự thanh tịnh của trí tuệ, (13) bởi vì làm cho năm giác quan được hân hoan, (14) kham nhẫn từ sự tấn công một cách đặc biệt, (15) bởi vì đang nghe cũng được an lạc, (16) bởi khéo suy xét theo đạt được lợi ích.

Tato parampi catūhi upamāhi desanaṃyeva thometi. Tattha nikkujjitanti adhomukhaṭhapitaṃ heṭṭhāmukhajātaṃ vā. Ukkujjeyyāti upari mukhaṃ kareyya. Paṭicchannanti tiṇapaṇṇādichāditaṃ. Vivareyyāti ugghāṭeyya. Mūḷhassa vāti disāmūḷhassa. Maggaṃ ācikkheyyāti hatthe gahetvā “esa maggo”ti vadeyya, Andhakāreti kāḷapakkhacātuddasī aḍḍharatta-ghanavanasaṇḍa-meghapaṭalehi caturaṅge tame. Ayaṃ tāva anuttānapadattho. Ayaṃ pana sādhippāyayojanā. Yathā koci nikkujjitaṃ ukkujjeyya, evaṃ saddhammavimukhaṃ asaddhamme patitaṃ maṃ asaddhammā vuṭṭhāpentana. Yathā paṭicchannaṃ vivareyya, evaṃ kassapassa bhagavato sāsanantaradhānā pabhuti micchādiṭṭhigahanapaṭicchannaṃ sāsanaṃ vivarantena, yathā mūḷhassa maggaṃ ācikkheyya, evaṃ kummaggamicchāmaggappaṭipannassa me saggamokkhamaggaṃ āvikarontena, yathā andhakāre telapajjotaṃ dhāreyya, evaṃ mohandhakāranimuggassa me buddhādiratanarūpāni apassato tappaṭicchādakamohandhakāraviddhaṃsakadesanāpajjotadhārakena mayhaṃ bhagavatā etehi pariyāyehi pakāsitattā anekapariyāyena dhammo pakāsitoti.

Từ đó, đức vua Ajātasattu đã tán thán Pháp thoại ấy bằng 4 sự so sánh: Ở đây, vật bị úp ngược: Vật có miệng bị đặt úp xuống, hoặc có miệng đặt ở dưới. Có thể lật ngửa: làm cho miệng (đồ vật) ngửa lên trên. Vật bị che kín: được che đậy bởi có và lá cây v.v. có thể mở ra: có thể mở ra [phơi bày]. Người lạc đường: Đối với những người bị lạc hướng. Chỉ đường: sau khi cầm tay có thể nói rằng: “con đường này”. Trong bóng tối là trong bóng tối có 4 yếu tố, là vào ngày mười bốn hạ huyền, vào ngày mười lăm nửa đêm, khu rừng rậm và mây dày che phủ. Nội dung câu khó chỉ bấy nhiêu. Còn lời giải thích kết hợp với nội dung như sau – Giống như một người có thể lật ngửa vật đã được úp lại thế nào, thì đức Thế Tôn khiến cho trẫm quay mặt từ Chánh Pháp bị rơi vào Phi Pháp (có thế) thoát khỏi Phi Pháp như thế ấy; Giống như một người có thể mở ra vật đã bị che kín thế nào, thì đức thế Tôn khai mở Giáo Pháp bị che đậy bởi khu rừng dày đặc là tà kiến, khai mở kể từ khi Giáo pháp của đức Thế Tôn Kassapa biến mất như thế đó; Giống như một người chỉ đường cho kẻ lạc hướng thế nào, thì đức Thế Tôn chỉ con đường dẫn đến cõi trời và con đường đi đến Niết-bàn hiển lộ rõ ràng cũng trẫm, người đã đi lạc vào con đường sai quấy như thế ấy; Cũng giống như một người đem đèn sáng vào trong bóng tối thế nào, thì đức Thế Tôn của chúng ta, vị đã tuyên thuyết Giáo Pháp bằng nhiều phương diện khác nhau, bởi vì Ngài đã tuyên bố bằng phương pháp này, bằng ngọn đèn là sự thuyết giảng Giáo Pháp để xua tan đi bóng tối là sự si mê che đậy Tam Bảo, đối với trẫm, người bị chìm trong bóng tối là sự si mê, không nhìn thấy được Tam Bảo như Phật bảo v.v, cũng như thế ấy.

Evaṃ desanaṃ thometvā imāya desanāya ratanattaye pasannacitto pasannākāraṃ karonto esāhantiādimāha. Tattha esāhanti eso ahaṃ . Bhagavantaṃ saraṇaṃ gacchāmīti bhagavā me saraṇaṃ, parāyanaṃ, aghassa tātā, hitassa ca vidhātāti. iminā adhippāyena bhagavantaṃ gacchāmi bhajāmi sevāmi payirupāsāmi, evaṃ vā jānāmi bujjhāmīti. Yesañhi dhātūnaṃ gatiattho, buddhipi tesaṃ attho. tasmā gacchāmīti imassa jānāmi bujjhāmīti ayampi attho vutto. Dhammañca bhikkhusaṅghañcāti ettha pana adhigatamagge sacchikatanirodhe yathānusiṭṭhaṃ paṭipajjamāne catūsu apāyesu apatamāne dhāretīti dhammo, so atthato ariyamaggo ceva nibbānañca. Vuttañcetaṃ — “Yāvatā, bhikkhave, dhammā saṅkhatā, ariyo aṭṭhaṅgiko maggo tesaṃ aggamakkhāyatī”ti[64] vitthāro. na kevalañca ariyamaggo ceva nibbānañca. api ca kho ariyaphalehi saddhiṃ pariyattidhammopi . Vuttañhetaṃ chattamāṇavakavimāne —

Đức vua Ajātasattu sau khi tán thán pháp thoại như vậy, có tâm tịnh tín nơi Tam Bảo nhờ Pháp thoại này, trong khi biểu lộ lòng tịnh tín mới nói rằng: “Bạch Ngài, trẫm đây v.v.” Ở đó, từ esāhaṃ được chia thành eso ahaṃ. Bạch Ngài, trẫm đây xin đi đến nương nhờ đức Thế Tôn: Trẫm xin đi đến, xin tìm nơi nương nhờ, xin thọ trì và xin đến ngồi gần với ý định như sau: Đức Thế Tôn là nơi tưởng nhớ, là nơi nương tựa, là bậc đoạn diệt mọi bệnh tật ở tâm và là vị tạo ra lợi ích và hạnh phúc cho trẫm. Hơn nữa, tôi biết như vậy, bởi vì dhātu nào có nghĩa là “đi”, thì dhātu đó cũng có nghĩa là “biết.” Do đó, trong câu ‘gacchāmi – trẫm xin đi đến này, ngài mới nói như vậy ý nghĩa này ngay lập tức rằng jānāmi, bujjhāmīti (trẫm biết, trẫm hiểu). Và lại nữa ở đây tôi xin đi đến nương nhờ Giáo Pháp và tôi xin đi đến nương nhờ Hội Chúng tỳ khưu: nên biết giải thích như sau: – gọi là Giáo Pháp với ý nghĩa tuyên bố những vị đã chứng đắc Thánh Đạo, đã tác chứng Diệt Đế, (và) vị thường xuyên thực hành theo như lời dạy của đức Thế Tôn để không bị rơi vào 4 khổ cảnh. Pháp đó khi nói theo ý nghĩa cũng bao gồm Thánh Đạo và Nibbāna. Điều này đức Thế Tôn đã nói như sau: “Này chư tỳ khưu, các pháp hữu vi [bị các duyên trợ tạo] có bao nhiêu? Thánh đạo có 8 chi phần Như Lai đã nói là tối thượng của các Pháp hữu vi đó.” nên biết ý nghĩa chi tiết. Và không chỉ Thánh Đạo và Nibbāna (gọi là Pháp). Hơn nữa, cả Pháp học [pariyattidhamma] cùng với các Thánh Quả (cũng gọi là Pháp). Điều này đã được Thiên tử nói trong Chattamāṇavaka-vimāna [Thiên cung của thanh niên Bà-la-môn Chatta] như sau:

“Rāgavirāgamanejamasokaṃ, dhammamasaṅkhatamappaṭikūlaṃ.

