Kinh số 106 – Giải Thích Kinh Sự Thuận Lợi Cho Bất Động
(Āneñjasappāyasuttavaṇṇanā)Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Sự Thuận Lợi Cho Bất Động
66. Evamme sutanti āneñjasappāyasuttaṃ. Tattha aniccāti hutvā abhāvaṭṭhena aniccā. Kāmāti vatthukāmāpi kilesakāmāpi. Tucchāti niccasāradhuvasārāttasāravirahitattā rittā, na pana natthīti gahetabbā. Na hi tucchamuṭṭhīti vutte muṭṭhi nāma natthīti vuttaṃ hoti. Yassa pana abbhantare kiñci natthi, so vuccati tuccho. Musāti nāsanakā. Mosadhammāti nassanasabhāvā, khettaṃ viya vatthu viya hiraññasuvaṇṇaṃ viya ca na paññāyittha, katipāheneva supinake diṭṭhā viya nassanti na paññāyanti. Tena vuttaṃ “mosadhammā”ti. Māyākatametanti yathā māyāya udakaṃ maṇīti katvā dassitaṃ, badaripaṇṇaṃ kahāpaṇoti katvā dassitaṃ, aññaṃ vā pana evarūpaṃ dassanūpacāre ṭhitasseva tathā paññāyati, upacārātikkamato paṭṭhāya pākatikameva paññāyati. Evaṃ kāmāpi ittarapaccupaṭṭhānaṭṭhena “māyākatan”ti vuttā. Yathā ca māyākāro udakādīni maṇiādīnaṃ vasena dassento vañceti, evaṃ kāmāpi aniccādīni niccādisabhāvaṃ dassentā vañcentīti vañcanakaṭṭhenapi “māyākatan”ti vuttā. Bālalāpananti mayhaṃ putto, mayhaṃ dhītā, mayhaṃ hiraññaṃ mayhaṃ suvaṇṇanti evaṃ bālānaṃ lāpanato bālalāpanaṃ. Diṭṭhadhammikā kāmāti mānusakā pañca kāmaguṇā. Samparāyikāti te ṭhapetvā avasesā. Diṭṭhadhammikā kāmasaññāti mānusake kāme ārabbha uppannasaññā. Ubhayametaṃ māradheyyanti ete kāmā ca kāmasaññā ca ubhayampi māradheyyaṃ. Yehi ubhayametaṃ gahitaṃ, tesañhi upari māro vasaṃ vatteti. Taṃ sandhāya “ubhayametaṃ māradheyyan”ti vuttaṃ.
66. Kinh giảng về Sự Thuận Lợi Cho Bất Động được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, vô thường: gọi là vô thường bởi ý nghĩa có rồi lại không. Các dục: vật dục và phiền não dục. Rỗng không: được gọi là rỗng không bởi lìa bỏ cốt lõi là sự thường tồn, cốt lõi là sự bền vững, và cốt lõi là tự ngã, nhưng không nên chấp rằng “không có” (ngài giải thích) do khi nói rằng: nắm tay trống rỗng, không phải không gọi là nắm tay. Hơn nữa, thực tính nào bất cứ điều gì ở bên trong thì thực tính ấy được gọi trống rỗng. Bằng sự giả dối: biến mất. Mosadhammā: có sự biến mất là thực tính, không hiện hữu giống như cánh đồng, giống như khu vườn, giống như vàng bạc biến mất không xuất hiện như trong giấc mơ 2-3 ngày sẽ biến mất. Vì lý đó đó mới nói rằng “biến mất là thường”. Trạng thái của dục như vậy được tạo ra bằng sự giả dối: Như thể bến nước được tạo ra trông như ngọc ma-ni bằng sự xảo trá, đã tạo ra lá cây badarī trông giống như đồng tiền kahāpaṇa, hoặc thứ khác khi đứng gần nhìn vào những thứ có hình thức như vậy chúng sẽ hiển lộ tương tự như thế, nhưng khi vượt qua chỗ gần thì những thứ đó cũng sẽ hiển lộ bình thường như cũ. Kể cả các dục cũng vậy ngài nói rằng “tạo ra bằng sự giả dối” bởi ý nghĩa hiển lộ (tạo) thành một thứ khác. Hơn nữa, người làm trò ảo thuật lấy nước v.v, để đánh lừa bằng cách làm cho nó nhìn giống như ngọc ma-ni như thế nào v.v. Ngay cả các dục cũng như thế đó đánh lừa thực tính không thường tồn v.v, bằng cách làm cho thấy rằng: là thường tồn v.v. Vì thế ngài đã nói rằng: “tạo ra bằng sự giả dối” với ý nghĩa là kẻ lừa dối. Lời nói lảm nhảm của những kẻ ngu: là nơi để nhắc đến của những kẻ ngu bởi vì khiến cho những kẻ ngu phải nhắc đến như vậy: con trai của tôi, con gái của tôi, bạc của tôi, vàng của tôi. Các dục ở trong kiếp hiện tại: Năm loại dục của loài người. Các dục ở trong kiếp vị lai: Các dục còn lại ngoài trừ năm loại dục. Các dục tưởng ở hiện tại: Tưởng liên quan đến dục của loài người sanh khởi. Cả hai điều này là lãnh vực của ma vương: Các dục và dục tưởng đó thậm chí cả hai điều đó thuộc phạm vi của ma vương. Bởi vì ma vương sẽ sử dụng sức mạnh vượt trội hơn loài người, người bám víu vào các dục và tưởng ấy. Cả hai điều này lãnh vực của ma vương (ngài) muốn đề cập đến sức mạnh của ma vương ấy.
Mārassesa visayoti-ādīsupi yathā coḷassa visayo coḷavisayo, paṇḍassa visayo paṇḍavisayo, saṃvarānaṃ visayo saṃvaravisayoti pavattanaṭṭhānaṃ visayoti vuccati, evaṃ yehi ete kāmā gahitā, tesaṃ upari māro vasaṃ vatteti. Taṃ sandhāya mārassesa visayoti vuttaṃ. Pañca pana kāmaguṇe nivāpabījaṃ viya vippakiranto māro gacchati. Yehi pana te gahitā, tesaṃ upari māro vasaṃ vatteti. Taṃ sandhāya mārassesa nivāpoti vuttaṃ. Yathā ca yattha hatthiādayo vasaṃ vattenti, so hatthigocaro assagocaro ajagocaroti vuccati, evaṃ yehi ete kāmā gahitā, tesu māro vasaṃ vatteti. Taṃ sandhāya mārassesa gocaroti vuttaṃ.
