Kinh số 10 – Giải Thích Kinh Tứ Niệm Xứ (Phần 2)
(Satipaṭṭhānasuttavaṇṇanā)Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Tứ Niệm Xứ
Xem phần 1 Giải thích Kinh Tứ Niệm Xứ (P1)
Giải thích phần bốn sự nhận biết rõ
- Evaṃ iriyāpathavasena kāyānupassanaṃ vibhajitvā idāni catusampajaññavasena vibhajituṃ puna caparantiādimāha. Tattha abhikkante paṭikkanteti ettha tāva abhikkantaṃ vuccati gamanaṃ. Paṭikkantaṃ nivattanaṃ. Tadubhayampi catūsu iriyāpathesu labbhati. Gamane tāva purato kāyaṃ abhiharanto abhikkamati nāma. Paṭinivattento paṭikkamati nāma. Ṭhānepi ṭhitakova kāyaṃ purato onāmento abhikkamati nāma. Pacchato apanāmento paṭikkamati nāma. Nisajjāyapi nisinnakova āsanassa purimaaṅgābhimukho saṃsaranto abhikkamati nāma. Pacchimaaṅgappadesaṃ pacchā saṃsaranto paṭikkamati nāma. Nipajjāyapi eseva nayo.
Sau khi giải thích sự quan sát thân trên thân với các oai nghi, bây giờ để giải thích bốn sự nhận biết rõ, ngài đã nói rằng: còn có điều khác nữa. Ở đây, khi bước tới bước lui: sự đi tới được gọi là bước tới, sự trở lại được gọi là bước lui v.v. Cả hai điều đó (bước tới và bước lùi) có được trong cả 4 oai nghi. Khi đi, di chuyển thân về phía trước thì được gọi là bước tới, khi lùi lại được gọi là bước lui. Ngay cả khi đang đứng, khi cúi thân về phía trước cũng gọi là bước tới. Khi di chuyển thân về phía sau cũng gọi là bước lui; Ngay cả khi đang ngồi, khi thân trong tư thế ngồi di chuyển tiến về phía trước cũng gọi là bước tới. Khi di chuyển thân về sau từ phần phía sau của cơ thể cũng gọi là bước lui. Ngay cả trong khi nằm cũng áp dụng phương thức này.
Sampajānakārī hotīti sampajaññena sabbakiccakārī, sampajaññameva vā kārī. So hi abhikkantādīsu sampajaññaṃ karoteva, na katthaci sampajaññavirahito hoti. Tattha sātthakasampajaññaṃ sappāyasampajaññaṃ gocarasampajaññaṃ asammohasampajaññanti catubbidhaṃ sampajaññaṃ. Tattha abhikkamanacitte uppanne cittavaseneva agantvā ‘‘kiṃ nu me ettha gatena attho atthi natthī’’ti atthānatthaṃ pariggaṇhitvā atthapariggahaṇaṃ sātthakasampajaññaṃ. Tattha ca atthoti cetiyadassanabodhidassanasaṅghadassanatheradassanaasubhadassanādivasena dhammato vaḍḍhi. Cetiyaṃ vā bodhiṃ vā disvāpi hi buddhārammaṇaṃ saṅghadassanena saṅghārammaṇaṃ pītiṃ uppādetvā tadeva khayavayato sammasanto arahattaṃ pāpuṇāti. There disvā tesaṃ ovāde patiṭṭhāya asubhaṃ disvā tattha paṭhamajjhānaṃ uppādetvā tadeva khayavayato sammasanto arahattaṃ pāpuṇāti. Tasmā etesaṃ dassanaṃ sātthakaṃ. Keci pana ‘‘āmisatopi vaḍḍhi atthoyeva, taṃ nissāya brahmacariyānuggahāya paṭipannattā’’ti vadanti.
Có sự thực hành việc nhận biết rõ: Người thực hành mọi phận sự bằng sự nhận biết rõ, hoặc hành giả biết rõ việc mình đang làm. Vị ấy chỉ cần biết rõ việc mình đang làm mà thôi như bước tới v.v, dù ở bất kỳ oai nghi nào đi chăng nữa (đi, đứng, ngồi hoặc nằm) cũng không từ bỏ việc nhận biết rõ. Ở đấy, việc nhận biết rõ có 4 loại là: Việc nhận biết rõ về lợi ích; việc nhận biết rõ về điều kiện thích hợp; việc nhận biết rõ về hành xứ; việc nhận biết rõ về sự không mê lầm. Ở đây, trong khi tâm suy nghĩ bước tới khởi lên ‘sẽ đi’, vẫn chưa ‘đi’ do mãnh lực của tâm, sau khi cân nhắc đến điều lợi ích và không phải điều ích: ‘việc đi đến chỗ đó có lợi cho ta hay không?’ đã nắm lấy được điều lợi ích [rồi mới quyết định bước tới] thì được gọi là việc nhận biết rõ về lợi ích. Điều lợi ích trong câu ‘điều lợi ích và điều không có lợi (kết quả được và mất) cả 2 điều này: sự phát triển pháp do tác động nhìn thấy Bảo tháp, nhìn thấy cây bồ đề, nhìn thấy vị tỳ khưu, nhìn thấy trưởng lão, nhìn thấy cảnh bất tịnh, v.v., gọi là điều có lợi ích. Bởi vì sau khi nhìn thấy được bảo tháp, cây Bồ-đề thì hỷ sanh khởi có đức Phật làm đối tượng, nhìn thấy tỳ khưu hỷ sanh khởi có Hội Chúng tỳ khưu làm đối tượng, khi quan sát hỷ ấy với tính chất đoạn tận và hoại diệt (có thể) chứng đắc quả vị A-ra-hán. Sau khi nhìn thấy các vị trưởng lão được vững trú vào lời giáo huấn của các vị ấy, thấy được đối tượng bất tịnh (có thể) làm cho sơ thiền sanh khởi bằng đề mục bất tịnh ấy, khi (tiếp tục) quan sát về đề mục bất tịnh với tính chất đoạn tận và hoại diệt có thể chứng đắc quả vị A-ra-hán. Vì thế việc nhìn thấy những điều như thế được gọi là có lợi ích. Tuy nhiên, một vài vị giáo thọ đã nói rằng: sự phát triển cả những vật chất (thế gian) cũng gọi là mang lại lợi ích tương tự, vì dựa vào điều đó thực hành pháp để trợ giúp Phạm hạnh cao thượng.
Tasmiṃ pana gamane sappāyāsappāyaṃ pariggaṇhitvā sappāyapariggahaṇaṃ sappāyasampajaññaṃ. Seyyathidaṃ, cetiyadassanaṃ tāva sātthakaṃ. Sace pana cetiyassa mahāpūjāya dasadvādasayojanantare parisā sannipatanti. Attano vibhavānurūpaṃ itthiyopi purisāpi alaṅkatappaṭiyattā cittakammarūpakāni viya sañcaranti. Tatra cassa iṭṭhe ārammaṇe lobho, aniṭṭhe paṭigho, asamapekkhane moho uppajjati, kāyasaṃsaggāpattiṃ vā āpajjati, jīvitabrahmacariyānaṃ vā antarāyo hoti, evaṃ taṃ ṭhānaṃ asappāyaṃ hoti. Vuttappakāraantarāyābhāve sappāyaṃ. Bodhidassanepi eseva nayo. Saṅghadassanampi sātthaṃ. Sace pana antogāme mahāmaṇḍapaṃ kāretvā sabbarattiṃ dhammassavanaṃ kārentesu manussesu vuttappakāreneva janasannipāto ceva antarāyo ca hoti, evaṃ taṃ ṭhānaṃ asappāyaṃ. Antarāyābhāve sappāyaṃ. Mahāparisaparivārānaṃ therānaṃ dassanepi eseva nayo.
Lại nữa, cân nhắc đến điều thích hợp hoặc không thích hợp trong lúc bước đi, rồi cân nhắc điều thích hợp [rồi mới quyết định bước tới] được gọi là việc nhận biết rõ về điều thích hợp. Điều này như thế nào? Nói đến việc nhìn thấy bảo tháp có lợi ích trước, giả sử như hội chúng hội họp ở nơi (có diện tích) 10 do tuần, 12 do-tuần để thực hiện nghi thức lễ bái lớn đến Bảo điện, cả những người nữ, lẫn người nam đều được trang hoàng với những đồ trang sức phù hợp với tài sản của mỗi cá nhân tựa như một bức tranh họa cùng nhau đi đến nơi ấy. Tham khởi sanh nơi vị tỳ khưu ấy do đối tượng khả ái, sự bất bình sanh khởi nơi đối tượng không khả ái, hoài nghi khởi sanh do không suy xét, hoặc cần phải sám hối do sự đụng chạm thân người nữ, trở thành mối nguy hại đến đời sống và Phạm hạnh. Với lý do đã nói thì trường hợp như vậy được xem là không thích hợp. Do không có trở ngại như đã nói thì nơi ấy được xem là thích hợp. Ngay cả việc nhìn thấy cội đại thọ Bồ-đề cũng có phương cách tương tự. Luôn cả việc nhìn thấy hội chúng tỳ khưu cũng có lợi ích. Nhưng nếu như dân chúng chung tay xây dựng một mái che lớn ở trong làng rủ nhau đến lắng nghe thuyết Pháp suốt cả đêm, có cả việc tụ họp của dân làng và cả mối nguy hiểm có thể xảy ra như cách đã được trình bày, như vậy (với nguyên nhân như đã nói) thì trường hợp đó được xem là nơi không thích hợp. Do tính chất không gây nguy hại (nơi đó) được xem là thích hợp. Luôn cả khi nhìn thấy các bậc trưởng lão, vị có đông đảo đồ chúng cũng có phương cách này.
