Kinh số 116 – Giải Thích Kinh Isigili

(Isigilisuttavaṇṇanā)

Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Isigili

133. Evamme sutanti Isigilisuttaṃ. Tattha aññāva samaññā ahosīti Isigilissa Isigilīti samaññāya uppannakāle Vebhāro na Vebhāroti paññāyittha, aññāyevassa samaññā ahosi. Aññā paññattīti idaṃ purimapadasseva vevacanaṃ. Sesesupi eseva nayo.

133. Kinh Isigili được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, đây là một tên gọi khác nghĩa là: Vào thời điểm trước khi tên gọi ‘Isigili’ khởi sanh cho núi Isigili, thì núi Vebhāra cũng không được biết đến với tên Vebhāra; nó đã có một tên gọi khác. Được quy định thêm một tên khác đây chỉ là một từ đồng nghĩa với cụm từ đứng trước (tức là ‘một tên gọi khác’ – aññā samaññā). Đối với các [ngọn núi] còn lại, cũng theo phương cách tương tự.

Tadā kira Bhagavā sāyanhasamaye samāpattito vuṭṭhāya Gandhakuṭito nikkhamitvā yasmiṃ ṭhāne nisinnānaṃ pañca pabbatā paññāyanti, tattha bhikkhusaṅghaparivuto nisīditvā ime pañca pabbate paṭipāṭiyā ācikkhi. Tattha na Bhagavato pabbatehi attho atthi, iti imesu pana pabbatesu paṭipāṭiyā kathiyamānesu Isigilissa Isigilibhāvo kathetabbo hoti. tasmiṃ kathiyamāne Padumavatiyā puttānaṃ pañcasatānaṃ Paccekabuddhānaṃ nāmāni ceva Padumavatiyā ca patthanā kathetabbā bhavissatīti Bhagavā imaṃ pañcapabbatapaṭipāṭiṃ[1] ācikkhi.

Tương truyền rằng, vào lúc xế chiều hôm ấy, Đức Thế Tôn sau khi xuất khỏi thiền định (samāpatti), đã đi ra khỏi Hương Thất (Gandhakuṭi). Ngài ngự đến một nơi mà từ đó, người ngồi có thể thấy rõ năm ngọn núi. Tại đấy, Ngài ngồi xuống giữa chư Tỳ-khưu Tăng đang vây quanh và lần lượt giới thiệu về năm ngọn núi này. Thật ra, Đức Thế Tôn không có chủ ý (attho) về các ngọn núi, nhưng khi giới thiệu tuần tự về các ngọn núi này, thì cần phải giải thích lý do tại sao núi Isigili lại có tên là Isigili (Isigilibhāvo). Và khi giải thích điều đó, danh tánh của năm trăm vị Phật Độc Giác là con của bà Padumavatī, cùng với lời nguyện (patthanā) của bà, cũng sẽ cần được kể đến. Chính vì lý do này mà Đức Thế Tôn đã giới thiệu tuần tự về năm ngọn núi.

Pavisantā dissanti paviṭṭhā na dissantīti yathāphāsukaṭṭhāne piṇḍāya caritvā katabhattakiccā āgantvā cetiyagabbhe yamakamahādvāraṃ vivarantā viya taṃ pabbataṃ dvedhā katvā anto pavisitvā rattiṭṭhānadivāṭṭhānāni māpetvā tattha vasiṃsu, tasmā evamāha. Ime isīti ime Paccekabuddhaisī.

Những vị ấy được thấy đi vào trong ngọn núi này (nhưng) khi ngài đi vào rồi thời không được thấy nữa: Chư vị Độc Giác Phật ấy, sau khi đi khất thực ở một nơi thuận tiện và dùng bữa xong, các vị ấy trở về, khiến ngọn núi tách làm đôi như thể đang mở một cánh cửa đôi vĩ đại của một bảo tháp, rồi đi vào bên trong. Ở đó, các vị ấy tạo ra nơi ở ban ngày và nơi ở ban đêm rồi trú ngụ. Vì vậy, [kinh] mới nói như thế.  Những vị ẩn sĩ này: những vị Phật-độc-giác ẩn sĩ này.

