Kinh Thôn tiên
(Isigili sutta)Xem Chú giải bản dịch tiếng Thái-Việt
133. Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú tại Rājagaha (Vương Xá), trên núi Isigili (Thôn tiên). Ở đấy Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: “Này các Tỷ-kheo” — “Bạch Thế Tôn”. Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
— Này các Tỷ-kheo, các Ông có thấy núi Vebhāra (Phụ Trọng) này không?.
— Thưa có thấy, bạch Thế Tôn.
— Này các Tỷ-kheo, đây chỉ là một danh xưng khác cho núi Vebhāra này, một tên gọi khác. Này các Tỷ-kheo, các Ông có thấy núi Pandava (Bạch Thiện) này không?
— Thưa có thấy, bạch Thế Tôn.
— Này các Tỷ-kheo, đây chỉ là một danh xưng khác cho núi Pandava này, một tên gọi khác. Này các Tỷ-kheo, các Ông có thấy núi Vepulla (Quảng Phổ) này không?
— Thưa có thấy, bạch Thế Tôn.
— Này các Tỷ-kheo, đây chỉ là một danh xưng khác cho núi Vepulla này, một tên gọi khác. Này các Tỷ-kheo, các Ông có thấy núi Gijjhakūta (Linh Thứu) này không?
— Thưa có thấy, bạch Thế Tôn.
— Này các Tỷ-kheo, đây chỉ là một danh xưng khác cho núi Gijjhakūta này, một tên gọi khác. Này các Tỷ-kheo, các Ông có thấy núi Isigili (Thôn tiên) này không?
— Thưa có thấy, bạch Thế Tôn.
— Này các Tỷ-kheo, đây chỉ là một danh xưng của núi Isigili, một tên gọi khác.
Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, có năm trăm vị Ðộc Giác Phật sống trong một thời gian khá dài, trong núi Isigili này. Những vị ấy được thấy đi vào trong ngọn núi này, nhưng khi đi vào rồi thời không được thấy nữa. Quần chúng thấy vậy nói như sau: “Ngọn núi này nuốt những ẩn sĩ ấy (Ime Isi gilatiti) nên được danh xưng là Isigili. Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ kể tên các vị Ðộc Giác Phật; này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết giảng tên các vị Ðộc Giác Phật. Hãy lắng nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ nói .
— Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
— Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, Thế Tôn nói như sau:
134. — Arittha (A-lợi-sá), này các Tỷ-kheo, là tên vị Ðộc Giác Phật đã trú lâu ngày trong núi Isigili này. Uparittha (Bà-lợi-sá), này các Tỷ-kheo, là tên vị Ðộc Giác Phật đã trú lâu ngày trong núi Isigili này. tagarasikhī, này các Tỷ-kheo, là tên vị Ðộc Giác Phật đã trú lâu ngày trong núi Isigili này. yasassī, này các Tỷ-kheo, là tên vị Ðộc Giác Phật đã trú lâu ngày trong núi Isigili này. Sudassana (Thiện Kiến), này các Tỷ-kheo, là tên vị Ðộc Giác Phật đã trú lâu ngày trong núi Isigili này. piyadassī, này các Tỷ-kheo, là tên vị Ðộc Giác Phật đã trú lâu ngày trong núi Isigili này. gandhāra, này các Tỷ-kheo, là tên vị Ðộc Giác Phật đã trú lâu ngày trong núi Isigili này. piṇḍola, này các Tỷ-kheo, là tên vị Ðộc Giác Phật đã trú lâu ngày trong núi Isigili này. upāsabha, này các Tỷ-kheo, là tên vị Ðộc Giác Phật đã trú lâu ngày trong núi Isigili này. Nitha, này các Tỷ-kheo, là tên vị Ðộc Giác Phật đã trú lâu ngày trong núi Isigili này. Tatha, này các Tỷ-kheo, là tên vị Ðộc Giác Phật đã trú lâu ngày trong núi Isigili này. sutavā, này các Tỷ-kheo, là tên vị Ðộc Giác Phật đã trú lâu ngày trong núi Isigili này. bhāvitatta, này các Tỷ-kheo, là tên vị Ðộc Giác Phật đã trú lâu ngày trong núi Isigili này.
135. Chư hữu tình tinh hoa,
Không khổ, không tham ái,
Riêng tự mình chứng đắc,
Chánh Ðẳng Giác (vô thượng).
Chư vị thượng thắng nhân,
Vượt ngoài mũi tên bắn,
Hãy lóng tai nghe kỹ,
Ta sẽ xướng danh hiệu:
Arittha, Uparittha, tagarasikhī, yasassī
Sudassan, Phật piyadassī
gandhāra, piṇḍola,
upāsabha, Nitha, Tatha, sutavā, bhāvitatta.
Sumbha, Subha, Methula,
aṭṭhama, Athassumegha,
Anigha, sudāṭha
Chư vị Ðộc Giác Phật,
Ðoạn trừ nguồn tái sanh.
hiṅgū và hiṅga
Chư vị Ðại Uy lực,
Hai ẩn sĩ jāli
Rồi đến aṭṭhaka,
Ðức Phật Kosala,
Tiếp đến subāhu.
Ngài cả Ngài Nemi này,
Ngài Santacitta, các Ngài bậc Chân thực,
Sống như chân, ly trần,
Cũng là bậc Hiền triết.
kāḷā, Upakāḷā, Vijita, Jita
aṅga, Paṅga và Gutijjita
Passi bỏ chấp thủ
Căn rễ của khổ đau.
aparājita, đánh bại ma quân lực,
satthā, pavattā, Sarabhaṅga, lomahaṃsa,
Uccaṅgamaya, Asita, anāsava,
Manomaya đoạn trừ được nạn,
Và bandhumā,
tadādhimutta vô cấu uế,
Và ketumā.
ketumbharāga và Mataṅga Ariya,
Accuta, accutagāma, byāmaka,
Sumaṅgala, Dabbila, supatiṭṭhita
Asayha, khemābhirata và Sorata,
Durannaya, saṅgha, rồi đến Ujjaya,
Rồi đến ẩn sĩ Sayha,
Với can đảm phi thường
ānanda, Nanda, upananda,
Tất cả là mười hai.
bhāradvāja thọ trì thân cuối cùng,
Bodhi, mahānāma, kể cả bhāradvāja
Thượng thắng, có chóp tóc và đẹp trai,
Tissa, Upatissa, upasīdarī
Ðã đoạn hữu kiết sữ,
Và sīdarī, đã đoạn trừ tham ái.
Ðức Phật tên Maṅgala,
Với tham được đoạn trừ,
Usabha đã cắt lưới khổ căn
Upanita, vị chứng an tịnh đạo.
Uposatha, Sundara, saccanāma,
Jeta, Jayanta, Paduma, Uppala và
Padumuttara,
Rakkhita và Pabbata,
mānatthaddha, Sobhita, vītarāga,
Và Ðức Phật kaṇha
Với tâm được giải thoát.
Những vị này, vị khác
Là những bậc Ðộc Giác,
Những bậc Ðại Uy Lực,
Ðã đoạn nguồn tái sanh.
Hãy đảnh lễ chư vị,
Ðại Ẩn sĩ vô lượng,
Ðã thắng mọi chiến trận,
Ðã đạt bát Niết-bàn.
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt