Kinh số 121 – Giải Thích Kinh Tiểu Không
(Cūḷasuññatasuttavaṇṇanā)Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Tiểu Không
2. Giải Thích Phẩm Sự Trống Không
176. evaṃ me sutanti cūḷasuññatasuttaṃ. tattha ekamidanti thero kira bhagavato vattaṃ katvā attano divāṭṭhānaṃ gantvā kālaparicchedaṃ katvā nibbānārammaṇaṃ suññatāphalasamāpattiṃ appetvā nisinno yathāparicchedena vuṭṭhāsi. athassa saṅkhārā suññato upaṭṭhahiṃsu. so suññatākathaṃ sotukāmo jāto. athassa etadahosi — “na kho pana sakkā dhurena dhuraṃ paharantena viya gantvā ‘suññatākathaṃ me, bhante, kathethā’ti bhagavantaṃ vattuṃ, handāhaṃ yaṃ me bhagavā nagarakaṃ upanissāya viharanto ekaṃ kathaṃ kathesi, taṃ sāremi, evaṃ me bhagavā suññatākathaṃ kathessatī”ti dasabalaṃ sārento ekamidantiādimāha.
176. Kinh Tiểu Không được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, một thuở nọ: được biết trưởng lão đã thực hiện nhiệm vụ đối với đức Thế Tôn rồi trở về chỗ nghỉ ban ngày của mình, sau khi xác định thời gian đã ngồi xuống thể nhập thánh quả thiền diệt có Nibbāna làm đối tượng rồi xuất thiền theo thời gian đã quy định. Sau đó, các Hành của ngài hiển lộ với tính chất trống không. Ngài mong muốn lắng nghe lời nói về tính chất trống không. Ngài đã khởi lên suy nghĩ như vầy – “Ta bận bịu công việc, không thể hỏi đức Thế Tôn nói về tính chất trống không rằng – ‘Kính bạch ngài, xin ngài hãy nói về tính chất trống không cho con’, nếu vậy ta sẽ xin ngài nhớ đến một lời nói trong khi sống y cứ ở thị trấn Nagaraka, thuyết giảng về một kệ ngôn, đức Thế Tôn sẽ thuyết giảng kệ ngôn về tính chất trống không cho ta như vầy’”. Khi trưởng lão Ānanda để đấng Thập Lực suy nghĩ đã nói lời như sau: ‘Một thuở nọ v.v.’
Tattha idanti nipātamattameva. Kaccimetaṃ, bhanteti thero ekapade ṭhatvā saṭṭhipadasahassāni uggahetvā dhāretuṃ samattho, kiṃ so “suññatāvihārenā”ti ekaṃ padaṃ dhāretuṃ na sakkhissati, sotukāmena pana jānantena viya pucchituṃ na vaṭṭati, pākaṭaṃ katvā vitthāriyamānaṃ suññatākathaṃ sotukāmo ajānanto viya evamāha. eko ajānantopi jānanto viya hoti, thero evarūpaṃ kohaññaṃ kiṃ karissati, attano jānanaṭṭhānepi Bhagavato apacitiṃ dassetvā “kaccimetan”tiādimāha.
Từ idaṃ trong từ ekamidaṃ đó chỉ là một phân từ. Kính bạch ngài, phải chăng điều này (con nghe là đúng)…: Trưởng lão chi nhớ được một câu cũng có thể tìm tòi ghi nhớ được đến sáu mươi ngàn câu, vì thế ngài không thể ‘an trú về không tánh’ chỉ để ghi nhớ một câu, hơn nữa việc mong muốn lắng nghe giả vờ như người không biết để hỏi thật không thích hợp. Trưởng lão mong muốn lắng nghe giảng về không tánh được Thế Tôn thuyết giảng chi tiết rõ ràng mới hỏi như vậy như không biết, một số người thậm chí không biết cũng làm vờ như đã biết, trưởng lão thể hiện hành động đánh lừa bằng hình thức như vậy ra sao? Trưởng lão bày tỏ sự tôn kính đối với đức Thế Tôn đã nói lời sau ‘phải chăng điều này…’ kể cả ở vị trí mà bản thân biết.