Madhuramimaṃ paguṇaṃ suvibhattaṃ, dhammamimaṃ saraṇatthamupehī”ti.[65]

Ettha hi rāgavirāgoti maggo kathito. Anejamasokanti phalaṃ. Dhammamasaṅkhatanti nibbānaṃ. Appaṭikūlaṃ madhuramimaṃ paguṇaṃ suvibhattanti piṭakattayena vibhattā dhammakkhandhāti. Diṭṭhisīlasaṃghātena saṃhatoti saṅgho, so atthato aṭṭha ariyapuggalasamūho. vuttañhetaṃ tasmiññeva vimāne —

“Yattha ca dinnamahapphalamāhu, catūsu sucīsu purīsayugesu.

Aṭṭha ca puggaladhammadasā te, saṅghamimaṃ saraṇatthamupehī”ti. [66]

Bhikkhūnaṃ saṅgho bhikkhusaṅgho. Ettāvatā rājā tīṇi saraṇagamanāni paṭivedesi.

Ông hãy đến gần Giáo Pháp này là Pháp không nhiễm ái luyến, không xáo động, không sầu muộn, không bị tạo tác, không đáng ghét, ngọt ngào được đức Phật tuyên thuyết có sự hoàn thiện, khéo được phân tích; với mục đích là nơi tưởng nhớ, là nơi nương tựa.

 Trong kệ ngôn này nên biết lý giải như sau: Pháp không nhiễm ái luyến: Thiên tử muốn nói đến Đạo; Pháp không lay động, không sầu muộn: Thiên tử muốn nói đến Quả; Pháp không bị tạo tác: Thiên tử muốn nói đến Niết-bàn; không đáng ghét là pháp ngọt ngào được đức Phật tuyên thuyết có sự hoàn thiện, khéo được phân tích: Thiên tử muốn nói đến các Pháp uẩn được phân tích trong Tam Tạng. Từ saṅgha bởi ý nghĩa sự tập hợp với sự kết hợp là Quan điểm và Giới. Từ saṅgha đó khi nói theo ý nghĩa là sự tập hợp của 8 bậc Thánh nhân. Như đã được Thiên tử nói trong Chuyện Thiện Cung như sau:

Bậc trí đã nói vật được bố thí là có quả báo lớn, ở bốn đôi của hạng người nào là đôi của hạng người trong sạch, bốn đôi của hạng người ấy là tám hạng người là những cá nhân đã nhìn thấy Giáo Pháp; xin ông hãy đến gần chúng Tăng này là nơi tưởng nhớ, là nơi nương nhờ.”

Hội chúng tỳ khưu gọi là Tăng chúng. Chỉ chừng ấy lời đức vua Ajātasattu đã tuyên bố đến 3 nơi nương nhờ.

 

 Giải Thích Saraṇagamana [Đi Đến Nương Nhờ]

Idāni tesu saraṇagamanesu kosallatthaṃ saraṇaṃ, saraṇagamanaṃ, yo ca saraṇaṃ gacchati, saraṇagamanappabhedo, saraṇagamanaphalaṃ, saṅkileso, bhedoti, ayaṃ vidhi veditabbo. Seyyathidaṃ — Saraṇatthato[67] tāva hiṃsatīti saraṇaṃ. Saraṇagatānaṃ teneva saraṇagamanena bhayaṃ santāsaṃ dukkhaṃ duggatiparikilesaṃ hanati vināsetīti attho, ratanattayassevetaṃ adhivacanaṃ.

Bây giờ, vì bản thể người thiện xảo trong việc đi đến nơi nương nhờ, nên biết phương pháp này:  Nơi nương nhờ, đi đến nơi nương nhờ, người đi đến nương nhờ, sự đa dạng của việc đi đến nơi nương nhờ, quả của việc đi đến nơi nương nhờ, cấu uế và sự tan rã. Phương pháp này có ý nghĩa như thế nào? Sẽ giải thích nội dung theo ý nghĩa của câu trước. Gọi là ‘nơi nương nhờ’ với ý nghĩa gây tổn thương, có ý nghĩa sát hại, làm tiêu tan đến sự sợ hãi, sự run sợ, sự đau khổ, khổ đau, mọi cấu uế với việc đi đến nơi nương nhờ đó. Nơi nương nhờ này là tên gọi của chính Tam Bảo.

Atha vā hite pavattanena ahitā ca nivattanena sattānaṃ bhayaṃ hiṃsati buddho. bhavakantārā uttāraṇena assāsadānena ca dhammo; Appakānampi kārānaṃ vipulaphalapaṭilābhakaraṇena saṅgho. Tasmā imināpi pariyāyena ratanattayaṃ saraṇaṃ. Tappasādataggarutāhi vihatakileso tapparāyaṇatākārappavatto cittuppādo saraṇagamanaṃ. Taṃ samaṅgīsatto saraṇaṃ gacchati. vuttappakārena cittuppādena etāni me tīṇi ratanāni saraṇaṃ, etāni parāyaṇanti evaṃ upetīti attho. Evaṃ tāva saraṇaṃ, saraṇagamanaṃ, yo ca saraṇaṃ gacchati, idaṃ tayaṃ veditabbaṃ.

Lại nữa, Đức Phật bởi ý nghĩa diệt tận sự sợ hãi của tất cả chúng sanh, với sự vận hành đưa đến những điều lợi ích, và không vận hành đưa đến những điều không lợi ích; Giáo Pháp: bởi ý nghĩa trợ giúp tất cả chúng sanh vượt khỏi khỏi khu rừng là các Hữu và bởi vì nó mang lại sự dễ chịu cho tất cả chúng sanh. Hội Chúng tỳ khưu bởi vì tất cả sự cung kính, dù là chút ít, cũng đều đạt được kết quả to lớn quảng đại. Cho nên, Tam bảo được gọi là nơi nương nhờ về phương diện này. Sự sanh khởi của Tâm: có phiền nào bị loại bỏ bằng cách tôn kính, sự tịnh tín ở nơi nương nhờ đó, đó là biểu hiện của lòng tôn kính, sự tịnh tín nơi Tam bảo, là nền tảng được gọi là đi đến nơi nương nhờ. Chúng sanh có (Tam Bảo) ấy được thành tựu đầy đủ gọi là đi đến nương nhờ (Tam Bảo). Có nghĩa là đi đến Tam Bảo này là nơi nương tựa của tôi và phương tiện dẫn đường với sự sanh khởi của tâm theo phương thức như đã trình bày. Nên biết 3 điều này trước: nơi nương nhờ, đi đến nơi nương nhờ và người đi đến nơi nương nhờ.

Saraṇagamanappabhede pana duvidhaṃ saraṇagamanaṃ — Lokuttaraṃ lokiyañca. Tattha lokuttaraṃ diṭṭhasaccānaṃ maggakkhaṇe saraṇagamanupakkilesasamucchedena ārammaṇato nibbānārammaṇaṃ hutvā kiccato sakalepi ratanattaye ijjhati. lokiyaṃ puthujjanānaṃ saraṇagamanupakkilesavikkhambhanena ārammaṇato buddhādiguṇārammaṇaṃ hutvā ijjhati. taṃ atthato buddhādīsu vatthūsu saddhāpaṭilābho saddhāmūlikā ca sammādiṭṭhi[68] dasasu puññakiriyavatthūsu diṭṭhijukammanti vuccati.

Trong sự phân loại của việc đi đến nơi nương nhờ (đi đến nơi nương nhờ có bao nhiêu loại?): Việc xin nương nhờ có hai loại – Hiệp thế [phàm nhân] và Siêu thế [Thánh nhân]. Ở đó, sự nương nhờ của bậc Thánh [lokuttarasaraṇaṃ] của hạng người đã thấy (bản thể) Chân Lý, nói theo đối tượng thì có Nibbāna là đối tượng, khi nói theo phận sự (đã thành tựu nơi cả Tam Bảo) bởi vì đoạn trừ những phiền não cản trở việc xin nương nhờ (Tam Bảo) ở sát-na Đạo, (còn) sự nương nhờ Tam Bảo của phàm nhân, khi nói đến đối tượng có ân đức Phật v.v, làm đối tượng, thành tựu được với việc chế ngự phiền não là nguyên nhân cản trở việc xin nương nhờ, việc xin nương nhờ ấy khi nói theo ý nghĩa gồm đức tin nơi Tam bảo có Đức Phật, v.v. và chánh kiến có đức tin (nơi Tam bảo) làm nền tảng gọi đó là Trí tuệ hiểu biết chính trực bằng chánh kiến trong thập phúc hành tông.

