Kinh Làng Sāma
(Sāmagāma sutta)Xem Chú giải bản dịch tiếng Thái-Việt
41. Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở giữa các vị Sakka (Thích Ca), tại Sāmagāma (Xá-di thôn).
Lúc bấy giờ, Nigaṇṭha Nāṭaputta vừa mới tạ thế ở Pāvā. Sau khi vị này tạ thế, các vị Nigaṇṭha chia ra làm hai phái, chia rẽ nhau, tranh chấp nhau, tranh luận nhau và sống tàn hại nhau với binh khí miệng lưỡi. “Ông không biết Pháp và Luật này, ta biết Pháp và Luật này. Sao Ông có thể biết Pháp và Luật này? Ông theo tà hạnh, ta theo chánh hạnh. Lời nói ta tương ưng, lời nói Ông không tương ưng. Ðiều đáng nói trước, Ông nói sau; điều đáng nói sau, Ông nói trước. Ðiều Ông quan niệm, trình bày đã bị đảo lộn. Quan điểm của Ông đã bị thách đố. Ông đã bị đánh bại. Hãy đi giải tỏa quan điểm của Ông. Hãy tự thoát khỏi bế tắc nếu Ông có thể làm được!” Hình như các đệ tử của Nigaṇṭha Nāṭaputta muốn tàn hại lẫn nhau. Chính các đệ tử cư sĩ mặc đồ trắng của Nigaṇṭha Nāṭaputta cũng chán ngấy, cơ hiềm, và phản đối các Nigaṇṭha, vì pháp luật của họ đã được trình bày, tuyên bố một cách vụng về, không có hiệu năng hướng dẫn, không hướng đến an tịnh, không do vị Chánh Ðẳng Giác tuyên thuyết, tháp y chỉ đã bị đổ vỡ, không có chỗ y chỉ.
42. Rồi Sa-di Cunda, sau khi an cư mùa mưa ở Pāvā, đến thăm Tôn giả Ānanda ở Sāmagāma, sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Ānanda và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Sa-di Cunda bạch Tôn giả Ānanda:
— Bạch Tôn giả, Nigaṇṭha Nataputtta đã từ trần ở Pāvā. Sau khi vị này tạ thế, các Nigaṇṭha chia ra làm hai phái… tháp y chỉ đã bị đổ vỡ, không có chỗ y chỉ.
Khi nghe nói vậy, Tôn giả Ānanda nói với Sa di Cunda:
— Này Hiền giả Cunda, đây là vấn đề đáng đưa ra để yết kiến Thế Tôn. Này Hiền giả Cunda, chúng ta hãy đi yết kiến Thế Tôn; sau khi đến, chúng ta hãy trình bày vấn đề này để Thế Tôn biết.
— Thưa vâng, Tôn giả .
Sa di Cunda vâng lời Tôn giả Ānanda. Rồi Tôn giả Ānanda cùng với Sa di Cunda đi đến yết kiến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Tôn giả Ānanda bạch Thế Tôn:
— Bạch Thế Tôn, Sa di Cunda có nói: “Nigaṇṭha Nāṭaputta đã từ trần ở Pāvā. Sau khi vị này từ trần, các vị Nigaṇṭha chia ra làm hai phái… tháp y chỉ đã bị đổ vỡ, không có chỗ y chỉ”. Bạch Thế Tôn, con nghĩ như sau: “Sau khi Thế Tôn nhập diệt, chớ để cho tranh luận khởi lên giữa Tăng chúng. Tranh luận ấy đưa đến sự bất an cho đa số, bất hạnh cho đa số, thất lợi cho đa số, bất an, đau khổ cho loài Trời, loài người”.
43. — Này Ānanda, Ông nghĩ thế nào? Những pháp Ta dạy cho các Ông với thượng trí, như Bốn niệm xứ, Bốn chánh cần, Bốn như ý túc, Năm căn, Năm lực, Bảy Bồ đề phần, Thánh đạo tám ngành. Ông có thấy chăng, này Ānanda, có hai Tỷ-kheo đối với những pháp này tuyên bố sai khác nhau?
— Bạch Thế Tôn, những pháp Thế Tôn dạy cho con với thượng trí, như Bốn niệm xứ, Bốn chánh cần, Bốn như ý túc, Năm căn, Năm lực, Bảy Bồ đề phần, Thánh đạo tám ngành, con không thấy cho đến hai Tỷ-kheo đối với những pháp này tuyên bố sai khác nhau. Bạch Thế Tôn, và những người nào sống y cứ sùng kính Thế Tôn, những người ấy sau khi Thế Tôn nhập diệt, có thể khởi lên những tranh luận giữa tăng chúng, hoặc về Tăng thượng hoạt mạng, hoặc về Tăng thượng Giới bổn (pātimokkha). Tranh luận ấy đem đến bất an cho đa số, bất hạnh cho đa số, bất an, đau khổ cho loài Trời, loài Người.