Kadā pana te tattha vasiṃsu? Atīte kira anuppanne Tathāgate Bārāṇasiṃ upanissāya ekasmiṃ gāmake ekā kuladhītā khettaṃ rakkhamānā ekassa Paccekabuddhassa pañcahi lājāsatehi saddhiṃ ekaṃ padumapupphaṃ datvā pañca puttasatāni patthesi. Tasmiṃyeva ca khaṇe pañcasatā migaluddakā madhuramaṃsaṃ datvā “etissā puttā bhaveyyāmā”ti patthayiṃsu. Sā yāvatāyukaṃ ṭhatvā devaloke nibbattā, tato cutā jātassare Padumagabbhe nibbatti. Tameko tāpaso disvā paṭijaggi, tassā vicarantiyāva pāduddhāre pāduddhāre bhūmito padumāni uṭṭhahanti. Eko vanacarako disvā Bārāṇasirañño ārocesi. Rājā naṃ āharāpetvā[2] aggamahesiṃ akāsi, tassā gabbho saṇṭhāsi. Mahāpadumakumāro mātukucchiyaṃ vasi, sesā gabbhamalaṃ nissā nibbattā. Vayappattā uyyāne padumassare kīḷantā ekekasmiṃ padume nisīditvā khayavayaṃ paṭṭhapetvā paccekabodhiñāṇaṃ nibbattayiṃsu. Ayaṃ tesaṃ byākaraṇagāthā ahosi —

“saroruhaṃ padumapalāsapattajaṃ, supupphitaṃ bhamaragaṇānuciṇṇaṃ.

aniccatāyupagataṃ[3] viditvā, eko care khaggavisāṇakappo”ti.

Tasmiṃ kāle te tattha vasiṃsu, tadā cassa pabbatassa Isigilīti samaññā udapādi.

Vậy, các vị ấy đã ở đó từ khi nào? Tương truyền rằng, trong quá khứ, khi một vị Như Lai chưa xuất hiện, tại một ngôi làng nhỏ gần thành Bārāṇasi, có một thiện nữ nhân (kuladhītā) đang trông coi ruộng rẫy. Nàng đã dâng cúng lên một vị Độc Giác Phật một đóa hoa sen cùng với năm trăm phần bỏng gạo (pañcahi lājāsatehi saddhiṃ ekaṃ padumapupphaṃ) và phát nguyện sanh được năm trăm người con.

Cũng chính vào khoảnh khắc ấy, năm trăm người thợ săn hươu (migaluddakā) đã dâng cúng thịt ngon và phát nguyện rằng: “Mong cho chúng tôi được trở thành con của nàng”.

Nàng sống cho đến hết tuổi thọ rồi được tái sanh vào cõi trời.Từ đó mệnh chung, nàng được hóa sanh trong một thai sen (Padumagabbhe) giữa một hồ nước tự nhiên. Một vị ẩn sĩ khổ hạnh thấy vậy bèn đem về nuôi nấng. Bất cứ nơi nào nàng đi qua, hoa sen lại trồi lên từ mặt đất theo mỗi bước chân của nàng (pāduddhāre pāduddhāre bhūmito padumāni uṭṭhahanti).

Một người đi rừng (vanacarako) trông thấy bèn tâu lên vua thành Bārāṇasi. Nhà vua cho rước nàng về và tấn phong làm hoàng hậu. Sau đó, nàng thọ thai. Hoàng tử Mahāpaduma an trú trong lòng mẹ, còn các vị còn lại thì sanh ra từ phần cấu uế của thai bào (gabbhamalaṃ nissā nibbattā).

Khi đến tuổi trưởng thành, trong lúc vui đùa tại hồ sen trong ngự uyển, các vị hoàng tử ngồi trên mỗi đóa sen riêng biệt, thiết lập sự quán chiếu về tàn hoại và biến diệt (khayavayaṃ paṭṭhapetvā), rồi làm phát sanh trí tuệ Độc Giác Phật. Đây là bài kệ giác ngộ của các vị ấy:

“Hoa sen sinh từ hồ, nở trên ngàn cánh lá,
Ong bướm lượn vây quanh, hương sắc thắm một thời.
Rồi cũng về vô thường, người trí thấy vậy rồi,
Nên sống đời đơn độc, như sừng loài tê giác.”