Tayidaṃ catudhā vattati — attasanniyyātanena, tapparāyaṇatāya, sissabhāvūpagamanena, paṇipātenāti[69]. Tattha attasanniyyātanaṃ nāma — “ajjādiṃ katvā ahaṃ attānaṃ buddhassa niyyātemi, dhammassa, saṅghassā”ti evaṃ buddhādīnaṃ attapariccajanaṃ. Tapparāyaṇatā nāma “ajjādiṃ katvā ‘ahaṃ buddhaparāyaṇo, dhammaparāyaṇo, saṅghaparāyaṇo’ti. maṃ dhārethā”ti evaṃ tapparāyaṇabhāvo. Sissabhāvūpagamanaṃ nāma — “ajjādiṃ katvā — ‘ahaṃ buddhassa antevāsiko, dhammassa, saṅghassa antevāsiko’ti maṃ dhārethā”ti evaṃ sissabhāvūpagamo. paṇipāto nāma — “ajjādiṃ katvā ahaṃ abhivādanapaccuṭṭhānāñjalikammasāmīcikammaṃ buddhādīnaṃyeva tiṇṇaṃ vatthūnaṃ karomī’ti maṃ dhārethā”ti evaṃ buddhādīsu paramanipaccākāro. imesañhi catunnaṃ ākārānaṃ aññatarampi karontena gahitaṃyeva hoti saraṇaṃ.

Việc xin nương nhờ thuộc Hiệp thế này có 4 loại là (1) phó thác sanh mạng cho Tam Bảo [attasanniyyātana]; (2) nương theo Tam Bảo từ nay về sau  [tapparāyana]; (3) dâng mình làm đệ tử Tam Bảo [sissabhāvupagamana]; (4) chắp tay tôn kính lễ bái Tam Bảo [paṇipāta]. Trong 4 cách đó thì phó thác sanh mạng cho Tam Bảo (tức là) phó thác mạng sống của chính mình nơi Tam Bảo có Phật Bảo như vầy: “Kể từ ngày hôm nay trở đi con xin cúi mình dâng thân mạng này đến Đức Phật, Giáo Pháp và Hội Chúng tỳ khưu.” Nương theo Tam Bảo từ nay về sau (tức là) có Tam bảo dẫn đầu như vầy: “Kể từ ngày hôm nay trở đi, xin các ngài hãy ghi nhận cho con rằng – “Con có đức Phật dẫn đường, có Giáo Pháp dẫn đường, và có chư Tăng dẫn đường.” Dâng mình làm đệ tử Tam Bảo (tức là) đi đến bản thể làm đệ tử của Tam bảo như vầy: “Kể từ ngày hôm nay trở đi, xin các Ngài hãy ghi nhận cho con rằng: ‘con là đệ tử của Đức Phật, Giáo Pháp, Hội Chúng tỳ khưu.” Chắp tay tôn kính lễ bái Tam Bảo (tức là) thực hiện sự cung kính tối thượng đối với Tam Bảo có đức Phật v.v, như vầy: “Kể từ ngày hôm nay trở đi, xin các ngài hãy ghi nhận cho con rằng: ‘con chỉ thực hành sự đảnh lễ, sự đứng dậy, sự chắp tay, hành động thích hợp đối với Tam bảo có đức Phật v.v,” Khi một người thực hiện được bất kỳ biểu hiện nào trong bốn biểu hiện này, thì được coi là đã nhận việc xin nương nhờ (Tam Bảo) hoàn tất.

Api ca bhagavato attānaṃ pariccajāmi, dhammassa, saṅghassa, attānaṃ pariccajāmi, jīvitaṃ pariccajāmi, pariccattoyeva me attā, pariccattaṃyeva jīvitaṃ, jīvitapariyantikaṃ buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi, buddho me saraṇaṃ leṇaṃ tāṇanti; Evampi attasanniyyātanaṃ veditabbaṃ. “Satthārañca vatāhaṃ passeyyaṃ, bhagavantameva passeyyaṃ, sugatañca vatāhaṃ passeyyaṃ, bhagavantameva passeyyaṃ, sammāsambuddhañca vatāhaṃ passeyyaṃ, bhagavantameva passeyyan”ti[70]. evampi mahākassapassa saraṇagamanaṃ viya[71] sissabhāvūpagamanaṃ veditabbaṃ.

Lại nữa, Con xin phó thác thân mạng nơi Đức Phật, Giáo Pháp và Chư Tăng; Con xin phó thác bản thân, con xin phó thác mạng sống; Con chắc chắn phó thác bản thân, con chắc chắn phó thác sanh mạng, con xin đi đến nương nhờ nơi Đức Phật (Giáo Pháp và Chư Tăng) trọn đời, có Đức Phật (Giáo Pháp và Chư Tăng) làm nơi nương tựa, là nơi an toàn, là nơi che chở của con; Nên biết việc phó thác sanh mạng của bản thân là như vậy. “Xin cho con có thể nhìn thấy bậc Đạo sư, có thể nhìn thấy đức Thế Tôn; xin cho con có thể nhìn thấy Thiện Thệ, có thể nhìn thấy đức Thế Tôn; xin cho con có thể nhìn thấy bậc Chánh đẳng Chánh giác, có thể nhìn thấy đức Thế Tôn.Nên biết việc đi đến dâng mình làm đệ tử Tam Bảo giống như việc đi đến trở thành đệ tử xin nương tựa của trưởng lão Mahā Kassapa là như vậy.

“So ahaṃ vicarissāmi, gāmā gāmaṃ purā puraṃ.

Namassamāno sambuddhaṃ, dhammassa ca sudhammatan”ti. (su. ni. 194).

Evampi āḷavakādīnaṃ saraṇagamanaṃ viya tapparāyaṇatā veditabbā. Atha kho brahmāyu brāhmaṇo uṭṭhāyāsanā ekaṃsaṃ uttarāsaṅgaṃ karitvā bhagavato pādesu sirasā nipatitvā bhagavato pādāni mukhena ca paricumbati, pāṇīhi ca parisambāhati, nāmañca sāveti — “Brahmāyu ahaṃ, bho gotama brāhmaṇo, brahmāyu ahaṃ, bho gotama brāhmaṇo”ti[72] evampi paṇipāto daṭṭhabbo.

Tôi đây sẽ du hành từ làng này đến làng khác, từ thành phố này đến thành phố khác. Để cung kinh lễ bái bậc Chánh đẳng Chánh giác và bản chất tốt đẹp của Giáo Pháp (và bản chất tốt đẹp của Tăng chúng).

Nên biết có Tam bảo dẫn đầu giống như việc xin nương nhờ của Dạ-xoa Āḷavaka v.v, là như vậy. Nên nhận thấy việc chắp tay đảnh lễ: “Khi ấy Bà-la-môn Brahmāyu từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y một bên vai, sau khi quỳ xuống ở bàn chân của đức Phật đã ôm hôn chân đức Thế Tôn bằng miệng, xoa bóp chân và tuyên bố tên (của mình) kính thưa Ngài Gotama, tôi là Bà-la-môn tên là Brahmāyu; kính thưa Ngài Gotama, tôi là Bà-la-môn tên là Brahmāyu” là như thế.

So panesa ñātibhayācariyadakkhiṇeyyavasena catubbidho hoti. tattha dakkhiṇeyyapaṇipātena saraṇagamanaṃ hoti, na itarehi. seṭṭhavaseneva hi saraṇaṃ gaṇhāti, seṭṭhavasena ca bhijjati. tasmā yo sākiyo vā koliyo vā — “buddho amhākaṃ ñātako”ti vandati, aggahitameva hoti saraṇaṃ. yo vā — “samaṇo gotamo rājapūjito mahānubhāvo avandīyamāno anatthampi kareyyā”ti bhayena vandati, aggahitameva hoti saraṇaṃ. yo vā bodhisattakāle bhagavato santike kiñci uggahitaṃ saramāno buddhakāle vā —

“Catudhā vibhaje bhoge, paṇḍito gharamāvasaṃ.

Ekena bhogaṃ bhuñjeyya, dvīhi kammaṃ payojaye.