Là cảnh giới của ma vương v.v, giống như phạm vi của Coḷa gọi là lãnh vực của Coḷa, phạm vi của Paṇḍa gọi là lãnh vực của Paṇḍa, phạm vi của các sự thu thúc cũng gọi là lãnh vực của sự thu thúc thế nào, hạng người nào bám víu các dục đó cũng như thế đó thì ma vương sẽ chế ngự những hạng người ấy. Liên quan đến điều đó ngài đã nói rằng: “là cảnh giới của ma vương”. Hơn nữa, ma vương đi gieo rắc năm loại dục tựa như gieo hạt giống xuống. Những người nào nắm lấy năm loại dục đó, ma vương sẽ chi phối những người ấy. Liên quan đến điều đó ngài đã nói rằng: “là mồi nhử của ma vương”. Giống như các chúng sanh chẳng hạn như loài voi v.v, sử dụng sức mạnh vượt trội trong khu vực phạm vi nào thì khu vực phạm vi ấy gọi là địa phận của voi, (hoặc) địa phận của ngựa, (hoặc) địa phận của ngựa, (hoặc) địa phận của dê như thế nào, những hạng người nào bám víu năm loại dục đó, ma vương sử dụng sử mạnh trội hơn những hạng người ấy. Liên quan đến điều đó ngài đã nói rằng: “là hành xứ của ma vương”.
Etthāti etesu kāmesu. Mānasāti cittasambhūtā. Tattha siyā — duvidhe tāva kāme ārabbha abhijjhānalakkhaṇā abhijjhā, karaṇuttariyalakkhaṇo sārambho ca uppajjatu, byāpādo kathaṃ uppajjatīti? mamāyite vatthusmiṃ acchinnepi socanti, acchijjantepi socanti, acchinnasaṅkinopi socanti, yo evarūpo cittassa āghātoti evaṃ uppajjati. Teva ariyasāvakassāti te ariyasāvakassa. Vakāro āgamasandhimattaṃ hoti. Idha manusikkhatoti imasmiṃ sāsane sikkhantassa te tayopi kilesā antarāyakarā honti. Abhibhuyya lokanti kāmalokaṃ abhibhavitvā. Adhiṭṭhāya manasāti jhānārammaṇacittena adhiṭṭhahitvā. Aparittanti kāmāvacaracittaṃ parittaṃ nāma, tassa paṭikkhepena mahaggataṃ aparittaṃ nāma. Pamāṇantipi kāmāvacarameva, rūpāvacaraṃ arūpāvacaraṃ appamāṇaṃ. Subhāvitanti pana etaṃ kāmāvacarādīnaṃ nāmaṃ na hoti, lokuttarassevetaṃ nāmaṃ. Tasmā etassa vasena aparittaṃ appamāṇaṃ subhāvitanti sabbaṃ lokuttarameva vaṭṭati.
Trong các dục này: Trong các dục ấy. Lộ tâm: khởi lên trong tâm. Ở đấy có thể có câu hỏi rằng: – tham lam có trạng thái chăm chú mở mối cho cả hai loại dục, và nóng nảy có trạng thái cạnh tranh vượt ngoài nguyên nhân sẽ sanh khởi cũng mặc kệ, còn sân hận sanh khởi như thế nào? (Nên đáp rằng) sẽ sanh lên như thế này là khi đồ vật của mình bị lấy đi cũng buồn rầu, kể cả mất đi cũng buồn rầu. Thậm chí có suy nghĩ rằng bị lấy cũng buồn rầu, sự bực tức, sự tức giận của tâm có hình thức như vậy. Teva ariyasāvakassā (chính chúng…cho đệ tử các bậc Thánh): gồm te ariyasāvakassa, từ ‘va’ chỉ là phép tiếp ngữ xen chữ. Đang theo học tập trong Pháp và Luật này: cả 3 loại phiền não ấy tạo thành chướng ngại cho vị đệ tử bậc Thánh, vị đang học tập trong Giáo pháp này. Chế ngự thế giới: Chế ngự thế giới, tức là (chế ngự) các dục. Sau khi đã quyết định bằng ý: Sau khi quyết định đối tượng của thiền bằng tâm. Không thấp kém: Tâm Dục giới gọi là thấp kém, tâm Đáo đại gọi là vô lượng bởi vì bác bỏ tâm dục giới ấy. Thậm chí từ hạn lượng cũng chính là tâm Dục giới. Tâm Sắc giới và Vô sắc giới gọi là tâm vô lượng. Khéo được phát triển: đây không phải là tên gọi của tâm Dục giới, nhưng chính là tên gọi là tâm Siêu thế. Vì thế do mãnh lực của từ đó thì toàn bộ cụm từ ‘không hạn hẹp, vô lượng, khéo được phát triển’ phải là tên gọi của Siêu thế mà thôi.
Tabbahulavihārinoti kāmapaṭibāhanena tameva paṭipadaṃ bahulaṃ katvā viharantassa. Āyatane cittaṃ pasīdatīti kāraṇe cittaṃ pasīdati. Kiṃ panettha kāraṇaṃ? Arahattaṃ vā, arahattassa vipassanaṃ vā, catutthajjhānaṃ vā, catutthajjhānassa upacāraṃ vā. Sampasāde satīti ettha duvidho sampasādo adhimokkhasampasādo ca paṭilābhasampasādo ca. Arahattassa hi vipassanaṃ paṭṭhapetvā viharato mahābhūtādīsu upaṭṭhahantesu yenime nīhārena mahābhūtā upaṭṭhahanti, upādārūpā upaṭṭhahanti nāmarūpā upaṭṭhahanti, paccayā sabbathā upaṭṭhahanti, lakkhaṇārammaṇā vipassanā upaṭṭhahati, ajjeva arahattaṃ gaṇhissāmīti appaṭiladdheyeva āsā santiṭṭhati, adhimokkhaṃ paṭilabhati. Tatiyajjhānaṃ vā pādakaṃ katvā catutthajjhānatthāya kasiṇaparikammaṃ karontassa nīvaraṇavikkhambhan ādīni samanupassato yenime nīhārena nīvaraṇā vikkhambhanti, kilesā sannisīdanti, sati santiṭṭhati, saṅkhāragataṃ vā vibhūtaṃ pākaṭaṃ hutvā dibbacakkhukassa paraloko viya upaṭṭhāti, cittuppādo lepapiṇḍe laggamāno viya upacārena samādhiyati, ajjeva catutthajjhānaṃ nibbattessāmīti apaṭiladdheyeva āsā santiṭṭhati, adhimokkhaṃ paṭilabhati. Ayaṃ adhimokkhasampasādo nāma. Tasmiṃ sampasāde sati. Yo pana arahattaṃ vā paṭilabhati catutthajjhānaṃ vā, tassa cittaṃ vippasannaṃ hotiyeva. Idha pana “āyatane cittaṃ pasīdatī”ti vacanato arahattavipassanāya ceva[1] catutthajjhānūpacārassa ca paṭilābho paṭilābhasampasādoti veditabbo. Vipassanā hi paññāya adhimuccanassa kāraṇaṃ, upacāraṃ āneñjasamāpattiyā.