Asubhadassanampi sātthaṃ. Tadatthadīpanatthañca idaṃ vatthu – eko kira daharabhikkhu sāmaṇeraṃ gahetvā dantakaṭṭhatthāya gato. Sāmaṇero maggā okkamitvā purato gacchanto asubhaṃ disvā paṭhamajjhānaṃ nibbattetvā tadeva pādakaṃ katvā saṅkhāre sammasanto tīṇi phalāni sacchikatvā uparimaggatthāya kammaṭṭhānaṃ pariggahetvā aṭṭhāsi. Daharo taṃ apassanto ‘‘sāmaṇerā’’ti pakkosi. So ‘‘mayā pabbajitadivasato paṭṭhāya bhikkhunā saddhiṃ dve kathā nāma na kathitapubbā. Aññasmimpi divase uparivisesaṃ nibbattessāmī’’ti cintetvā ‘‘kiṃ, bhante’’ti paṭivacanaṃ adāsi. Ehīti ca vutte ekavacaneneva āgantvā ‘‘bhante, iminā tāva maggena gantvā mayā ṭhitokāse muhuttaṃ puratthābhimukho ṭhatvā olokethā’’ti āha. So tathā katvā tena pattavisesameva pāpuṇi. Evaṃ ekaṃ asubhaṃ dvinnaṃ janānaṃ atthāya jāyati. Evaṃ sātthampi panetaṃ purisassa mātugāmāsubhaṃ asappāyaṃ. Mātugāmassa ca purisāsubhaṃ sabhāgameva sappāyanti evaṃ sappāyapariggahaṇaṃ sappāyasampajaññaṃ nāma.
Đến việc nhìn thấy đối tượng bất tịnh cũng hữu ích. Câu chuyện này để mô tả về điều lợi ích ấy (Câu chuyện vị tỳ khưu trẻ): Kể rằng một vị tỳ khưu trẻ dẫn một vị sa-di đi tìm cây đánh răng. Vị sa-di đã đi vào con đường phía trước, sau khi nhìn thấy đối tượng bất tịnh đã làm cho Sơ thiền được sanh khởi, lấy sơ thiền đó làm nền tảng để quan sát các Hành (saṅkhāra), đã tác chứng đạt 3 Thánh Quả, (vị ấy) đã đứng nắm lấy đề mục nghiệp xứ vì nhằm mục đích mong muốn Đạo cao thượng (Đạo A-ra-hán). Vị tỳ khưu trẻ không nhìn thấy vị sa-di liền vội vàng gọi vị sa-di ấy. Vị sa-di ấy nghĩ rằng “kể từ khi ta xuất gia, ta chưa từng để vị tỳ khưu gọi đến 2 lần, ta sẽ để sự chứng đắc cao thượng sanh khởi vào ngày khác”, – nên đã đáp lời: “Có chuyện chi, thưa Ngài?” – Và sa-di ấy khi được vị tỳ kheo trẻ gọi ‘Này sa-di hãy đến đây!’ vị ấy đã đến chỉ với một lời nói đó và nói rằng: ‘Bạch Ngài, xin hãy đi theo con đường này trước, đứng quay mặt nhìn về hướng Đông một lát, tại nơi đó nơi con đã đứng”. Vị tỳ kheo trẻ làm theo và đã đắc được các pháp mà vị sa-di đã chứng đắc. Như vậy, chỉ một đối tượng bất tịnh đã làm phát sinh điều lợi ích đối với cả 2 vị. Thật vậy, đối tượng bất tịnh này mặc dù hữu ích như vậy, tuy nhiên đối tượng bất tịnh là đàn bà thì không thích hợp đối với đàn ông, và đối tượng bất tịnh là đàn ông cũng không thích hợp đối với đàn bà, chỉ những đối tượng bất tịnh đồng đẳng nhau mới được xem là thích hợp, vì thế việc cân nhắc điều thích hợp như vậy được gọi là sappāyasampajañña – việc nhận biết rõ về điều thích hợp.
Evaṃ pariggahitasātthasappāyassa pana aṭṭhatiṃsāya kammaṭṭhānesu attano cittarucitakammaṭṭhānasaṅkhātaṃ gocaraṃ uggahetvā bhikkhācāragocare taṃ gahetvā gamanaṃ gocarasampajaññaṃ nāma. Tassāvibhāvatthaṃ idaṃ catukkaṃ veditabbaṃ. Idhekacco bhikkhu harati na paccāharati , ekacco na harati paccāharati , ekacco neva harati na paccāharati, ekacco harati ca paccāharati ca.
Thêm nữa, sau khi học tập các cảnh giới-gocara được xem là đề mục thiền định [kammaṭṭhāna] vừa ý đối với chính mình trong số ba mươi tám loại đề mục thiền định, rồi nắm lấy một đề mục thích hợp (dựa vào căn tánh của mình), đi đến chỗ hay lui tới để khất thực, hành giả cân nhắc đến điều có lợi ích và không có lợi ích như vậy được gọi là gocarasampajañña – việc nhận biết rõ về các đề mục thiền. Để làm cho sáng tỏ việc nhận biết rõ về các đề mục thiền ấy bậc sáng suốt nên biết 4 điều này: Một vài vị tỳ khưu trong giáo pháp này (1) mang đi nhưng không mang trở lại, (2) một vài vị không mang đi nhưng mang trở lại, (3) một vài vị không mang đi và cũng không mang trở lại, (4) một vài vị vừa mang đi và vừa mang trở lại.
Tattha yo bhikkhu divasaṃ caṅkamena nisajjāya āvaraṇīyehi dhammehi cittaṃ parisodhetvā tathā rattiyā paṭhamaṃ yāmaṃ majjhime yāme seyyaṃ kappetvā pacchimayāmepi nisajjācaṅkamehi vītināmetvā pageva cetiyaṅgaṇabodhiyaṅgaṇavattaṃ katvā bodhirukkhe udakaṃ abhisiñcitvā pānīyaṃ paribhojanīyaṃ paccupaṭṭhapetvā ācariyupajjhāyavattādīni sabbāni khandhakavattāni samādāya vattati. So sarīraparikammaṃ katvā senāsanaṃ pavisitvā dve tayo pallaṅke usumaṃ gāhāpento kammaṭṭhānaṃ anuyuñjitvā bhikkhācāravelāya uṭṭhahitvā kammaṭṭhānasīseneva pattacīvaramādāya senāsanato nikkhamitvā kammaṭṭhānaṃ manasikarontova cetiyaṅgaṇaṃ gantvā sace buddhānussatikammaṭṭhānaṃ hoti, taṃ avissajjetvāva cetiyaṅgaṇaṃ pavisati. Aññaṃ ce kammaṭṭhānaṃ hoti, sopānapādamūle ṭhatvā hatthena gahitabhaṇḍaṃ viya taṃ ṭhapetvā buddhārammaṇaṃ pītiṃ gahetvā cetiyaṅgaṇaṃ āruyha mahantaṃ cetiyaṃ ce, tikkhattuṃ padakkhiṇaṃ katvā catūsu ṭhānesu vanditabbaṃ. Khuddakaṃ cetiyaṃ ce, tatheva padakkhiṇaṃ katvā aṭṭhasu ṭhānesu vanditabbaṃ. Cetiyaṃ vanditvā bodhiyaṅgaṇaṃ pattenāpi buddhassa bhagavato sammukhā viya nipaccakāraṃ dassetvā bodhi vanditabbo. So evaṃ cetiyañca bodhiñca vanditvā paṭisāmitaṭṭhānaṃ gantvā paṭisāmitabhaṇḍakaṃ hatthena gaṇhanto viya nikkhittakammaṭṭhānaṃ gahetvā gāmasamīpe kammaṭṭhānasīseneva cīvaraṃ pārupitvā gāmaṃ piṇḍāya pavisati.
Ở đây, vị Tỳ khưu nào thanh lọc tâm thoát khỏi các pháp chướng ngại tâm (nīvaraṇadhamma) bằng việc đi kinh hành, hoặc ngồi thiền ban ngày, suốt canh đầu của đêm cũng như vậy, canh giữa nghỉ ngơi và canh cuối cùng dành thời gian cho việc ngồi thiền và đi kinh hành, nói gì đến việc quét dọn khu vực bảo tháp, quét dọn xung quanh cây bồ đề, tưới nước cây bồ đề, chuẩn bị nước uống, nước dùng để xài, thọ trì giáo pháp, thực hành pháp trong Phần Khandhaka (Hợp Phần), mọi việc đều có thầy tế độ và thầy giáo thọ v.v. Vị ấy sau khi sửa soạn thân thể, đi đến chỗ ngồi và ngồi xổm 2-3 lần đủ để ấm rồi thực hành đề mục thiền định (kammaṭṭhāna), (vị ấy) đã đứng dậy vào thời điểm đi khất thực, đã cầm lấy bình bát và y phục với việc xác định chính nghiệp xứ làm nền tảng rồi rời khỏi chỗ ngồi, trong khi tác ý đến chính đề mục thiền định ấy, đã đi đến khuôn viên Bảo điện, nếu như đang phát triển đề mục tùy niệm Phật, thì tiếp tục phát triển đề mục tùy niệm Phật ấy, chớ không từ bỏ đề mục đó để đi vào khuôn viên Bảo điện. Nếu như đang phát triển đề mục thiền khác khi ấy cần ngừng lại đề mục thiền đó lại [để suy xét], giống như đặt xuống những đồ vật đang cầm ở chân cầu thang, nắm lấy hỷ có đức Phật làm đối tượng bước vào khuôn viên Bảo điện, nếu đó là Đại bảo điện thì nên đi nhiễu xung quanh Bảo điện ấy 3 vòng, và nên đảnh lễ ở 4 hướng nếu bảo điện nhỏ, và cũng có thể đi nhiễu xung quanh bảo tháp như vậy, rồi đảnh lễ ở 8 hướng. Sau khi đảnh lễ bảo tháp xong thì đi đến cội Bồ-đề, cần đảnh lễ Bồ-đề thể hiện thể hiện sự tôn kính, như thể đang đối diện với đức Thế Tôn. Vị ấy sau khi đảnh lễ bảo điện và cội Bồ-đề như vậy, rồi có thể nắm lấy nghiệp xứ ở nơi mà mình đã đặt xuống khi nãy, giống như một người đi đến chỗ cất giữ đồ để lấy những đồ đã được cất giữ như thế ấy, khi gần đến làng trùm lên (tấm y hai lớp) có nghiệp xứ làm nền tảng rồi đi vào làng để khất thực.
Atha naṃ manussā disvā ‘‘ayyo no āgato’’ti paccuggantvā pattaṃ gahetvā āsanasālāyaṃ vā gehe vā nisīdāpetvā yāguṃ datvā yāva bhattaṃ na niṭṭhāti, tāva pāde dhovitvā telena makkhetvā purato nisīditvā pañhaṃ vā pucchanti, dhammaṃ vā sotukāmā honti. Sacepi na kathāpenti, janasaṅgahatthaṃ dhammakathā nāma kātabbāyevāti aṭṭhakathācariyā vadanti. Dhammakathā hi kammaṭṭhānavinimuttā nāma natthi . Tasmā kammaṭṭhānasīseneva dhammaṃ kathetvā kammaṭṭhānasīseneva āhāraṃ paribhuñjitvā anumodanaṃ katvā nivattiyamānehipi manussehi anugatova gāmato nikkhamitvā tattheva nivattetvā maggaṃ paṭipajjati. Atha naṃ puretaraṃ nikkhamitvā bahigāme katabhattakiccā sāmaṇeradaharabhikkhū disvā paccuggantvā pattacīvaramassa gaṇhanti.
Khi ấy, mọi người nhìn thấy vị tỳ khưu ấy cũng đi ra đón tiếp với sự hoan hỷ rằng: “Thầy của chúng ta đã đến”, đã tiếp nhận bình bát, đã thỉnh mời ngài ngồi trên chỗ nhà ăn, hoặc trong nhà, đã dâng lên món cháo, trong khoảng thời gian bữa ăn vẫn chưa kết thúc, đã rửa chân (và) thoa dầu cho đến khi kết thúc bữa ăn, đã ngồi ở phía trước mặt hỏi câu hỏi, hoặc mong muốn lắng nghe thuyết Pháp. Các Chú-giải sư nói rằng: Nếu như họ không thỉnh mời thuyết Pháp, cũng nên tiến hành thuyết giảng Pháp nhằm mục đích tiếp độ dân làng. Thật vậy, các Pháp thoại không nằm ngoài các đề mục thiền định. Cho nên vị tỳ khưu chỉ thuyết giảng Pháp bằng cách xác định lấy đề mục thiền định làm nền tảng, thọ dụng vật thực bằng cách xác định lấy mục thiền định làm nền tảng, thậm chí khi thực hiện ban lời tuỳ hỷ (đến dân làng) để trở về (trú xứ), mọi người đi theo sau tiễn chân ngài, sau khi rời khỏi làng, đã bảo mọi người quay trở về ngay tại chỗ ấy, ngài đã đi theo con đường (của mình). Khi các vị sa-di và các vị tỳ khưu trẻ tuổi đã rời khỏi trước, khi hoàn tất việc thọ dụng vật thực ở ngoài làng, nhìn thấy vị tỳ khưu ấy liền tiếp đón, nhận lấy bình bát và y phục của ngài.
Porāṇā bhikkhū kira ‘‘na amhākaṃ upajjhāyo ācariyo’’ti mukhaṃ ulloketvā vattaṃ karonti. Sampattaparicchedeneva karonti. Te taṃ pucchanti ‘‘bhante, ete manussā tumhākaṃ kiṃ honti mātupakkhato sambandhā pitipakkhato’’ti. Kiṃ disvā pucchathāti. Tumhesu etesaṃ pemaṃ bahumānanti. Āvuso, yaṃ mātāpitūhipi dukkaraṃ, taṃ ete amhākaṃ karonti, pattacīvarampi no etesaṃ santakameva, etesaṃ ānubhāvena neva bhaye bhayaṃ, na chātake chātakaṃ jānāma, edisā nāma amhākaṃ upakārino natthīti tesaṃ guṇe kathento gacchati, ayaṃ vuccati harati na paccāharatīti.
Được biết rằng – Các vị tỳ khưu già đã không quan sát khuôn mặt (vị ấy) trước ‘đây là thầy tế độ của ta, đây là thầy dạy học của ta’, mới thực hành phận sự (đối với Tỳ khưu khách), nhưng chỉ làm theo sự phân công mà thôi. – Các vị tỳ khưu và sa-di trẻ hỏi rằng: “Bạch Ngài, những người dân làng bọn họ có mối quan hệ thế nào với Ngài? Phải chăng liên quan đến họ hàng bên nội hay họ hàng bên ngoại?” – Các vị nhìn thấy điều gì mà lại hỏi như vậy? Vị tỳ khưu ấy đáp rằng: Các thầy thấy điều gì sao lại hỏi vậy? – Các vị tỳ khưu và sa-di trẻ đáp rằng: (bởi vì) tình thương yêu và lòng tôn kính của họ dành cho Ngài. – Vị tỳ khưu ấy đã nói lời ca ngợi những người dân làng ấy rằng: Này chư hiền, những phận sự nào ngay cả thân phụ, thân mẫu của chúng ta khó lòng thực hiện thì những phận sự ấy họ đã làm cho chúng ta, ngay cả bình bát và y phục của chúng ta đang sử dụng cũng do họ cúng dường. Cũng chính nhờ sự hộ độ của họ mà chúng ta không sợ hãi khi gặp hiểm nguy, chúng ta cũng không lo đói khát trong khi đói khát, những người có sự hộ độ cho chúng ta như thế này (sẽ) không còn nữa. Đây được gọi là: “Mang đi nhưng không mang trở lại (harati na paccāharati)”.
Yassa pana pageva vuttappakāraṃ vattapaṭipattiṃ karontassa kammajatejo pajjalati, anupādinnakaṃ muñcitvā upādinnakaṃ gaṇhāti, sarīrato sedā muccanti, kammaṭṭhānavīthiṃ nārohati, so pageva pattacīvaramādāya vegasāva cetiyaṃ vanditvā gorūpānaṃ nikkhamanavelāyameva gāmaṃ yāgubhikkhāya pavisitvā yāguṃ labhitvā āsanasālaṃ gantvā pivati. Athassa dvattikkhattuṃ ajjhoharaṇamatteneva kammajatejo upādinnakaṃ muñcitvā anupādinnakaṃ gaṇhāti. Ghaṭasatena nhāto viya tejodhātupariḷāhanibbāpanaṃ patvā kammaṭṭhānasīsena yāguṃ paribhuñjitvā pattañca mukhañca dhovitvā antarābhatte kammaṭṭhānaṃ manasikatvā avasesaṭṭhāne piṇḍāya caritvā kammaṭṭhānasīsena āhāraṃ paribhuñjitvā tato paṭṭhāya poṅkhānupoṅkhaṃ upaṭṭhahamānaṃ kammaṭṭhānaṃ gahetvāva āgacchati, ayaṃ vuccati na harati paccāharatīti. Edisā ca bhikkhū yāguṃ pivitvā vipassanaṃ ārabhitvā buddhasāsane arahattaṃ pattā nāma gaṇanapathaṃ vītivattā, sīhaḷadīpeyeva tesu tesu gāmesu āsanasālāyaṃ na taṃ āsanaṃ atthi, yattha yāguṃ pivitvā arahattappattabhikkhū natthīti.
Vị tỳ khưu nào đang hành phận sự pháp hành theo cách thức đã được nói trước hết, hỏa giới tiêu hóa thức ăn, thiêu đốt toàn bộ vật thực cũ, cũng thiêu đốt dạ dày, mồ hôi tuôn ra ướt đẫm thân, đề mục thiền cũng không thể nhập vào lộ trình (tâm) được, vị tỳ khưu đó mang bình bát, y phục trước rồi đảnh lễ Bảo tháp một cách vội vã, sau đó đã đi vào làng để xin cháo, những con bò đi ra khỏi chuồng từ lúc trời vẫn tờ mờ sáng, sau khi nhận được cháo đã đi đến nhà ăn để uống nước cháo, khi vừa mới nuốt khoảng 2-3 ngụm nước cháo thì hỏa giới sanh lên từ nghiệp không thiêu đốt bao tử, quay trở lại thiêu thiêu đốt vật thực mới. Vị tỳ khưu ấy đã đạt đến sự dập tắt cái nóng bức của hỏa giới như thể được tắm với hàng trăm chậu nước, thọ dụng cháo bằng việc xác định đề mục thiền làm nền tảng, sau khi rửa bình bát và súc miệng, luôn có tác ý đến đề mục thiền vào khoảng thời gian không thọ dụng vật thực, đã đi khất thực ở những nơi chưa đi, đã thọ dụng vật thực với việc xác định đề mục thiền làm nền tảng, kể từ đó trở đi [vị ấy] đến nắm lấy đề mục thiền mà bản thân nuôi dưỡng được tiếp nối liên tục. Đây gọi là không mang đi nhưng mang trở lại (na harati paccāharati). Và chư tỳ khưu sau khi uống nước cháo, đã bắt đầu thực hành minh sát chứng đạt phẩm vị A-ra-hán trong Phật Giáo như thế là vô số, không đếm xuể. Ở trên đảo Sīhaḷa, những nhà ăn xuôi theo các thôn làng ấy, không có đủ chỗ ngồi dành cho vị tỳ khưu sau khi uống nước cháo đã đạt được phẩm vị A-ra-hán.
Yo pana pamādavihārī hoti nikkhittadhuro, sabbavattāni bhinditvā pañcavidhacetokhilavinibandhacitto viharanto ‘‘kammaṭṭhānaṃ nāma atthī’’tipi saññaṃ akatvā gāmaṃ piṇḍāya pavisitvā ananulomikena gihisaṃsaggena saṃsaṭṭho caritvā ca bhuñjitvā ca tuccho nikkhamati, ayaṃ vuccati neva harati na paccāharatīti.
Lại nữa, vị tỳ khưu nào sống sự phóng dật, trong lúc sống đã từ bỏ các trách nhiệm, đã phá vỡ mọi phận sự có thể thực hiện, có tâm buộc chặt với 5 tâm hoang vu [cetokhīla], không thực hiện sự suy tưởng mặc dầu ‘Nghiệp xứ gọi là có tồn tại’, sau khi đi khất thực ở làng, đã đi gắn bó bằng sự kết giao với người cư sĩ, ăn chung chạ với người cư sĩ không đúng đắn, là người rỗng không rời khỏi nhà gia chủ, đây gọi là không mang đi và cũng không mang trở lại (neva harati na paccāharati).
Yo panāyaṃ harati ca paccāharati cāti vutto, so gatapaccāgatikavattavasena veditabbo. Attakāmā hi kulaputtā sāsane pabbajitvā dasapi vīsampi tiṃsampi cattālīsampi paññāsampi satampi ekato vasantā katikavattaṃ katvā viharanti, āvuso, tumhe na iṇaṭṭhā na bhayaṭṭā na jīvikāpakatā pabbajitā, dukkhā muccitukāmā panettha pabbajitā, tasmā gamane uppannakilesaṃ gamaneyeva niggaṇhatha, ṭhāne, nisajjāyaṃ, sayane uppannakilesaṃ sayaneyeva niggaṇhathāti. Te evaṃ katikavattaṃ katvā bhikkhācāraṃ gacchantā aḍḍhausabhausabhaaḍḍhagāvutagāvutantaresu pāsāṇā honti. Tāya saññāya kammaṭṭhānaṃ manasikarontāva gacchanti. Sace kassaci gamane kileso uppajjati, tattheva naṃ niggaṇhāti. Tathā asakkonto tiṭṭhati. Athassa pacchato āgacchantopi tiṭṭhati. So ‘‘ayaṃ bhikkhu tuyhaṃ uppannavitakkaṃ jānāti, ananucchavikaṃ te eta’’nti attānaṃ paṭicodetvā vipassanaṃ vaḍḍhetvā tattheva ariyabhūmiṃ okkamati. Tathā asakkonto nisīdati. Athassa pacchato āgacchantopi nisīdatīti soyeva nayo. Ariyabhūmiṃ okkamituṃ asakkontopi taṃ kilesaṃ vikkhambhetvā kammaṭṭhānaṃ manasikarontova gacchati. Na kammaṭṭhānavippayuttena cittena pādaṃ uddharati. Uddharati ce, paṭinivattetvā purimapadesaṃ yeva eti āḷindakavāsī mahāphussadevatthero viya.
Hơn nữa, vị tỳ khưu nào đó nói rằng – “Mang đi và mang trở lại,” vị khưu ấy nên biết với mãnh lực vị thực hành gatapaccāgatikavatta [lượt đi cũng thực hành đề mục thiền, lượt về cũng thực hành đề mục thiền]. Thật vậy, các thiện nam tử vì mong muốn điều lợi ích đã xuất gia trong Giáo Pháp sống chung với nhau 10 vị, 20 vị, 50 vị hay 100 vị thực hành điều thỏa thuận như sau: ‘Này các hiền giả, chúng ta không phải xuất gia để trốn nợ, không phải để tránh nỗi sợ hãi, không phải xuất gia để nuôi mạng, mà mong muốn thoát khỏi mọi khổ đau, do đó đã xuất gia trong Giáo Pháp này. Vì vậy, ở sát-na đi các Ngài hãy lặp tức chế ngự phiền não khởi lên trong khi đi, ở sát-na đứng hãy lặp tức chế ngự phiền não khởi lên trong khi đứng; ở sát-na ngồi hãy lặp tức chế ngự phiền não khởi lên trong khi ngồi, và ở sát-na nằm hãy lặp tức chế ngự phiền não khởi lên trong khi nằm.” Sau khi thực hành điều thỏa thuận (katikavatta) như vậy vị ấy đi khất thực (trong lúc đi) tác ý đề mục thiền định (kammaṭṭhāna) theo sự suy tưởng đó. Sau khi thực hiện điều thỏa thuận như vậy, các vị ấy đi khất thực (trong lúc đi) có một tảng đá ở giữa đường, (kích thước) một nửa usabha, một usabha, một nửa gāvuta, và một gāvuta, đi tác ý đề mục thiền với tưởng đó. Nếu phiền não khởi lên cho bất cứ vị nào trong lúc đi, vị ấy cần chế ngự phiền não ngay tại chỗ ấy, cho đến khi không thể đè nén được cần phải đứng lại. Khi ấy nếu có vị tỳ khưu khác đi theo sau, thì vị ấy cũng phải đứng lại. Vị ấy nên tự nhắc nhở bản thân rằng: “Vị tỳ khưu này biết được suy tầm đã khởi lên nơi ta, điều ấy thật không thích hợp cho ta”, đã tiền hành minh sát tiến vào địa phận của bậc Thánh ngay tại chỗ ấy; nếu không thể chế ngự được bằng cách đó, hãy ngồi. Lúc đó, luôn cả vị tỳ khưu đi theo sau vị ấy, thì (vị theo sau) cũng phải ngồi, có phương thức tương tự. Dẫu không thể tiến vào địa phận của bậc Thánh, cũng chế ngự được phiền não, bước đi luôn tác ý đến đề mục thiền. Vị tỳ khưu ấy không bước chân với tâm không phối hợp với đề mục thiền, nếu nhấc chân (khi tâm không tương ưng với đề mục thiền định) thì cần phải quay lại chỗ cũ, giống như trưởng lão Mahāphussadeva, cư ngụ ở tịnh xá Āḷindaka.
So kira ekūnavīsativassāni gatapaccāgatikavattaṃ pūrento eva vihāsi. Manussāpi sudaṃ antarāmagge kasantā ca vapantā ca maddantā ca kammāni ca karontā theraṃ tathāgacchantaṃ disvā ‘‘ayaṃ thero punappunaṃ nivattitvā gacchati. Kiṃ nu kho maggamūḷho udāhu kiñci pamuṭṭho’’ti samullapanti. So taṃ anādiyitvā kammaṭṭhānayuttacitteneva samaṇadhammaṃ karonto vīsativassabbhantare arahattaṃ pāpuṇi. Arahattappattadivaseyevassa caṅkamanakoṭiyaṃ adhivatthā devatā aṅgulīhi dīpaṃ ujjāletvā aṭṭhāsi. Cattāropi mahārājāno sakko ca devānamindo brahmā ca sahampati upaṭṭhānaṃ agamaṃsu. Tañca obhāsaṃ disvā vanavāsīmahātissatthero taṃ dutiyadivase pucchi ‘‘rattibhāge āyasmato santike obhāso ahosi, kiṃ so obhāso’’ti . Thero vikkhepaṃ karonto ‘‘obhāso nāma dīpobhāsopi hoti maṇiobhāsopī’’ti evamādimāha. Tato paṭicchādetha tumheti nibaddho āmāti paṭijānitvā ārocesi kālavallimaṇḍapavāsī mahānāgatthero viya ca.
Kể rằng – vị ấy (Trưởng lão Mahāphussadeva) sống làm tròn phận sự gatapaccāgatika suốt 19 hạ-lạp, ngay cả những người nông phu đang cày bừa, gieo mạ, đập lúa và làm việc, khi nhìn thấy Trưởng lão đi như thế, họ bàn tán với nhau rằng: “Vị trưởng lão này cứ đi đi lại lại, phải chăng vị ấy bị lạc đường, (hay) quên cái gì đó?” Ngài không để tâm đến những lời nói đó, thực hành Sa-môn pháp với tâm phối hợp với đề mục thiền chứng đắc quả vị A-ra-hán vào hạ-lạp thứ 20. Vào ngày mà ngài chứng đắc phẩm vị A-la-hán, chư Thiên hộ trì ở cuối đường kinh hành, (vị Thiên ấy) đã đứng làm cho chiếu sáng bằng ngọn đèn từ những ngón tay, đến Tứ đại Thiên vương, Vua trời Sakka và Phạm thiên Sahampati cũng cùng nhau đến phụng sự cho ngài. Vào ngày thứ hai sau khi trưởng lão Vanavāsī Mahātissa nhìn thấy ánh sáng đó đã hỏi ngài Mahāphussadeva rằng: “Ánh sáng xuất hiện gần chỗ của ngài vào ban đêm, đó là ánh sáng gì?”. Trưởng lão muốn tránh né đã trả lời rằng: “Ánh sáng đó có thể là ánh sáng (phát ra) từ ngọn đèn, hoặc ánh sáng (phát ra) từ ngọc māṇī”. Sau đó, mong trưởng lão Vanavāsīmahātissa “hãy giữ bí mật,” biết được vị ấy “đã hứa” rồi ngài thuật lại [những sự việc đã xảy ra], giống như trưởng lão Mahānāga, cư trú ở xứ Kālavallimaṇḍapa.
Sopi kira gatapaccāgatikavattaṃ pūrento paṭhamaṃ tāva bhagavato mahāpadhānaṃ pūjessāmīti satta vassāni ṭhānacaṅkamanameva adhiṭṭhāsi. Puna soḷasa vassāni gatapaccāgatikavattaṃ pūretvā arahattaṃ pāpuṇi. So kammaṭṭhānayutteneva cittena pādaṃ uddharanto viyuttena uddhate paṭinivattanto gāmassa samīpaṃ gantvā ‘‘gāvī nu pabbajito nū’’ti āsaṅkanīyapadese ṭhatvā cīvaraṃ pārupitvā kacchakantarato udakena pattaṃ dhovitvā udakagaṇḍūsaṃ karoti. Kiṃ kāraṇā? Mā me bhikkhaṃ dātuṃ vandituṃ vā āgate manusse dīghāyukā hothāti vacanamattenāpi kammaṭṭhānavikkhepo ahosīti. Ajja, bhante, katimīti divasaṃ vā bhikkhugaṇanaṃ vā pañhe vā pucchito pana udakaṃ gilitvā ārocesi. Sace divasādipucchakā na honti, nikkhamanavelāya gāmadvāre niṭṭhubhitvāva yāti kalambatitthavihāre vassūpagatapaññāsabhikkhū viya.
Kể rằng – trưởng lão Mahānāga làm tròn phận sự gatapaccāgatika, ban đầu vị ấy phát nguyện đi kinh hành trong vòng 7 ha-lạp với ý định rằng: “Tôi sẽ lễ bái sự tinh cần vĩ đại của Thế Tôn.” Vị trưởng lão ấy đã làm tròn phận sự gatapaccāgatika thêm 16 hạ-lạp mới đạt đến phẩm vị A-ra-hán. Vị ấy chỉ bước chân với tâm gắn liền với đề mục thiền, khi bước chân với tâm không liên kết với đề mục thiền (vị ấy) quay trở lại ở sát-na nhấc chân lên. Khi đi đến gần làng, đã đứng ở khu đất nơi gây ra nghi ngờ rằng: “Con bò cái hay thầy tỳ khưu đây”, đã choàng lên tấm y, đã rửa bình bát từ vũng nước sạch ở giữa cây sung, rồi ngậm đầy nước trong miệng. Để làm gì? Vì mong muốn rằng: “Trong khi người đến cúng dường đồ ăn khất thực hay đến đảnh lễ ta, đề mục thiền chớ bị tán loạn, luôn cả khi nói rằng: “nguyện cho được trường thọ.” Nhưng (nếu) bị hỏi đến ngày tháng: “Thưa Ngài hôm nay là thứ mấy?” hoặc hỏi về số lượng tỳ khưu hoặc đặt câu hỏi thì ngài nuốt ngụm nước và trả lời. Nếu như không có ai hỏi đến ngày tháng v.v. vị ấy sẽ nhổ nước (từ miệng) ở cổng làng rồi bỏ đi vào lúc bò rời khỏi chuồng.
Sopi kira gatapaccāgatikavattaṃ pūrento paṭhamaṃ tāva bhagavato mahāpadhānaṃ pūjessāmīti satta vassāni ṭhānacaṅkamanameva adhiṭṭhāsi. Puna soḷasa vassāni gatapaccāgatikavattaṃ pūretvā arahattaṃ pāpuṇi. So kammaṭṭhānayutteneva cittena pādaṃ uddharanto viyuttena uddhate paṭinivattanto gāmassa samīpaṃ gantvā ‘‘gāvī nu pabbajito nū’’ti āsaṅkanīyapadese ṭhatvā cīvaraṃ pārupitvā kacchakantarato udakena pattaṃ dhovitvā udakagaṇḍūsaṃ karoti. Kiṃ kāraṇā? Mā me bhikkhaṃ dātuṃ vandituṃ vā āgate manusse dīghāyukā hothāti vacanamattenāpi kammaṭṭhānavikkhepo ahosīti. Ajja, bhante, katimīti divasaṃ vā bhikkhugaṇanaṃ vā pañhe vā pucchito pana udakaṃ gilitvā ārocesi. Sace divasādipucchakā na honti, nikkhamanavelāya gāmadvāre niṭṭhubhitvāva yāti kalambatitthavihāre vassūpagatapaññāsabhikkhū viya.
Và giống như nhóm năm mươi vị tỳ khưu đã vào an cư mùa mưa tại tịnh xá Kalambatittha. Kể rằng các đã đồng thuận đã cùng nhau thực hành để làm tròn bổn phận gatapaccāgatika vào ngày trăng tròn tháng Asāḷha [ngày lễ Rằm tháng Sáu] rằng: “Tất cả chúng ta vẫn chưa chứng A-la-hán (nên) sẽ không nói chuyện với nhau.” Và khi những vị ấy đi vào làng để khất thực (mỗi vị) đều ngậm ngụm nước rồi đi vào, khi bị hỏi về ngày tháng, v.v. cũng hành xử theo chính phương cách đã nói ở trên. Mọi người nhìn thấy dấu vết nhổ nước ở tại nơi đó và nhận ra rằng: “Hôm nay chỉ có một vị tỳ khưu, hôm nay có hai vị”. Và họ suy nghĩ như vầy “Những vị tỳ khưu này chỉ không nói chuyện với chúng ta? Hay là chính các ngài cũng không nói chuyện với nhau luôn? Nếu như chính các Ngài không nói chuyện với nhau, chắc chắn sẽ xảy ra cuộc tranh cãi? Chúng ta sẽ khiến cho các vị ấy sám hối lẫn nhau”. Thế là mọi người cùng nhau đi đến tịnh xá, không nhìn thấy 50 vị tỳ khưu ở cùng một chỗ luôn cả 2 vi. Sau đó, trong số những người đó có một người đàn ông có mắt sắc bén, vị ấy đã nói rằng: – “Này các ông, những người cãi vã sẽ không có cơ hội [hòa hợp] như thế này, trong khuôn viên Bảo điện và xung quanh khuôn viên cội Bồ-đề được quét dọn sạch sẽ, có các cây chổi được đặt ngay ngắn; nước uống và nước sử dụng cũng được chuẩn bị đầy đủ”, thế là họ đã trở về nhà tư nơi ấy; thậm chí những vị tỳ khưu ấy cũng đã chứng đắc phẩm vị A-ra-hán trong ba tháng an cư mùa mưa, vào ngày đại lễ Tự Tứ cùng cử hành thỉnh mời với sự thỉnh cầu thanh tịnh.
Evaṃ kālavallimaṇḍapavāsī mahānāgatthero viya kalambatitthavihāre vassūpagatabhikkhū viya ca kammaṭṭhānayutteneva cittena pādaṃ uddharanto gāmasamīpaṃ patvā udakagaṇḍūsaṃ katvā vīthiyo sallakkhetvā yattha surāsoṇḍadhuttādayo kalahakārakā caṇḍahatthiassādayo vā natthi, taṃ vīthiṃ paṭipajjati. Tattha ca piṇḍāya caramāno na turitaturito viya javena gacchati. Na hi javena piṇḍapātiyadhutaṅgaṃ nāma kiñci atthi. Visamabhūmibhāgappattaṃ pana udakasakaṭaṃ viya niccalo hutvā gacchati. Anugharaṃ paviṭṭho ca taṃ dātukāmaṃ vā adātukāmaṃ vā sallakkhetuṃ tadanurūpaṃ kālaṃ āgamento bhikkhaṃ gahetvā antogāme vā bahigāme vā vihārameva vā āgantvā yathāphāsuke patirūpe okāse nisīditvā kammaṭṭhānaṃ manasikaronto āhāre paṭikūlasaññaṃ upaṭṭhāpetvā akkhabbhañjanavaṇalepanaputtamaṃsūpamāvasena naṃ paccavekkhanto aṭṭhaṅgasamannāgataṃ āhāraṃ āhāreti, neva davāya na madāya na maṇḍanāya na vibhūsanāya. Bhuttāvī ca udakakiccaṃ katvā muhuttaṃ bhattakilamathaṃ paṭippassambhetvā yathā purebhattaṃ, evaṃ pacchābhattaṃ. Yathā purimayāmaṃ, evaṃ pacchimayāmañca kammaṭṭhānameva manasi karoti, ayaṃ vuccati harati ca paccāharati cāti.
Vị tỳ khưu thực hành như trưởng lão Mahānāga, vị cư ngụ ở xứ Kālavallimaṇḍapa; và tương tự như chư tỳ khưu an cư mùa mưa tại tịnh xá Kalambatittha như đã được diễn giải, bước chân với tâm luôn phối hợp với đề mục thiền, đi đến gần làng rồi ngậm ngụm nước, suy xét một số một số tuyến đường, tuyến đường nào không có nhóm người cãi nhau, không có những kẻ say rượu và kẻ chơi cờ bạc, v.v. hay không có voi dữ, không có ngựa hung, v.v. thì vị ấy đi tuyến đường đó, và khi bước đi vào thôn làng để khất thực cũng sẽ không bước đi nhanh giống như một người đang có việc gấp. Bởi vì không có điều gì gọi là hạnh hành pháp đi khất thực với sự vội vã. Mà phải bước từ từ giống như xe chở nước đi qua những chỗ đất gồ ghề cần phải chạy từ từ như thế, và (vị tỳ khưu) đi đến từng nhà một theo tuần tự (đứng trước nhà) quan sát xem họ có muốn đặt bát cúng dường hay không muốn cúng dường, chờ đợi ở một khoảng thời gian thích hợp, sau khi thọ nhận vật thực bố thí ở trong làng hoặc ở ngoài làng, liền trở về tịnh xá, ngồi ở nơi thích hợp và thoải mái, trong khi tác ý đề mục thiền bắt đầu quán tưởng sự nhờm gớm trong vật thực – trong khi quan sát lại về phương tiện so sánh với việc nhỏ dầu vào trục xe, việc bôi thuốc ở vết thương, và thịt của đứa con trai, việc thọ dụng vật thực phối hợp với 8 yếu tố – Không vì vui đùa, không vì đam mê, không vì việc trang sức, không vì việc điểm tô, mà chỉ để duy trì thân này, để nuôi sống, để ngăn sự hư hoại, để nâng đỡ Phạm hạnh, và sau khi thọ thực xong uống nước, súc miệng, nghỉ ngơi một chút làm cho dịu bớt khó chịu bởi vật thực, rồi lại tác ý đến đề mục thiền ngay lập tức, trước bữa ăn như thế nào thì sau bữa ăn cũng như thế ấy; ở canh đầu thế nào thì canh cuối cũng như thế, đây gọi là mang đi và mang lại (harati ca paccāharati ca).
Idaṃ pana haraṇapaccāharaṇasaṅkhātaṃ gatapaccāgatikavattaṃ pūrento yadi upanissayasampanno hoti. Paṭhamavaye eva arahattaṃ pāpuṇāti. No ce paṭhamavaye pāpuṇāti, atha majjhimavaye. No ce majjhimavaye pāpuṇāti, atha pacchimavaye. No ce pacchimavaye pāpuṇāti, atha maraṇasamaye. No ce maraṇasamaye pāpuṇāti, atha devaputto hutvā. No ce devaputto hutvā pāpuṇāti, anuppanne buddhe nibbatto paccekabodhiṃ sacchikaroti. No ce paccekabodhiṃ sacchikaroti, atha buddhānaṃ sammukhībhāve khippābhiñño vā hoti seyyathāpi thero bāhiyo dārucīriyo, mahāpañño vā seyyathāpi thero sāriputto, mahiddhiko vā seyyathāpi thero mahāmoggallāno, dhutaṅgadharo vā seyyathāpi thero mahākassapo, dibbacakkhuko vā seyyathāpi thero anuruddho, vinayadharo vā seyyathāpi thero upāli, dhammakathiko vā seyyathāpi thero puṇṇo mantāṇiputto, āraññiko vā seyyathāpi thero revato, bahussuto vā seyyathāpi thero ānando, sikkhākāmo vā seyyathāpi thero rāhulo buddhaputtoti. Iti imasmiṃ catukke yvāyaṃ harati ca paccāharati ca, tassa gocarasampajaññaṃ sikhāpattaṃ hoti.
Lại nữa, ở đây vị tỳ khưu trong khi làm tròn bổn phận gatapaccāgatika được gọi là mang đề mục thiền đi và mang đề mục thiền lại, nếu như vị ấy tròn đủ do có nhân duyên (upanissayasampanno), thì (vì ấy) đạt được phẩm vị A-ra-hán ngay ở giai đoạn đầu của tuổi thọ. Nếu không đạt được ở giai đoạn đầu của tuổi thọ thì (sẽ) đạt được ở giai đoạn giữa của tuổi thọ; nếu như không đạt được ở giai đoạn giữa của tuổi thọ thì (sẽ) đạt được ở giai đoạn cuối của tuổi thọ; nếu không đạt được ở giai đoạn cuối của tuổi thọ thì (sẽ) đạt được trong lúc cận tử; nếu không đạt được trong lúc cận tử thì (sẽ) hóa sanh làm Thiên tử rồi đắc chứng. Nếu làm Thiên tử mà vẫn chưa chứng đắc thì vào thời kỳ đức Phật vẫn chưa xuất hiện, (sẽ) đạt được quả vị Phật-độc-giác. Nếu như chưa đạt được quả vị Phật-độc-giác thì vào thời vị lai sẽ là vị đạt được nhanh chóng (khippābhiñño) được diện kiến chư Phật như là trưởng lão Bāhiya Dārucīriya hoặc (sẽ là vị) có đại trí tuệ như trưởng lão Sāriputta. Hoặc (sẽ là vị) có nhiều thần thông như trưởng lão Mahāmoggallāna, hoặc (sẽ là vị) gìn giữ hạnh đầu đà như trưởng Lão Mahākassapa, hoặc (sẽ là vị) có Thiên nhãn như trưởng lão Anuruddha, hoặc bậc lão luyện thông thạo Luật như trưởng lão Upāli, hay một vị pháp sư như trưởng lão Puṇṇa Mantāniputta, hay vị trú ngụ trong rừng như trưởng lão Revata, hoặc bậc đa văn như trưởng lão Ānanda, hoặc (sẽ là vị) khao khát học tập như con trai của đức Phật, tức vị Trưởng lão Rāhula. Trong bốn điều này vị tỳ khưu nào vừa mang đi và mang trở lại, việc nhận biết rõ về hành xứ ấy đạt đến tột đỉnh của việc thực hành (minh sát tuệ) là như thế.
Abhikkamādīsu pana asammuyhanaṃ asammohasampajaññaṃ. Taṃ evaṃ veditabbaṃ – idha bhikkhu abhikkamanto vā paṭikkamanto vā yathā andhaputhujjanā abhikkamādīsu ‘‘attā abhikkamati, attanā abhikkamo nibbattito’’ti vā ‘‘ahaṃ abhikkamāmi, mayā abhikkamo nibbattito’’ti vā sammuyhanti. Tathā asammuyhanto ‘‘abhikkamāmī’’ti citte uppajjamāne teneva cittena saddhiṃ cittasamuṭṭhānā vāyodhātu viññattiṃ janayamānā uppajjati, iti cittakiriyavāyodhātuvipphāravasena ayaṃ kāyasammato aṭṭhisaṅghāto abhikkamati, tassevaṃ abhikkamato ekekapāduddharaṇe pathavīdhātu āpodhātūti dve dhātuyo omattā honti mandā, itarā dve adhimattā honti balavatiyo, tathā atiharaṇavītiharaṇesu. Vossajjane tejovāyodhātuyo omattā honti mandā, itarā dve adhimattā honti balavatiyo. Tathā sannikkhepanasannirumbhanesu. Tattha uddharaṇe pavattā rūpārūpadhammā atiharaṇaṃ na pāpuṇanti. Tathā atiharaṇe pavattā vītiharaṇaṃ, vītiharaṇe pavattā vossajjanaṃ, vossajjane pavattā sannikkhepanaṃ, sannikkhepane pavattā sannirumbhanaṃ na pāpuṇanti. Tattha tattheva pabbaṃ pabbaṃ sandhi sandhi odhi odhi hutvā tattakapāle pakkhittatilāni viya paṭapaṭāyantā bhijjanti. Tattha ko eko abhikkamati? Kassa vā ekassa abhikkamanaṃ? Paramatthato hi dhātūnaṃyeva gamanaṃ, dhātūnaṃ ṭhānaṃ, dhātūnaṃ nisajjanaṃ, dhātūnaṃ sayanaṃ, tasmiṃ tasmiñhi koṭṭhāse saddhiṃ rūpena –
Hơn nữa, sự không bị lẫn lộn trong việc bước tới v.v., gọi là việc nhận biết rõ về sự sự không mê lầm, điều đó nên được biết như vậy: Những hạng phàm phu bị say mê khi bước tới v.v, rằng: “Tự ngã bước tới, trong khi bước tới tự ngã khiến sanh khởi”, hoặc “Tôi bước tới về phía trước, trong khi bước tới tôi làm cho sanh khởi”, như thế nào; Vị tỳ khưu trong giáo pháp này trong khi bước tới hoặc trong khi bước lùi không bị lẫn lộn cũng như thế ấy khi tâm nghĩ rằng “tôi bước tới” Phong đại có tâm làm sở sanh khiến cho thức sanh khởi, đồng sanh với chính tâm đó. Bộ xương được giả thuyết là sắc thân này bước tới do lực khuếch tán của Phong đại từ tâm duy tác. Khi bộ xương đó bước đi tới trước như vậy, trong sát-na nhấc chân lên ở mỗi bên, cả 2 nguyên tố là Địa đại và Thủy đại trở nên yếu dần, trừ 2 nguyên tố là Địa đại và Thủy đại thì 2 nguyên tố còn lại là Hỏa giới và Phong giới có năng lực vượt trội hơn; giống như trong trường hợp dịch chuyển chân (atiharaṇa) và bước chân tới trước (vītiharaṇa); Trong thời thăm dò chân xuống phía dưới thì Hoả đại và Phong đại sẽ yếu đi, trừ Hỏa đại và Phong đại thì 2 nguyên tố còn lại là Đia đại và Thủy đại sẽ có năng lực vượt trội hơn, giống như trong trường hợp chân chạm xuống đất (sannikkhepana) và chân đạp trên mặt đất (sannirumbhana). Ở đây, sắc pháp và phi sắc pháp được vận hành ở sát-na nhấc chân lên khỏi mặt đất (uddharaṇa) nhưng chưa đến sát-na dịch chuyển chân (atiharaṇa). Sắc pháp và Danh pháp vận hành ở sát sát-na dịch chuyển chân (atiharaṇa) nhưng chưa đến sát-na bước chân tới trước (vītiharaṇa); (tương tự) vận hành ở sát-na bước chân tới trước nhưng chưa đến sát-na duỗi chân xuống (vossajjaṇa), (tương tự) vận hành ở sát-na duỗi chân xuống nhưng chưa chạm đến sát-na chân chạm nơi đất (sannikkhepana), (tương tự) ở sát-na chân chạm nơi đất nhưng chưa đến sát-na chân đạp trên mặt đất (sannirumbhana). Sắc pháp và Phi sắc pháp ở từng phần, từng đoạn, từng phạm vi diệt tắt trong chính mỗi oai nghi ấy giống như hạt vừng bỏ vào chảo nóng nổ lộp bộp. Về vấn đề này (việc bước tới ấy), cử chỉ bước tới trước đó của ai, hay của kẻ nào? Bởi vì theo Pháp Chân Đế chỉ là có các Giới-dhātu bước đi lại của giới, chỉ là có các Giới-dhātu đứng, chỉ là có các Giới-dhātu ngồi, chỉ là có các Giới-dhātu nằm (không phải của ai). Trong phần các oai nghi đó:
Aññaṃ uppajjate cittaṃ, aññaṃ cittaṃ nirujjhati;
Avīcimanusambandho, nadīsotova vattatīti.
“Tâm khác sanh, tâm khác diệt, cùng với sắc pháp được vận hành tựa như dòng nước đang chảy liên tục không bị đứt quãng.”
Evaṃ abhikkamādīsu asammuyhanaṃ asammohasampajaññaṃ nāmāti;
Niṭṭhito abhikkante paṭikkante sampajānakārī hotīti padassa attho;
Sự không lẫn lộn trong việc bước tới v.v., như vậy được gọi là việc nhận biết rõ về sự không mê lầm, việc giảng giải ý nghĩa đoạn văn “hành giả tỉnh giác trong việc bước tới và bước lùi” được kết thúc tại đây.
Ālokite vilokiteti ettha pana ālokitaṃ nāma purato pekkhanaṃ. Vilokitaṃ nāma anudisāpekkhanaṃ. Aññānipi heṭṭhā upari pacchato pekkhanavasena olokitaullokitāpalokitāni nāma honti, tāni idha na gahitāni. Sāruppavasena pana imāneva dve gahitāni, iminā vā mukhena sabbānipi tāni gahitānevāti.
Thêm nữa, ở đây ‘nhìn qua, nhìn lại’ thì việc nhìn về phía trước gọi là nhìn thẳng; việc nhìn nghiêng bên trái và nghiêng bên phải gọi là nhìn trái nhìn phải. Những cử chỉ (cách nhìn) khác cũng được gọi là olokita ullokita apalokita về phương diện nhìn đằng dưới, nhìn phía trên, nhìn đằng sau, những cách nhìn này không liên quan đến ở đây. Mà chỉ lấy theo sự thích hợp, ngài chỉ đề cập đến hai cách nhìn này mà thôi, hoặc toàn bộ những cách nhìn này ngài đề cập đến việc nhìn về phía trước này đây.
Tattha ‘‘ālokessāmī’’ti citte uppanne cittavaseneva anoloketvā atthapariggahaṇaṃ sātthakasampajaññaṃ. Taṃ āyasmantaṃ nandaṃ kāyasakkhiṃ katvā veditabbaṃ. Vuttañhetaṃ bhagavatā – ‘‘sace, bhikkhave, nandassa puratthimā disā āloketabbā hoti, sabbaṃ cetasā samannāharitvā nando puratthimaṃ disaṃ āloketi, evaṃ me puratthimaṃ disaṃ ālokayato na abhijjhādomanassā pāpakā akusalā dhammā anvāssaveyyunti iti so tattha sampajāno hoti, sace, bhikkhave, nandassa pacchimā disā, uttarā disā, dakkhiṇā disā, uddhaṃ, adho, anudisā āloketabbā hoti, sabbaṃ cetaso samannāharitvā nando anudisaṃ āloketi. Evaṃ me anudisaṃ ālokayato…pe… sampajāno hotī’’ti (a. ni. 8.9).
Ở đây, khi tâm nghĩ rằng: “ta sẽ nhìn về phía trước” khởi lên vẫn chưa kịp đi theo mãnh lực tâm ấy, cân nhắc nắm lấy điều lợi ích gọi là việc nhận biết rõ về lợi ích; việc nhận biết rõ về lợi ích có thể thấy đại đức Nanda bậc thân chứng; Bởi điều đó được nói bởi Đức Phật rằng: “Này các tỳ khưu, nếu Nanda phải nhìn về phương Ðông, tập trung tất cả tâm tư, Nanda nhìn về hướng Ðông và suy nghĩ – ‘Như vậy, khi Ta đang nhìn về hướng Ðông, thời tham, ưu, các ác bất thiện pháp sẽ không có xâm nhập’. Như vậy, đây gọi là vị có sự nhận biết rõ về lợi ích. Này chư tỳ khưu, nếu Nanda phải nhìn về hướng Tây …nt… về hướng Bắc …nt… về hướng Nam …nt… hướng trên …nt… hướng dưới …nt… hướng phụ, tập trung tất cả tâm tư Nanda sẽ nhìn về các hướng phụ và suy nghĩ – ‘Như vậy, khi Ta đang nhìn về hướng Ðông, thời tham, ưu, các ác bất thiện pháp sẽ không có xâm nhập. Như vậy, đây gọi là vị có sự nhận biết rõ về lợi ích.” (a. ni. 8.9);
Apica idhāpi pubbe vuttacetiyadassanādivaseneva sātthakatā ca sappāyatā ca veditabbā. Kammaṭṭhānassa pana avijahanameva gocarasampajaññaṃ. Tasmā khandhadhātuāyatanakammaṭṭhānikehi attano kammaṭṭhānavaseneva, kasiṇādikammaṭṭhānikehi vā pana kammaṭṭhānasīseneva ālokanavilokanaṃ kātabbaṃ. Abbhantare attā nāma āloketā vā viloketā vā natthi, ālokessāmīti pana citte uppajjamāne teneva cittena saddhiṃ cittasamuṭṭhānā vāyodhātu viññattiṃ janayamānā uppajjati. Iti cittakiriyavāyodhātuvipphāravaseneva heṭṭhimaṃ akkhidalaṃ adho sīdati, uparimaṃ uddhaṃ laṅgheti, koci yantakena vivaranto nāma natthi, tato cakkhuviññāṇaṃ dassanakiccaṃ sādhentaṃ uppajjatīti. Evaṃ sampajānanaṃ panettha asammohasampajaññaṃ nāma.
Còn nữa, luôn cả ở trong trường hợp này cũng nên biết rằng: việc nhìn về phía trước và việc nhìn trái nhìn phải là việc nhận biết rõ về lợi ích và việc nhận biết rõ về điều thích hợp về phương diện nhìn thấy Bảo điện như đã đề cập ở phần đầu. Còn việc nhận biết rõ về các đề mục thiền, chính là việc không từ bỏ đề mục thiền; do đó, việc nhìn về phía trước và việc nhìn trái nhìn phải trong Pāḷī này vị tỳ khưu phát triển Minh Sát nghiệp xứ nắm lấy Uẩn-khandha, Giới-dhātu, và Xứ-āyatana làm đối tượng có thể thực hiện nhờ năng lực đề mục thiền của chính mình, hoặc vị tỳ khưu thực hành Chỉ Tịnh nghiệp xứ nắm lấy các biến xứ-kasiṇa v.v., làm đối tượng hoàn toàn có thể thực hành bằng việc xác định đề mục thiền làm nền tảng. Không có cái gọi là tự ngã ở bên trong thân nhìn về phía trước hoặc nhìn trái nhìn phải; nhưng khi khởi lên suy nghĩ rằng: ‘ta sẽ nhìn về phía trước’ thì Phong đại có tâm làm sở sanh khiến cho thức sanh khởi, đồng sanh với chính tâm đó. Vì vậy, mí mắt dưới lõm xuống dưới, mí mắt trên nhô lên trên nhờ vào lực khuếch tán của Phong đại sanh lên từ tâm duy tác, chẳng có ai gọi là đang mở mắt bởi cái chốt cửa cả. Sau đó, tâm nhãn thức làm cho phận sự thấy được hoàn thành cũng sanh khởi, việc tuệ tri như vậy được gọi là việc nhận biết rõ về sự mê lầm.