Catutthañca nidhāpeyya, āpadāsu bhavissatī”ti.[73]

Có bốn sự chắp tay cung kính – (1) vì họ hàng thân thích, (2) vì sợ hãi, (3) vì là giáo thọ sư, và (4) bởi vì đó là bậc xứng đáng được cúng dường. Trong tất cả 4 sự chắp tay cung kính ấy sự xin nương nhờ có được do sự chắp tay cung kính vì là bậc xứng đáng được cúng dường, không phải vì ba lý do kia. Vì nơi nương nhờ mà một người (có thể) nhận được bởi một người cao quý nhất, cũng (có thể) bị phá hủy bởi sức mạnh của người cao quý nhất tương tự. Do đó, hạng người nào thuộc dòng dõi Sakya hay thuộc dòng dõi Koliya, chắp tay đảnh lễ (Đức Phật) nghĩ rằng Đức Phật là thân quyến của chúng ta, hạng người đó không được xem là đến nơi nương nhờ; Hoặc người nào đảnh lễ Đức Phật vì sợ hãi rằng Sa-môn Gotama là người được vua tôn thờ và rất có quyền lực, khi ta không cúi chào ta có thể gây thiệt hại cho ta, hạng người đó không được xem là đi đến nơi nương nhờ; Ngay cả hạng người nào nhớ tưởng đến một số lời dạy đã được học trong hội chúng của đức Thế Tôn, khi Ngài vẫn còn là một vị Bồ-tát hoặc trong thời ký đức Phật còn tại thế, đã được học lời dạy như thế này:

Bậc sáng trí sống đời sống tại gia, nên chia tài sản thành bốn phần, nên sử dụng một phần của bốn phần tài sản dùng để nuôi mạng, dùng hai phần trong bốn phần của tài sản để làm vốn đầu tư mua bán và một phần tư tài sản còn lại cất giữ để phòng khi có việc cần thiết (hoặc để làm các công đức).

Evarūpaṃ anusāsaniṃ uggahetvā — Ācariyo me”ti vandati, aggahitameva hoti saraṇaṃ. Yo pana — “Ayaṃ loke aggadakkhiṇeyyo”ti vandati, teneva gahitaṃ hoti saraṇaṃ.

(Khởi lên lòng tin) sau khi học tập lời dạy của Ngài bằng hình thức như vậy đảnh lễ với suy nghĩ rằng “Ngài là Thầy của chúng ta”, hạng người đó cũng gọi là vẫn chưa đến nơi nương nhờ. Người nào đảnh lễ với suy nghĩ rằng “Đức Phật này là bậc xứng đáng  cúng dường hạng nhất trong thế gian”, người đó được xem như đã đến chỗ nương nhờ.

Evaṃ gahitasaraṇassa ca upāsakassa vā upāsikāya vā aññatitthiyesu pabbajitampi ñātiṃ — “ñātako me ayan”ti vandato saraṇagamanaṃ na bhijjati, pageva apabbajitaṃ. tathā rājānaṃ bhayavasena vandato. so hi raṭṭhapūjitattā avandīyamāno anatthampi kareyyāti. tathā yaṃ kiñci sippaṃ sikkhāpakaṃ titthiyampi — “ācariyo me ayan”ti vandatopi na bhijjati, evaṃ saraṇagamanappabhedo veditabbo.

Nam cư sĩ hoặc nữ cư sĩ đã đến nơi nương nhờ [đã quy y] theo cách này rồi cúi lạy thân quyến, ngay cả vị xuất gia nơi các du sĩ ngoại đạo với suy nghĩ rằng: Vị này là thân quyến của ta. Như vậy, việc xin nương nhờ không bị hoại [không bị đứt tam quy], huống gì một nam cư sĩ hay một nữ cư sĩ đảnh lễ một người thân chưa xuất gia? Còn nam cư sĩ hay nữ cư sĩ đảnh lễ vua cũng tương tự như vậy, chắp tay đảnh lễ do mãnh lực của sự sợ hãi rằng Đức Vua vì Ngài được người dân cả nước tôn thờ, khi ta không đảnh lễ Ngài thì (Ngài) có thể làm điều hại đối với ta, như vậy việc xin nương nhờ không bị hoại [không bị đứt tam quy], tương tự như khi cúi chào các du sĩ ngoại đạo, người dạy cho bất kỳ  hành động nào với suy nghĩ rằng “người này là thầy của tôi” việc xin nương nhờ không bị hoại [không bị đứt tam quy], như vậy nên biết rằng sự đa dạng của việc xin nương nhờ như thế.

Ettha ca lokuttarassa saraṇagamanassa cattāri sāmaññaphalāni vipākaphalaṃ, sabbadukkhakkhayo ānisaṃsaphalaṃ. Vuttañhetaṃ —

“Yo ca buddhañca dhammañca, saṅghañca saraṇaṃ gato.

Cattāri ariyasaccāni, sammappaññāya passati.

Dukkhaṃ dukkhasamuppādaṃ, dukkhassa ca atikkamaṃ.

Ariyaṃ aṭṭhaṅgikaṃ maggaṃ, dukkhūpasamagāminaṃ.

Etaṃ kho saraṇaṃ khemaṃ, etaṃ saraṇamuttamaṃ.

Etaṃ saraṇamāgamma, sabbadukkhā pamuccatī”ti.[74]

Việc xin nương nhờ của bậc Thánh nhân trong trường hợp này có bốn quả báu của hạnh Sa-môn là quả dị thục, có sự diệt tận của tất cả mọi khổ đau là quả báu đạt được [ānisaṃsaphala]. Điều này đã được đức Thế Tôn thuyết như sau:

Người nào đi đến nương nhờ Đức Phật, Giáo Pháp, và Tăng Chúng, (người ấy) thấy được bốn Chân Lý cao thượng bằng trí tuệ chân chánh.

(Người ấy) thấy được Khổ, nguyên nhân sanh khởi của Khổ, sự vượt khỏi Khổ, và Thánh Đạo tám chi phần là đạo lộ đưa đến sự diệt Khổ.

Quả thật, nơi nương nhờ ấy là an toàn, nơi nương nhờ ấy là tối thượng. Sau khi đi đến nơi nương nhờ ấy được thoát khỏi mọi khổ đau.

Api ca niccādito[75] anupagamanādivasena petassa ānisaṃsaphalaṃ veditabbaṃ. Vuttañhetaṃ — “Aṭṭhānametaṃ anavakāso, yaṃ diṭṭhisampanno puggalo kañci[76] saṅkhāraṃ niccato upagaccheyya … pe … kañci saṅkhāraṃ sukhato … pe … kañci dhammaṃ attato upagaccheyya … pe … mātaraṃ jīvitā voropeyya … pe … pitaraṃ … pe … arahantaṃ … pe … paduṭṭhacitto tathāgatassa lohitaṃ uppādeyya … pe …. saṅghaṃ bhindeyya … pe … aññaṃ satthāraṃ uddiseyya, netaṃ ṭhānaṃ vijjatī”ti[77]. Lokiyassa pana saraṇagamanassa bhavasampadāpi bhogasampadāpi phalameva. Vuttañhetaṃ —

“Ye keci buddhaṃ saraṇaṃ gatāse, na te gamissanti apāyabhūmiṃ.

Pahāya mānusaṃ dehaṃ, devakāyaṃ paripūressantī”ti.[78]

Hơn nữa, nên biết quả báu đạt được [ānisaṃsaphala] của việc đi đến nơi nương nhờ ấy, ngay cả do mãnh lực của nguyên nhân, không chấp nhận là thường hằng v.v, Điều này đã được đức Thế Tôn thuyết như sau:

Điều ấy là không hợp lý và không có cơ sở, này các tỳ khưu: Một người thành tựu chánh kiến có thể chấp nhận bất cứ hành nào là thương hằng …nt… bất cứ hành nào là lạc …nt… có thể chấp nhận bất cứ pháp nào là ngã …nt… có thể tước đoạt mạng sống của mẹ …nt… có thể tước đoạt mạng sống của cha …nt… có thể tước đoạt mạng sống của vị A-ra-hán …nt… có thể có ác tâm làm Như Lại chảy máu, …nt… có thể phá hòa hợp Tăng …nt… có thể tuyên bố một vị Ðạo Sư khác, điều ấy là không có cơ sở.

 Còn việc đi đến nơi nương nhờ là Hiệp thế (phàm nhân) có sự thành tựu các Hữu [bhava], sự thành tựu tài sản [bhoga] chắc chắn có kết quả. Điều này đã được đức Thế Tôn thuyết như sau:

Những người nào đã đi đến nương nhờ Đức Phật, những người ấy sẽ không đi đến các khổ cảnh, sau khi bỏ thân người, sẽ được tròn đủ thân chư Thiên (hóa sinh lên các cõi trời).