Có sự an trú nhiều vào điều ấy: Khi đang sống đã thực hiện con đường thực hành như thế nhiều lần vào chính điều đó bằng việc ngăn chặn các dục. Tâm được trong sáng trong các xứ: (bao gồm) tâm được trong sáng bởi lý do. Vậy thì ở đây điều gì là lý do? Là bậc Thánh A-ra-hán, hoặc Minh sát của bậc Thánh A-ra-hán, hoặc Tứ thiền, hoặc cận Tứ thiền. Khi có sự trong sáng: sự trong sáng có 2 loại là sự trong sáng với việc quyết định chắc chắn và sự trong sáng với việc đạt được. Bởi vì sắc đại hiển v.v, hiện hữu cùng hành giả, vị bắt đầu thiết lập Minh sát, khi bậc Thánh A-ra-hán tồn tại những sắc đại hiển này được thiết lập, sắc y sinh được thiết lập, danh sắc được thiết lập bằng đường lối nào? Các duyên được thiết lập ở mọi khía cạnh, Minh sát có trạng thái của chính nó làm đối tượng được thiết lập bằng đường lối đó, sự ước mong trong quả vị A-ra-hán vẫn chưa đạt được (nói) rằng: Ta sẽ nắm lấy A-ra-hán cho bằng được trong ngày hôm nay được thiết lập, gọi là đạt được sự quyết định chắc chắn. Hoặc hành giả thực hành Tam thiền để trở thành nền tảng, thực hành biến xứ chuẩn bị-kasiṇaparikamma nhằm mục đích Tứ thiền quán xét việc chế ngự pháp ngăn che v.v, chế ngự được Pháp ngăn che này bằng đường lối nào các phiền não được vắng lặng, niệm được vững trú, liên quan đến hành hiện hữu rõ ràng như thể thế giới khác hiển lộ cũng vị đạt được thiên nhãn. Tâm sanh khởi được vững trú nhờ cận định giống như dính vào cục gạch đã được trát vữa. Sự ước muốn trong thiền vẫn chưa đạt được (nói) rằng: ta sẽ thực hành Tứ thiền cho sanh khởi vào hôm nay được thiết lập, đạt được quyết định chắc chắn bằng đường lối đó, đây gọi là sự trong sáng bằng quyết định chắc chắn. Khi sự trong sáng này tồn tại. Lại nữa, vị nào đạt được quả vị A-ra-hán hoặc Tứ thiền, tâm của vị ấy sẽ được hoàn toàn trong sáng. Hơn nữa, ở đây “tâm được trong sáng trong các xứ” việc đạt được Minh sát để đạt quả vị A-ra-hán và cận Tứ thiền nên hiểu sự trong sáng bằng việc đạt được. Thật vậy, Minh sát làm nhân của việc quyết định chắc chắn bởi tuệ, cận định làm nhân đưa đến thiền chứng bất động.
Etarahi vā āneñjaṃ samāpajjati, paññāya vā adhimuccatīti ettha etarahi vā paññāya adhimuccati, āneñjaṃ vā samāpajjatīti evaṃ padaparivattanaṃ katvā attho veditabbo. Idañhi vuttaṃ hoti — tasmiṃ sampasāde sati etarahi vā paññāya adhimuccati, arahattaṃ sacchikarotīti attho. Taṃ anabhisambhuṇanto āneñjaṃ vā samāpajjati, atha vā paññāya vā adhimuccatīti arahattamaggaṃ bhāveti, taṃ anabhisambhuṇanto āneñjaṃ vā samāpajjati. Arahattamaggaṃ bhāvetuṃ asakkonto etarahi catusaccaṃ vā sacchikaroti. Taṃ anabhisambhuṇanto āneñjaṃ vā samāpajjatīti.
Đạt đến thiền chứng bất động trong hiện tại hoặc thiên hẳn về tuệ: ở đây nên thay đổi câu này như sau: thiên hẳn về tuệ, hoặc đạt đến thiền chứng bất động trong hiện tại, nên biết ý nghĩa đó như vậy. Bởi điều này ngài đã nói rằng – Khi sự trong sáng ấy tồn tại thiên hẳn về tuệ ở hiện tại, có nghĩa là tác chứng A-ra-hán. Hoặc vẫn chưa biết rõ quả vị A-ra-hán đó hẳn đạt đến thiền chứng bất động, hoặc thiên hẳn về tuệ phát triển A-ra-hán đạo, hoặc khi chưa chứng đạt quả vị A-ra-hán đó hẳn đạt đến thiền chứng bất động. Khi không thể làm A-ra-hán đạo sanh khởi tác chứng bốn Chân Lý ở hiện tại. Hoặc khi vẫn chưa biết rõ bốn Chân Lý ấy ắt đạt đến thiền chứng bất động.
Tatrāyaṃ nayo — idha bhikkhu tatiyajjhānaṃ pādakaṃ katvā catutthajjhānassa kasiṇaparikammaṃ karoti. Tassa nīvaraṇā vikkhambhanti, sati santiṭṭhati, upacārena cittaṃ samādhiyati. So rūpārūpaṃ parigaṇhāti, paccayaṃ pariggaṇhāti, lakkhaṇārammaṇikaṃ vipassanaṃ[2] vavatthapeti[3], tassa evaṃ hoti — “upacārena me jhānaṃ visesabhāgiyaṃ bhaveyya, tiṭṭhatu visesabhāgiyatā, nibbedhabhāgiyaṃ naṃ karissāmī”ti vipassanaṃ vaḍḍhetvā arahattaṃ sacchikaroti. Ettakenassa kiccaṃ kataṃ nāma hoti. Arahattaṃ sacchikātuṃ asakkonto pana tato osakkitamānaso antarā na tiṭṭhati, catutthajjhānaṃ samāpajjatiyeva. Yathā kiṃ? Yathā puriso[4] “vanamahiṃsaṃ ghātessāmī”ti sattiṃ gahetvā anubandhanto sace taṃ ghāteti, sakalagāmavāsino tosessati[5], asakkonto pana antarāmagge sasagodhādayo khuddakamige ghātetvā kājaṃ pūretvā etiyeva.