— Là nhỏ nhặt, này Ānanda, là sự tranh luận ấy, tức là tranh luận về Tăng thượng hoạt mạng hay Tăng thượng giới bổn. Này Ānanda, sự tranh luận khởi lên giữa Tăng chúng về con đường (magga) hay về đường hướng tu hành (paṭipadā), sự tranh luận ấy mới đưa đến bất an cho đa số, thất lợi cho đa số, bất an, đau khổ cho loài Trời, loài Người.
44. “Này Ānanda, có sáu cội rễ gây ra tranh chấp. Sáu điều đó là gì?
Này Ānanda, ở đây có vị Tỳ-kheo nóng giận và hiềm hận. Vị Tỳ-kheo nào có tính như vậy sẽ sống không tôn kính và không vâng lời Bậc Đạo Sư, không tôn kính và không vâng lời Giáo Pháp, không tôn kính và không vâng lời Tăng chúng, không hoàn thành các điều học. Này Ānanda, vị Tỳ-kheo nào sống thiếu tôn kính và vâng lời Bậc Đạo Sư, Giáo Pháp, Tăng chúng, và không hoàn thành các điều học, vị ấy sẽ gây ra tranh chấp trong Tăng đoàn. Sự tranh chấp này sẽ dẫn đến điều bất lợi, bất hạnh và đau khổ cho số đông, cho cả chư thiên và loài người.
Vì vậy, này Ānanda: Nếu ông nhận thấy một cội rễ tranh chấp tai hại như vậy, dù ở bên trong chính mình hay ở bên ngoài nơi người khác, ông phải nỗ lực để loại bỏ nó. Nếu ông không nhận thấy một cội rễ tranh chấp tai hại nào, ông hãy thực hành sao cho nó không phát sinh trong tương lai.
Như vậy, cội rễ tranh chấp tai hại ấy sẽ được đoạn trừ và không tiếp tục phát sinh trong tương lai.
45. “Lại nữa, này Ānanda, một vị Tỳ-kheo có thể có những tính xấu khác như:Hay chê bai và kiêu căng… Ganh tị và keo kiệt… Lừa dối và xảo quyệt… Có những mong muốn xấu xa và tà kiến… Cố chấp vào quan điểm của mình, khư khư giữ lấy và khó từ bỏ.
Này Ānanda, vị Tỳ-kheo nào cố chấp vào quan điểm của mình, khư khư giữ lấy và khó từ bỏ, vị ấy cũng sẽ sống không tôn kính và không vâng lời Bậc Đạo Sư, Giáo Pháp, Tăng chúng, và không hoàn thành các điều học. Vị ấy sẽ gây ra tranh chấp trong Tăng đoàn, dẫn đến điều bất lợi, bất hạnh và đau khổ cho số đông, cho cả chư thiên và loài người. Cũng vậy, này Ānanda: Nếu ông nhận thấy một cội rễ tranh chấp tai hại như vậy, dù ở bên trong chính mình hay ở bên ngoài nơi người khác, ông phải nỗ lực để loại bỏ nó. Nếu ông không nhận thấy một cội rễ tranh chấp tai hại nào, ông hãy thực hành sao cho nó không phát sinh trong tương lai. Như vậy, cội rễ tranh chấp tai hại ấy sẽ được đoạn trừ và không tiếp tục phát sinh trong tương lai.
Này Ānanda, đó chính là sáu cội rễ của tranh chấp.”
46.Này Ānanda, có bốn loại tranh tụng (adhikaraṇa). Thế nào là bốn?
- Tranh tụng liên quan đến tranh luận (vivādādhikaraṇaṃ)
- Tranh tụng liên quan đến cáo buộc (anuvādādhikaraṇaṃ)
- Tranh tụng liên quan đến tội (āpattādhikaraṇaṃ)
- Tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ (kiccādhikaraṇaṃ)
Này Ānanda, đây là bốn loại tranh tụng.
Này Ānanda, có bảy phương pháp giải quyết tranh chấp (adhikaraṇasamatha) – để giải quyết, để làm lắng dịu các tranh chấp đã phát sinh:
- Phán quyết với sự hiện diện cần được ban cho (sammukhāvinayo dātabbo)
- Phán quyết ức niệm cần được ban cho (sativinayo dātabbo)
- Phán quyết bất si cần được ban cho (amūḷhavinayo dātabbo)
- Quyết định tùy theo thú nhận (paṭiññāya kāretabbaṃ)
- Quyết định đa số (yebhuyyasikā)
- Quyết định tùy theo giới tội người phạm (tassapāpiyasikā)
- Trải cỏ che lấp (tiṇavatthārako)
47. Này Ānanda, thế nào là phán quyết với sự hiện diện? Ở đây, này Ānanda, khi các Tỳ-kheo tranh cãi: ‘Ðây là Pháp’ hay ‘đây không phải là Pháp’, ‘đây là Luật’ hay ‘đây không phải là Luật’, tất cả các Tỳ-kheo ấy phải tập hợp hòa hợp với nhau. Sau khi tập hợp, pháp quy chế (dhammanetti) phải được thảo luận, phân tích. Sau khi pháp quy chế được thảo luận, phân tích, tranh tụng phải được giải quyết theo cách đạt được sự đồng thuận. Như vậy, này Ānanda, là phán quyết với sự hiện diện; và như vậy, ở đây là sự giải quyết một số tranh tụng, tức là dùng phán quyết với sự hiện diện.
48. Này Ānanda, thế nào là quyết định đa số? Nếu các Tỳ-kheo kia không thể giải quyết tranh tụng ấy tại trú xứ ấy, này Ānanda, các vị Tỳ-kheo kia cần phải đi đến chỗ trú xứ có nhiều Tỳ-kheo hơn. Tại đấy, tất cả các Tỳ-kheo phải hòa đồng tập hợp lại; sau khi tập hợp, pháp quy chế phải được thảo luận, phân tích. Sau khi pháp quy chế được thảo luận, phân tích, tranh tụng phải được giải quyết theo cách đạt được sự đồng thuận. Như vậy, này Ānanda, là quyết định đa số; và như vậy, ở đây là sự giải quyết một số tranh tụng, tức là dùng sự quyết định đa số.
49. Này Ānanda, thế nào là phán quyết ức niệm? Ở đây, này Ānanda, các Tỳ-kheo buộc tội một Tỳ-kheo về một trọng tội như thế này, hoặc Ba-la-di (pārājika), hoặc gần Ba-la-di, nói rằng: ‘Tôn giả có nhớ Tôn giả đã phạm trọng tội như thế này không, hoặc Ba-la-di, hoặc gần Ba-la-di?’ Vị ấy trả lời như sau: ‘Chư Hiền, tôi không nhớ tôi đã phạm trọng tội như vậy, hoặc Ba-la-di, hoặc gần Ba-la-di’. Này Ānanda, phán quyết ức niệm cần phải cho Tỳ-kheo ấy. Như vậy, này Ānanda, là phán quyết ức niệm; và như vậy, ở đây là sự giải quyết một số tranh tụng, tức là nhờ phán quyết ức niệm.
50. Này Ānanda, thế nào là phán quyết bất si? Ở đây, này Ānanda, các Tỳ-kheo buộc tội một Tỳ-kheo về một trọng tội như thế này, hoặc Ba-la-di, hoặc gần Ba-la-di, nói rằng: ‘Tôn giả có nhớ Tôn giả đã phạm trọng tội như thế này không, hoặc Ba-la-di, hoặc gần Ba-la-di?’ Vị ấy trả lời như sau: ‘Chư Hiền, tôi đã bị cuồng si, tâm trí tôi điên đảo; do tôi cuồng si như vậy, nhiều việc đã được tôi làm, tôi nói không xứng Sa-môn hạnh. Vì bị cuồng si, tôi không nhớ đã làm như vậy’. Này Ānanda, phán quyết bất si cần phải cho Tỳ-kheo ấy. Như vậy, này Ānanda, là phán quyết bất si; và như vậy, ở đây là sự giải quyết một số tranh tụng, tức là nhờ phán quyết bất si.
51. Và này Ānanda, thế nào là quyết định tùy theo thú nhận? Ở đây, này Ānanda, bị buộc tội hay không bị buộc tội, Tỷ-kheo nhớ một giới tội, tỏ lộ, trình bày. Tỷ-kheo ấy phải đến một Tỷ-kheo lớn tuổi hơn, đắp y phía một bên vai, đảnh lễ chân vị ấy, ngồi gối hai chân, chấp tay và nói như sau: “Bạch Tôn giả, tôi có phạm giới tội tên như thế này, nay xin sám hối”. Tỷ-kheo kia nói như sau: “Ông có thấy chăng?”- “Tôi có thấy” — “Ông có gìn giữ trong tương lai không?” — “Tôi sẽ gìn giữ”. Như vậy, này Ānanda, là quyết định tùy theo thú nhận, như vậy, ở đây là sự giải quyết một số tránh sự tức là nhờ quyết định tùy theo thú nhận.
52. Này Ānanda, thế nào là quyết định tùy theo giới tội người phạm? Ở đây, này Ānanda, các Tỳ-kheo buộc tội một Tỳ-kheo về một trọng tội như thế này, hoặc Ba-la-di, hoặc gần Ba-la-di, nói rằng: ‘Tôn giả có nhớ Tôn giả đã phạm trọng tội như thế này không, hoặc Ba-la-di, hoặc gần Ba-la-di?’ Vị ấy trả lời như sau: ‘Chư Hiền, tôi không nhớ tôi đã phạm trọng tội như vậy, hoặc Ba-la-di, hoặc gần Ba-la-di’. Tỳ-kheo ấy bị các vị Tỳ-kheo kia dồn ép: ‘Tôn giả hãy biết cho rõ ràng, nếu Tôn giả có nhớ có phạm trọng tội như thế này, hoặc Ba-la-di, hoặc gần Ba-la-di?’ Vị ấy trả lời như sau: ‘Chư Hiền, tôi không có nhớ tôi có phạm trọng tội như thế này, hoặc Ba-la-di, hoặc gần Ba-la-di. Chư Hiền, tôi nhớ tôi có phạm khinh tội như thế này’. Tỳ-kheo ấy bị các Tỳ-kheo kia dồn ép: ‘Tôn giả hãy biết cho rõ ràng, nếu Tôn giả nhớ có phạm trọng tội như thế này, hoặc Ba-la-di hoặc gần Ba-la-di?’ Vị ấy trả lời như sau: ‘Chư Hiền, dầu không ai hỏi tội, tôi sẽ thú nhận có phạm khinh tội như thế này, làm sao tôi có thể, khi có người hỏi tôi, lại không thú nhận có phạm trọng tội như thế này, hoặc Ba-la-di, hoặc gần Ba-la-di?’ Vị kia nói như sau: ‘Này Hiền giả, dầu Ông có phạm khinh tội này, nếu không hỏi, Ông sẽ không thú nhận, làm sao khi đã phạm trọng tội như thế này, hoặc Ba-la-di, hoặc gần Ba-la-di, nếu có hỏi, Ông lại có thể thú nhận? Tôn giả hãy biết rõ ràng, nếu Tôn giả nhớ có phạm trọng tội như thế này không, hoặc Ba-la-di, hoặc gần Ba-la-di?’ Vị ấy trả lời như sau: ‘Chư Hiền, tôi nhớ, tôi có phạm trọng tội như thế này, hoặc Ba-la-di, hoặc gần Ba-la-di. Điều tôi đã nói như vậy, là nói chơi, điều tôi đã nói như vậy là để cười. Tôi không có nhớ tôi đã phạm trọng tội như thế này, hoặc Ba-la-di, hoặc gần Ba-la-di’. Như vậy, này Ānanda, là quyết định tùy theo giới tội người phạm; và như vậy, ở đây là sự giải quyết một số tranh tụng, tức là nhờ quyết định tùy theo giới tội người phạm.
53. Này Ānanda, thế nào là trải cỏ che lấp? Ở đây, này Ānanda, một số Tỳ-kheo sống tranh chấp, tranh cãi, tranh luận với nhau, có nhiều việc đã làm, đã nói không xứng Sa-môn hạnh. Tất cả các Tỳ-kheo ấy phải tập hợp hòa đồng với nhau. Sau khi tập hợp, một Tỳ-kheo thông minh của một phe nhóm Tỳ-kheo, từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp y về phía một bên vai, chắp tay, bạch Tăng chúng, nói rằng:
‘Chư Tôn giả, Tăng chúng hãy nghe tôi. Khi chúng tôi sống tranh chấp, tranh cãi, tranh luận với nhau, nhiều việc đã làm, đã nói không xứng Sa-môn hạnh. Nếu Tăng chúng xem là phải thời, tôi xin tỏ lộ bất cứ giới tội nào của các Tôn giả này và bất cứ giới tội nào của tôi, vì lợi ích cho chư Tôn giả và cũng vì lợi ích cho tự thân, tôi xin tỏ lộ giữa Tăng chúng, như lấy cỏ trải ra, trừ các trọng tội, trừ tội liên hệ đến cư sĩ.’
Rồi một vị Tỳ-kheo thông minh của nhóm Tỳ-kheo khác, từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp y về phía một bên vai, chấp tay bạch Tăng chúng, nói rằng:
‘Chư Tôn giả, Tăng chúng hãy nghe tôi. Khi chúng tôi sống tranh chấp, tranh cãi, tranh luận với nhau, nhiều việc đã làm, đã nói không xứng Sa-môn hạnh. Nếu Tăng chúng xem là phải thời, tôi xin tỏ lộ bất cứ giới tội nào của các Tôn giả này và bất cứ giới tội nào của tôi, vì lợi ích cho chư Tôn giả và cũng vì lợi ích cho tự thân, tôi xin tỏ lộ giữa Tăng chúng, như lấy cỏ trải ra, trừ các trọng tội, trừ tội liên hệ đến cư sĩ.’
Như vậy, này Ānanda, là trải cỏ che lấp; và như vậy, ở đây là sự giải quyết một số tranh tụng, tức là nhờ trải cỏ che lấp.
54. Này Ānanda, có sáu khả niệm pháp này, tác thành khả ái, tác thành tôn kính, đưa đến đoàn tụ, không tranh luận, hòa hợp, đồng nhất. Thế nào là sáu?
Ở đây, này Ānanda, Tỷ-kheo an trú từ thân nghiệp, đối với các vị đồng Phạm hạnh, chỗ đông người và chỗ vắng người. Khả niệm pháp này, tác thành khả ái, tác thành tôn kính đưa đến đoàn tụ, không tranh luận, hòa hợp, đồng nhất.
Và lại nữa, này Ānanda, Tỷ-kheo an trú từ khẩu nghiệp, đối với các vị đồng Phạm hạnh, chỗ đông người và chỗ vắng người. Khả niệm pháp này, tác thành khả ái, tác thành tôn kính đưa đến đoàn tụ, không tranh luận, hòa hợp, đồng nhất.
Và lại nữa, này Ānanda, Tỷ-kheo an trú từ ý nghiệp đối với các vị đồng Phạm hạnh, chỗ đông người và chỗ vắng người. Khả niệm pháp này tác thành khả ái, tác thành tôn kính, đưa đến đoàn tụ, không tranh luận, hòa hợp, đồng nhất.
Và lại nữa, này Ānanda, với mọi sở đắc như pháp, mọi lợi dưỡng đúng pháp cho đến những thọ lãnh trong bình bát, Tỷ-kheo là vị san sẻ các lợi dưỡng như vậy, là vị thọ hưởng chúng cùng với các vị đồng Phạm hạnh có giới đức. Khả niệm pháp này cũng tác thành khả ái, tác thành tôn kính, đưa đến đoàn tụ, không tranh luận, hòa hợp, đồng nhất.
Và lại nữa, này Ānanda, đối với mọi giới luật nào, không sứt mẻ, không tỳ, không vết, không ô uế, giải thoát, được người trí tán thán, không chấp thủ, đưa đến Thiền định, Tỷ-kheo sống thành tựu những giới luật như vậy cùng với các vị đồng Phạm hạnh giữa chỗ đông người và tại chỗ vắng người. Khả niệm pháp này cũng tác thành khả ái, tác thành tôn kính, đưa đến đoàn tụ, không tranh luận, hòa hợp, đồng nhất.
Và lại nữa, này Ānanda, đối với mọi tri kiến thánh thiện, đưa đến xuất ly, dẫn đến sự chơn chánh, đoạn diệt khổ đau cho những ai thực hành theo, Tỷ-kheo sống thành tựu những tri kiến như vậy cùng với các vị đồng Phạm hạnh trước chỗ đông người và tại chỗ vắng người. Khả niệm pháp này cũng tác thành khả ái, tác thành tôn kính đưa đến đoàn tụ, không tranh luận, hòa đồng, đồng nhất.
Này Ānanda, sáu pháp khả niệm này tác thành khả ái, tác thành tôn kính, đưa đến đoàn tụ, không tranh luận, hòa đồng, đồng nhất. Này Ānanda, nếu Ông thọ trì và thực hành sáu pháp khả niệm này, thời này Ānanda, Ông thấy có những cách nói nào, hoặc tế hoặc thô, khiến Ông không có thể kham nhẫn?
— Thưa không, bạch Thế Tôn.
— Do vậy, này Ānanda, hãy thọ trì và thực hành sáu pháp khả niệm này, như vậy sẽ đưa đến cho Ông an lạc và hạnh phúc lâu dài.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn giả Ānanda hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
Chịu trách nhiệm nội dung biên tập: Sư Hạnh Tuệ