Pubbepīti paṭhamabodhiyaṃ Nagarakaṃ upanissāya viharaṇakālepi. Etarahipīti idānipi. Evaṃ pana vatvā cintesi — “Ānando suññatākathaṃ sotukāmo, eko pana sotuṃ sakkoti, na uggahetuṃ, eko sotumpi uggahetumpi sakkoti, na kathetuṃ, Ānando pana sotumpi sakkoti uggahetumpi kathetumpi, (kathemissa) suññatākathan”ti. Iti taṃ kathento seyyathāpītiādimāha. Tattha suñño hatthigavāssavaḷavenāti tattha kaṭṭharūpapotthakarūpacittarūpavasena katā hatthiādayo atthi, Vessavaṇamandhātādīnaṃ ṭhitaṭṭhāne cittakammavasena katampi, ratanaparikkhatānaṃ vātapānadvārabandhamañcapīṭhādīnaṃ vasena saṇṭhitampi, jiṇṇapaṭisaṅkharaṇatthaṃ ṭhapitampi jātarūparajataṃ atthi, kaṭṭharūpādivasena katā dhammasavanapañhapucchanādivasena āgacchantā ca itthipurisāpi atthi, tasmā na so tehi suñño. Indriyabaddhānaṃ saviññāṇakānaṃ hatthiādīnaṃ, icchiticchitakkhaṇe paribhuñjitabbassa jātarūparajatassa, nibaddhavāsaṃ vasantānaṃ itthipurisānañca abhāvaṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ.
Thuở xưa: kể cả thời gian đi sống nương nhờ thị trấn Nagaraka vào thời gian đầu giác ngộ. Bây giờ: ngay cả ngay lúc này. Đức Thế Tôn khi thuyết như vậy mới khởi lên suy tư như sau: – “Ānanda ước muốn lắng nghe giảng về không tánh, một số người có thể lắng nghe, nhưng không thể học tập, một số người vừa có thể lắng nghe vừa có thể học tập nhưng không thể trình bày, còn đối với Ānanda có thể vừa lắng nghe, vừa học tập và vừa có thể trình bày, ta sẽ giảng về không tánh cho ông.” Trong khi giảng về không tánh đó đã nói lời như sau: “Ví như…” bằng cách như thế. Ở đó, không có voi, bò, ngựa, ngựa cái: ở trong lâu đài đó thì voi v.v, voi được được tạo thành từ gỗ, voi được tạo thành từ đất sét, voi được được tạo thành từ tranh vẽ đều có trong lâu đài đó, chân dung của vua trời Vessavaṇa, vua trời Mandhātā v.v, được được tạo thành từ vàng bạc, được họ liên kết với các cửa sổ, cửa lớn và giường ghế được trang trí bằng vàng bạc, nơi lưu trữ để phục chế lại đồ cũ cũng có. Kể cả người nam và người nữ, chỗ đi đến thính pháp và đặt câu hỏi v.v, được tạo thành từ gỗ có mặt, do đó không thiếu vắng người nam và người nữ đó. Ngài nói lời này muốn đề cập đến sự vắng mặt của voi v.v, loài có thức buộc chặt với các giác quan, vàng và bạc được dùng trong lúc cần thiết, người nam và người nữ luôn hiện hữu.
