Kinh số 104 – Giải Thích Kinh Làng Sāma
(Sāmagāmasuttavaṇṇanā)Xem Trung Bộ Kinh – Giải Thích Kinh Làng Sāma
41. Evamme sutanti Sāmagāmasuttaṃ. Tattha Sāmagāmeti sāmākānaṃ ussannattā evaṃ laddhanāme gāme. Adhunā-kālaṅkatoti[1] sampati kālaṃ katoti. Dvedhikajātāti dvejjhajātā dvebhāgajātā. Bhaṇḍanādīsu bhaṇḍanaṃ pubbabhāgakalaho, taṃ daṇḍādānādivasena paṇṇattivītikkamavasena ca vaḍḍhitaṃ kalaho, “na tvaṃ imaṃ dhammavinayaṃ ājānāsī”tiādikaṃ viruddhavacanaṃ vivādo. Vitudantāti vitujjantā. Sahitaṃ meti mama vacanaṃ atthasañhitaṃ. Adhiciṇṇaṃ te viparāvattanti yaṃ tava adhiciṇṇaṃ cirakālasevanavasena paguṇaṃ[2], taṃ mama vādaṃ āgamma nivattaṃ. Āropito te vādoti tumhaṃ upari mayā doso āropito. Cara vādappamokkhāyāti bhattapuṭaṃ ādāya taṃ taṃ upasaṅkamitvā vādappamokkhatthāya uttariṃ pariyesamānova cara. Nibbedhehi vāti atha mayā āropitavādato attānaṃ mocehi. Sace pahosīti sace sakkosi. Vadhoyevāti maraṇameva.
41. Kinh Làng Sāma được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, ‘trong làng Sāma’ ở ngôi làng có tên như vậy, bởi vì dân làng sāmāka đông đúc. Vừa mới mệnh chung: vừa mới từ trần tức thì. Chia ra làm hai: Chia thành hai nhóm, chia thành hai phe. Trong các sự xung đột, v.v, sự cãi cọ lúc ban đầu là sự xung đột, sự xung đột ấy được lan rộng do tác động của việc cầm gậy gộc, v.v, và do vi phạm các quy định là sự cãi cọ. Lời nói công kích nhau v.v, ông không biết Pháp và Luật này gọi là tranh cãi nhau. Châm chít: đả thương nhau (bằng lời nói). Lời nói của tôi có lợi ích: lời nói của tôi liên hệ đến lợi ích. Lề thói của ông đã bị đảo lộn: Lề thói nào trước đây được ông thực hiện thuần thục do huân tập trong thời gian dài, lề thói ấy đã bị đảo lộn do dựa vào lời nói của ta. Lời nói của ông bị lên án: Lỗi lầm đã được quy về phía ngươi bởi ta. Ông hãy thoát ra khỏi luận thuyết (của ông): ông hãy mang theo gói thức ăn sau khi đi đến xứ này xứ này, rồi đi tầm cầu (sự giúp đỡ) nhiều hơn nữa để thoát ra khỏi luận thuyết (của ông). Hoặc ông hãy giải thích (nếu ông có đủ khả năng): Hoặc là ông hãy tự mình thoát ra khỏi những lỗi lầm đã bị ta lên án. Nếu có thể: Nếu ông có thể. Chỉ có sự chết: chỉ sự chết mà thôi. Nếu ông có đủ khả năng: nếu ông có thế. (Tưởng chừng như) đang có sự giết hại lẫn nhau: chính là sự chết.
Nāṭaputtiyesūti Nāṭaputtassa antevāsikesu. Nibbinnarūpāti ukkaṇṭhitasabhāvā, abhivādanādīni na karonti. Virattarūpāti vigatapemā. Paṭivānarūpāti tesaṃ nipaccakiriyato nivattasabhāvā. Yathā tanti yathā ca durakkhātādisabhāve dhammavinaye nibbinnavirattapaṭivānarūpehi bhavitabbaṃ, tath’eva jātāti attho. Durakkhāteti dukkathite. Duppavediteti duviññāpite. Anupasamasaṃvattaniketi rāgādīnaṃ upasamaṃ kāta asamatthe. Bhinnathūpeti bhinnapatiṭṭhe. Ettha hi Nāṭaputtova nesaṃ patiṭṭhaṭṭhena thūpo, so pana bhinno mato. Tena vuttaṃ “bhinnathūpe”ti. Appaṭissaraṇeti tasseva abhāvena paṭissaraṇavirahite.
Giữa các đạo sĩ lõa thể đệ tử của Nigantha Nāṭaputta: giữa các đệ tử của Nigantha Nāṭaputta. Có vẻ nhàm chán: Có trạng thái ngao ngán không thực hiện ngay cả việc đảnh lễ, v.v. Có vẻ không còn yêu mến: không còn yêu mến nữa. Có vẻ quay lưng lại: Có trạng thái quay lưng trong việc thể hiện sự cung kính (đối với các đạo sĩ lõa thể) đệ tử của Nāṭaputta. Giống như điều (có thể xảy ra): Có nghĩa là, điều đã khởi lên bởi nguyên nhân đó, có thể trở thành người nhàm chán, không còn sự yêu mến, có sự quay lưng lại khi pháp và luật được (Nigantha Nāṭaputta) thuyết vụng về, v.v, là thực tính. Được thuyết vụng về: Được nói vụng về. Được công bố vụng về: Giảng dạy khó hiểu. Không đưa đến sự an tịnh: Không thể làm cho luyến ái, v.v, được yên tịnh. Tháp y chỉ đã bị đổ vỡ: Có chỗ nương tựa bị đổ vỡ. Bởi vì, ở đây chính Nigantha Nāṭaputta là bảo tháp với ý nghĩa làm nơi nương tựa của các đệ tử ấy. Tuy nhiên, vị ấy đã tan rã, tức là đã chết. Vì thế, Ngài mới nói rằng: ‘Tháp y chỉ đã bị đổ vỡ’. Không có nơi nương tựa: Do sự vắng mặt của chính Nigantha Nāṭaputta, nên rơi vào trạng thái không có chỗ nương tựa.
Nanu cāyaṃ Nāṭaputto Nāḷandavāsiko, so kasmā Pāvāyaṃ kālakatoti. So kira Upālinā gahapatinā paṭividdhasaccena dasahi gāthāhi bhāsite Buddhaguṇe sutvā uṇhaṃ lohitaṃ chaḍḍesi. Atha naṃ aphāsukaṃ gahetvā pāvaṃ agamaṃsu, so tattha kālamakāsi. Kālaṃ kurumāno ca “mama laddhi aniyyānikā sārarahitā, mayaṃ tāva naṭṭhā, avasesajano mā apāyapūrako ahosi, sace panāhaṃ `mama sāsanaṃ aniyyānikan’ti vakkhāmi, na saddahissanti. Yannūnāhaṃ dvepi jane na ekanīhārena uggaṇhāpeyyaṃ, te mamaccayena aññamaññaṃ vivadissanti. Satthā taṃ vivādaṃ paṭicca ekaṃ dhammakathaṃ kathessati, tato te sāsanassa mahantabhāvaṃ jānissantī”ti.
Và Nāṭaputta này không phải cư trú ở Nāḷandā sao? Tại sao vị ấy lại mệnh chung ở Pāvā? Được biết rằng, sau khi nghe về ân đức Phật được nói bởi gia chủ Upāli vị thấu triệt các Chân Lý bằng mười bài kệ (vị ấy ngay lập tức) đã thổ ra máu nóng. Khi ấy, các đệ tử đã đưa Nigantha Nāṭaputta trong tình trạng khó chịu đến thành Pāvā, vị ấy đã mệnh chung tại đó. Và khi sắp lâm chung vị ấy khởi lên ý nghĩ rằng: “học thuyết của ta không có sự dẫn dắt ra khỏi (luân hồi), không có cốt lõi, (bản thân) ta bị tổn hại cũng chẳng sao, nhưng chớ để những người còn lại bị rơi trọn vào khổ cảnh. Ngược lại, nếu như ta nói rằng: ‘Lời dạy của ta không có sự dẫn dắt ra khỏi (luân hồi)’, mọi người sẽ không tin, nếu vậy ta không nên để cho hai người học – học thuyết (của ta) theo cùng một phương pháp, sau khi ta mệnh chung, họ sẽ tranh luận với nhau. Bậc Đạo Sư sẽ nói một bài thuyết Pháp dựa vào sự tranh luận đó. Từ đó, họ sẽ biết được tính chất vĩ đại của Giáo Pháp.
Atha naṃ eko antevāsiko upasaṅkamitvā āha “bhante tumhe dubbalā, mayhaṃ imasmiṃ dhamme sāraṃ ācikkhatha ācariyappamāṇan”ti. Āvuso tvaṃ mama accayena sassatanti gaṇheyyāsīti. Aparopi taṃ upasaṅkami, taṃ ucchedaṃ gaṇhāpesi. Evaṃ dvepi jane ekaladdhike akatvā bahū nānānīhārena uggaṇhāpetvā kālamakāsi. Te tassa sarīrakiccaṃ katvā sannipatitvā aññamaññaṃ pucchiṃsu “kassāvuso ācariyo sāramācikkhī”ti. Eko uṭṭhahitvā mayhanti āha. Kimācikkhīti. Sassatanti. Aparo taṃ paṭibāhitvā mayhaṃ sāraṃ ācikkhīti āha. Evaṃ sabbe “mayhaṃ sāraṃ ācikkhi, ahaṃ jeṭṭhako”ti aññamaññaṃ vivādaṃ vaḍḍhetvā akkose ceva paribhāse ca hatthapādappahārādīni ca pavattetvā ekamaggena dve agacchantā nānādisāsu pakkamiṃsu, ekacce gihī ahesuṃ.
Lúc đó, có một đệ tử đã đi đến gặp Nāṭaputta nói rằng: “thưa ngài, ngài đang rất yếu, xin ngài hãy nói cho tôi biết về cốt lõi trong Giáo lý này, với thẩm quyền của một bậc Đạo sư.” – “Này hiền giả sau khi ta chết, con hãy nắm giữ (học thuyết) ‘trường tồn’. Một đệ tử khác đi đến gặp, thì cho người ấy nắm giữ (học thuyết) ‘đoạn kiến’. Nigantha Nāṭaputta đã không chỉ dẫn cho cả hai người đệ tử học cùng một học thuyết mà đã cho nắm giữ bằng nhiều đường lối khác nhau như vậy và đã mệnh chung. Sau khi làm phận sự đối với thi thể của Nigantha Nāṭaputta, các đệ tử đã tụ họp lại hỏi nhau rằng— “Này đạo hữu, thầy đã nói điều cốt lõi cho ai?” Một người đã đứng dậy nói rằng: ‘thầy đã nói cùng tôi.’ – Thầy đã nói gì? – Nói rằng ‘trường tồn’. Người kia đã bác bỏ điều đó rồi nói: “Thầy đã nói điều cốt lõi cho tôi”. Vì vậy, tất cả các đệ tử đã tranh cãi dữ dội rằng: “Thầy đã nói điều cốt lõi cùng tôi, tôi là huynh trưởng” (điều này) dẫn đến việc mắng nhiếc, chửi bới và đánh đập nhau bằng tay và bằng chân v.v, cả hai đã không đi chung một con đường (không cùng quan điểm) nên tách nhau ra mỗi người đi mỗi ngả, một số đệ tử đã trở về đời sống tại gia.