135. Ye sattasārāti Ariṭṭho Upariṭṭho Tagarasikhī Yasassī Sudassano Piyadassī Gandhāro Piṇḍolo Upāsabho Nīto Tatho Sutavā Bhāvitattoti terasannaṃ Paccekabuddhānaṃ nāmāni vatvā idāni tesañca aññesañca gāthābandhena nāmāni ācikkhanto ye sattasārātiādimāha. Tattha sattasārāti sattānaṃ sārabhūtā. Anīghāti niddukkhā. Nirāsāti nittaṇhā.

135. Chư hữu tình tinh hoa: Sau khi kể tên của mười ba vị Độc Giác Phật là Ariṭṭha, Upariṭṭha, Tagarasikhī, Yasassī, Sudassana, Piyadassī, Gandhāra, Piṇḍola, Upāsabha, Nīta, Tatha, Sutavā, và Bhāvitatta, bây giờ, khi trình bày tên của các vị ấy và những vị khác qua các vần kệ, [kinh] bắt đầu bằng câu Ye sattasārā. Ở đây, sattasārā có nghĩa là những bậc tinh túy của các chúng sanh. Anīghā (không phiền não) nghĩa là niddukkhā (không khổ đau). Nirāsā (không mong cầu) nghĩa là nittaṇhā (không còn tham ái).

Dve Jālinoti Cūḷajāli Mahājālīti dve Jālināmakā. Santacittoti idampi ekassa nāmameva. Passi jahi upadhidukkhamūlanti ettha Passi nāma so Paccekabuddho, dukkhassa pana mūlaṃ upadhiṃ jahīti ayamassa thuti. Aparājitotipi ekassa nāmameva.

[Câu] Dve Jālino (hai vị Jāli) chỉ hai vị là Cūḷajāli và Mahājāli. Santacitto cũng là tên của một vị. Đối với câu Passi jahi upadhidukkhamūlaṃ (Passi đã từ bỏ upadhi, gốc rễ của khổ), thì Passi là tên của vị Độc Giác Phật ấy. Phần còn lại, ‘đã từ bỏ upadhi [1], vốn là gốc rễ của khổ đau’, là lời tán thán (thuti) dành cho vị ấy. Aparājito cũng là tên của một vị.

Satthā Pavattā Sarabhaṅgo Lomahaṃso Uccaṅgamāyoti ime pañca janā. Asito Anāsavo Manomayoti imepi tayo janā. Mānacchido ca Bandhumāti Bandhumā nāma eko, mānassa pana chinnattā mānacchidoti vutto. Tadādhimuttotipi nāmameva.

[Câu kinh] Satthā, Pavattā, Sarabhaṅgo, Lomahaṃso, Uccaṅgamāyo chỉ năm vị này. [Câu kinh] Asito, Anāsavo, Manomayo chỉ ba vị này. Vị tên là Bandhumā, nhưng vì đã đoạn trừ ngã mạn (māna) nên được gọi là Mānacchido (người đoạn trừ ngã mạn). Tadādhimutto cũng là một tên riêng.

Ketumbharāgo ca Mātaṅgo Ariyoti ime tayo janā. Athaccutoti atha Accuto. Accutagāmabyāmaṅkoti ime dve janā. Khemābhirato ca Soratoti ime dveyeva.

[Câu kinh] Ketumbharāgo, Mātaṅgo, Ariyo chỉ ba vị này. Athaccuto là atha Accuto (và vị Accuta). [Câu kinh] Accutagāmabyāmaṅko chỉ hai vị là Accuta và Accutagāmabyāmaṅka. Khemābhirato và Sorato cũng là hai vị.

Sayho anomanikkamoti sayho nāma so buddho, anomavīriyattā pana anomanikkamoti vutto. Ānando Nando Upanando dvādasāti cattāro ānandā, cattāro nandā cattāro upanandāti evaṃ dvādasa. Bhāradvājo antimadehadhārīti bhāradvājo nāma so buddho, antimadehadhārīti thuti.

Bậc ẩn sĩ Sayha vị có sự tinh tấn không sa sút: Đức Phật-độc-giác ấy tên Sayha tuy nhiên họ thường gọi là Anomanikkama bởi vì sự tinh tấn không thấp kém. Đức Phật Ānanda, Nanda, Upananda cả 12 vị: Cả 12 vị Phật-độc-giác là Ānanda 4 vị, Nanda 4 vị, Upananda 4 vị. Đức Phật có sắc thân ở kiếp sống cuối cùng: là lời tán thán rằng đức Phật-độc-giác hồng danh Bhāradvāja vị có sắc thân lần cuối cùng.