Bhikkhusaṅghaṃ paṭiccāti bhikkhūsu hi piṇḍāya paviṭṭhesupi vihārabhattaṃ sādiyantehi bhikkhūhi ceva gilānagilānupaṭṭhākauddesacīvarakammapasutādīhi ca bhikkhūhi so asuññova hoti, iti niccampi bhikkhūnaṃ atthitāya evamāha. Ekattanti ekabhāvaṃ, ekaṃ asuññataṃ atthīti attho. Eko asuññabhāvo atthīti vuttaṃ hoti. Amanasikaritvāti citte akatvā, anāvajjitvā apaccavekkhitvā. Gāmasaññanti gāmoti pavattavasena vā kilesavasena vā uppannaṃ gāmasaññaṃ. Manussasaññāyapi eseva nayo. Araññasaññaṃ paṭicca manasi karoti ekattanti idaṃ araññaṃ, ayaṃ rukkho, ayaṃ pabbato, ayaṃ nīlobhāso vanasaṇḍoti evaṃ ekaṃ araññaṃyeva paṭicca araññasaññaṃ manasi karoti. Pakkhandatīti otarati. Adhimuccatīti evanti adhimuccati. Ye assu darathāti ye ca pavattadarathā vā kilesadarathā vā gāmasaññaṃ paṭicca bhaveyyuṃ, te idha araññasaññāya na santi. dutiyapadepi eseva nayo. Atthi cevāyanti ayaṃ pana ekaṃ araññasaññaṃ paṭicca uppajjamānā pavattadarathamattā atthi.
Do duyên chúng Tỳ khưu: bởi vì kể cả chư Tỳ khưu đi khất thực lâu đài ấy cũng không thiếu vắng vị Tỳ khưu hân hoan vật thực cúng dường đến tịnh xá và vị bị bệnh, vị săn sóc người bệnh, vị học tập, vị may y phục v.v. Ngài nói như vậy do có vị Tỳ khưu thường trú. Một thứ: tính chất hợp nhất, tức là có một cái này không phải trống không, ngài giải thích rằng có một tính chất không phải trống không. Không tác ý: không chú tâm, (tức là) không cân nhắc, không quán xét. Tưởng về làng: tưởng về làng sanh lên do sự chấp thủ là làng, hoặc do mãnh lực phiền não. Kể cả tưởng về loài người cũng có phương thức tương tự như vậy. Chỉ chú tâm một thứ do duyên tưởng về rừng: Chỉ chú tâm một thứ duy nhất, do duyên tưởng về rừng như sau: đây là rừng, đây là cây cối, đây là đồi núi, đây là khu rừng rậm tươi tốt, tác ý do duyên lâm tưởng. Được nhảy tới: gồm đi xuống dưới. Hướng đến: hướng đến như vậy. Các phiền muộn có thể có được: Các ưu phiền đã được vận hành, hay ưu phiền do phiền não, có thể có do y cứ những tưởng đó, không có do tưởng về rừng ở rừng này. Kể cả 2 câu còn lại cũng có cách thức này tương tự. Và chỉ có một ưu phiền này: Chỉ có một ưu phiền được vận hành được khởi lên do y cứ sự hợp nhất tưởng về rừng.
Yañhi kho tattha na hotīti yaṃ migāramātupāsāde hatthiādayo viya imissā araññasaññāya gāmasaññāmanussasaññāvasena uppajjamānaṃ pavattadarathakilesadarathajātaṃ, taṃ na hoti. Yaṃ pana tattha avasiṭṭhanti yaṃ Migāramātupāsāde bhikkhusaṅgho viya tattha araññasaññāya pavattadarathamattaṃ avasiṭṭhaṃ hoti. Taṃ santamidaṃ atthīti pajānātīti taṃ vijjamānameva “atthi idan”ti pajānāti. Suññatāvakkantīti suññatānibbatti.
Những thứ không có mặt ở tưởng đó: Ưu phiền đã vận hành và ưu phiền bởi phiền não khởi sanh do tác động tưởng về làng và tưởng về người đó, không có tưởng về rừng này tương tự như voi v.v, trong tòa lâu đài Migāramātu. Những thứ còn lại trú trong tưởng đó: Còn dư sót lại chỉ là ưu phiền được vận hành trong tưởng về rừng đó. Tượng tự như vị Tỳ khưu cư trú trong tòa lâu đài Migāramātu. Vị ấy tuệ tri cái kia có, cái này có: (vị ấy) biết rõ cái kia hoàn toàn có mặt ‘cái này có mặt’. Sự tràn ngập vào của không tánh: sự sanh lên của không tánh.