Trong câu đó có cách thức như sau – vị Tỳ khưu nào trong Pháp và Luật này đã làm Tam thiền trở thành nền tảng thực hành biến xứ chuẩn bị-kasiṇaparikamma (sẽ đạt được) Tứ thiền, các Pháp ngăn che của vị Tỳ khưu ấy dĩ nhiên vắng lặng, niệm được vững trú, bởi tâm cận định. Vị ấy xem xét Sắc và Vô sắc ở trong làm đối tượng, xem xét các duyên làm đối tượng, xem xét Minh sát có trạng thái của chính nó làm đối tượng, vị Tỳ khưu ấy có suy nghĩ như vầy – “Thiền của tôi có thể góp phần vào tiến bộ bởi cận định, tính chất thiền có thể góp phần vào tiến bộ cũng mặc kệ, ta sẽ làm cho tính chất thiền ấy có thể góp phần vào việc thấu triệt (giác ngộ)” đã phát triển Minh sát để tác chứng quả vị A-ra-hán. Nhiệm vụ của vị Tỳ khưu ấy được gọi là đã làm chỉ với nhân chừng ấy. Nhưng khi không thể tác chứng quả vị A-ra-hán, từ đó có tâm lui sụt, không được thiết lập ở giai đoạn giữa, cũng nhập vào Tứ thiền. Giống như điều gì? Giống như người đàn ông nghĩ rằng: “sẽ giết một con trâu rừng” đã cầm lấy một cây giáo đuổi theo sát nếu giết được chúng sẽ thông báo cho toàn bộ dân làng, nhưng nếu không thể giết được nó cũng sẽ giết những loại thú nhỏ chẳng hạn như thỏ rừng và loài cự đà v.v, ở giữa đường, sau khi bắt được đầy giỏ cũng quay trở về như thế nào,
Tattha purisassa sattiṃ gahetvā vanamahiṃsānubandhanaṃ viya imassa bhikkhuno tatiyajjhānaṃ pādakaṃ katvā catutthajjhānassa parikammakaraṇaṃ, vanamahiṃsaghātanaṃ viya — “nīvaraṇavikkhambhanādīni samanupassato visesabhāgiyaṃ bhaveyya, tiṭṭhatu visesabhāgiyatā, nibbedhabhāgiyaṃ naṃ karissāmī”ti vipassanaṃ vaḍḍhetvā arahattassa sacchikaraṇaṃ, mahiṃsaṃ ghātetuṃ asakkontassa antarāmagge sasagodhādayo khuddakamige ghātetvā kājaṃ pūretvā gamanaṃ viya arahattaṃ sacchikātuṃ asakkontassa, tato osakkitvā catutthajjhānasamāpajjanaṃ veditabbaṃ. Maggabhāvanā catusaccasacchikiriyāyojanāsupi eseva nayo.
Nên biết việc vị Tỳ khưu này làm cho Tam thiền trở thành nền tảng thực hành đề mục chuẩn bị-parikamma để đạt đến Tứ thiền giống như người đàn ông cầm lấy cây giáo đuổi theo sát con trâu rừng, nên hiểu việc vị Tỳ khưu nghĩ rằng: “Thiền có thể góp phần vào tiến bộ có cùng vị quán xét chế ngự pháp ngăn che v.v, tính chất thiền góp phần vào tiến bộ cũng mặc kệ, ta sẽ hành thiền góp phần vào việc thấu triệt” rồi phát triển Minh sát để tác chứng quả vị A-ra-hán giống như việc giết con trâu rừng, nên hiểu việc vị Tỳ khưu khi không thể tác chứng quả vị A-ra-hán, từ đó cũng lui trở lại nhập tứ thiền giống như người đàn ông không thể giết trâu (trở lại) giết các con thú nhỏ chẳng hạn như thỏ rừng v.v, ở giữa đường, bắt được đầy giỏ cũng quay trở về như thế đó. Ngay cả việc liên kết của việc phát triển Đạo và việc tác chứng bốn Chân Lý cũng có cách thức tương tự như thế.
Idāni arahattaṃ sacchikātuṃ asakkontassa nibbattaṭṭhānaṃ dassento kāyassa bhedātiādimāha. Tattha yanti yena kāraṇena taṃ saṃvattanikaṃ viññāṇaṃ assa āneñjūpagaṃ, taṃ kāraṇaṃ vijjatīti attho. Ettha ca taṃsaṃvattanikanti tassa bhikkhuno saṃvattanikaṃ. Yena vipākaviññāṇena so bhikkhu saṃvattati nibbattati, taṃ viññāṇaṃ[6]. Āneñjūpaganti kusalāneñjasabhāvūpagataṃ assa, tādisameva bhaveyyāti attho. Keci kusalaviññāṇaṃ vadanti. Yaṃ tassa bhikkhuno saṃvattanikaṃ upapattihetubhūtaṃ kusalaviññāṇaṃ āneñjūpagataṃ assa, vipākakālepi tannāmakameva assāti attho. So panāyamattho — “puññaṃ ce saṅkhāraṃ abhisaṅkharoti, puññūpagaṃ hoti viññāṇaṃ. apuññaṃ ce saṅkhāraṃ abhisaṅkhāroti, apuññupagaṃ hoti viññāṇaṃ. āneñjaṃ ce saṅkhāraṃ abhisaṅkharoti, āneñjūpagaṃ hoti viññāṇan”ti (saṃ. ni. 2.51) iminā nayena veditabbo. Āneñjasappāyāti āneñjassa catutthajjhānassa sappāyā. Na kevalañca sā āneñjasseva, upari arahattassāpi sappāyāva upakārabhūtāyevāti veditabbā. Iti imasmiṃ paṭhamakāaneñje samādhivasena osakkanā kathitā.
Bây giờ, để thuyết giảng nơi khởi sanh của vị Tỳ khưu không thể tác chứng quả vị A-ra-hán mới thuyết: vào lúc tan rã thân xác (chết đi). Ở đây, từ ‘yaṃ’ được dịch là với lý do nào? Giải thích rằng thức dẫn dắt (đi tái sanh) trong kiếp sống này kiếp sống kia, có thể cỏ là nguyên nhân tiến đến bất động. Và ở đây, có thể diễn tiến trong kiếp sống đó: vận hành cùng với vị Tỳ khưu đó. Vị Tỳ khưu đó được vận hành là sanh ra bởi thức bằng quả dị thục nào, thức đó sẽ hình thành (thức đạt đến sự bất động). Tiến đến thực tính bất động: Có thể tiến đến thực tính bất động là thiện, có nghĩa là có thể hoàn toàn trở thành như thế. Một số vị thầy đã nói đến thức là thiện. Yaṃ: thức thiện nào đồng vận hành là làm nhân của sự tái sanh để vị Tỳ khưu ấy có thể tiến đến bất động, thức đó thậm chí trong thời gian làm quả dị thực cũng có thể có tên gọi thế đó. Ý nghĩa này đây có thể biết theo cách thức như sau: “Nếu như phước báu trong khi tạo tác các hành đó thì thức đi tới phước, còn nếu như bất thiện trong khi tạo tác các hành đò thì thức đi tới bất thiện, và nếu như bất động trong khi tạo tác các hành đó thì thức đi tới bất động.” (saṃ. ni. 2.51). Thiền chứng bất động là sự thuận lợi: là sự thuận lợi cho bất động là Tứ thiền. (Sự thực hành đó) không chỉ riêng sự thuận lợi bất động, (mà) nên biết rằng là sự thuận lợi và là sự trợ giúp cho cả quả vị A-ra-hán cao. Trong bất động thứ nhất này thuyết về sự trở lui do tác động thiền chứng là như thế.
67. Iti paṭisañcikkhatīti catutthajjhānaṃ patvā evaṃ paṭisañcikkhati. Ayañhi bhikkhu heṭṭhimena bhikkhunā paññavantataro tassa ca bhikkhuno attano cāti dvinnampi kammaṭṭhānaṃ ekato katvā sammasati. Tabbahulavihārinoti rūpapaṭibāhanena tameva paṭipadaṃ bahulaṃ katvā viharantassa. Āneñjaṃ samāpajjatīti ākāsānañcāyatānāneñjaṃ samāpajjati. Sesaṃ purimasadisameva. Yathā ca idha, evaṃ sabbattha visesamattameva pana vakkhāma. Iti imasmiṃ dutiyāaneñje vipassanāvasena osakkanā kathitā, “yaṃkiñci rūpan”ti evaṃ vipassanāmaggaṃ dassentena[7] kathitāti attho.