Đối với câu Sayho anomanikkamo, vị Độc Giác Phật ấy tên là Sayha. Ngài được tán thán là anomanikkamo (bậc có sự tinh tấn không sút kém) vì sở hữu nghị lực phi thường. Câu Ānando, Nando, Upanando, dvādasa (Ānanda, Nanda, Upananda, mười hai vị) có nghĩa là: có bốn vị tên Ānanda, bốn vị tên Nanda, và bốn vị tên Upananda, tổng cộng là mười hai vị. Đối với câu Bhāradvājo antimadehadhārī, vị Độc Giác Phật ấy tên là Bhāradvāja, còn antimadehadhārī (người mang thân cuối cùng) là lời tán thán dành cho ngài.

Taṇhacchidoti sikharissāyaṃ thuti[4]. Vītarāgoti Maṅgalassa thuti. Usabhacchidā jāliniṃ dukkhamūlanti Usabho nāma so buddho dukkhamūlabhūtaṃ jāliniṃ acchidāti attho. Santaṃ padaṃ ajjhagamopanītoti upanīto nāma so buddho santaṃ padaṃ ajjhagamā. Vītarāgotipi ekassa nāmameva. Suvimuttacittoti ayaṃ Kaṇhassa thuti.

Taṇhacchido (vị đoạn trừ tham ái) là lời tán thán dành cho vị Sikharī. Vītarāgo (vị ly tham) là lời tán thán dành cho vị Maṅgala. Câu Usabho acchidā jāliniṃ dukkhamūlaṃ có nghĩa là: vị Độc Giác Phật tên là Usabha đã chặt đứt tham ái ví như mạng lưới (jālinī), vốn là gốc rễ của khổ đau. Vị Độc Giác Phật tên là Upanīta đã chứng đắc Niết-bàn an tịnh (santaṃ padaṃ). Vītarāgo cũng là tên của một vị khác. Suvimuttacitto (vị có tâm khéo giải thoát) là lời tán thán dành cho vị Kaṇha.

Ete ca aññe cāti ete Pāḷiyaṃ āgatā ca Pāḷiyaṃ anāgatā aññe ca etesaṃ ekanāmakāyeva. Imesu hi pañcasu Paccekabuddhasatesu dvepi tayopi dasapi dvādasapi Ānandādayo viya ekanāmakā ahesuṃ. Iti Pāḷiyaṃ āgatanāmeheva sabbesaṃ nāmāni vuttāni hontīti ito paraṃ visuṃ visuṃ avatvā “ete ca aññe cā”ti āha. sesaṃ sabbattha uttānamevāti.

[Giải thích câu] Ete ca aññe ca (Những vị này và những vị khác): “Những vị này” là những vị có tên được nêu trong Chánh văn Pāli. “Những vị khác” là những vị không được nêu tên trong Chánh văn, hoặc những vị có cùng tên với các vị đã được nêu. Thật vậy, trong số năm trăm vị Độc Giác Phật này, có những vị trùng tên với nhau thành từng nhóm hai, ba, mười, hoặc mười hai vị, giống như trường hợp của các vị Ānanda. Do đó, bằng cách nêu ra các tên có trong Chánh văn, tên của tất cả các vị đều được kể đến. Vì vậy, thay vì liệt kê riêng lẻ từng vị, [kinh] đã kết luận bằng câu ete ca aññe ca. Phần còn lại đều đã rõ nghĩa.

Giải Thích Kinh Isigili Kết Thúc


[1] Sī. Syā. – Pabbatapaṭipāṭiṃ

[2] Sī. Syā. Ānetvā

[3] Sī. – Aniccatākhayavayataṃ, Syā. – aniccatāyupetaṃ.

[4] Sī. – Sīdarissāyaṃ thuti, Syā. – pasīdarissāyaṃ thuti

Chú giải

Chú giải
1 Upadhi: một thuật ngữ Pāli đa nghĩa, ở đây chỉ các phiền não, sự chấp thủ, hoặc cơ sở cho sự tái sanh.