Bhagavato pana dharamānakālepi bhikkhusaṃghe vivādo na uppajji. Satthā hi tesaṃ vivādakāraṇe uppannamatteyeva sayaṃ vā gantvā te vā bhikkhū pakkosāpetvā khanti-mettā-paṭisaṅkhā-avihiṃsā-sāraṇīyadhammesu ekaṃ kāraṇaṃ kathetvā vivādaṃ vūpasameti. Evaṃ dharamānopi saṃghassa patiṭṭhāva ahosi. Parinibbāyamānopi avivādakāraṇaṃ katvāva parinibbāyi. Bhagavatā hi sutte desitā cattāro Mahāpadesā[3] yāvajjadivasā bhikkhūnaṃ patiṭṭhā ca avassayo ca. Tathā Khandhake desitā cattāro Mahāpadesā[4] sutte vuttāni cattāri pañhābyākaraṇāni[5] ca. Tenevāha “yo vo mayā ānanda dhammo ca vinayo ca desito paññatto, so vo mamaccayena satthāti[6].
Hơn nữa, vào thời gian đức Thế Tôn vẫn còn tại thế thì cuộc tranh cãi không xảy ra ở Tăng Chúng. Bởi vì, ngay khi nguyên nhân tranh cãi vừa khởi lên, bậc Đạo Sư hoặc là tự mình đi đến, hoặc là cho gọi các vị Tỳ kheo ấy đến thuyết giảng một nguyên nhân trong Giáo pháp là kham nhẫn, tâm từ, việc quán tưởng, sự vô hại, và Pháp hòa kính[7] làm yên lặng cuộc tranh cãi. Như vậy khi đức Thế Tôn còn tại thế cũng đã trở thành nơi nương tựa của Chư Tăng, ngay cả khi sắp nhập diệt ngài cũng đã tạo nhân cho việc không tranh cãi rồi mới viên tịch Nibbāna. Sự thật Bốn đại cứ Pháp Mahāpadesa mà đức Thế Tôn tuyên thuyết trong bài Kinh là chỗ nương nhờ là nơi y cứ cho chúng Tỳ khưu đến tận ngày nay. (a. ni. 4.180; dī. ni. 2.187). Bốn Mahāpadesa được thuyết giảng trong các thiên Khandhaka (của Luật tạng) và Bốn cách trả lời câu hỏi Pañhābyākaraṇa được nói trong bài Kinh làm nơi nương tựa cho tất cả các vị Tỳ khưu tương tự như thế. (a. ni. 4.42). Bởi nguyên nhân ấy mới thuyết rằng: “Này Ānanda, Pháp và Luật, Ta đã thuyết giảng và trình bày cho các ngươi, sau khi Như Lai diệt độ, chính Pháp và Luật ấy sẽ là bậc Ðạo Sư của các ngươi.” (dī. ni. 2.216).
42. Atha kho Cundo samaṇuddesoti ayaṃ thero Dhammasenāpatissa kaniṭṭhabhātiko. Taṃ bhikkhū anupasampannakāle Cundo samaṇuddesoti samudācaritvā therakālepi tatheva samudācariṃsu. Tena vuttaṃ “Cundo samaṇuddeso”ti. Upasaṅkamīti kasmā upasaṅkami? Nāṭaputte kira kālakate Jambūdīpe manussā tattha tattha kathaṃ pavattayiṃsu “Nigantho Nāṭaputto eko satthāti paññāyittha, tassa kālakiriyāya sāvakānaṃ evarūpo vivādo jāto, samaṇo pana Gotamo Jambūdīpe cando viya suriyo viya ca pākaṭoyeva, kīdiso nu kho samaṇe gotame parinibbute sāvakānaṃ vivādo bhavissatī”ti.
42. Khi ấy Sa-di Cunda: vị trưởng lão này là em trai út của vị Tướng quân Chánh pháp. Các vị Tỳ khưu đã gọi vị ấy vào lúc chưa tu lên bậc trên là “Sa-di Cunda”, ngay cả khi vị này đã là một vị trưởng lão thì các vị Tỳ khưu cũng vẫn gọi vị ấy y như thế. Cho nên, mới nói rằng – “Vị Sa-di Cunda”. Đã đi đến gặp: Vì sao lại đi đến gặp? Được biết rằng khi Nigantha Nāṭaputta mệnh chung, mọi người trong cõi Jambūdīpa đã xôn xao bàn tán khắp nơi rằng: “Nigantha Nāṭaputta tuyên bố là một bậc Đạo Sư, thế mà do việc mệnh chung của vị ấy các đề tử đã nảy sinh cuộc tranh cãi đến mức như vậy. Còn Sa-môn Gotama xuất hiện ở cõi Jambūdīpa tựa như mặt trăng và mặt trời, luôn cả hàng đệ tử cũng đã xuất hiện tương tự y như thế. Khi Sa-môn Gotama viên tịch Nibbāna thì hàng đệ tử sẽ nảy sinh cuộc tranh cãi như thế nào?
Thero taṃ kathaṃ sutvā cintesi “imaṃ kathaṃ gahetvā Dasabalassa ārocessāmi, Satthā ca etaṃ atthuppattiṃ katvā ekaṃ desanaṃ kathessatī”ti. So nikkhamitvā yena Sāmagāmo, yenāyasmā Ānando tenupasaṅkami. Ujumeva Bhagavato santikaṃ agantvā yenassa upajjhāyo āyasmā Ānando tenupasaṅkamīti attho. Evaṃ kirassa ahosi “upajjhāyo me mahāpañño, so imaṃ sāsanaṃ Satthu ārocessati, atha Satthā tadanurūpaṃ dhammaṃ desessatī”ti. Kathāpābhatanti kathāmūlaṃ, mūlaṃ hi pābhatanti vuccati. Yathāha: –
“Appakenapi medhāvī, pābhaṭena vicakkhaṇo
Samuṭṭhāpeti attānaṃ, aṇuṃ aggiṃva sandhaman”ti.[8]
Trưởng lão sau khi nghe được câu chuyện ấy đã khởi lên suy nghĩ rằng: “Sau khi nắm bắt câu chuyện này ta sẽ thuật lại cho đấng Thập Lực, bậc Đạo Sư sẽ biến điều đó trở thành duyên khởi (cho bài thuyết pháp) rồi sẽ thuyết giảng một bài pháp.” Vị ấy sau khi rời khỏi chỗ cư ngụ liền đi đến gặp đại đức Ānanda ở tại Sāmagāma. Ngài không trực tiếp đi thẳng đến trú xứ của đức Thế Tôn, mà lại đi đến gặp đại đức Ānanda là vị thầy tế độ. Được biết rằng ngài có suy nghĩ như vầy: thầy tế độ của ta có tuệ rộng lớn, ngài sẽ nói chuyện này đến bậc Đạo sư, khi ấy bậc Đạo sư sẽ thuyết Pháp phù hợp với sự việc ấy. Câu chuyện cần được trình báo: nguồn gốc của câu chuyện. Thật vậy, ‘nguồn gốc’ được gọi là ‘pābhataṃ’. Giống như đức Thế Tôn đã nói—
Bậc thông minh, khéo léo (về kinh doanh), tự tạo lập bản thân dầu với vốn liếng ít ỏi, giống như người đang thổi bùng ngọn lửa nhỏ trở thành ngọn lửa lớn. (jā. 2.1.4).
Dassanāyāti dassanatthāya. Kiṃ paniminā bhagavā na diṭṭhapubboti. No na diṭṭhapubbo. Ayañhi āyasmā divā navavāre rattiṃ navavāreti ekāhaṃ aṭṭhārasa vāre upaṭṭhānameva gacchati. Divasassa pana satakkhattuṃ vā sahassakkhattuṃ vā gantukāmo samānopi na akāraṇā gacchati, ekaṃ pañhuddhāraṃ gahetvāva gacchati. So taṃ divasaṃ tena gantukāmo evamāha.
Đủ để nhìn thấy: vì lợi ích cho việc nhìn thấy. Sa-di Cunda chưa từng thấy đức Thế Tôn hay sao? Không phải chưa từng nhìn thấy. Bởi vì, Trưởng lão Ānanda này đi phục vụ đức Thế Tôn mười tám lần một ngày- chín lần vào ban ngày, và chín lần vào ban đêm. Hơn nữa, dù có ý muốn đi một trăm lần hay một ngàn lần đi chăng nữa, Ngài cũng không đi nếu không có lý do; Ngài chỉ đi khi mang theo một vấn đề đáng được đặt ra. Vào ngày hôm đó, Trưởng lão Ānanda có ý muốn đi với câu chuyện cần được trình báo nên mới nói như vậy.
Ahitāya dukkhāya devamanussānanti ekasmiṃ vihāre saṃghamajjhe uppanno vivādo kathaṃ devamanussānaṃ ahitāya dukkhāya saṃvattati? Kosambikakkhandhake[9] viya hi dvīsu bhikkhūsu vivādaṃ āpannesu tasmiṃ vihāre tesaṃ antevāsikā vivadanti, tesaṃ ovādaṃ gaṇhanto bhikkhunīsaṅgho vivadati, tato tesaṃ upaṭṭhākā vivadanti. Atha manussānaṃ ārakkhadevatā dve koṭṭhāsā honti. Tattha dhammavādīnaṃ ārakkhadevatā dhammavādiniyo honti, adhammavādīnaṃ adhammavādiniyo honti. Tato tāsaṃ ārakkhadevatānaṃ mittā bhummadevatā bhijjanti. Evaṃ paramparāya yāva brahmalokā ṭhapetvā ariyasāvake sabbe devamanussā dve koṭṭhāsā honti. Dhammavādīhi pana adhammavādinova bahutarā honti, tato yaṃ bahūhi gahitaṃ, taṃ gaṇhanti. Dhammaṃ vissajjetvā bahutarāva adhammaṃ gaṇhanti. Te adhammaṃ pūretvā viharantā apāye nibbattanti. Evaṃ ekasmiṃ vihāre saṃghamajjhe uppanno vivādo bahunnaṃ ahitāya dukkhāya hoti.
Đem đến sự bất lợi, sự khổ đau cho tất cả chư Thiên và loài người: Sự tranh cãi khởi lên ở giữa Tăng Chúng trong một tịnh xá sẽ đưa đến sự bất lợi, đưa đến sự khổ đau cho tất cả chư Thiên và loài người như thế nào? Bởi khi hai vị Tỳ khưu tranh cãi thì những đệ tử của hai vị ấy trong tịnh xá cũng sẽ tranh cãi, giống như ở Kosambaka-khandhake chư Tỳ khưu ni tiếp nhận lời giáo huấn từ những vị Tỳ khưu ấy cũng gây đụng chạm, từ đó mà những người phụng sự cũng gây xung đột. Khi đó, chư Thiên hộ trì loài người cũng sẽ chia thành hai phe. Trong hai phe ấy thì nhóm chư Thiên hộ trì người nói đúng pháp gọi là dhammavādī-người nói đúng pháp, của nhóm người nói sai pháp gọi là adhammavādī-người nói sai pháp. Từ đó chư thiên địa cầu là những người bạn của chư Thiên hộ trì bị chia rẽ. Tất cả chư Thiên và loài người loại trừ chư Thánh đệ tử sẽ trở thành hai nhóm cứ tiếp tục như vậy cho đến Phạm thiên giới. Hơn nữa nhóm người nói sai pháp cũng sẽ nhiều hơn nhóm người nói đúng pháp, từ đó trở đi chấp thủ những thứ mà nhiều người nắm giữ. Nhóm người nhiều hơn thế sẽ từ bỏ cốt lõi Pháp chỉ nắm lấy phi Pháp, nhóm người giữ lấy phi Pháp ấy trong khi sống đã thực hành phi Pháp một cách trọn vẹn, đã cùng nhau tái sanh vào địa ngục. Sự tranh luận khởi lên ở giữa Tăng chúng trong một tịnh xá sẽ đưa đến sự bất lợi, sự đau khổ cho đa số người như thế.