Aparampi vuttaṃ — “Atha kho sakko devānamindo asītiyā devatāsahassehi saddhiṃ yenāyasmā mahāmoggallāno tenupasaṅkami … pe … ekamantaṃ ṭhitaṃ kho sakkaṃ devānamindaṃ āyasmā mahāmoggallāno etadavoca — “Sādhu kho, devānaminda, buddhaṃ saraṇagamanaṃ hoti. Buddhaṃ saraṇagamanahetu kho, devānaminda, evamidhekacce sattā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjanti … pe … te aññe deve dasahi ṭhānehi adhigaṇhanti — dibbena āyunā, dibbena vaṇṇena, dibbena sukhena, dibbena yasena, dibbena ādhipateyyena, dibbehi rūpehi saddehi gandhehi rasehi phoṭṭhabbehī”ti[79]. Esa nayo dhamme ca saṅghe ca. Api ca velāmasuttādīnaṃ vasenāpi saraṇagamanassa phalaviseso veditabbo. evaṃ saraṇagamanassa phalaṃ veditabbaṃ.

Một lần khác Ngài đã nói: “Khi ấy Thiên chủ Sakka cùng với tám mươi ngàn vị chư Thiên đi đến yết kiến trưởng lão Mahā Moggallāna …nt… Trưởng lão Mahā Moggallāna đã nói lời này cùng với Thiên chủ Sakka, vị đã đứng ở một vị trí thích hợp – “Lành thay, này Thiên chủ, là đi đến nương nhờ Đức Phật. Do nhân đi đến nương nhờ Đức Phật, này Thiên chủ, ở đây một số chúng sanh, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh vào cảnh giới an vui, thiên giới cõi trời, cõi đời này …nt… Họ có được 10 pháp trội hơn các chư Thiên khác: thiên thọ mạng, thiên sắc, thiên an lạc, thiên danh dự, thiên thù thắng, thiên sắc, thiên thanh, thiên hương, thiên vị, thiên xúc.” Việc đi đến nương nhờ Giáo Pháp và Tăng chúng cũng có theo phương thức tương tự. Và lại nữa, nên biết quả báu đạt được [phalaviseso] của việc đi đến nương nhờ nhờ năng lực của bài Kinh Velāma v.v, nên biết quả báu của việc đi đến nương nhờ là như vậy.

Tattha ca lokiyasaraṇagamanaṃ tīsu vatthūsu aññāṇasaṃsayamicchāñāṇādīhi saṃkilissati, na mahājutikaṃ hoti, na mahāvipphāraṃ. lokuttarassa natthi saṃkileso. lokiyassa ca saraṇagamanassa duvidho bhedo — sāvajjo ca anavajjo ca. tattha sāvajjo aññasatthārādīsu attasanniyyātanādīhi hoti, so ca aniṭṭhaphalo hoti. anavajjo kālakiriyāya hoti, so avipākattā aphalo. lokuttarassa pana nevatthi bhedo. bhavantarepi hi ariyasāvako aññaṃ satthāraṃ na uddisatīti. evaṃ saraṇagamanassa saṃkileso ca bhedo ca veditabboti.

Ở đó, trong việc đi đến nương nhờ của hạng phàm nhân [lokiyasaraṇagamanaṃ] trở nên ô nhiễm bởi các nguyên nhân có vô minh, hoài nghi và tà kiến nơi Tam Bảo (sẽ) không có lợi ích lớn, không có rung cảm lớn. Còn việc đi đến nương nhờ của bậc Thánh nhân [lokuttara] không ô nhiễm. Việc đi đến nương nhờ của hạng phàm nhân có 2 sự tiêu hoại, là sự tiêu hoại có lỗi lầm và sự tiêu hoại không có lỗi lầm. Ở đây, sự tiêu hoại có lỗi lầm tồn tại do các nguyên nhân như phó thác mạng sống của chính mình nơi bậc Đạo sư khác, sự tiêu hoại ấy cho quả không đáng mong muốn. Sự tiêu hoại không có lỗi lầm do thời gian hành động, sự tiêu hoại ấy không có kết quả bởi không có quả dị thục. Nhưng việc đi đến nương nhờ của bậc Thánh nhân không có sự tiêu hoại. Thật vậy vị Thánh đệ tử [sau khi chết đi tái sanh] dù ở trong cảnh giới nào khác cũng không chấp nhận tán thán người khác là bậc Đạo sư của mình [thay thế đức Phật]. Nên biết có sự ô nhiễm và sự tiêu hoại [đứt tam quy] của việc đi đến nương nhờ như đã được giải thích.

 

Giải Thích Upāsaka [Cư Sĩ Nam-Nữ]

Upāsakaṃ maṃ bhante bhagavā dhāretūti maṃ bhagavā “upāsako ayan”ti evaṃ dhāretu, jānātūti attho. upāsakavidhikosallatthaṃ panettha — Ko upāsako? Kasmā upāsakoti vuccati ? Kimassa sīlaṃ? Ko ājīvo? Kā vipatti? Kā sampattīti? Idaṃ pakiṇṇakaṃ veditabbaṃ.

Xin ngài Gotama ghi nhận tôi là nam cư sĩ đã đi đến nương nhờ: Xin Ngài Gotama hãy ghi nhận, có nghĩa là hãy nhận biết “con là cận sự nam”. Trong trường hợp này để trở thành người khéo léo trong phương thức thể hiện chính mình là cận sự nam cần phải biết điều hỗn hợp [pakiṇṇaka] này rằng: Ai được gọi là cư sĩ? Vì sao gọi là cư sĩ? cư sĩ ấy có giới như thế nào? Có nghề nghiệp như thế nào? Có sự bất lợi [vipatti] như thế nào? có sự thuận lợi [sampatti] như thế nào?

Tattha ko upāsakoti yo koci saraṇagato gahaṭṭho. Vuttañhetaṃ — “Yato kho, mahānāma, buddhaṃ saraṇaṃ gato hoti, dhammaṃ saraṇaṃ gato hoti, saṅghaṃ saraṇaṃ gato hoti. ettāvatā kho, mahānāma, upāsako hotī”ti[80].

Trong những hỗn hợp đó [pakiṇṇaka], ai là cư sĩ? Tức là bất kỳ một người gia chủ nào đã đi đến nương nhờ Tam Bảo. Điều này đã được đức Thế Tôn thuyết như sau: “Này Mahānāma, khi nào cư sĩ đã đến nương nhờ nơi đức Phật, đã đến nương nhờ nơi Giáo Pháp (và) đã đến nương nhờ nơi Tăng chúng. Thật vậy chỉ chừng ấy này Mahānāma, (người ấy) trở thành cư sĩ.”

Kasmā upāsakoti ratanattayaṃ upāsanato. so hi buddhaṃ upāsatīti upāsako, tathā dhammaṃ saṃghaṃ.

Tại sao gọi là cư sĩ? do phụng sự Tam bảo [cận sự]. Vì thế, gọi là người cư sĩ do phụng sự đức Phật, Giáo Pháp, và Tăng chúng.

Kimassa sīlanti pañca veramaṇiyo. Yathāha — “Yato kho, mahānāma, upāsako pāṇātipātā paṭivirato hoti, adinnādānā… kāmesumicchācārā… musāvādā… surāmerayamajjapamādaṭṭhānā paṭivirato hoti, ettāvatā kho, mahānāma, upāsako sīlavā hotī”ti[81].

Cư sĩ có giới như thế nào? Tư tâm sở (ý định) kiêng tránh 5 Giới. Đã được đức Thế Tôn nói như sau: “Này Mahānāma khi nào cư sĩ làm người kiêng tránh từ sự sát sanh, (kiêng tránh) sự trộm cắp …nt… (kiêng tránh) sự tà hạnh, …nt… (kiêng tránh) sự nói dối, …nt… (kiêng tránh) rượu men rượu nấu là nhân sanh dễ dui. Thật vậy này Mahānāma, cư sĩ có giới chừng ấy.”

Ko ājīvoti pañca micchāvaṇijjā pahāya dhammena samena jīvitakappanaṃ. vuttañhetaṃ — “Pañcimā, bhikkhave, vaṇijjā upāsakena akaraṇīyā. Katamā pañca? satthavaṇijjā, sattavaṇijjā, maṃsavaṇijjā, majjavaṇijjā, visavaṇijjā. imā kho, bhikkhave, pañca vaṇijjā upāsakena akaraṇīyā”ti[82].

Có nghề nghiệp như thế nào? (tức là) từ bỏ 5 nghề nghiệp không chân chánh, rồi nuôi mạng bằng nghề nghiệp chân chánh đúng pháp. Đã được đức Thế Tôn nói như sau: “Này chư tỳ khưu, có 5 nghề buôn bán mà người tại gia cư sĩ không nên làm. Thế nào là năm? Buôn bán vũ khí, buôn bán người, buôn bán thịt, buôn bán rượu, buôn bán chất độc. Thật vậy, này chư tỳ khưu, 5 nghề buôn bán này không nên làm đối với người cư sĩ.