177. Amanasikaritvā manussasaññanti idha gāmasaññaṃ na gaṇhāti. Kasmā? evaṃ kirassa ahosi — “manussasaññāya gāmasaññaṃ nivattetvā, araññasaññāya manussasaññaṃ, pathavīsaññāya araññasaññaṃ, ākāsānañcāyatanasaññāya pathavīsaññaṃ … pe … nevasaññānāsaññāyatanasaññāya ākiñcaññāyatanasaññaṃ, vipassanāya nevasaññānāsaññāyatanasaññaṃ, maggena vipassanaṃ nivattetvā anupubbena accantasuññataṃ nāma dassessāmī”ti. Tasmā evaṃ desanaṃ ārabhi. Tattha pathavīsaññanti kasmā araññasaññaṃ pahāya pathavīsaññaṃ manasi karoti? Araññasaññāya visesānadhigamanato. Yathā hi purisassa ramaṇīyaṃ khettaṭṭhānaṃ disvā — “idha vuttā sāliādayo suṭṭhu sampajjissanti, mahālābhaṃ labhissāmī”ti sattakkhattumpi[1] khettaṭṭhānaṃ olokentassa sāliādayo na sampajjanteva, sace pana taṃ ṭhānaṃ vihatakhāṇukakaṇṭakaṃ katvā kasitvā vapati, evaṃ sante sampajjanti, evameva — “idaṃ araññaṃ, ayaṃ rukkho, ayaṃ pabbato, ayaṃ nīlobhāso vanasaṇḍo”ti sacepi sattakkhattuṃ[2] araññasaññaṃ manasi karoti, nevūpacāraṃ na samādhiṃ pāpuṇāti, pathavīsaññāya panassa dhuvasevanaṃ kammaṭṭhānaṃ pathavīkasiṇaṃ parikammaṃ katvā jhānāni nibbattetvā jhānapadaṭṭhānampi vipassanaṃ vaḍḍhetvā sakkā arahattaṃ pāpuṇituṃ. Tasmā araññasaññaṃ pahāya pathavīsaññaṃ manasi karoti. Paṭiccāti paṭicca sambhūtaṃ.
177. Không tác ý tưởng về người: Không chấp thủ tưởng về làng trong câu này. Tại sao? Do được biết vị Tỳ khưu ấy suy nghĩ như vậy rằng – “ta sẽ làm cho tưởng về làng sanh khởi bởi tưởng về người, làm cho tưởng về người sanh khởi bởi tưởng về rừng, làm cho tưởng về rừng sanh khởi bởi tưởng về địa đại, làm cho tưởng về địa đại sanh khởi bởi tưởng về Không vô biên xứ …nt… làm cho tưởng về Vô sở hữu xứ sanh khởi bởi tưởng về Phi tưởng phi phi tưởng xứ, làm cho tưởng về Phi tưởng phi phi tưởng xứ sanh khởi bởi Minh sát, làm cho Minh sát sanh khởi bởi Đạo, (ta) sẽ thuyết giảng accanta-suññatā theo tuần tự. Vì thế mới bắt đầu thuyết pháp thoại này như vậy. Trong số những câu đó ‘tưởng về địa đại’ vì lý do gì dứt trừ tưởng về rừng tác ý tưởng về địa đại? Bởi có sự chứng đắc đặc biệt bởi tưởng về rừng. Giống như người đàn ông nhìn thấy cánh đồng có sự đáng thỏa thích ngắm nhìn đến bảy lần do nghĩ rằng: – “Gạo sālī v.v, được gieo ở cánh đồng này sẽ được kết quả tốt đẹp, ta sẽ nhận được lợi đắc to lớn” gạo sālī v.v, không được kết quả nhưng nếu vị ấy dọn dẹp hết những gốc cây và gai nhọn ở nơi ấy rồi gieo mạ, như vậy gạo sālī (được gieo trồng) sẽ có kết quả tốt đẹp như thế nào, vị Tỳ khưu cũng tương tự như thế ấy, (vị ấy) tác ý tưởng về rừng đến bảy lần rằng: – “đây là rừng, đấy là cây, đây là đồi núi, đây là rừng rậm xanh tốt”, sẽ không đạt cận định và an chỉ định, đối với tưởng về địa đại chuẩn bị tướng-parikamma trở thành nghiệp xứ thường cận làm cho thiền định sanh khởi để tu tập Minh sát do có thiền định làm nhân cận có khả năng chứng đắc quả vị A-ra-hán. Vì thế vị ấy dứt bỏ tưởng về rừng tác ý tưởng về địa đại. Paṭicca: nương nhau sanh lên.
Idāni yasmiṃ pathavīkasiṇe so pathavīsaññī hoti, tassa opammadassanatthaṃ seyyathāpītiādimāha. Tattha usabhassa etanti āsabhaṃ. Aññesaṃ pana gunnaṃ gaṇḍāpi honti pahārāpi. Tesañhi cammaṃ pasāriyamānaṃ nibbalikaṃ na hoti, usabhassa lakkhaṇasampannatāya te dosā natthi. Tasmā tassa cammaṃ gahitaṃ. Saṅkusatenāti khilasatena. Suvihatanti pasāretvā suṭṭhu vihataṃ. ūnakasatasaṅkuvihatañhi nibbalikaṃ na hoti, saṅkusatena vihataṃ bheritalaṃ viya nibbalikaṃ hoti. Tasmā evamāha. Ukkūlavikkūlanti uccanīcaṃ thalaṭṭhānaṃ ninnaṭṭhānaṃ. Nadīvidugganti nadiyo ceva duggamaṭṭhānañca[3]. Pathavīsaññaṃ paṭicca manasi karoti ekattanti kasiṇapathaviyaṃyeva paṭicca sambhūtaṃ ekaṃ saññaṃ manasi karoti. Darathamattāti ito paṭṭhāya sabbavāresu pavattadarathavasena darathamattā veditabbā.
Ở đây, để so sánh biến xứ đất mà vị Tỳ khưu có sự suy tưởng rằng địa đại trong biến xứ đất đã nói lời như sau ‘ví như v.v.’ Ở đây, usabhassa etaṃ: đây là con bò đực oai hùng. Những con bò khác dầu bị nhiễm trùng da, (hay) những vết thương thì da của những con bò này khi lành sẽ không còn vết sẹo, sự quở trách đó không xuất hiện ở loài bò đực usabha bởi vì (chúng) hoàn hảo về tướng trạng, vì thế mới lấy da của loài bò đực usabha. Với hàng trăm cái móc: bao gồm hàng trăm cọc gỗ. Khéo được căng ra: sau khi được trải ra đã được kéo căng tốt đẹp. Sự thật da bò được sử dụng cái móc không đến hàng trăm cái cọc gỗ để căng ra thì nó sẽ có nếp nhăn, còn sử dụng hàng trăm cọc gỗ thì nó sẽ được căng ra tựa như bề mặt cái trống. Do đó, đã nói như vậy. Có trạng thái cao-thấp: cao cao thấp thấp là vùng đồi núi, (hay) là đầm lầy. Có sông và những ngả đường khó đi: bao gồm dòng sông và những nơi đi lại không thuận tiện. Chỉ chú tâm một thứ do duyên tưởng về địa đại: nghĩa là chỉ chú tâm đến một tưởng do nương nhau sanh lên ở trong biến xứ địa đại. Chỉ có sự ưu phiền: bắt đầu kể từ đây nên biết ý nghĩa sự ưu phiền bởi sự ưu phiền được diễn ra trong tất cả các phần.