43. Abhiññā desitāti mahābodhimūle nisinnena paccakkhaṃ katvā paveditā. Patissayamānarūpā viharantīti upanissāya viharanti. Bhagavato accayenāti etarahi Bhagavantaṃ jeṭṭhakaṃ katvā sagāravā viharanti, tumhākaṃ bhante uggatejatāya durāsadatāya vivādaṃ janetuṃ na sakkonti, bhagavato pana accayena vivādaṃ janeyyunti vadati. Yattha pana taṃ vivādaṃ janeyyuṃ, taṃ dassento ajjhājīve vā adhipātimokkhe vāti āha. Tattha ajjhājīveti ājīvahetu ājīvakāraṇā “bhikkhu uttarimanussadhammaṃ ullapati āpatti pārājikassā”tiādinā[10] (pari. 287) nayena Parivāre paññattāni cha sikkhāpadāni, tāni ṭhapetvā sesāni sabbasikkhāpadāni adhipātimokkhaṃ nāma. Appamattako so Ānandāti ajjhājīvaṃ adhipātimokkhañca ārabbha uppannavivādo nāma yasmā parassa kathāyapi attano dhammatāyapi sallakkhetvā supajaho hoti, tasmā “appamattako”ti vutto.
43. Thuyết giảng bằng thượng trí: Ta đã ngồi dưới cội Bồ đề làm sáng tỏ, rồi tuyên bố cho biết. Những người nào sống y cứ (đức Thế Tôn): đi đến sống nương tựa. Sau khi Thế Tôn nhập diệt: đại đức Ānanda đã nói rằng – hiện nay các vị Tỳ khưu sống với lòng tôn kính, tôn Đức Thế Tôn làm bậc tối thượng. Bạch Ngài, do oai lực cao vời và khó ai dám đến gần Ngài, các vị Tỳ khưu không thể gây ra tranh cãi, nhưng sau khi Đức Thế Tôn diệt độ, họ có thể sẽ gây ra tranh cãi. Để trình bày nguyên nhân gây ra sự tranh cãi ấy mới nói rằng: nguyên nhân về lối sống (ajjhājīve) hoặc về tăng thượng giới (adhipātimokkhe). Ở đây, lối sống nghĩa là vì lý do nuôi mạng hoặc vì nguyên nhân sinh sống, có sáu điều học được quy định trong Tập Yếu (Parivāra) theo cách thức: “Vị Tỳ khưu khoe khoang về pháp thượng nhân không có thực chứng thì phạm tội trục xuất (pārājika)” (pari. 287), loại trừ 6 điều học đó tất cả những điều học còn loại được gọi là tăng thượng giới bổn Pātimokkha. Này Ānanda (sự tranh luận) đó là nhỏ nhặt: Tranh luận phát sinh liên quan đến lối sống và luật tăng thượng giới được gọi là “nhỏ nhặt” vì nó có thể dễ dàng được từ bỏ sau khi xem xét lời nói của người khác hoặc của chính mình, do đó được gọi là “nhỏ nhặt”..
Tatrāyaṃ nayo: – idhekacco “na sakkā uttarimanussadhammaṃ anullapantena kiñci laddhun”tiādīni cintetvā ājīvahetu ājīvakāraṇā[11] uttarimanussadhammaṃ vā ullapati sañcarittaṃ vā āpajjati, yo te vihāre vasati, so bhikkhu arahāti-ādinā nayena sāmantajappanaṃ vā karoti, agilāno vā attano atthāya paṇītabhojanāni viññāpetvā bhuñjati, bhikkhunī vā pana tāni viññāpetvā pāṭidesanīyaṃ āpajjati, yo koci dukkaṭavatthukaṃ yaṅkiñci sūpodanaviññattimeva vā karoti, aññataraṃ vā pana paṇṇattivītikkamaṃ karonto viharati, tamenaṃ sabrahmacārī evaṃ sañjānanti “kiṃ imassa iminā lābhena laddhena, yo sāsane pabbajitvā micchājīvena jīvikaṃ kappeti, paṇṇattivītikkamaṃ karotī”ti. Attano dhammatāyapissa evaṃ hoti “kissa mayhaṃ iminā lābhena, yvāhaṃ evaṃ svākkhāte dhammavinaye pabbajitvā micchājīvena jīvikaṃ kappemi, paṇṇattivītikkamaṃ karomī”ti sallakkhetvā tato oramati. Evaṃ parassa kathāyapi attano dhammatāyapi sallakkhetvā supajaho hoti. Tena Bhagavā “appamattako”ti āha.
Trong trường hợp này thì ‘nhỏ nhặt’ có phương thức như sau: – Ở đây, có vị Tỳ khưu suy nghĩ rằng: “Nếu không khoe khoang về pháp thượng nhân thì không thể đạt được bất cứ lợi lộc gì” v.v…, nên vì mục đích nuôi mạng, vì lý do sinh sống, vị ấy hoặc khoe khoang về pháp thượng nhân, hoặc làm việc mai mối. Hoặc vị ấy nói gợi ý theo kiểu như: “Vị Tỳ khưu sống trong tu viện của bạn là bậc A-la-hán”, hoặc dù không bệnh, vị ấy vẫn yêu cầu thức ăn thượng hạng cho bản thân rồi thọ dụng. Hoặc Tỳ khưu ni yêu cầu những thức ăn như vậy thì phạm tội cần sám hối (pāṭidesanīya). Hoặc có vị yêu cầu bất kỳ món súp hay cơm nào mà tạo điều kiện phạm tội dukkaṭa (tác ác), hoặc có vị sống vi phạm các điều học khác. Các đồng phạm hạnh nhận xét về vị ấy như sau: “Lợi ích gì cho vị này với lợi lộc đã nhận được, khi đã xuất gia trong giáo pháp mà lại nuôi mạng bằng cách sai trái, vi phạm các điều học?” Tự bản thân vị ấy cũng có sự suy nghĩ như vầy: “Lợi ích gì cho ta với lợi lộc này, khi ta đã xuất gia trong Pháp và Luật được khéo thuyết giảng như vậy mà lại nuôi mạng bằng cách sai trái, vi phạm các điều học?” Sau khi suy xét như vậy, vị ấy từ bỏ hành vi đó. Như vậy, do suy xét qua lời nói của người khác hoặc qua sự hiểu biết tự nhiên của chính mình, tranh cãi về vấn đề này trở nên dễ dàng từ bỏ. Vì thế Đức Thế Tôn đã nói với Ānanda rằng đây là việc “nhỏ nhặt”.
Magge vā hi Ānanda paṭipadāya vāti lokuttaramaggaṃ patvā vivādo nāma sabbaso vūpasammati, natthi adhigatamaggānaṃ vivādo. Pubbabhāgamaggaṃ pana pubbabhāgapaṭipadañca sandhāyetaṃ vuttaṃ.
Này Ānanda…về magga-Đạo hay về paṭipadā-đạo lộ thực hành: gọi sự tranh luận khi đã đạt đến Đạo Siêu thế an tịnh một cách trọn vẹn, sự tranh luận không có nơi vị đã chứng đắc các Đạo. Lời này đề cập đến Đạo sơ khởi và đạo lộ thực hành sơ bộ.
Tatrāyaṃ nayo: – ekaṃ bhikkhuṃ manussā lokuttaradhamme sambhāventi. So saddhivihārikādayo āgantvā vanditvā ṭhite pucchati “kiṃ āgatatthā”ti. Manasikātabbaṃ kammaṭṭhānaṃ pucchituṃ bhanteti. Nisīdatha, khaṇeneva arahattaṃ pāpetuṃ samatthaṃ kammaṭṭhānakathaṃ ācikkhissāmīti vatvā vadati:- “idha bhikkhu attano vasanaṭṭhānaṃ pavisitvā nisinno mūlakammaṭṭhānaṃ manasikaroti, tassa taṃ manasikaroto obhāso uppajjati. Ayaṃ paṭhamamaggo nāma. So dutiyaṃ obhāsañāṇaṃ nibbatteti, dutiyamaggo adhigato hoti, evaṃ tatiyaṃ catutthañca. Ettāvatā maggappatto ceva phalappatto ca hotī”ti. Atha te bhikkhū “akhīṇāsavo nāma evaṃ kammaṭṭhānaṃ kathetuṃ na sakkoti, addhā ayaṃ khīṇāsavo”ti niṭṭhaṃ gacchanti.
Trong trường hợp này có cách thức như sau: – Tất cả mọi người tán thán vị Tỳ khưu đó trong Pháp Siêu thế. Vị ấy hỏi vị đệ tử v.v, đã đến đảnh lễ trong khi đứng rằng “các ngươi đến làm gì”. Thưa ngài, chúng con đến để hỏi về nghiệp xứ nên tác ý. – Các ngươi hãy ngồi, ta sẽ nói nghiệp xứ có thế dẫn đến chứng đắc A-ra-hán ngay lập tức, rồi nói rằng: – “Vị Tỳ khưu trong Giáo pháp này đi vào chỗ trú ngụ của mình, ngồi xuống tác ý đến căn bản nghiệp xứ, trong khi con tác ý đến nghiệp xứ ấy ánh sáng sẽ sanh khởi. Đây gọi là Sơ Đạo. Ngươi thực hành thiền trong ánh sáng thứ hai cho sanh khởi, đã được đạt đến Nhị Đạo, thực hành thiền trong ánh sáng thứ ba và thứ tư sanh khởi bằng phương pháp như vậy. Chỉ chừng ấy là đã chứng đắc Đạo và đã chứng đắc Quả.” Khi ấy, những vị Tỳ khưu ấy chấp thuận rằng: “Vị không phải là bậc Lậu Tận thì không thể nói được một nghiệp xứ như vậy, vị này chắc chắn là bậc Lậu Tận”.
So aparena samayena kālaṃ karoti. Samantā bhikkhācāragāmehi manussā āgantvā pucchanti “kenaci bhante thero pañhaṃ pucchito”ti. Upāsakā pubbe ca therena pañho kathito amhākanti. Te pupphamaṇḍapaṃ pupphakūṭāgāraṃ sajjetvā suvaṇṇena akkhipidhānamukhapidhānādiṃ kāretvā gandhamālādīhi pūjetvā sattāhaṃ sādhukīḷaṃ kīḷetvā jhāpetvā aṭṭhīni ādāya cetiyaṃ karonti. Aññe āgantukā vihāraṃ āgantvā pāde dhovitvā “mahātheraṃ passissāma[12], kahaṃ āvuso mahāthero”ti pucchanti. Parinibbuto bhanteti. Dukkaraṃ āvuso therena kataṃ maggaphalāni nibbattentena, pañhaṃ pucchittha āvusoti. Bhikkhūnaṃ kammaṭṭhānaṃ kathento iminā niyāmena kathesi bhanteti. Neso āvuso maggo, vipassanūpakkileso nāmesa, na tumhe jānātha, puthujjano āvuso theroti. Te kalahaṃ karontā uṭṭhahitvā “sakalavihāre bhikkhū ca bhikkhācāragāmesu manussā ca na jānanti, tumheyeva jānātha. Kataramaggena tumhe āgatā, kiṃ vo vihāradvāre cetiyaṃ na diṭṭhan”ti evaṃvādīnaṃ pana bhikkhūnaṃ sataṃ vā, hotu sahassaṃ vā, yāva taṃ laddhiṃ nappajahanti, saggopi maggopi vāritoyeva.