Kā vipattīti yā tasseva sīlassa ca ājīvassa ca vipatti, ayamassa vipatti. api ca yāya esa caṇḍālo ceva hoti, malañca patikuṭṭho ca, sāpissa vipattīti veditabbā. Te ca atthato assaddhiyādayo pañca dhammā honti. Yathāha — “Pañcahi, bhikkhave, dhammehi samannāgato upāsako upāsakacaṇḍālo ca hoti, upāsakamalañca, upāsakapatikuṭṭho ca. katamehi pañcahi? Assaddho hoti, dussīlo hoti, kotūhalamaṅgaliko hoti, maṅgalaṃ pacceti, no kammaṃ, ito ca bahiddhā dakkhiṇeyyaṃ pariyesati, tattha ca pubbakāraṃ karotī”ti[83].

Có sự bất lợi [vipatti] như thế nào? Sự bất lợi của giới và sinh kế của người cư sĩ ấy, điều đó là điều bất lợi của người cư sĩ. Và hơn thế nữa cư sĩ ấy là người giai cấp thấp hèn và uế nhiễm bởi những trần cấu, do sự bất lợi nào dầu sự bất lợi ấy cũng nên biết rằng là sự bất lợi của cư sĩ ấy. Và người giai cấp thấp hèn ấy khi nói theo ý nghĩa cũng bao gồm 5 pháp (gồm) sự không có đức tin v.v. Đã được đức Thế Tôn nói như sau: “Này các tỳ khưu, người cư sĩ thành tựu đầy đủ được năm pháp này, là người cư sĩ hèn hạ, là người cư sĩ bẩn thỉu, là người cư sĩ đáng khinh bỉ. Thế nào là năm? Không có đức tin (nơi Tam bảo), là kẻ ác giới, là người thích xem (bói) điềm lành, tin vào điềm báo lành (dữ) không tin vào nghiệp, tìm đối tượng xứng đáng bên ngoài Tôn giáo [Phật giáo] và ở đấy thực hành lợi ích trong Tôn giáo đó trước.

Kā sampattīti yā cassa sīlasampadā ceva ājīvasampadā ca, sā sampatti; Ye cassa ratanabhāvādikarā saddhādayo pañca dhammā. Yathāha — “Pañcahi, bhikkhave, dhammehi samannāgato upāsako upāsakaratanañca hoti, upāsakapadumañca, upāsakapuṇḍarīkañca. katamehi pañcahi? Saddho hoti, sīlavā hoti, na kotūhalamaṅgaliko hoti, kammaṃ pacceti, no maṅgalaṃ, na ito bahiddhā dakkhiṇeyyaṃ gavesati, idha ca pubbakāraṃ karotī”ti[84].

Có sự thuận lợi [sampatti] như thế nào? Sự thành tựu giới và thành tựu về sinh kế của người cư sĩ đó gọi là sự thuận lợi. Năm pháp nào có đức tin nơi Tam bảo v.v, của người cư sĩ nào thì pháp đó của người cư sĩ đó gọi là sự thuận lợi. Đã được đức Thế Tôn nói như sau: “Này các tỳ kheo, người cư sĩ nào thành tựu tròn đủ năm pháp này, (người cư sĩ ấy) là người cư sĩ ngọc bảo, là người cư sĩ hoa sen hồng, là người cư sĩ hoa sen trắng. Thế nào là năm? là người có đức tin, là người có giới, là người không thích xem (bói) điềm lành, tin vào nghiệp hơn là điềm báo lành, không tìm đối tượng xứng đáng bên Tôn giáo (Phật giáo) và ở đây thực hành thiện pháp trong Phật giáo trước.”

Ajjataggeti etthāyaṃ aggasaddo ādikoṭikoṭṭhāsaseṭṭhesu dissati. “Ajjatagge, samma dovārika, āvarāmi dvāraṃ nigaṇṭhānaṃ nigaṇṭhīnan”tiādīsu[85] hi ādimhi dissati. “Teneva aṅgulaggena taṃ aṅgulaggaṃ parāmaseyya. Ucchaggaṃ veḷaggan”tiādīsu[86] koṭiyaṃ. “Ambilaggaṃ vā madhuraggaṃ vā tittakaggaṃ vā vihāraggena vā pariveṇaggena vā bhājetun”tiādīsu[87] koṭṭhāse. “Yāvatā, bhikkhave, sattā apadā vā … pe … tathāgato tesaṃ aggamakkhāyatī”tiādīsu[88] seṭṭhe. idha panāyaṃ ādimhi daṭṭhabbo. tasmā ajjataggeti ajjataṃ ādiṃ katvāti evametthattho veditabbo. ajjatanti ajjabhāvaṃ. ajjadaggeti vā pāṭho, dakāro padasandhikaro. ajja agganti attho[89].

Từ agga trong từ ajjatagge này sử dụng với ý nghĩa bắt đầu [ādi], chót đỉnh [koṭi], phần [koṭṭhāsa] và tối tượng [seṭṭha]. Từ agga cũng sử dụng với ý nghĩa bắt đầu [ādi]: “Kể từ nay trở đi, này người gác cửa, ta sẽ đóng cửa đối với các nam Nigantha, các nữ Nigantha.” Chót đỉnh [koṭi]: “Nên vuốt ve đầu ngọn mía, đầu ngọn tre bằng đầu ngón tay này với đầu ngón tay kia bằng chính đầu ngón tay ấy.Phần [koṭṭhāsa]: “Này chư tỳ khưu, Như Lai cho phép phân phối theo phòng ngủ, và phân phối theo phòng ở.” Tối thượng: “Này chư tỳ khưu, tất cả chúng sanh số lượng chừng ấy có chân hoặc…(trong số đó) Như Lai, bậc trí đã nói rằng là người tối thượng nhất.” Nhưng ở đây, từ agga này có thể thấy rằng được sử dụng với ý nghĩa bắt đầu [ādi]. Do đó, trong từ ajjadagge này nên hiểu ý nghĩa: “Bắt đầu từ hôm nay trở đi”. Ajjataṃ gồm ajjabhāvaṃ [thời gian hiện tại]. Trong Pāḷī từ ajjadagge cũng có. Phụ âm ‘da’ làm nhiệm vụ nối từ [tiếp ngữ xen chữ giữa ajja với agge] có nghĩa là “Bắt đầu từ hôm nay trở đi”.

Pāṇupetanti pāṇehi upetaṃ. yāva me jīvitaṃ pavattati, tāva upetaṃ anaññasatthukaṃ tīhi saraṇagamanehi saraṇaṃ gataṃ upāsakaṃ kappiyakārakaṃ maṃ bhagavā dhāretu jānātu. ahañhi sacepi me tikhiṇena asinā sīsaṃ chindeyya, neva buddhaṃ “na buddho”ti vā, dhammaṃ “na dhammo”ti vā, saṅghaṃ “na saṅgho”ti vā vadeyyanti.

Trọn đời: đến trọn đời, (tức là) xin Ngài Gotama hãy ghi nhận, tức là hãy nhận biết con là cần sự nam đã đi đến nương nhờ Tam bảo, không có bậc Đạo sư khác [ngoài đức Thế Tôn] trọn đời trọn kiếp sống của con, Đối với con, nếu ai đó chặt đầu tôi bằng một con dao sắc bén, cũng không nên nói rằng: Đức Phật ‘không phải là Đức Phật’, Giáo Pháp ‘không phải là Giáo Pháp’ (và) Tăng Chúng ‘không phải là Tăng Chúng’.

Evaṃ attasanniyyātanena saraṇaṃ gantvā attanā kataṃ aparādhaṃ pakāsento accayo maṃ, bhantetiādimāha. Tattha accayoti aparādho. Maṃ accagamāti maṃ atikkamma abhibhavitvā pavatto. Dhammikaṃ dhammarājānanti ettha dhammaṃ caratīti dhammiko. dhammeneva rājā jāto, na pitughātanādinā adhammenāti dhammarājā. Jīvitā voropesinti jīvitā viyojesiṃ. Paṭiggaṇhātūti khamatu. Āyatiṃ saṃvarāyāti anāgate saṃvaratthāya. puna evarūpassa aparādhassa dosassa khalitassa akaraṇatthāya.