67. Suy xét như vầy: đã đạt đến Tứ thiền (vị ấy) suy xét như vầy. Thật vậy, vị Tỳ khưu này có trí tuệ nhiều hơn vị Tỳ khưu trước mới suy xét nghiệp xứ chung với nhau đối với cả 2 vị là đối với vị Tỳ khưu đó và đối với chính bản thân. Có sự an trú nhiều vào điều ấy: trong khi an trú đã thực hành nhiều điều đó bằng cách ngăn chặn sắc. Đạt đến thiền chứng bất động: đạt thiền chứng bất động là Không vô biên xứ. Từ còn lại tương tự như những từ trước. Và ở đây thế nào, thì ở những chỗ khác cũng tương tự như vậy, tôi chỉ nói những chỗ khác biệt mà thôi. Trong 2 bất động này ngài thuyết sự trở lui do tác động Minh sát, “bất kỳ sắc nào đó” khi thuyết giảng Minh sát và Đạo mới thuyết như vậy.
Iti paṭisañcikkhatīti ākāsānañcāyatanaṃ patvā evaṃ paṭisañcikkhati. ayañhi heṭṭhā dvīhi bhikkhūhi paññavantataro tesañca bhikkhūnaṃ attano cāti tiṇṇampi kammaṭṭhānaṃ ekato katvā sammasati. Ubhayametaṃ aniccanti ettha aṭṭha ekekakoṭṭhāsā diṭṭhadhammikasamparāyikavasena pana saṅkhipitvā ubhayanti vuttaṃ. Nālaṃ abhinanditunti taṇhādiṭṭhivasena abhinandituṃ na yuttaṃ. Sesapadadvayepi eseva nayo. Tabbahulavihārinoti kāmapaṭibāhanena ca rūpapaṭibāhanena ca tameva paṭipadaṃ bahulaṃ katvā viharantassa. Āneñjaṃ samāpajjatīti viññāṇañcāyatanāneñjaṃ samāpajjati. imasmiṃ tatiyāaneñje vipassanāvasena osakkanā kathitā.
Suy xét như vầy: đã đạt đến Không vô biên xứ (vị ấy) suy xét như vậy. Thật vậy, vị Tỳ khưu này có tuệ nhiều hơn 2 vị trước (vị ấy) suy xét nghiệp xứ chung với nhau đối với cả 3 vị là đối với những vị Tỳ khưu đó và đối với chính bản thân. Cả hai điều này là vô thường: nói rằng “cả hai điều này” bởi vì đã được rút ngắn lại từng phần một lợi ích vào do tác động kiếp sống hiện tại và kiếp sống vị lai. Không đáng để thích thú: không đáng để ưa thích do tác động của tham ái và tà kiến. Cả hai câu còn lại cũng có cách thức tương tự. Có sự an trú nhiều vào điều ấy: trong khi an trú đã thực hành nhiều vào điều đó bằng cách ngăn chặn dục và ngăn chặn sắc. Đạt đến thiền chứng bất động: nhập thiền chứng bất động là Thức vô biên xứ. Trong bất động thứ 3 này thuyết sự trở lui do tác động của Minh sát mà thôi.
68. Iti paṭisañcikkhatīti viññāṇañcāyatanaṃ patvā evaṃ paṭisañcikkhati. Ayañhi heṭṭhā tīhi bhikkhūhi paññavantataro tesañca bhikkhūnaṃ attano cāti catunnampi kammaṭṭhānaṃ ekato katvā sammasati. Yatthetā aparisesā nirujjhantīti yaṃ ākiñcaññāyatanaṃ patvā etā heṭṭhā vuttā sabbasaññā nirujjhanti. Etaṃ santaṃ etaṃ paṇītanti etaṃ aṅgasantatāya ārammaṇasantatāya ca santaṃ, atappakaṭṭhena paṇītaṃ. Tabbahulavihārinoti tāsaṃ saññānaṃ paṭibāhanena tameva paṭipadaṃ bahulaṃ katvā viharantassa. Imasmiṃ paṭhamākiñcaññāyatane samādhivasena osakkanā kathitā.
68. Suy xét như vầy: đã đạt đến Thức vô biên xứ (vị ấy) suy xét như vậy. Thật vậy, vị Tỳ khưu này có trí tuệ nhiều hơn 3 vị Tỳ khưu trước (vị ấy) suy xét nghiệp xứ chung với nhau đối với cả 4 vị là đối với những vị Tỳ khưu đó và đối với chính bản thân. Diệt tận không còn dư sót ở nơi nào: tất cả tưởng được nói ở phần trước này cho đến thiền Vô sở hữu xứ chúng đều được diệt tận. Điều ấy là an tịnh (Vô sở hữu xứ), điều ấy là cao quý: Thiền Vô sở hữu xứ ấy gọi là an tịnh bởi vì an tịnh bởi chi thiền và an tịnh bởi đối tượng, gọi là cao quý bởi ý nghĩa không nóng đốt. Có sự an trú nhiều vào điều ấy: trong khi an trú đã thực hành nhiều vào điều đó bằng cách ngăn chặn các tưởng đó. Trong thiền Vô sở hữu xứ thứ nhất này thuyết sự trở lui do mãnh lực của cận định.
Iti paṭisañcikkhatīti viññāṇañcāyatanameva patvā evaṃ paṭisañcikkhati. Ayañhi heṭṭhā catūhi bhikkhūhi paññavantataro tesañca bhikkhūnaṃ attano cāti pañcannampi kammaṭṭhānaṃ ekato katvā sammasati. Attena vā attaniyena vāti ahaṃ mamāti gahetabbena suññaṃ tucchaṃ rittaṃ. Evamettha dvikoṭikā suññatā dassitā. Tabbahulavihārinoti heṭṭhā vuttapaṭipadañca imañca suññatapaṭipadaṃ bahulaṃ katvā viharantassa. Imasmiṃ dutiyākiñcaññāyatane vipassanāvasena osakkanā kathitā.
Suy xét như vầy: đã đạt đến thiền Thức vô biên xứ (vị ấy) suy xét như vậy. Vị Tỳ khưu này có trí tuệ nhiều hơn 4 vị Tỳ khưu trước đó mới suy xét nghiệp xứ chung lại với nhau đối với cả 5 vị là đối với những vị Tỳ khưu đó và đối với chính bản thân. Từ bản ngã hoặc sở hữu của bản ngã: trống không là trống rỗng từ những thứ có thể giữ lấy là ta (hoặc) là của ta. Trong trường hợp này thuyết đến 2 nút thắt của sự trống không. Có sự an trú nhiều vào điều ấy: trong khi an trú đã thực hành như đã nói ở trước và thực hành nhiều vào ‘trống không’ này. Trong thiền Vô sở hữu xứ thứ hai này thuyết sự trở lui do mãnh lực của Minh sát.
70. Iti paṭisañcikkhatīti viññāṇañcāyatanameva patvā evaṃ paṭisañcikkhati. Ayañhi heṭṭhā pañcahi bhikkhūhi paññavantataro tesañca bhikkhūnaṃ attano cāti channampi kammaṭṭhānaṃ ekato katvā sammasati. Nāhaṃ kvacani kassaci kiñcanatasmiṃ, na ca mama kvacani kismiñci kiñcanaṃ natthīti ettha pana catukoṭikā suññatā kathitā. Kathaṃ? ayañhi nāhaṃ kvacanīti kvaci attānaṃ na passati, kassaci kiñcanatasminti attano attānaṃ kassaci parassa kiñcanabhāve upanetabbaṃ na passati, attano bhātiṭṭhāne bhātaraṃ sahāyaṭṭhāne sahāyaṃ parikkhāraṭṭhāne vā parikkhāraṃ maññitvā upagantvā upanetabbaṃ na passatīti attho. Na ca mama kvacanīti ettha mama — saddaṃ tāva ṭhapetvā na ca kvacani parassa ca attānaṃ kvaci na passatīti ayamattho. idāni mama — saddaṃ āharitvā mama kismiñci kiñcanaṃ natthīti[8] so parassa attā mama kismiñci kiñcanabhāve atthīti na passati. Attano bhātiṭṭhāne bhātaraṃ sahāyaṭṭhāne sahāyaṃ parikkhāraṭṭhāne vā parikkhāranti kismiñci ṭhāne parassa attānaṃ iminā kiñcanabhāvena upanetabbaṃ na passatīti attho. Evamayaṃ yasmā neva katthaci attānaṃ passati, na taṃ parassa kiñcanabhāve upanetabbaṃ passati, na parassa attānaṃ passati, na parassa attānaṃ attano kiñcanabhāve upanetabbaṃ passati, tasmā ayaṃ suññatā catukoṭikāti veditabbā. Tabbahulavihārinoti heṭṭhā vuttappaṭipadaṃ imaṃ catukoṭisuññatañca bahulaṃ katvā viharantassa. imasmiṃ tatiyākiñcaññāyatanepi vipassanāvaseneva osakkanā kathitā.
70. Suy xét như vầy: đã đạt đến thiền Thức vô biên xứ (vị ấy) suy xét như vậy. Vị Tỳ khưu này có trí tuệ nhiều hơn 5 vị Tỳ khưu trước đó mới suy xét nghiệp xứ chung lại với nhau đối với cả 6 vị là đối với những vị Tỳ khưu đó và đối với chính bản thân. Trong trường hợp này – ta không có ở bất cứ đâu, một điều gì đó chút ít của bất cứ ai cũng không tồn tại trong ta, và một điều gì đó chút ít của ta cũng không tồn tại ở bất cứ đâu, trong bất cứ ai cũng không tồn tại một điều gì đó chút ít, thuyết về sự trống không có 4 nút thắt. Thuyết như thế nào? Bởi vị Tỳ khưu này không nhìn thấy chính mình ở bất cứ nơi đâu (cho rằng) ta không có ở bất cứ nơi đâu, không nhìn thấy tự ngã của ta có thể thiên hẳn về trong bản thể chút ít của người bất kỳ nào khác (cho rằng) một điều gì đó chút ít của bất cứ ai cũng không tồn tại ở ta, có nghĩa là không nhìn thấy anh em trai rằng cần tưởng hướng đến vị trí anh em trai của chính mình, bạn lữ trong vị trí bạn đồng hành, hoặc người tùy tùng trong vị trí người hầu cận của mình. Ở đây, và một điều gì đó chút ít cũng không tồn tại bất cứ nơi đâu, này loại bỏ từ ‘của tôi’ sẽ có nội dung chính như sau – không nhìn thấy tự ngã của người khác ở bất cứ đâu. Trường hợp này lấy từ ‘của tôi’ lại đặt vào hình thành mama kismiñci kiñcanaṃ natthi nghĩa là vị Tỳ khưu ấy không thấy rằng tự ngã của người khác tồn tại trong bản thể một chút ít gì của ta. Giải thích như sau – không nhìn thấy tự ngã của người khác cần hướng vào nhờ bản thể một chút ít này ở bất cứ vị trí gì rằng: anh em trai trong vị trí anh em trai của tôi, bạn lữ trong vị trí bạn đồng hành, hoặc người tùy tùng ở vị trí người hầu cận của tôi. Bằng cách như vậy vị Tỳ khưu này nguyên nhân mà không thấy tự ngã trong bất cứ gì, không nhìn thấy tự ngã đó rằng: có thể mang vào trong bản thể một chút ít của người khác, không nhìn thấy tự ngã của người khác, và không nhìn thấy tự ngã của người khác có thể mang vào bằng bản thể một chút ít của mình, vì thế nên biết rằng ‘sự trống không’ này có 4 nút thắt. Có sự an trú nhiều vào điều ấy: trong khi an trú đã thực hành như đã nói ở trước và sự trống không 4 nút thắt này cho nhiều. Ngay cả trong thiền Vô sở hữu xứ thứ ba này cũng thuyết sự trở lui do mãnh lực của Minh sát.
Iti paṭisañcikkhatīti ākiñcaññāyatanaṃ patvā evaṃ paṭisañcikkhati. Ayañhi heṭṭhā chahi bhikkhūhi paññavantataro tesañca bhikkhūnaṃ attano cāti sattannampi kammaṭṭhānaṃ ekato katvā sammasati. Yatthetā aparisesā nirujjhantīti yaṃ nevasaññānāsaññāyatanaṃ patvā ettha etā heṭṭhā vuttā sabbasaññā nirujjhanti. Tabbahulavihārinoti tāsaṃ saññānaṃ paṭibāhanena tameva paṭipadaṃ bahulaṃ katvā viharantassa. Imasmiṃ nevasaññānāsaññāyatane samādhivasena osakkanā kathitā.
Suy xét như vầy: đã đạt đến thiền Vô sở hữu xứ (vị ấy) suy xét như vậy. Vị Tỳ khưu này có trí tuệ nhiều hơn 6 vị Tỳ khưu trước đó, mới suy xét nghiệp xứ chung lại với nhau đối với cả 7 vị là đối với những vị Tỳ khưu đó và đối với chính bản thân. Diệt tận không còn dư sót ở chỗ nào: toàn bộ tưởng đã được nói đến ở phần sau này cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ nào rồi được diệt tận ở chỗ này. Có sự an trú nhiều vào điều ấy: trong khi an trú đã thực hành nhiều vào điều đó với việc ngăn chặn các tưởng đó. Trong thiền Phi tưởng phi phi tưởng xứ này thuyết sự trở lui do mãnh lực của Định.