Sau một thời gian vị nói về nghiệp xứ viên tịch. Mọi người trong làng đi khất thực xung quanh đến hỏi rằng “thưa ngài có vị nào đã hỏi vấn đề cùng vị trưởng lão chưa?” Này chư thiện nam, tín nữ vào thời gian trước trưởng lão đã nói nghiệp xứ cho chúng tôi. Họ đã sửa soạn mái che bằng bông hoa, ngôi nhà mái nhọn bằng bông hoa, làm rèm và khăn che mặt bằng vàng, đã cúng dường với các loại hương thơm và các tràng hoa v.v, đã vui hưởng cuộc lễ hội suốt một tuần lễ rồi hỏa táng, lấy tro cốt để làm Bảo tháp (chứa đựng). Vị Tăng khách khác đã đi tịnh xá nghĩ rằng sẽ đến thăm trưởng lão mới hỏi rằng: “này hiền giả, vị Đại trưởng lão đã đi đâu? Trưởng lão đã viên tịch Nibbāna thưa ngài. Này hiền giả, trưởng lão đã làm cho Đạo và Quả khởi sanh, đã làm những điều khó làm, này hiền giả các ngài đã hỏi vấn đề chưa? Thưa ngài, trưởng lão trong khi nói nghiệp xứ cùng chư Tỳ khưu, đã nói theo phương pháp này. Này hiền giả đó không phải Đạo, đó gọi là tùy phiền não của Minh sát – Vipassanūpakkilesa, các ngài không biết, này hiền giả vị trưởng lão là phàm nhân. Những vị Tỳ khưu ấy đã tranh cãi với nhau, đã đứng dậy (nói rằng): “Chư Tỳ khưu trú trong toàn bộ tịnh xá và mọi người trong làng đi khất thực không biết được. Các ngài đã đến bằng đạo lộ nào? Các ngài không thấy Bảo tháp ở cánh cổng tịnh xá chăng?” Hơn nữa, vị Tỳ khưu có học thuyết như vầy: dù hàng trăm hàng nghìn vị đi chăng nữa, cho đến khi nào chưa từ bỏ học thuyết ấy, cho đến khi ấy thì thiên giới, thậm chí Đạo (Quả) cũng sẽ bị ngăn cản.
Aparopi tādisova kammaṭṭhānaṃ kathento evaṃ katheti:– citteneva tīsu uddhanesu tīṇi kapallāni āropetvā heṭṭhā aggiṃ katvā citteneva attano dvattiṃsākāraṃ uppāṭetvā kapallesu pakkhipitvā citteneva daṇḍakena parivattetvā parivattetvā bhajjitabbaṃ, yā jhāyamāne chārikā hoti, sā mukhavātena palāsetabbā. Ettakena dhutapāpo nāmesa samaṇo hoti. Sesaṃ purimanayeneva vitthāretabbaṃ.
Một người khác tương tự như vậy khi giảng về đề mục thiền quán nói như sau: — “Hãy dùng tâm để đặt ba miếng ngói lên ba lò, rồi nhóm lửa ở bên dưới. Dùng tâm để tách ra ba mươi hai bộ phận trong thân thể của mình, đặt lên trên các miếng ngói, rồi dùng tâm cầm một thanh gỗ lật qua lật lại nhiều lần để nướng chúng. Khi chúng bị thiêu đốt thành tro, hãy dùng hơi thở từ miệng để thổi bay tro ấy đi. Chỉ bằng cách này, vị Sa-môn được gọi là người đã rũ bỏ điều ác.” Phần còn lại nên được giải thích chi tiết giống như phương thức trước.
Aparo evaṃ katheti:- citteneva mahācāṭiṃ ṭhapetvā matthuṃ yojetvā citteneva attano dvattiṃsākāraṃ uppāṭetvā tattha pakkhipitvā matthuṃ otāretvā manthitabbaṃ. Mathiyamānaṃ vilīyati, vilīne upari pheṇo uggacchati. So pheṇo paribhuñjitabbo. Ettāvatā vo amataṃ paribhuttaṃ nāma bhavissati. Ito paraṃ “atha te bhikkhū”tiādi sabbaṃ purimanayeneva vitthāretabbaṃ.
Một người khác lại nói như sau: — “Hãy dùng tâm để đặt một cái nồi lớn, rồi chuẩn bị sẵn bơ lỏng. Dùng tâm tách ra ba mươi hai bộ phận trong thân thể của mình, bỏ vào trong nồi, đổ bơ lỏng vào rồi khuấy đều. Khi bị khuấy, các bộ phận sẽ tan chảy, và khi tan chảy, bọt sẽ nổi lên trên mặt. Bọt đó có thể được thọ dụng. Bằng cách này, các ngươi sẽ được coi là đã thọ dụng trạng thái bất tử.” Từ đây trở đi, tất cả các phần bắt đầu bằng “khi ấy, các vị Tỳ khưu ấy…” nên được giải thích chi tiết giống như phương thức trước.
44. Idāni yo evaṃ vivādo uppajjeyya, tassa mūlaṃ dassento chayimānītiādimāha. Tattha agāravoti gāravavirahito. Appatissoti appaṭissayo anīcavutti. Ettha pana yo bhikkhu satthari dharamāne tīsu kālesu upaṭṭhānaṃ na yāti, satthari anupāhane caṅkamante saupāhano caṅkamati, nīce caṅkame caṅkamante ucce caṅkame caṅkamati, heṭṭhā vasante upari vasati, satthu dassanaṭṭhāne ubho aṃse pārupati, chattaṃ dhāreti, upāhanaṃ dhāreti, nhānatitthe uccāraṃ vā passāvaṃ vā karoti, parinibbute vā pana cetiyaṃ vandituṃ na gacchati, cetiyassa paññāyanaṭṭhāne satthu dassanaṭṭhāne vuttaṃ sabbaṃ karoti, aññehi ca bhikkhūhi “kasmā evaṃ karosi, na idaṃ vaṭṭati, sammāsambuddhassa nāma lajjituṃ vaṭṭatī”ti vutte “tuṇhī hohi[13], kiṃ buddho buddhoti vadasī”ti bhaṇati, ayaṃ satthari agāravo nāma.
44. Bây giờ để thuyết giảng căn bản của sự tranh luận có thể sanh khởi như thế mới thuyết lời như sau: “có sáu (căn bản của sự tranh luận)”. Ở nơi ấy, không có sự tôn kính: loại bỏ sự kính trọng. Không tôn trọng: không cư xử khiêm cung. Hơn nữa, trong trường hợp này (nên hiểu như sau) vị Tỳ khưu nào khi bậc Đạo sư vẫn còn tại thế không đi đến phụng dưỡng trong ba thời, (vị ấy) đi kinh hành có mang dép trong khi bậc Đạo sư đi kinh hành không mang dép, đi kinh hành ở đường kinh hành cao hơn trong khi ngài đi kinh hành ở đường kinh hành thấp, tại địa điểm nhìn thấy bậc Đạo sư trùm cả hai vai, che dù, mang dép, đại tiện tiểu tiện ở nơi bãi tắm, hoặc là khi bậc Đạo sư đã tịch diệt Nibbāna không đi đảnh lễ Bảo tháp, thực hành mọi phận sự như đã nói ở tại Bảo tháp hiện hữu và ở nơi nhìn thấy bậc Đạo sư. Và khi chư Tỳ khưu khác nói rằng: “tại sao ngài lại làm như vậy, việc làm này không thích hợp, đáng xấu hổ đối với bậc Chánh đẳng Chánh giác phù hợp,” quay lại nói rằng “ngài hãy im lặng đi, ngài nói gì vậy, đức Phật như vậy”, đây gọi là không tôn kính đối với bậc Đạo sư.
Yo pana dhammassavane saṅghuṭṭhe sakkaccaṃ na gacchati, sakkaccaṃ dhammaṃ na suṇāti, niddāyati vā sallapento vā nisīdati, sakkaccaṃ na gaṇhāti na dhāreti, “kiṃ dhamme agāravaṃ karosī”ti vutte “tuṇhī hohi, dhammo dhammoti vadasi[14], kiṃ dhammo nāmā”ti vadati, ayaṃ dhamme agāravo nāma.
Còn vị Tỳ khưu nào khi được thông báo việc nghe Pháp không đi với sự cung kính, không nghe Pháp với sự cung kính, ngủ hoặc ngồi nói chuyện, không học, không dạy với sự cung kính. Khi nói rằng: “tại sao ngài không thực hành sự cung kính đối với Giáo pháp,” đã nói rằng: “ngài hãy im lặng đi, ngài nói Pháp, Pháp, cái gì gọi là Pháp?”, đây gọi là không tôn kính đối với Giáo pháp.
Yo pana therena bhikkhunā anajjhiṭṭho dhammaṃ deseti, nisīdati pañhaṃ katheti, vuḍḍhe bhikkhū ghaṭṭento gacchati, tiṭṭhati nisīdati, dussapallatthikaṃ vā hatthapallatthikaṃ vā karoti, saṃghamajjhe ubho aṃse pārupati, chattupāhanaṃ dhāreti, “bhikkhusaṃghassa lajjituṃ vaṭṭatī”ti vuttepi “tuṇhī hohi, saṅgho saṅghoti vadasi, kiṃ saṅgho, migasaṅgho ajasaṅghotiādīni vadati, ayaṃ saṃghe agāravo nāma. Ekabhikkhusmimpi hi agārave kate saṃghe katoyeva hoti. Tisso sikkhā pana aparipūrayamānova sikkhāya na paripūrakārī nāma[15].
Còn vị Tỳ khưu nào mà Tỳ khưu trưởng lão chưa yêu cầu thuyết Pháp, ngồi xuống nói vần đề, đi-đứng-ngồi chen lấn các vị Tỳ khưu lớn tuổi, lấy vải quấn chặt đầu gối hoặc dùng tay siết chặt đầu gối, che kín cả hai vai ở giữa Tăng Chúng, che dù (và) mang dép. Khi chư Tỳ khưu nói rằng: “Thật đáng xấu hổ đối với Tăng Chúng” đã nói rằng: “ngài hãy im lặng đi, ngài nói rằng: Tăng Chúng, Tăng Chúng, vậy thế nào gọi là Tăng Chúng, bầy nai-migasaṅgho bầy dê-ajasaṅgho v.v, đây gọi là không tôn kính đối với Tăng Chúng. Cũng bởi khi thực hiện sự không cung kính dù chỉ một vị Tỳ khưu thì cũng được xem là thực hiện sự không cung kính trong Tăng Chúng. Hơn nữa, khi không thực hành Tam học không viên mãn thì gọi là không tôn kính đối với các học giới.
Ajjhattaṃ vāti attani vā attano parisāya vā. Bahiddhā vāti parasmiṃ vā parassa parisāya vā.
Hoặc ở bên trong: trong tự thân hoặc ở hội chúng của mình. Hoặc ở bên ngoài: ở người khác hoặc trong hội chúng của người khác.
46. Idāni ayaṃ cha ṭhānāni nissāya uppannavivādo vaḍḍhento yāni adhikaraṇāni pāpuṇāti, tāni dassetuṃ cattārimānīti-ādimāha. Tattha vūpasamanatthāya pavattamānehi samathehi adhikātabbānīti adhikaraṇāni. Vivādova adhikaraṇaṃ vivādādhikaraṇaṃ. Itaresupi eseva nayo.