182. Animittaṃ cetosamādhinti vipassanācittasamādhiṃ. So hi niccanimittādivirahito animittoti vuccati. Imameva kāyanti vipassanāya vatthuṃ dasseti. Tattha imamevāti imaṃ eva catumahābhūtikaṃ. Saḷāyatanikanti saḷāyatanapaṭisaṃyuttaṃ. Jīvitapaccayāti yāva jīvitindriyānaṃ pavatti, tāva jīvitapaccayā pavattadarathamattā atthīti vuttaṃ hoti.
182. Vô tướng tâm định: bao gồm Minh sát tâm định. Tâm định được loại bỏ tướng rằng thường còn v.v, được gọi là vô tướng. Chính thân này: ngài thuyết vatthu-vật với Minh sát. Trong câu đó thì chính cái này bao gồm cả bốn sắc đại hiện. Sự sanh khởi của 6 xứ: có liên hệ đến sáu xứ. Do mạng quyền làm duyên:có lời giải thích rằng – cho đến khi nào mạng quyền duy trì, cho đến khi ấy sự ưu phiền được vận hành do mạng quyền làm duyên.
183. Puna animittanti vipassanāya paṭivipassanaṃ dassetuṃ vuttaṃ. Kāmāsavaṃ paṭiccāti kāmāsavaṃ paṭicca uppajjanapavattadarathā idha na santi, ariyamagge ceva ariyaphale ca natthīti vuttaṃ hoti. Imameva kāyanti imaṃ upādisesadarathadassanatthaṃ vuttaṃ. Iti manussasaññāya gāmasaññaṃ nivattetvā … pe … maggena vipassanaṃ nivattetvā anupubbena accantasuññatā nāma dassitā hoti.
183. Hơn nữa, để nói sự thấy rõ đặc biệt của Minh sát mới thuyết ‘vô tướng’ nữa. Do duyên dục lậu: do nương vào dục lậu, sự ưu phiền sanh khởi và vận hành không có mặt ở đây, tức là không có trong Thánh đạo và Thánh quả. Chính thân này: thuyết để trình bày sự lo âu của năm uẩn vẫn còn tồn tại. Bằng cách này là điều thay đổi tưởng về người trở thành tưởng về làng …nt… đạo thuộc Minh sát để thuyết giảng sự trống rỗng vượt qua từng phần theo tuần tự.
184. Parisuddhanti nirupakkilesaṃ. Anuttaranti uttaravirahitaṃ sabbaseṭṭhaṃ. Suññatanti suññataphalasamāpattiṃ. Tasmāti yasmā atītepi, buddhapaccekabuddhabuddhasāvakasaṅkhātā samaṇabrāhmaṇā. anāgatepi, etarahipi buddhabuddhasāvakasaṅkhātā samaṇabrāhmaṇā imaṃyeva parisuddhaṃ paramaṃ anuttaraṃ suññataṃ upasampajja vihariṃsu viharissanti viharanti ca, tasmā. sesaṃ sabbattha uttānamevāti.
184. Sự thanh tịnh: thoát khỏi tùy phiền não. Vô thượng: loại ra khỏi thứ khác một cách cao thượng, tức là tối thượng hơn tất cả. Sự thể nhập không tánh: Sự thể nhập thánh quả của không tánh. Vì thế: Do nào Sa-môn Bà-la-môn được xem là đức Phật, Phật-độc-giác, chư Thánh Thinh văn đệ tử đức Phật ở quá khứ, (hay) đức Phật, Phật-độc-giác, chư Thánh Thinh văn đệ tử đức Phật ở hiện tại nhập không tánh được thanh tịnh cao thượng đã tồn tại, sẽ tồn tại và đang tồn tại. Từ còn lại ở các câu đều đơn giản.
Giải Thích Kinh Tiểu Không Kết Thúc.