71. No cassa no ca me siyāti sace mayhaṃ pubbe pañcavidhaṃ kammavaṭṭaṃ na āyūhitaṃ assa, yaṃ me idaṃ etarahi evaṃ pañcavidhaṃ vipākavaṭṭaṃ etaṃ me na siyā nappavatteyyāti attho. Na bhavissatīti sace etarahi pañcavidhaṃ kammavaṭṭaṃ āyūhitaṃ na bhavissati. Na me bhavissatīti tasmiṃ asati anāgate me pañcavidhaṃ vipākavaṭṭaṃ na bhavissati. Yadatthi yaṃ bhūtaṃ taṃ pajahāmīti yaṃ atthi yaṃ bhūtaṃ etarahi khandhapañcakaṃ, taṃ pajahāmi. Evaṃ upekkhaṃ paṭilabhatīti so bhikkhu evaṃ vipassanupekkhaṃ labhatīti attho.
71. Cái không có thì không thể thuộc về ta: Nếu quả thật năm loại nghiệp luân trong thời quá khứ không thể tích lũy nơi ta, năm loại quả luân ở hiện tại này của ta đó cũng không thể có, tức là không thể vận hành cũng ta. Sẽ không có: Nếu quả thật năm loại nghiệp luân ở hiện tại sẽ không tích lũy. Sẽ không thuộc về ta: Khi nghiệp luân đó không có thì năm loại quả luân sẽ không có cùng ta ở vị lai. Cái gì đang tồn tại và đã tồn tại thì ta dứt bỏ cái đó: Năm nhóm uẩn nào đang tồn tại, đã tồn tại, ta dứt bỏ năm nhóm uẩn đó ngay hiện tại. Như vậy (vị ấy) đạt đến trạng thái xả: có nghĩa là Vị Tỳ khưu đó đạt đến trạng thái xả trong Minh sát như vậy.
Parinibbāyeyya nu kho so, bhante, bhikkhu na vā parinibbāyeyyāti kiṃ pucchāmīti pucchati, tatiyajjhānaṃ pādakaṃ katvā ṭhitassa arahattampi osakkanāpi paṭipadāpi paṭisandhipi kathitā, tathā catutthajjhānādīni pādakāni katvā ṭhitānaṃ, nevasaññānāsaññāyatanaṃ pādakaṃ katvā ṭhitassa na kiñci kathitaṃ, taṃ pucchāmīti pucchati. Apetthāti api ettha. So taṃ upekkhaṃ abhinandatīti so taṃ vipassanupekkhaṃ taṇhādiṭṭhiabhinandanāhi abhinandati. Sesapadadvayepi eseva nayo. Tannissitaṃ hoti viññāṇanti viññāṇaṃ vipassanānissitaṃ hoti. Tadupādānanti yaṃ nikantiviññāṇaṃ, taṃ tassa upādānaṃ nāma gahaṇaṃ nāma hoti. Saupādānoti sagahaṇo. Na parinibbāyatīti vipassanāya sālayo bhikkhu mama sāsane na parinibbāyati. Yo pana vihārapariveṇaupaṭṭhākādīsu sālayo, tasmiṃ vattabbameva natthīti dasseti. Kahaṃ panāti? Kattha pana? Upādiyamāno upādiyatīti paṭisandhiṃ gaṇhamāno gaṇhāti. Upādānaseṭṭhaṃ kira so, bhanteti, bhante, so kira bhikkhu gahetabbaṭṭhānaṃ seṭṭhaṃ uttamaṃ bhavaṃ[9] upādiyati, seṭṭhabhave paṭisandhiṃ gaṇhātīti attho. Iminā tassa bhikkhuno paṭisandhi kathitā. Idānissa arahattaṃ kathetuṃ idhānandātiādimāha.
Bạch ngài, vị ấy có thể chứng Nibbāna, hay không thể chứng Nibbāna: hỏi rằng – tôi hỏi như thế nào? là hỏi rằng: thuyết về quả vị A-ra-hán, hay sự trở lui, hay đạo lộ thực hành, hay sự tái tục, đối với hành giả tu tập Tam thiền để trở thành nền tảng rồi rồi an trú, không thuyết bất kỳ điều gì đối với hành giả tu tập Tứ thiền để trở thành nền tảng rồi an trú cũng tương tự, tuy nhiên không thuyết bất cứ điều gì đối với hành giả thực hành thiền Phi tưởng phi phi tưởng xứ để trở thành nền tảng rồi an trú, bạch ngài tôi hỏi điều đó. Apettha tách từ thành api ettha (ở đây). Vị ấy thích thú trạng thái xả ấy: Vị Tỳ khưu ấy ưa thích trạng thái xả là Minh sát đó với sự thích thú thông qua tham ái và tà kiến. Kể cả 2 câu còn lại cũng có cách thức này. Thức không nương vào điều ấy: nương vào Minh sát ấy. Chấp thủ vào trạng thái xả ấy: thức ấy gọi là chấp thủ bởi sự chấp thủ vào Minh sát đó. Có sự chấp thủ: Có sự chấp thủ. Không chứng Nibbāna: vị Tỳ khưu có sự quyến luyến trong Minh sát hẳn không chứng Nibbāna trong Giáo pháp của ta. Ngài thuyết rằng vị Tỳ khưu nào có sự dính mắc ở tịnh xá, nơi cư trú, và người hầu cận v.v, điều đáng nói về vị Tỳ khưu ấy không có. Vậy thì…ở chỗ nào? vào chỗ nào? Trong khi chấp thủ (vị ấy) chấp thủ…: nắm lấy sự tục sanh. Bạch ngài, nghe nói vị Tỳ khưu ấy chấp thủ vào sự chấp thủ cao nhất: Bạch ngài nghe rằng vị Tỳ khưu ấy chấp thủ nơi có thể bám víu cao nhất là hữu-bhava cao thượng, có nghĩa là bám víu sự tái tục ở hữu-bhava cao thượng nhất. Thuyết về sự tái tục của vị Tỳ khưu ấy bằng lời này. Bây giờ để thuyết quả vị A-ra-hán của vị Tỳ khưu này mới thuyết rằng ‘Này Ānanda, ở đây…’.
73. Nissāya nissāyāti taṃ taṃ samāpattiṃ nissāya. Oghassa nittharaṇā akkhātāti oghataraṇaṃ kathitaṃ, tatiyajjhānaṃ pādakaṃ katvā ṭhitabhikkhuno oghanittharaṇā kathitā … pe … nevasaññānāsaññāyatanaṃ pādakaṃ katvā ṭhitabhikkhuno oghanittharaṇā kathitāti vadati.
73. Nương vào nguyên nhân này: nương vào sự chứng đạt đó. Thuyết về đạo lộ thực hành vượt qua dòng nước lũ: ngài đã nói rằng thuyết về việc vượt qua dòng nước lũ đối với vị Tỳ khưu đã được an trú sau khi thực hành Tam thiền trở thành nền tảng …nt… thuyết việc vượt qua dòng nước lũ đối với vị Tỳ khưu đã vững trú sau khi thực hành thiền Phi tưởng phi phi tưởng xứ trở thành nền tảng.