Đức vua Ajātasattu khi đi đến nương nhờ với sự phó thác sanh mạng như vậy và khi công bố lỗi lầm của bản thân đã gây ra mới nói lời  sau: “Bạch Ngài, tội lỗi đã chiếm ngự lấy trẫm…” Ở đây, accayo dịch là tội lỗi. Đã chiếm ngự: đã vượt qua, đã chiếm ngự, rồi vận hành. Một vị minh vương công chính: ở đây, công chính với ý nghĩa thực hành đúng Pháp. Minh vương với ý nghĩa là vị vua sống (trị vì) hoàn toàn với Chánh Pháp, không phải với Phi Pháp như giết cha v.v, Đã đoạt lấy mạng sống: tước đoạt mạng sống (vua cha). Hãy nhận biết tội lỗi: hãy ghi nhận tội lỗi. Để ngăn ngừa trong tương lai: Để ngăn ngừa trong trương lại, là để không gây ra sai phạm, (tức là) lỗi lầm có hình thức như thế này nữa.

251. Tagghāti ekaṃse nipāto. Yathā dhammaṃ paṭikarosīti yathā dhammo ṭhito tatheva karosi, khamāpesīti vuttaṃ hoti. Taṃ te mayaṃ paṭiggaṇhāmāti taṃ tava aparādhaṃ mayaṃ khamāma. Vuḍḍhihesā, mahārāja ariyassa vinayeti esā, mahārāja, ariyassa vinaye buddhassa bhagavato sāsane vuḍḍhi nāma. Katamā? Yāyaṃ accayaṃ accayato disvā yathādhammaṃ paṭikaritvā āyatiṃ saṃvarāpajjanā, desanaṃ pana puggalādhiṭṭhānaṃ karonto — “Yo accayaṃ accayato disvā yathādhammaṃ paṭikaroti, āyatiṃ saṃvaraṃ āpajjatī”ti āha.

251. Taggha là phân từ, sử dụng với nghĩa chắc thật. Sửa đổi đúng theo Pháp: Hãy làm tương tự như thế ấy để Giáo Pháp được vững trú, giải thích rằng hãy ghi nhận tội lỗi. Như Lai ghi nhận điều ấy cho đại vương: Lỗi lầm của đại vương ấy, chúng tôi ghi nhận điều ấy cho đại vương. Này đại vương, chính điều này là sự tiến bộ trong giới luật của bậc Thánh: Này đại vương đây là sự tiến bộ trong Giới Luật của bậc Thánh, là trong Giáo Pháp của đức Thế Tôn. Như thế nào? Là sau khi thấy được tội lỗi là tội lỗi rồi sửa đổi đúng theo Pháp sẽ có được sự ngăn ngừa trong tương lai, nhưng khi thuyết giảng Giáo Pháp dùng con người làm nền tảng (puggalādhiṭṭhāna) thích hợp mới nói rằng – “Người nào sau khi thấy được tội lỗi là tội lỗi và sửa đổi đúng theo Pháp sẽ có được sự ngăn ngừa trong tương lai.

252. Evaṃ vutteti evaṃ bhagavatā vutte. Handa ca dāni mayaṃ bhanteti ettha handāti vacasāyatthe[90] nipāto. So hi gamanavacasāyaṃ[91] katvā evamāha. Bahukiccāti balavakiccā. Bahukaraṇīyāti tasseva vevacanaṃ. Yassadāni tvanti yassa idāni tvaṃ mahārāja gamanassa kālaṃ maññasi jānāsi, tassa kālaṃ tvameva jānāsīti vuttaṃ hoti. Padakkhiṇaṃ katvā pakkāmīti tikkhattuṃ padakkhiṇaṃ katvā dasanakhasamodhānasamujjalaṃ añjaliṃ sirasi patiṭṭhapetvā yāva dassanavisayaṃ bhagavato abhimukhova paṭikkamitvā dassanavijahanaṭṭhānabhūmiyaṃ pañcapatiṭṭhitena vanditvā pakkāmi.

252. Khi đức Thế Tôn thuyết như vậy: Khi đức Thế Tôn thuyết như vậy. Handa trong cụm từ ‘Handa ca dāni mayaṃ bhante’ này là phân từ, với ý nghĩa ‘bây giờ đây’. Bởi vì, vị ấy đã thực hiện nói lời nói trong việc đi mới nói như vậy. Có nhiều phận sự: có nhiều phận sự. Bahukaraṇīyā: chính là từ đồng nghĩa với từ ‘có nhiều phận sự’. Này đại vương, đại vương (hãy suy nghĩ) bây giờ là thời điểm của việc gì: Này đại vương, đại vương hãy suy nghĩ, biết được bây giờ là thời điểm của việc đi, giải thích rằng – chính vị ấy biết được thời điểm của việc đi. Hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi: đức vua Ajātasattu đã hướng vai phải nhiễu quanh 3 lần, đã chắp tay ở trên đầu, hướng mặt về đức Thế Tôn, bước lùi một khoảng cách (có thể) nhìn thấy (đức Thế Tôn) sau đó đảnh lễ với năm điểm tiếp xúc rồi ra đi.

253. Khatāyaṃ, bhikkhave, rājāti khato ayaṃ, bhikkhave, rājā. Upahatāyanti upahato ayaṃ. idaṃ vuttaṃ hoti — ayaṃ, bhikkhave, rājā khato upahato bhinnapatiṭṭho jāto, tathānena attanāva attā khato, yathā attano patiṭṭhā na jātāti. Virajanti rāgarajādivirahitaṃ. rāgamalādīnaṃyeva vigatattā vītamalaṃ. Dhammacakkhunti dhammesu vā cakkhuṃ, dhammamayaṃ vā cakkhuṃ, aññesu ṭhānesu tiṇṇaṃ maggānametaṃ adhivacanaṃ. Idha pana sotāpattimaggasseva. Idaṃ vuttaṃ hoti — sace iminā pitā ghātito nābhavissa, idāni idhevāsane nisinno sotāpattimaggaṃ patto abhavissa, pāpamittasaṃsaggena panassa antarāyo jāto. Evaṃ santepi yasmā ayaṃ tathāgataṃ upasaṅkamitvā ratanattayaṃ saraṇaṃ gato, tasmā mama sāsanamahantatāya yathā nāma koci purisassa vadhaṃ katvā pupphamuṭṭhimattena daṇḍena mucceyya, evameva lohakumbhiyaṃ nibbattitvā tiṃsavassasahassāni adho patanto heṭṭhimatalaṃ patvā tiṃsavassasahassāni uddhaṃ gacchanto punapi uparimatalaṃ pāpuṇitvā muccissatīti idampi kira bhagavatā vuttameva, pāḷiyaṃ pana na ārūḷhaṃ.

253. Này chư tỳ khưu, vị vua này đã bị bứng gốc: này chư tỳ khưu vị vua này đã bị bứng gốc. Upahatāyaṃ = Upahato + ayaṃ (vị vua này đã bị diệt trừ). Điều này được nói là – Này chư tỳ khưu, vị vua này đã bị bứng gốc, đã bị diệt trừ, có chỗ nương tựa bị phá vỡ, là tự mình bị chính mình bứng gốc lên không còn chỗ nương tựa. Không nhiễm bụi trần: không nhiễm bụi trần là ái luyến v.v. Có cấu uế đã xa lìa bởi đã xa lìa cấu uế chính là ái luyến ấy. Pháp nhãn: con mắt trong các Pháp, hoặc con mắt được thành tựu bởi Pháp. Pháp nhãn này là tên gọi của ba Thánh Đạo ở trường hợp khác, nhưng ở trường hợp này chỉ là tên gọi của Thánh Đạo Nhập Lưu mà thôi. Điều này được nói là – Nếu như đức vua Ajātasattu không tước đoạt mạng của vua cha thì vị ấy sẽ chứng đắc được Thánh Đạo Nhập Lưu vào lúc đấy khi ngồi trên toạ cụ này, nhưng do thân cận bạn ác mới khởi lên nguy hại cho vị ấy, mặc dù như thế khi đức vua Ajātasattu đã đến yết kiến đức Như Lai, đã đến nương nhờ Tam Bảo, vì thế, đức vua Ajātasattu tái sanh vào địa ngục Lohakumbhī sẽ rơi xuống chỗ thấp chạm tới bề mặt bên dưới suốt ba mươi ngàn năm, rồi nổi lên chạm tới bề mặt bên trên thêm lần nữa suốt ba mươi ngàn năm, mới (có thế) thoát được, giống như một kẻ giết người có thể thoát khỏi tội lỗi được bằng hình phạt chỉ bằng bông hoa trong nắm tay, vì Giáo Pháp của chúng ta có ân đức to lớn. Được biết rằng lời nói đã được nói này đức Thế Tôn tự nói ra, nhưng không được nêu ra trong Pāḷī.