46. Bây giờ, để chỉ ra những tranh chấp phát sinh do sáu nguyên nhân này khi phát triển sẽ dẫn đến những loại tranh tụng nào, Đức Phật đã nói: “Có bốn loại tranh tụng.” Ở đây, “tranh tụng” (adhikaraṇāni) là những vấn đề cần được giải quyết bằng các biện pháp hòa giải nhằm mục đích đem lại sự an tịnh. Khi một cuộc tranh cãi trở thành vấn đề cần giải quyết, nó được gọi là “tranh tụng liên quan đến tranh cãi” (vivādādhikaraṇaṃ). Đối với các loại tranh tụng khác cũng áp dụng nguyên tắc tương tự.
Idāni imānipi cattāri adhikaraṇāni patvā upari vaḍḍhento sopi vivādo yehi samathehi vūpasammati, tesaṃ dassanatthaṃ satta kho panimetiādimāha. Tattha adhikaraṇāni samenti vūpasamentīti adhikaraṇasamathā. Uppannuppannānanti uppannānaṃ uppannānaṃ. Adhikaraṇānanti etesaṃ vivādādhikaraṇādīnaṃ catunnaṃ. Samathāya vūpasamāyāti samanatthañceva vūpasamanatthañca. Sammukhāvinayo dātabbo -pe- tiṇavatthārakoti ime satta samathā dātabbā.
Bây giờ, để chỉ ra những phương pháp nào có thể giải quyết các tranh chấp khi chúng đã phát triển thành bốn loại tranh tụng, Đức Phật đã dạy: “Có bảy phương pháp dàn xếp tranh tụng.”
Ở đây, “phương pháp dàn xếp tranh tụng” (adhikaraṇasamathā) là những cách thức giúp làm lắng dịu và giải quyết các vấn đề tranh chấp. “Đã sanh khởi” là chỉ những tranh chấp đã và đang phát sinh. “Tranh tụng” là chỉ bốn loại tranh tụng, bắt đầu với tranh tụng liên quan đến tranh cãi. “Nhằm đưa đến sự dàn xếp, nhằm đưa đến sự giải quyết” nghĩa là để làm lắng dịu và chấm dứt tranh chấp.
Bảy phương pháp dàn xếp cần được áp dụng là: xét xử với sự hiện diện của các bên liên quan (sammukhāvinayo), […], và phương pháp “trải cỏ che lấp” (tiṇavatthārako) [phương pháp giải quyết bằng cách bỏ qua và không khơi lại vấn đề].
Tatrāyaṃ vinicchayakathā:- adhikaraṇesu tāva dhammoti vā adhammoti vāti aṭṭhārasahi vatthūhi vivadantānaṃ bhikkhūnaṃ yo vivādo, idaṃ vivādādhikaraṇaṃ nāma. Sīlavipattiyā vā ācāradiṭṭhiājīvavipattiyā vā anuvadantānaṃ yo anuvādo upavadanā ceva codanā ca, idaṃ anuvādādhikaraṇaṃ nāma. Mātikāyaṃ āgatā pañca vibhaṅge dveti satta āpattikkhandhā āpattādhikaraṇaṃ nāma. Yaṃ saṃghassa apalokanādīnaṃ catunnaṃ kammānaṃ karaṇaṃ, idaṃ kiccādhikaraṇaṃ nāma.
Đây là sự phân tích chi tiết về các loại tranh tụng:
1. Tranh tụng liên quan đến tranh cãi (Vivādādhikaraṇaṃ):
Đây là những cuộc tranh luận giữa các Tỳ-khưu về mười tám điểm cơ bản, như tranh cãi về “điều này là Pháp” hoặc “điều này không phải là Pháp”.
2. Tranh tụng liên quan đến cáo buộc (Anuvādādhikaraṇaṃ):
Đây là những khiển trách và cáo buộc khi các Tỳ-khưu tố cáo vị khác về:
+ Sự vi phạm giới luật
+ Sự vi phạm hạnh kiểm
+ Sự sai lệch về quan điểm
+ Sự sai trái trong cách nuôi sống
3. Tranh tụng liên quan đến tội (Āpattādhikaraṇaṃ):
Đây là bảy nhóm tội được đề cập trong Luật tạng, gồm năm nhóm trong phần Mẫu đề (Mātikā) và hai nhóm trong phần Phân tích (Vibhaṅga).
4. Tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ (Kiccādhikaraṇaṃ):
Đây là việc thực hiện bốn loại hành sự chính thức của Tăng đoàn, bắt đầu với hành sự công bố (apalokanā).
Tattha vivādādhikaraṇaṃ dvīhi samathehi sammati sammukhāvinayena ca yebhuyyasikāya ca. Sammukhāvinayeneva sammamānaṃ yasmiṃ vihāre uppannaṃ, tasmiṃyeva vā, aññattha vūpasametuṃ gacchantānaṃ antarāmagge vā, yattha gantvā saṃghassa niyyātitaṃ, tattha saṃghena vā gaṇena vā vūpasametuṃ asakkonte tattheva ubbāhikāya sammatapuggalehi vā vinicchitaṃ sammati. Evaṃ sammamāne pana tasmiṃ yā saṃghasammukhatā, dhammasammukhatā, vinayasammukhatā, puggalasammukhatā, ayaṃ sammukhāvinayo nāma.
Trong bốn loại tranh tụng đã nêu, tranh tụng liên quan đến tranh cãi được giải quyết bằng hai phương pháp:
+ Hành xử Luật với sự hiện diện (sammukhāvinaya)
+ Thuận theo ý kiến số đông (yebhuyyasikā)
Khi giải quyết tranh chấp bằng phương pháp “hành xử Luật với sự hiện diện”, có thể áp dụng trong các trường hợp sau:
+ Ngay tại tu viện nơi tranh chấp phát sinh
+ Trên đường đi đến nơi khác để giải quyết tranh chấp
+ Tại nơi mà vấn đề đã được trình lên Tăng đoàn
+ Khi Tăng đoàn hoặc nhóm không thể giải quyết vấn đề, có thể chỉ định một ủy ban đặc biệt (ubbāhikā) để phân xử
Phương pháp “hành xử Luật với sự hiện diện” đòi hỏi bốn yếu tố hiện diện:
+ Sự hiện diện của Tăng đoàn (saṃghasammukhatā)
+ Sự hiện diện của Giáo pháp (dhammasammukhatā)
+ Sự hiện diện của Luật (vinayasammukhatā)
+ Sự hiện diện của các bên liên quan (puggalasammukhatā)
Tattha ca kārakasaṅghassa sāmaggivasena sammukhībhāvo saṃghasammukhatā. Sametabbassa vatthuno bhūtatā dhammasammukhatā. Yathā taṃ sametabbaṃ tatheva, samanaṃ vinayasammukhatā. Yo ca vivadati, yena ca vivadati, tesaṃ ubhinnaṃ attapaccatthikānaṃ sammukhībhāvo puggalasammukhatā. Ubbāhikāya vūpasamane panettha saṃghasammukhatā parihāyati. Evaṃ tāva sammukhāvinayeneva sammati.
Trong phương pháp “hành xử Luật với sự hiện diện”, bốn yếu tố hiện diện được giải thích như sau:
1. Sự hiện diện của Tăng đoàn (Saṃghasammukhatā):
Đây là sự có mặt của đủ số lượng Tỳ-khưu cần thiết để tiến hành một hành sự hợp pháp, tất cả đều hòa hợp trong một cuộc họp chính thức.
2. Sự hiện diện của Pháp (Dhammasammukhatā):
Đây là tính chân thực của vấn đề cần được giải quyết – vấn đề phải có thật, không phải bịa đặt hay dựa trên thông tin sai lệch.
3. Sự hiện diện của Luật (Vinayasammukhatā):
Đây là việc áp dụng đúng quy trình giải quyết theo Luật Tạng, phù hợp với bản chất của vấn đề cần giải quyết.
4. Sự hiện diện của các bên liên quan (Puggalasammukhatā):
Đây là sự có mặt của tất cả các bên liên quan đến tranh chấp – cả người tranh cãi lẫn người bị tranh cãi.
Trong trường hợp giải quyết bằng ủy ban đặc biệt (ubbāhikā), yếu tố “sự hiện diện của Tăng đoàn” có sự thay đổi, vì vấn đề được chuyển từ toàn thể Tăng đoàn sang một nhóm nhỏ được chỉ định.
Như vậy, sự tranh tụng được giải quyết thông qua phương pháp “hành xử Luật với sự hiện diện”.
Sace panevampi na sammati, atha naṃ ubbāhikāya sammatā bhikkhū “na mayaṃ sakkoma vūpasametun”ti saṃghasseva niyyātenti. Tato saṅgho pañcaṅgasamannāgataṃ bhikkhuṃ salākagāhakaṃ sammannitvā tena guḷhaka-vivaṭaka-sakaṇṇajappakesu tīsu salākagāhesu aññataravasena salākaṃ gāhetvā sannipatitaparisāya dhammavādīnaṃ yebhuyyatāya yathā te dhammavādino vadanti, evaṃ vūpasantaṃ adhikaraṇaṃ sammukhāvinayena ca yebhuyyasikāya ca vūpasantaṃ hoti. Tattha sammukhāvinayo vuttanayova. Yaṃ pana yebhuyyasikāya kammassa karaṇaṃ, ayaṃ yebhuyyasikā nāma. Evaṃ vivādādhikaraṇaṃ dvīhi samathehi sammati.
Nếu sự tranh tụng vẫn không được giải quyết bằng phương pháp trên, thì các Tỳ-khưu đã được chỉ định trong ủy ban đặc biệt sẽ trả vấn đề lại cho toàn thể Tăng đoàn, nói rằng: “Chúng tôi không thể giải quyết được vấn đề này.”
Sau đó, Tăng đoàn sẽ tiến hành các bước sau:
-
Chỉ định một Tỳ-khưu có đủ năm đức tính làm người phân phát thẻ biểu quyết (salākagāhaka).
-
Vị Tỳ-khưu này sẽ tổ chức việc bỏ phiếu theo một trong ba phương thức:
- Bỏ phiếu kín (guḷhaka)
- Bỏ phiếu công khai (vivaṭaka)
- Bỏ phiếu bằng cách thì thầm vào tai (sakaṇṇajappaka)
-
Khi Tăng đoàn tụ họp đầy đủ, tranh chấp sẽ được giải quyết theo ý kiến của số đông những vị nói đúng Pháp (dhammavādī).
Trong trường hợp này, sự tranh tụng được giải quyết bằng sự kết hợp của hai phương pháp:
- Hành xử Luật với sự hiện diện (sammukhāvinaya) – như đã giải thích trước đó
- Thuận theo ý kiến số đông (yebhuyyasikā) – tức là quá trình thực hiện biểu quyết đa số
Như vậy, tranh tụng liên quan đến tranh cãi được giải quyết bằng hai phương pháp dàn xếp này.
Anuvādādhikaraṇaṃ catūhi samathehi sammati sammukhāvinayena ca sativinayena ca amuḷhavinayena ca tassapāpiyasikāya ca. Sammukhāvinayeneva sammamānaṃ yo ca anuvadati, yañca anuvadati, tesaṃ vacanaṃ sutvā sace kāci āpatti natthi, ubho khamāpetvā, sace atthi, ayaṃ nāmettha āpattīti evaṃ vinicchitaṃ vūpasammati. Tattha sammukhāvinayalakkhaṇaṃ vuttanayameva.
Tranh tụng liên quan đến cáo buộc được giải quyết bằng bốn phương pháp:
- Hành xử Luật với sự hiện diện (sammukhāvinaya)
- Hành xử Luật bằng sự ghi nhớ (sativinaya)
- Hành xử Luật khi không điên cuồng (amuḷhavinaya)
- Theo tội của vị ấy (tassapāpiyasika)
Khi giải quyết bằng phương pháp “hành xử Luật với sự hiện diện”, vị Tỳ-khưu thông thạo Luật lắng nghe lời khai của cả người cáo buộc và người bị cáo buộc. Sau đó:
- Nếu không phát hiện lỗi lầm nào, vị ấy yêu cầu cả hai bên xin lỗi lẫn nhau
- Nếu có lỗi lầm, vị ấy xác định rõ: “Trong trường hợp này đã phạm tội này” và giải quyết vấn đề theo đúng quy định
Đặc điểm của phương pháp “hành xử Luật với sự hiện diện” trong trường hợp này cũng giống như đã giải thích trước đó.
Yadā pana khīṇāsavassa bhikkhuno amūlikāya sīlavipattiyā anuddhaṃsitassa sativinayaṃ yācamānassa saṃgho ñatticatutthena kammena sativinayaṃ deti, tadā sammukhāvinayena ca sativinayena ca vūpasantaṃ hoti. Dinne pana sativinaye puna tasmiṃ puggale kassaci anuvādo na ruhati.
Khi một vị Tỳ-khưu đã đắc A-la-hán (bậc Lậu tận) bị cáo buộc sai về việc vi phạm giới luật mà không có bằng chứng, và vị ấy yêu cầu được áp dụng “phương pháp hành xử Luật bằng sự ghi nhớ”, Tăng đoàn sẽ tiến hành một hành sự chính thức gồm một lời thông báo và ba lần tuyên ngôn để cấp cho vị ấy sự bảo vệ này.
Trong trường hợp này, tranh chấp được giải quyết bằng sự kết hợp của hai phương pháp:
- Hành xử Luật với sự hiện diện
- Hành xử Luật bằng sự ghi nhớ
Khi phương pháp “hành xử Luật bằng sự ghi nhớ” đã được cấp cho vị Tỳ-khưu, không ai có thể tiếp tục cáo buộc vị ấy về vấn đề này nữa.
Yadā ummattako bhikkhu ummādavasena kate assāmaṇake ajjhācāre “saratāyasmā evarūpiṃ āpattin”ti bhikkhūhi vuccamāno “ummattakena me āvuso etaṃ kataṃ, nāhantaṃ sarāmī”ti bhaṇantopi bhikkhūhi codiyamānova puna acodanatthāya amuḷhavinayaṃ yācati, saṃgho cassa ñatticatutthena kammena amuḷhavinayaṃ deti, tadā sammukhāvinayena ca amuḷhavinayena ca vūpasantaṃ hoti. Dinne pana amuḷhavinaye puna tasmiṃ puggale kassaci tappaccayā anuvādo na ruhati.
Khi một Tỳ-khưu đã thực hiện hành vi không xứng đáng với một Sa-môn trong lúc bị mất trí, và các Tỳ-khưu khác hỏi: “Thưa tôn giả, ngài có nhớ đã phạm tội như vậy không?”, vị ấy trả lời: “Này hiền giả, tôi đã làm điều đó khi tôi bị điên, tôi không nhớ gì cả.”
Mặc dù vậy, nếu các Tỳ-khưu vẫn tiếp tục buộc tội vị ấy, vị ấy có thể yêu cầu “phương pháp hành xử Luật khi không điên cuồng” để ngăn chặn những cáo buộc tiếp theo. Khi đó, Tăng đoàn sẽ tiến hành một hành sự chính thức gồm một lời thông báo và ba lần tuyên ngôn để cấp cho vị ấy sự bảo vệ này.
Trong trường hợp này, tranh chấp được giải quyết bằng sự kết hợp của hai phương pháp:
- Hành xử Luật với sự hiện diện
- Hành xử Luật khi không điên cuồng
Sau khi phương pháp “hành xử Luật khi không điên cuồng” đã được áp dụng, không ai có thể tiếp tục cáo buộc vị Tỳ-khưu đó về những hành vi đã làm trong lúc mất trí.
Yadā pana pārājikena pārājikasāmantena vā codiyamānassa aññenāññaṃ paṭicarato pāpussannatāya pāpiyassa puggalassa “sacāyaṃ acchinnamūlo bhavissati, sammā vattitvā osāraṇaṃ labhissati, sace chinnamūlo, ayamevassa nāsanā bhavissatī”ti maññamāno saṃgho ñatticatutthena kammena tassapāpiyasikaṃ karoti, tadā sammukhāvinayena ceva tassapāpiyasikāya ca vūpasantaṃ hoti. Evaṃ anuvādādhikaraṇaṃ catūhi samathehi sammati.
Khi một Tỳ-khưu bị cáo buộc về tội Pārājika (tội trục xuất) hoặc tội gần với Pārājika, và vị ấy cố tình tránh né vấn đề bằng cách trả lời loanh quanh, đồng thời là người có nhiều hành vi xấu, Tăng đoàn sẽ cân nhắc như sau:
“Nếu vị này chưa hoàn toàn ‘đứt gốc’ (chưa mất tư cách Tỳ-khưu), sau khi thực hành đúng đắn, vị ấy có thể được tái gia nhập Tăng đoàn. Nhưng nếu vị ấy đã ‘đứt gốc’, thì đây sẽ là cách trục xuất chính thức đối với vị ấy.”
Với suy nghĩ này, Tăng đoàn tiến hành một hành sự chính thức gồm một lời thông báo và ba lần tuyên ngôn để áp dụng “phương pháp hành xử theo tội của vị ấy” (tassapāpiyasika).
Trong trường hợp này, tranh chấp được giải quyết bằng sự kết hợp của hai phương pháp:
- Hành xử Luật với sự hiện diện
- Hành xử theo tội của vị ấy
Như vậy, tranh tụng liên quan đến cáo buộc được giải quyết bằng bốn phương pháp dàn xếp đã nêu.
Āpattādhikaraṇaṃ tīhi samathehi sammati sammukhāvinayena ca paṭiññātakaraṇena ca tiṇavatthārakena ca. Tassa sammukhāvinayeneva vūpasamo natthi. Yadā pana ekassa vā bhikkhuno santike saṃghagaṇamajjhesu vā bhikkhu lahukaṃ āpattiṃ deseti, tadā āpattādhikaraṇaṃ sammukhāvinayena paṭiññātakaraṇena ca vūpasammati. Tattha sammukhāvinayo tāva yo ca deseti, yassa ca deseti, tesaṃ sammukhatā. Sesaṃ vuttanayameva, puggalassa ca gaṇassa ca desanākāle saṃghasammukhatā parihāyati. Yampanettha[16] “ahaṃ bhante itthannāmaṃ āpattiṃ āpanno”ti ca, “āma passāmī”ti ca paṭiññātāya “āyatiṃ saṃvareyyāsī”ti karaṇaṃ, taṃ paṭiññātakaraṇaṃ nāma. Saṅghādisese parivāsādiyācanā paṭiññā parivāsādīnaṃ dānaṃ paṭiññātakaraṇaṃ nāma.
Tranh chấp liên quan đến tội (āpattādhikaraṇaṃ) được giải quyết bằng ba phương pháp:
- Hành xử Luật với sự hiện diện (sammukhāvinaya)
- Phán xử theo tội đã được thừa nhận (paṭiññātakaraṇa)
- Dùng cỏ che lấp (tiṇavatthāraka)
Điểm quan trọng là tranh chấp loại này không thể chỉ giải quyết bằng phương pháp “hành xử Luật với sự hiện diện” đơn lẻ.
Khi một Tỳ-khưu khai báo tội nhẹ trước một Tỳ-khưu khác hoặc trước Tăng đoàn, tranh chấp được giải quyết bằng sự kết hợp của hai phương pháp:
- Hành xử Luật với sự hiện diện
- Phán xử theo tội đã được thừa nhận
Trong phương pháp “hành xử Luật với sự hiện diện”, yêu cầu cần có:
- Sự hiện diện của vị khai báo tội
- Sự hiện diện của vị nhận lời khai báo
Các yếu tố khác thì như đã giải thích trước đó. Tuy nhiên, khi khai báo tội với một cá nhân hoặc một nhóm, không cần thiết phải có sự hiện diện của toàn thể Tăng đoàn.
Phương pháp “phán xử theo tội đã được thừa nhận” bao gồm:
- Vị Tỳ-khưu nói: “Thưa ngài, tôi đã phạm tội tên như vầy”
- Vị nhận lời khai báo đáp: “Vâng, tôi nhận thấy điều đó”
- Lời khuyên: “Hãy thu thúc trong tương lai”
Đối với trường hợp tội nặng hơn (Saṃghādisesa), phương pháp này bao gồm việc vị phạm tội xin hình phạt biệt trú và các hình phạt khác, và Tăng đoàn chấp thuận ban hình phạt đó dựa trên lời thừa nhận của vị ấy.
Dvepakkhajātā pana bhaṇḍanakārakā bhikkhū bahuṃ assāmaṇakaṃ ajjhācāraṃ caritvā puna lajjidhamme uppanne “sace mayaṃ imāhi āpattīhi aññamaññaṃ kāressāma, siyāpi taṃ adhikaraṇaṃ kakkhalatāya saṃvatteyyā”ti aññamaññaṃ āpattiyā kārāpane dosaṃ disvā yadā tiṇavatthārakakammaṃ karonti, tadā āpattādhikaraṇaṃ sammukhāvinayena ca tiṇavatthārakena ca sammati. Tatra hi yattakā hatthapāsupagatā “na me taṃ khamatī”ti evaṃ diṭṭhāvikammaṃ akatvā “dukkaṭaṃ kammaṃ puna kātabbaṃ kamman”ti na ukkoṭenti, niddampi okkantā honti, sabbesampi ṭhapetvā thullavajjañca gihipaṭisaṃyuttañca sabbāpattiyo vuṭṭhahanti, evaṃ āpattādhikaraṇaṃ tīhi samathehi sammati. Kiccādhikaraṇaṃ ekena samathena sammati sammukhāvinayeneva.
Khi các Tỳ-khưu chia thành hai phe đối lập và gây ra nhiều hành vi không xứng đáng với Sa-môn, nhưng sau đó cảm thấy hổ thẹn về những hành vi đó, họ nhận ra vấn đề như sau:
“Nếu chúng ta cứ buộc tội lẫn nhau về những lỗi lầm này, tranh chấp có thể trở nên gay gắt và khó giải quyết hơn.”
Nhận thấy nguy hại của việc tiếp tục buộc tội nhau, họ quyết định áp dụng phương pháp “dùng cỏ che lấp” (tiṇavatthāraka). Khi phương pháp này được thực hiện, tranh chấp liên quan đến tội được giải quyết bằng sự kết hợp của hai phương pháp:
- Hành xử Luật với sự hiện diện
- Dùng cỏ che lấp
Trong phương pháp “dùng cỏ che lấp”, tất cả các Tỳ-khưu có mặt trong phạm vi với tay tới được phải:
- Không phản đối bằng cách nói: “Tôi không đồng ý với điều này”
- Không khơi lại vấn đề bằng cách nói: “Hành sự đã làm không đúng, cần phải làm lại”
- Chấp nhận quyết định và không tiết lộ thêm
Kết quả là tất cả các tội của tất cả các Tỳ-khưu đều được xóa bỏ, ngoại trừ:
- Các tội nghiêm trọng (thullavajja)
- Các tội liên quan đến cư sĩ
Như vậy, tranh chấp liên quan đến tội được giải quyết bằng ba phương pháp (như đã nêu trước đó).
Cuối cùng, tranh chấp liên quan đến nhiệm vụ (kiccādhikaraṇaṃ) chỉ được giải quyết bằng một phương pháp duy nhất – đó là hành xử Luật với sự hiện diện.
Imāni cattāri adhikaraṇāni yathānurūpaṃ imehi sattahi samathehi sammanti. Tena vuttaṃ “uppannuppannānaṃ adhikaraṇānaṃ samathāya vūpasamāya sammukhāvinayo dātabbo … pe … tiṇavatthārako”ti. Ayamettha vinicchayanayo, vitthāro pana samathakkhandhake (cūḷava. 185) āgatoyeva. Vinicchayopissa samantapāsādikāya vutto.
Bốn sự tranh tụng này được lắng dịu với bảy cách dàn xếp một cách phù hợp. Bởi thế mới nói rằng: “Nên ban cho bằng cách hành xử Luật với sự hiện diện -nt- cách dùng cỏ che lấp nhằm đưa đến sự dàn xếp, nhằm đưa đến sự giải quyết những tranh tụng đã sanh khởi hoặc chưa sanh khởi”. Có cách thức phân tích trong vấn đề sự tranh tụng được dàn xếp chỉ bấy nhiêu. Còn giảng giải chi tiết đã được đề cập trong chương dàn xếp (cūḷava. 185). Kể cả việc phân tích sự tranh tụng ấy cũng đã được đề cập trong Samantapāsādikāya.
47. Yo panāyaṃ imasmiṃ sutte “idhānanda, bhikkhū vivadantī”tiādiko vitthāro vutto, so etena nayena saṅkhepatova vuttoti veditabbo. Tattha dhammotiādīsu suttantapariyāyena tāva dasa kusalakammapathā dhammo, akusalakammapathā adhammo. Tathā “cattāro satipaṭṭhānā”ti heṭṭhā āgatā sattatiṃsa bodhipakkhiyadhammā, tayo satipaṭṭhānā tayo sammappadhānā tayo iddhipādā cha indriyāni cha balāni aṭṭha bojjhaṅgā navaṅgiko maggo cāti, cattāro upādānā pañca nīvaraṇānītiādayo saṃkiliṭṭhadhammā cāti ayaṃ adhammo.
47. Trong bài Kinh này sự giảng giải được bắt đầu như sau: “Này Ānanda, các Tỳ khưu trong Pháp và Luật này tranh cãi với nhau…” đã được nói rồi, nên hiểu theo phương thức ấy hoàn toàn vắn tắt. Ở đây, Pháp v.v, trong Pāḷī ấy với phương thức của Kinh tạng trước. Thập thiện nghiệp đạo gọi là Pháp, thập bất thiện nghiệp đạo gọi là Phi pháp. Ba mươi bảy Pháp dự phần giác ngộ đã được đề cập ở phần sau: “bốn sự thiết lập niệm” cũng được gọi là Pháp tương tự. Thức tính Pháp này là ba sự thiết lập niệm, ba chánh cần, ba nền tảng của thần thông, sáu quyền, sáu lực, tám giác chi, và Đạo có 9 chi phần, và các Pháp phiền não chẳng hạn như bốn sự chấp thủ, 5 pháp ngăn che v.v, gọi là Phi pháp.
Tattha yaṃkiñci ekaṃ adhammakoṭṭhāsaṃ gahetvā “imaṃ adhammaṃ dhammoti karissāma, evaṃ amhākaṃ ācariyakulaṃ niyyānikaṃ bhavissati, mayañca loke pākaṭā bhavissāmā”ti taṃ adhammaṃ “dhammo ayan”ti kathentā dhammoti vivadanti. Tattheva dhammakoṭṭhāsesu ekaṃ gahetvā “adhammo ayan”ti kathentā adhammoti vivadanti.
Ở đây, một số Tỳ-khưu nắm lấy một phần phi pháp nào đó và tự nghĩ: “Chúng ta sẽ tuyên bố phi pháp này là pháp. Bằng cách này, trường phái của thầy chúng ta sẽ trở nên nổi tiếng là con đường giải thoát, và chúng ta sẽ được biết đến rộng rãi trong thế gian.” Họ tranh cãi bằng cách khẳng định rằng: “Đây là pháp” về điều thực ra là phi pháp.
Tương tự, một số khác lại nắm lấy một phần của Chánh Pháp và tranh cãi bằng cách tuyên bố: “Đây là phi pháp” về Chánh Pháp đó.
Vinayapariyāyena pana bhūtena vatthunā codetvā sāretvā yathāpaṭiññāya kātabbakammaṃ dhammo nāma, abhūtena pana vatthunā acodetvā asāretvā apaṭiññāya katabbakammaṃ adhammo nāma. Tesupi adhammaṃ “dhammo ayan”ti kathentā dhammoti vivadanti, “adhammo ayan”ti kathentā adhammoti vivadanti.
Theo cách hiểu của Luật tạng:
- Pháp (dhammo) là: Thực hiện hành sự sau khi đã quở trách và nhắc nhở dựa trên sự việc có thật, và tiến hành theo đúng sự thừa nhận của người phạm tội.
- Phi pháp (adhammo) là: Thực hiện hành sự mà không quở trách, không nhắc nhở hoặc dựa trên sự việc không có thật, và không tiến hành theo sự thừa nhận của người phạm tội.
Tranh cãi về Pháp/Phi pháp xảy ra khi:
- Một số người gọi phi pháp là “pháp” và tranh luận rằng đó là pháp
- Một số người gọi pháp là “phi pháp” và tranh luận rằng đó là phi pháp
Suttantapariyāyena pana rāgavinayo dosavinayo mohavinayo saṃvaro pahānaṃ paṭisaṅkhāti ayaṃ vinayo nāma, rāgādīnaṃ avinayo asaṃvaro appahānaṃ appaṭisaṅkhāti ayaṃ avinayo nāma. Vinayapariyāyena vatthusampatti ñattisampatti anusāvanasampatti sīmasampati parisasampattīti ayaṃ vinayo nāma, vatthuvipatti … pe … parisavipattīti ayaṃ avinayo nāma. Tesupi yaṃkiñci avinayaṃ “vinayo ayan”ti kathentā vinayoti vivadanti, vinayaṃ avinayoti kathentā avinayoti vivadanti.
Theo Kinh tạng (Suttanta):
- Luật (vinayo) là: Loại bỏ tham ái, loại bỏ sân hận, loại bỏ si mê, tự kiềm chế, từ bỏ, và quán xét.
- Phi luật (avinayo) là: Không loại bỏ tham ái…, không tự kiềm chế, không từ bỏ, không quán xét.
Theo Luật tạng (Vinaya):
- Luật (vinayo) là: Sự hoàn hảo của vấn đề, sự hoàn hảo của đề nghị, sự hoàn hảo của tuyên ngôn, sự hoàn hảo của ranh giới, sự hoàn hảo của hội chúng.
- Phi luật (avinayo) là: Sự không hoàn hảo của vấn đề… sự không hoàn hảo của hội chúng.
Tranh cãi về Luật/Phi luật xảy ra khi:
- Một số người gọi phi luật là “luật” và tranh luận rằng đó là luật
- Một số người gọi luật là “phi luật” và tranh luận rằng đó là phi luật
Dhammanetti samanumajjitabbāti dhammarajju anumajjitabbā ñāṇena ghaṃsitabbā upaparikkhitabbā. Sā panesā dhammanetti “iti kho Vaccha ime dasa dhammā akusalā dasa dhammā kusalā”ti evaṃ Mahāvacchagottasutte (ma. ni. 2.194) āgatāti vuttā. Sā eva vā hotu, yo vā idha dhammoti ca vinayo ca vutto. Yathā tattha sametīti yathā tāya dhammanettiyā sameti, “dhammo dhammova hoti, adhammo adhammova, vinayo vinayova hoti, avinayo avinayova”. Tathā tanti evaṃ taṃ adhikaraṇaṃ vūpasametabbaṃ. Ekaccānaṃ adhikaraṇānanti idha vivādādhikaraṇameva dassitaṃ, sammukhāvinayo pana na kismiñci adhikaraṇe na labbhati.
Lối dẫn vào Chánh Pháp cần phải được quán xét: “Sợi dây Pháp” cần được xem xét kỹ lưỡng, cần được chà xát (kiểm tra) và quan sát cẩn thận bằng trí tuệ.
Khái niệm “lối dẫn vào Chánh Pháp” này đã được đề cập trong Kinh Mahāvacchagotta, nơi Đức Phật dạy: “Này Vaccha, mười pháp này là bất thiện, mười pháp này là thiện.” Có thể áp dụng tiêu chuẩn từ kinh điển đó, hoặc tiêu chuẩn về Pháp và Luật được nêu ra tại đây. Ở đây làm thế nào để đặt vào: được đặt vào khuôn khổ của Pháp đó bằng cách nào, “Pháp là Pháp, Phi Pháp là Phi Pháp, Luật là Luật, Phi Luật là Phi Luật”. Tathā taṃ: sự tranh tụng đó nên giải quyết bằng cách đó. Một số tranh tụng: ở đây chỉ đề cập đến tranh tụng liên quan đến tranh cãi. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng phương pháp “hành xử Luật với sự hiện diện” (sammukhāvinaya) luôn luôn cần thiết trong mọi loại tranh tụng – không có tranh tụng nào có thể giải quyết mà thiếu yếu tố này.
48. Taṃ panetaṃ yasmā dvīhi samathehi sammati sammukhāvinayena ca yebhuyyasikāya ca, tasmā heṭṭhā mātikāya ṭhapitānukkamena idāni sativinayassa vāre pattepi taṃ avatvā vivādādhikaraṇayeva tāva dutiyasamathaṃ dassento kathañcānanda, yebhuyyasikāti-ādimāha. Tattha bahutarāti antamaso dvīhi tīhipi atirekatarā. Sesamettha heṭṭhā vuttanayeneva veditabbaṃ.
48. Sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi này được giải quyết bằng hai phương pháp:
- Hành xử Luật với sự hiện diện (sammukhāvinaya)
- Thuận theo số đông (yebhuyyasikā)
Mặc dù theo thứ tự đã định trong mục lục, lẽ ra bây giờ Đức Phật phải nói đến phương pháp “hành xử Luật bằng sự ghi nhớ” (sativinaya), nhưng Ngài đã bỏ qua nó và chuyển sang trình bày phương pháp giải quyết thứ hai cho tranh tụng liên quan đến tranh cãi, bằng cách hỏi: “Này Ānanda, thế nào là thuận theo số đông?”
Trong phương pháp này, “có nhiều Tỳ-kheo hơn” (bahutarā) có nghĩa là: ít nhất phải nhiều hơn hai hoặc ba vị Tỳ-kheo – đây là số lượng tối thiểu cần thiết để áp dụng phương pháp biểu quyết theo đa số.
Các chi tiết còn lại về phương pháp này nên được hiểu theo cách đã được giải thích trước đó trong bài giảng.
49. Idāni heṭṭhā avitthāritaṃ sativinayaṃ ādiṃ katvā vitthāritāvasesasamathe paṭipāṭiyā vitthāretuṃ kathañcānanda, sativinayoti-ādimāha. Tattha pārājikasāmantena vāti dve sāmantāni khandhasāmantañca āpattisāmantañca. Tattha pārājikāpattikkhandho saṅghādisesāpattikkhandho thullaccaya-pācittiya-pāṭidesanīya-dukkaṭa-dubbhāsitāpattikkhandhoti evaṃ purimassa pacchimakhandhaṃ khandhasāmantaṃ nāma hoti. Paṭhamapārājikassa pana pubbabhāge dukkaṭaṃ, sesānaṃ thullaccayanti idaṃ āpattisāmantaṃ nāma. Tattha khandhasāmante pārājikasāmantaṃ garukāpatti nāma hoti. Saratāyasmāti saratu āyasmā. Ekaccānaṃ adhikaraṇānanti idha anuvādādhikaraṇameva dassitaṃ.
49. Bây giờ, Đức Phật muốn giải thích chi tiết về các phương pháp giải quyết tranh chấp theo thứ tự, bắt đầu với phương pháp “hành xử Luật bằng sự ghi nhớ” (sativinaya) mà trước đó chưa được trình bày chi tiết. Vì vậy, Ngài hỏi: “Này Ānanda, hành xử Luật bằng sự ghi nhớ như thế nào?” Trong những từ đó thì gần với tội pārājika có 2 là
-
Gần kề nhóm tội (khandhasāmanta): Đây là mối quan hệ giữa các nhóm tội trong thứ bậc, từ nặng đến nhẹ:
- Nhóm tội Pārājika (tội trục xuất)
- Nhóm tội Saṅghādisesa (tội tăng tàn)
- Nhóm tội Thullaccaya (tội trọng)
- Nhóm tội Pācittiya (tội ưng đối trị)
- Nhóm tội Pāṭidesanīya (tội ưng phát lộ)
- Nhóm tội Dukkaṭa (tội tác ác)
- Nhóm tội Dubbhāsita (tội ác khẩu)
Mỗi nhóm tội được coi là “gần kề” với nhóm tội nặng hơn kế tiếp.
-
Gần kề phạm tội (āpattisāmanta): Đây là những tội nhẹ mà có thể dẫn đến tội nặng:
- Đối với tội Pārājika thứ nhất, giai đoạn đầu là tội Dukkaṭa
- Đối với các tội Pārājika còn lại, giai đoạn đầu là tội Thullaccaya
Những tội được coi là “tội nặng” (garukāpatti) bao gồm cả những tội thuộc về “gần kề nhóm tội” hoặc “gần kề tội Pārājika”.
50. Bhāsitaparikkantanti vācāya bhāsitaṃ kāyena ca parikkantaṃ, parakkamitvā katanti attho. Ekaccānanti idhāpi anuvādādhikaraṇameva adhippetaṃ. Paṭiññātakaraṇe “ekaccānan”ti āpattādhikaraṇaṃ dassitaṃ.
50. Lời nói và hành động đã thực hiện: Nói bằng lời và nỗ lực bằng thân, tức là đã làm về mọi mặt. Một số: ở đây chỉ muốn đề cập đến sự tranh tụng liên quan đến sự khiển trách mà thôi. Việc phán xử theo tội đã được thừa nhận thuyết giảng sự tranh tụng liên quan đến tội bằng từ “một số”.
52. davāti sahasā. Ravāti aññaṃ bhaṇitukāmena aññaṃ vuttaṃ. Evaṃ kho, ānanda, tassapāpiyasikā hotīti tassapuggalassa pāpussannatā pāpiyasikā hoti. Iminā kammassa vatthu dassitaṃ. Evarūpassa hi puggalassa kammaṃ kāttabbaṃ. Kammena hi adhikaraṇassa vūpasamo hoti, na puggalassa pāpussannatāya. idhāpi ca anuvādādhikaraṇameva adhikaraṇanti veditabbaṃ.
52. Davā: một cách vội vàng. Lỡ lời: cần phải nói một cách như vầy nhưng lại nói theo một cách khác. Như vậy, này Ananda, là hành xử theo tội của vị ấy: phương pháp này được áp dụng cho người có nhiều tội lỗi dày đặc (pāpussannatā). Điều này chỉ ra cơ sở (vatthu) cho việc thực hiện hành sự chính thức.
Phương pháp này cần được thực hiện đối với người có hình thức (tính cách) như vậy – người ban đầu chối tội, sau đó lại thú nhận, rồi lại nói mình lỡ lời hoặc nói vội.
Cần hiểu rằng tranh tụng được giải quyết nhờ vào hành sự chính thức của Tăng đoàn, không phải chỉ vì bản chất nhiều tội lỗi của cá nhân đó. Tranh tụng ở đây thuộc loại tranh tụng liên quan đến sự khiển trách (anuvādādhikaraṇa) – khi có người bị cáo buộc phạm tội và có những biểu hiện không thành thật trong lời khai.
53. Kathañcānanda, tiṇavatthārakoti ettha idaṃ kammaṃ tiṇavatthārakasadisattā tiṇavatthārakoti vuttaṃ. yathā hi gūthaṃ vā muttaṃ vā ghaṭṭiyamānaṃ duggandhatāya bādhati, tiṇehi avattharitvā suppaṭicchāditassa panassa so gandho na bādhati, evameva yaṃ adhikaraṇaṃ mūlānumūlaṃ gantvā vūpasamiyamānaṃ kakkhaḷattāya vāḷattāya bhedāya saṃvattati, taṃ iminā kammena vūpasantaṃ gūthaṃ viya tiṇavatthārakena paṭicchannaṃ vūpasantaṃ hotīti idaṃ kammaṃ tiṇavatthārakasadisattā tiṇavatthārakoti vuttaṃ. Tassa idhānanda, bhikkhūnaṃ bhaṇḍanajātānanti-ādivacanena ākāramattameva dassitaṃ, khandhake āgatāyeva panettha kammavācā pamāṇaṃ. Ṭhapetvā thullavajjaṃ ṭhapetvā gihipaṭisaṃyuttanti ettha pana thullavajjanti thūllavajjaṃ pārājikañceva saṅghādisesañca. Gihipaṭisaṃyuttanti gihīnaṃ hīnena khuṃsana-vambhana-dhammikapaṭissavesu āpannā āpatti. Adhikaraṇānanti idha āpattādhikaraṇameva veditabbaṃ. Kiccādhikaraṇassa pana vasena idha na kiñci vuttaṃ. kiñcāpi na vuttaṃ, sammukhāvinayeneva panassa vūpasamo hotīti veditabbo.
53. Này Ānanda, cách dùng cỏ che lấp như thế nào? ngài nói đến cách hành xử này rằng: gọi là cách dùng cỏ che lấp bởi giống như che mình bằng cỏ. So sánh giống như phân và nước tiểu (khi) ai tiếp xúc sẽ ngửi thấy mùi thối thoang thoảng bởi vì (những thứ đó) là những thứ hôi thối, nhưng khi chúng bị che phủ đậy lại bằng cỏ thì mùi hôi thối đó sẽ không thể bay đi như thế nào, sự tranh tụng đi đến nguyên nhân lớn nhỏ, xấu ác thô thiển vẫn chưa được giải quyết đưa đến sự chia rẽ (Hội Chúng), đưa đến quá khích, đưa đến dữ dội, khi được giải quyết bởi hành sự này sẽ trở nên lắng dịu tựa như phân đã được che đậy bằng cỏ tương tự y như thế đó. Này Ānanda, Tỳ khưu trong Pháp và Luật này có nảy sinh các sự xung đột v.v, chỉ thuyết giảng về biểu hiện của sự tranh tụng đó, còn kammavācā-thành sự ngôn chỉ được đề cập trong uẩn-khandha (có) sự ước chừng ở chỗ này. Ngoại trường trường hợp có lỗi nghiêm trọng, ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ: Tội pārājika và tội saṅghādisesa có tội nghiêm trọng gọi là có lỗi lầm nghiêm trọng. (Vị) đã vi phạm lỗi lầm do bởi (không thực hiện) điều hứa hẹn hợp lý, khinh bỉ, sỉ vả bằng những lời nói thậm tệ đối với các người tại gia, đây gọi là lỗi lầm có liên quan đến cư sĩ. Sự tranh tụng này cần phải biết hoàn toàn bằng sự tranh tụng liên quan đến tội. Hơn nữa, ở đây không thuyết bất cứ lời gì do tác động của sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ. Mặc dù không nói đến, tuy nhiên nên biết việc giải quyết sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ ấy cũng nhờ vào cách hành xử Luật với sự hiện diện.
54. Chayime, Ānanda, dhammā sāraṇīyāti heṭṭhā kalahavasena suttaṃ āraddhaṃ, upari sāraṇīyadhammā āgatā. Iti yathānusandhināva desanā gatā hoti. Heṭṭhā Kosambiyasutte (ma. ni. 1.498-500) pana sotāpattimaggasammādiṭṭhi kathitā, imasmiṃ sutte sotāpattiphalasammādiṭṭhi vuttāti veditabbā. Aṇunti appasāvajjaṃ. Thūlanti mahāsāvajjaṃ. Sesamettha uttānamevāti.
54. Này Ānanda, có sáu khả niệm Pháp này: câu này cho thấy mối liên hệ trong cấu trúc bài kinh:
- Phần đầu của bài kinh đề cập đến việc giải quyết tranh chấp và gây gổ
- Phần sau tiếp tục với sáu pháp cần ghi nhớ (sāraṇīya dhammā)
Đây là sự liên kết tự nhiên trong lời dạy của Đức Phật, vì sau khi nói về cách giải quyết tranh chấp, Ngài chỉ ra những pháp có thể ngăn ngừa tranh chấp từ đầu.
Hơn nữa, bài Kinh Kosambiya phần sau thuyết giảng chánh tri kiến trong Nhập Lưu Đạo, trong bài Kinh này nên biết rằng thuyết chánh tri kiến trong Nhập Lưu Quả. Dù nhỏ chăng nữa: Có lỗi lầm nhỏ. Hay nhiều đi nữa: có lỗi nhiều. Từ còn lại ở trong các câu còn lại đều đơn giản.
Giải Thích Kinh Làng Sāma Kết Thúc.
[1] Sī. Syā. kālakatoti
[2] Ka. – pagunaṃ vā
[3] a. ni. 4.180; dī. ni. 2.187
[4] mahāva. 305
[5] a. ni. 4.42
[6] dī. ni. 2.216
[7] Sāraṇīyadhamma: sáu khả niệm pháp, pháp hòa kính, pháp thương tưởng, pháp tạo hòa hợp gồm:
- Mettākāyakamma: Thân nghiệp từ
- Mettāvacīkamma: Khẩu nghiệp từ
- Mettāmanokamma: Ý nghiệp từ
- Sādhāraṇabhogī: Cộng hưởng lợi lộc
- Sīlasāmaññatā: Có giới Sa-môn
- Diṭṭhisāmaññatā: Có tri kiến Sa-môn
[8] jā. 2.1.4
[9] mahāva. 451
[10] Vi. 5. 178 piṭṭhe
[11] Cha. Ma. – ayaṃ pāṭho na dissati
[12] Ka. – āgatā pāde dhovetvā mahātheraṃ passissāmāti gantvā
[13] Ka. – hoti
[14] Sī. Syā. – Viravasi
[15] Sī. Syā. Kā. – sikkhāya na agāravo nāma
[16] Sī. Ma. – yā panettha