Katamo pana, bhante, ariyo vimokkhoti idha kiṃ pucchati? Samāpattiṃ tāva padaṭṭhānaṃ katvā vipassanaṃ vaḍḍhetvā arahattaṃ gaṇhanto bhikkhu nāvaṃ vā uḷumpādīni vā nissāya mahoghaṃ taritvā pāraṃ gacchanto viya na kilamati. Sukkhavipassako pana pakiṇṇakasaṅkhāre sammasitvā arahattaṃ gaṇhanto bāhubalena sotaṃ chinditvā pāraṃ gacchanto viya kilamati. Iti imassa sukkhavipassakassa arahattaṃ pucchāmīti pucchati. Ariyasāvakoti sukkhavipassako ariyasāvako. Ayañhi heṭṭhā aṭṭhahi bhikkhūhi paññavantataro tesañca bhikkhūnaṃ attano cāti navannampi kammaṭṭhānaṃ ekato katvā sammasati. Esa sakkāyo yāvatā sakkāyoti yattako tebhūmakavaṭṭasaṅkhāto sakkāyo nāma atthi, sabbopi so esa sakkāyo, na ito paraṃ sakkāyo atthīti paṭisañcikkhati.
Bạch ngài, vậy thì Pháp nào là sự giải thoát của bậc Thánh: Trong trường hợp này đại đức Ānanda hỏi điều gì? Đại đức Ānanda hỏi rằng: vị Tỳ khưu đã thực hành thiền chứng trở thành nhân cận trước rồi phát triển Minh sát chứng đắc quả vị A-ra-hán không khó khăn? giống như hạng người dựa vào chiếc thuyền hoặc cái bè v.v, vượt qua dòng nước lớn cũng đến được bờ như thế ấy, còn vị thuần quán suy xét pháp hành hỗn hợp-pakiṇṇakasaṅkhāra chứng đắc quả vị A-ra-hán hẳn gặp trở ngại? giống như hạng người vượt qua dòng nước bằng lực đôi tay để đến bờ như thế ấy. Con xin hỏi ngài quả vị A-ra-hán của vị thuần quán-sukkhavipassaka này bằng cách như đã nói. Vị đệ tử bậc Thánh: bao gồm vị đệ tử của bậc Thánh là vị thuần quán-sukkhavipassaka. Thật vậy, vị thuần quán này có trí tuệ nhiều hơn cả 8 vị Tỳ khưu trước (vị ấy) suy xét nghiệp xứ chung lại với nhau đối với cả 9 vị là đối với những vị Tỳ khưu ấy và đối với chính mình. Cái ấy gọi là tự thân theo như cái gọi là tự thân: suy xét rằng gọi là tự thân được nói là luân hồi được vận hành trong ba cõi tồn tại đến chừng nào, ngay cả hết thảy tự thân cũng có chừng ấy, tự thân vượt trội hơn đó không có.
Etaṃ amataṃ yadidaṃ anupādā cittassa vimokkhoti yo panesa cittassa anupādāvimokkho nāma, etaṃ amataṃ etaṃ santaṃ etaṃ paṇītanti paṭisañcikkhati. Aññattha ca “anupādā cittassa vimokkho”ti nibbānaṃ vuccati. imasmiṃ pana sutte sukkhavipassakassa arahattaṃ kathitaṃ. sesaṃ sabbattha uttānameva.
Điều này là bất tử, tức là sự giải thoát của tâm do không chấp thủ: vị nào suy xét thấy rằng được gọi là sự giải thoát của tâm do không chấp thủ, điều này là bất tử, điều này là an tịnh, điều này là cao quý. Ở trường hợp khác ngài gọi Nibbāna là “sự giải thoát của tâm do không chấp thủ”. Nhưng trong bài Kinh này thuyết giảng quả vị A-ra-hán của vị thuần quán-sukkhavipassaka. Từ còn lại ở các câu đều đơn giản.
Kevalaṃ pana imasmiṃ sutte sattasu ṭhānesu osakkanā kathitā, aṭṭhasu ṭhānesu paṭisandhi, navasu ṭhānesu arahattaṃ kathitanti veditabbaṃ. Kathaṃ? Tatiyaṃ jhānaṃ tāva pādakaṃ katvā ṭhitassa bhikkhuno osakkanā kathitā, paṭisandhi kathitā, arahattaṃ kathitaṃ, tathā catutthajjhānaṃ, tathā ākāsānañcāyatanaṃ. Viññāṇañcāyatanaṃ pana padaṭṭhānaṃ katvā ṭhitānaṃ tiṇṇaṃ bhikkhūnaṃ osakkanā kathitā, paṭisandhi kathitā, arahattaṃ kathitaṃ. Tathā ākiñcaññāyatanaṃ pādakaṃ katvā ṭhitassa bhikkhuno. Nevasaññānāsaññāyatanaṃ pādakaṃ katvā ṭhitassa pana osakkanā natthi, paṭisandhi pana arahattañca kathitaṃ. Sukkhavipassakassa arahattameva kathitanti. Evaṃ sattasu ṭhānesu osakkanā kathitā, aṭṭhasu ṭhānesu paṭisandhi, navasu ṭhānesu arahattaṃ kathitanti veditabbaṃ. imañca pana sattasu ṭhānesu osakkanaṃ aṭṭhasu paṭisandhiṃ navasu arahattaṃ samodhānetvā kathentena imaṃ āneñjasappāyasuttaṃ sukathitaṃ nāma hotīti.
Trong bài Kinh này toàn bộ nên biết rằng: thuyết giảng về sự trở lui trong 7 vị trí, thuyết về sự tái tục ở 8 vị trí, thuyết về quả vị A-ra-hán ở 9 vị trí. Thuyết như thế nào? Thuyết về sự trở lui đối với vị Tỳ khưu thực hành Tam thiền để trở thành nền tảng trước (tiếp tục) thuyết sự tái tục, thuyết quả vị A-ra-hán, đối với vị thực hành Tứ thiền (và) thiền Không vô biên xứ để trở thành nền tảng vững trú cũng tương tự (là thuyết sự trở lui, thuyết sự tái tục và thuyết quả vị A-ra-hán). Còn đối với 3 vị Tỳ khưu thực hành thiền Thức vô biên xứ để trở thành nền tảng thiết lập, thuyết về sự trở lui, thuyết về sự tái tục, và thuyết quả vị A-ra-hán. Đối với vị thực hành thiền Vô sở hữu xứ để trở thành nền tảng thiết lập cũng tương tự. Còn đối với vị Tỳ khưu thực hành thiền Phi tưởng phi phi tưởng xứ để trở thành nền tảng thiết lập thì không có sự trở lui, nhưng thuyết về sự tái tục và quả vị A-ra-hán. Còn đối với vị thuần quán thì thuyết hoàn toàn quả vị A-ra-hán với cách thức đã nói đến, nên hiểu rằng thuyết về sự trở lui ở 7 vị trí, thuyết về sự tái tục ở 8 vị trí, thuyết về quả vị A-ra-hán ở 9 vị trí. Bài Kinh Sự thuận lợi cho bất động này thuyết giảng chung về sự trở lui ở 7 vị trí, sự tái tục trong 8 vị trí, quả vị A-ra-hán ở 9 vị trí, gọi là đã được khéo thuyết.
Kinh Sự Thuận Lợi Cho Bất Động Kết Thúc