Idaṃ[92] pana suttaṃ sutvā raññā koci ānisaṃso laddhoti? mahāānisaṃso laddho. ayañhi pitu māritakālato paṭṭhāya neva rattiṃ na divā niddaṃ labhati, satthāraṃ pana upasaṅkamitvā imāya madhurāya ojavantiyā dhammadesanāya sutakālato paṭṭhāya niddaṃ labhi[93]. Tiṇṇaṃ ratanānaṃ mahāsakkāraṃ akāsi. Pothujjanikāya saddhāya samannāgato nāma iminā raññā sadiso nāhosi. Anāgate pana vijitāvī[94] nāma paccekabuddho hutvā parinibbāyissatīti . Idamavoca bhagavā. Attamanā te bhikkhū bhagavato bhāsitaṃ abhinandunti.

Hơn nữa, đức vua Ajātasattu sau khi nghe bài Kinh này có được lợi ích gì? Có được rất nhiều lợi ích. Bởi vì kể từ khi sát hại vua cha, vị ấy không thể nào ngủ được cả ban đêm lẫn ban ngày, nhưng kể từ khi đến yết kiến bậc Đạo Sư, lắng nghe Giáo Pháp êm dịu có dưỡng tố này (vị ấy) đã (có thể) ngủ được an giấc. Đã thực hiện lễ bái cung kính lớn lao đối với Tam Bảo. (nhưng) không được gọi là vị có sự thành tựu với niềm tin ở cấp độ phàm nhân ngang bằng với đức vua này. Cũng bởi vì vào thời vị lai (vị ấy) sẽ trở thành đức Phật-độc-giác hồng danh Vijitāvī, sẽ viên tịch Nibbāna. Đức Thế Tôn đã thuyết lời này. Chư tỳ khưu ấy hoan hỷ tín thọ lời dạy của đức Thế Tôn.

Giải Thích Kinh Quả Báo Hạnh Sa Môn được kết thúc – Kinh thứ nhì.

Trong Chú Giải Trường Bộ Kinh tên là Sumaṅgalavilāsī



[1] Yo hi (Syā, Ka)

[2] Ukkaṭṭhasenāsanaṃ (Syā)

[3] Thīnamiddhaṃ (Sī, Syā)

[4] Gomuttaharīḷakaṃ (Syā, Ka) Dī-Ṭṭ 1. 254; Sī-Ṭṭ Abhinava 2. 114 piṭṭhesu oloketabbā.

[5] Ma-Ṭṭha 2. 115; Aṃ-Ṭṭha 2. 380; Mahāniddesa-Ṭṭha 409 piṭṭhesupi.

[6] Majjanakāle (Ka)

[7] …madhukādīni (Sī-Ṭī Abhinava 2. 115 piṭṭhe.)

[8] Dubbharāti (Syā), mahāgajā (Ṭīkā)

[9] Ticīvare kāyabandhanaṃ (Syā)

[10] Yathicchakaṃ (Syā), yadicchakaṃ (Ka)

[11] Saṃsaggo vā baddho vā (Syā)

[12] Mattahatthī (Sī, Syā)

[13] su. ni. 42

[14] Nakhapakkhatuṇḍīhi (Sī), nakhamukhatuṇḍdīhi (Ka)

[15] Vitudantā (Syā)

[16] Pakkamanto (Syā)

[17] vibha. 526

[18] vibha. 527

[19] pārā. 654

[20] Santacchāyaṃ (Ka) Ma 2. 108 piṭṭhepi.

[21] Nadīkujjantipi (Syā)

[22] Sītiṃ (Sī), sītaṃ (Ka)

[23] Ummaṅgasadisaṃ (Syā), umaṅgasadisaṃ (Ka)

[24] Asañcaraṇaṭṭhānaṃ (Ka)

[25] Piṭṭhakaṇṭakaṭṭhike (Syā, Ka), Ma-Ṭṭha 2. 120; Aṃ-Ṭṭha-384; Vi-Ṭṭha 2. 13 piṭṭhesu passitabbaṃ.

[26] vibha. 537

[27] paṭi. ma. 1.164

[28] Jahatīti (Sī), pajahatīti (Syā)

[29] Ubhayampetaṃ (Syā, Ka)

[30] Āṇanyanidānaṃ (Sī), ānaṇyanidānaṃ (Ka)

[31] Sabbiriyāpathaṃ (Ka)

[32] Gantukāmo (Ka) kāmo (Ma-Ṭṭha 2. 217 piṭṭhe Mahā-assapurasuttavaṇṇanāyaṃ)

[33] Paṭippharituṃ (Sī, Syā)

[34] Vutte (Sī), vutto so (Syā, Ka)

[35] Sīghaṃ tattha (Ka)

[36] Apakataññunā bhikkhunā (Syā)

[37] Vilumpamānokāsaṃ (Syā), viluppanokāsaṃ (Ka)

[38] Gatokāsaṃ (Sī), hatokāsaṃ (Syā) Ma-Ṭṭha 2. 219 piṭṭhe passitabbaṃ.

[39] Pharati (Syā) Aṃ-Ṭṭha 3. 9 piṭṭhe passitabbaṃ.

[40] Sannetuñca (Sī, Syā)

[41] Sannentassa (Sī, Syā)

[42] Pussanti vaḍḍhantīti attho (Sī), posinti vaḍḍhantīti attho (Syā)

[43] Vasībhāvaṃ (Sī, Syā)

[44] mahāni. 1.257

[45] ma. ni. 1.328

[46] mahāva. 10

[47] mahāva. 16

[48] Upamāsampādanaṃ (Ka)

[49] Vipassanāviññāṇasseva (Sī-Ṭṭ Abhinava 2. 146) Ma-Ṭṭha 2. 180 piṭṭhesu passitabbaṃ.

[50] Khādamānaṃ (Sī, Syā)

[51] Kālatilakavanamukha… (Syā)

[52] Vidisañcarantetipi (Sī), rathikaṃ sañcarantetipi (Ka)

[53] ma. ni. 1.438

[54] Nibbattanikaṃ (Ka)

[55] Sekhā (Sī, Syā)

[56] Katakaraṅīyaṃ (Syā) Vi-Ṭṭha 1. 137 piṭṭhe passitabbaṃ.

[57] Itthambhāvato (Sā)

[58] Kasambukā ca (Syā) Ma-Ṭṭha 2. 224; Aṃ-Ṭṭha 1. 43 piṭṭhesu passitabbaṃ.

[59] Kaṭhalāni (Sī)

[60] a. ni. 8.20

[61] a. ni. 4.100

[62] vi. va. 857

[63] pārā. 15

[64] a. ni. 4.34

[65] vi. va. 887

[66] vi. va. 888

[67] Padatthato (Sī, Syā); Ma-Ṭṭha 1. 136; Itivuttaka-Ṭṭha 213 piṭṭhesupi.

[68] Sammādiṭṭhi, yā (?)

[69] Pāṇpātenāti (Syā, Ka)

[70] saṃ. ni. 2.154

[71] Saraṇagamane viya (Sī, Ka)

[72] ma. ni. 2.394

[73] dī. ni. 3.265

[74] dha. pa. 190-192

[75] Niccādito (Syā, Ka); Ma-Ṭṭha 1. 138 piṭṭhe passitabbaṃ.

[76] Kiñci (Syā, Ka)

[77] a. ni. 1.290

[78] saṃ. ni. 1.37

[79]  saṃ. ni. 4.341

[80] saṃ. ni. 5.1033

[81] saṃ. ni. 5.1033

[82] a. ni. 5.177

[83] a. ni. 5.175

[84] a. ni. 5.175

[85] ma. ni. 2.70

[86] kathā. 281

[87] cūḷava. 317

[88] a. ni. 4.34

[89] Ajja agganti attho (Ka)

[90] Vacasāyatthe (Sī-Ṭī Abhinava 2. 194 piṭṭhe); Saṃ-Ṭṭha 1. 146; Aṃ-Ṭṭha 3. 36 piṭṭhesu passitabbaṃ.

[91] Gamanavavasāyaṃ (Sī)

[92] Imaṃ (Sī)

[93] Upeti (Syā), labhati (Ka)

[94] Viditaviseso nāma (SÊ), Jīvitaviseso nāma (Syā)