Apica mūlapariññā– āgantuka– tāvakālikabhāvavasenapettha asammohasampajaññaṃ veditabbaṃ. Mūlapariññāvasena tāva –
Bhavaṅgāvajjanañceva, dassanaṃ sampaṭicchanaṃ;
Santīraṇaṃ voṭṭhabbanaṃ, javanaṃ bhavati sattamaṃ.
Và hơn nữa, việc nhận biết rõ về sự mê lầm này nên biết với mãnh lực hiểu biết trọn vẹn các gốc rễ, khách trọ và diễn ra tạm thời. Trước hết nên biết rằng vô hỗn loạn tỉnh giác với mãnh lực hiểu biết trọn vẹn các căn như sau:
Tâm hộ kiếp và tâm khai môn, việc thấy, tiếp thâu.
Tâm quan sát, tâm phân đoán, thứ 7 là tâm đổng lực.
Tattha bhavaṅgaṃ upapattibhavassa aṅgakiccaṃ sādhayamānaṃ pavattati, taṃ āvaṭṭetvā kiriyamanodhātu āvajjanakiccaṃ sādhayamānā, tannirodhā cakkhuviññāṇaṃ dassanakiccaṃ sādhayamānaṃ , tannirodhā vipākamanodhātu sampaṭicchanakiccaṃ sādhayamānā, tannirodhā vipākamanoviññāṇadhātu santīraṇakiccaṃ sādhayamānā, tannirodhā kiriyamanoviññāṇadhātu voṭṭhabbapanakiccaṃ sādhayamānā, tannirodhā sattakkhattuṃ javanaṃ javati. Tattha paṭhamajavanepi ‘‘ayaṃ itthī, ayaṃ puriso’’ti rajjanadussanamuyhanavasena ālokitavilokitaṃ na hoti. Dutiyajavanepi…pe… sattamajavanepi. Etesu pana yuddhamaṇḍale yodhesu viya heṭṭhupariyavasena bhijjitvā patitesu ‘‘ayaṃ itthī, ayaṃ puriso’’ti rajjanādivasena ālokitavilokitaṃ hoti. Evaṃ tāvettha mūlapariññāvasena asammohasampajaññaṃ veditabbaṃ.
Trong lộ trình tâm ấy, phận sự tâm hộ kiếp vận hành là yếu tố làm cho quá trình tái sanh [sanh hữu, uppattibhava] được thành tựu; tâm duy tác ý giới (kiriyamanodhātu) khi hồi tưởng lại tâm hộ kiếp ấy làm cho phận sự khai môn (āvajjana) được thành tựu; kế tiếp, tâm khai môn diệt thì nhãn thức (sanh khởi) làm cho phận sự thấy (dassana) được thành tựu; kế tiếp, nhãn thức diệt thì tâm quả ý giới (sanh khởi) làm cho phận sự tiếp thâu-sampaṭicchana được thành tựu; kế tiếp, phận sự tiếp thâu diệt thì tâm quả ý thức giới (sanh khởi) làm cho phận sự quan sát được thành tựu; tiếp đó, phận sự quan sát diệt thì tâm tố ý thức giới (sanh khởi) làm cho phận sự đoán định được thành tựu; tiếp đó, phận sự đoán định diệt thì đổng lực tâm sanh lên gấp rút 7 sát-na (kết thúc 1 lộ trình tâm). Trong lộ trình tâm ấy, ngay cả đổng lực tâm thứ nhất thì việc nhìn về phía trước hoặc nhìn trái nhìn phải do mãnh lực của sự luyến ái, sân hận và si mê (nghĩ rằng) – “Đây là đàn bà, đây là đàn ông” là không có. Luôn cả ở đổng lực tâm thứ hai …nt…thậm chí ở đổng thứ bảy cũng như thế. Nhưng khi lộ trình tâm ấy diệt từ tâm thứ nhất (đổng lực tâm thứ nhất) cho đến tâm cuối cùng, cũng giống như quân lính trên chiến trường, được gọi là việc nhìn về phía trước hoặc nhìn trái nhìn phải do mãnh lực của luyến ái v.v, cho rằng “đây là đàn bà, đây là đàn ông” hình thành. Nên biết rằng việc nhận biết rõ về sự mê lầm là phương diện hiểu biết trọn vẹn gốc rễ, có thể hiểu chừng này trước.
Cakkhudvāre pana rūpe āpāthagate bhavaṅgacalanato uddhaṃ sakakiccaṃ nipphādanavasena āvajjanādīsu uppajjitvā niruddhesu avasāne javanaṃ uppajjati. Taṃ pubbe uppannānaṃ āvajjanādīnaṃ gehabhūte cakkhudvāre āgantukapuriso viya hoti. Tassa yathā paragehe kiñci yācituṃ paviṭṭhassa āgantukapurisassa gehasāmikesu tuṇhīmāsinesu āṇākaraṇaṃ na yuttaṃ. Evaṃ āvajjanādīnaṃ gehabhūte cakkhudvāre āvajjanādīsupi arajjantesu adussantesu amuyhantesu ca rajjanadussanamuyhanaṃ ayuttanti evaṃ āgantukabhāvavasena asammohasampajaññaṃ veditabbaṃ.
Hơn nữa, khi đối tượng sắc đến xuất hiện trong lộ nhãn môn, tiếp đó từ hộ kiếp rúng động (bhavaṅgacalana) khi lộ trình tâm có tâm khai môn (āvajjana) v.v, sanh rồi diệt do mãnh lực hoàn thành phận sự của chính mình, tâm đổng lực sanh lên sau cùng. Tâm đổng lực đó tựa như người khách đi đến trong lộ nhãn môn, y như ngôi nhà của tâm khai môn v.v, sanh lên trước. Khi người khách ấy đi vào nhà của một người khác để xin một thứ gì đó, dù chủ nhà im lặng thì người khách cũng không nên sử dụng quyền lực (đối với chủ nhà) như thế nào. Ngay cả tâm khai môn (āvajjana) v.v, không luyến ái, không sân hận, không si mê trong lộ nhãn môn như thể ngôi nhà của tâm khai môn v.v, cũng không nên luyến ái, sân hận và si mê tương tự y như thế ấy. Do đó, nên biết rằng việc nhận biết rõ về sự mê lầm do tác động như tính chất người khách viếng thăm là như thế.
Yāni pana tāni cakkhudvāre voṭṭhabbapanapariyosānāni cittāni uppajjanti, tāni saddhiṃ sampayuttadhammehi tattha tattheva bhijjanti, aññamaññaṃ na passantīti ittarāni tāvakālikāni honti. Tattha yathā ekasmiṃ ghare sabbesu mānusakesu matesu avasesassa ekassa taṅkhaṇeññeva maraṇadhammassa na yuttā naccagītādīsu abhirati nāma, evameva ekadvāre sasampayuttesu āvajjanādīsu tattha tattheva matesu avasesassa taṅkhaṇeññeva maraṇadhammassa javanassāpi rajjanadussanamuyhanavasena abhirati nāma na yuttāti evaṃ tāvakālikabhāvavasena asammohasampajaññaṃ veditabbaṃ.
Lại nữa, tất cả tâm có tâm đoán định (voṭṭhabbana) là cuối cùng này đây sanh lên ở lộ nhãn môn, những tâm ấy đều diệt ở ngay tại chỗ đó cùng với các pháp tương ưng, không nhìn thấy lẫn nhau, ngoài những tâm này ra thì những tâm còn lại có tính chất tạm thời. Ở đó, giống như trong một ngôi nhà tất cả mọi người đều chết hết chỉ còn một người sống sót và người đó sớm muộn cũng phải chết ngay sau đó. Thật không thích hợp chút nào nếu nói rằng: người này phấn khởi, nhảy múa, ca hát v.v, như thế nào; Tương tự y như thế, khi tâm khai môn v.v, cùng với pháp tương ưng trong cùng một môn-dvāra diệt đi trong chính nơi đó; Gọi là có sự phấn khởi do mãnh lực ái luyến, sân hận, hay si mê cũng không thích hợp luôn cả những tâm đổng lực còn lại cũng phải diệt ngay tại sát-na ấy. Do đó, nên biết rằng: việc nhận biết rõ về sự mê lầm do tác động tính chất tạm thời là như thế.
Apica khandhāyatanadhātupaccayapaccavekkhaṇavasenapetaṃ veditabbaṃ. Ettha hi cakkhu ceva rūpañca rūpakkhandho, dassanaṃ viññāṇakkhandho, taṃsampayuttā vedanā vedanākkhandho, saññā saññākkhandho, phassādikā saṅkhārakkhandho. Evametesaṃ pañcannaṃ khandhānaṃ samavāye ālokanavilokanaṃ paññāyati. Tattha ko eko āloketi, ko viloketi? Tathā cakkhu cakkhāyatanaṃ, rūpaṃ rūpāyatanaṃ, dassanaṃ manāyatanaṃ, vedanādayo sampayuttadhammā dhammāyatanaṃ. Evametesaṃ catunnaṃ āyatanānaṃ samavāye ālokanavilokanaṃ paññāyati. Tattha ko eko āloketi, ko viloketi? Tathā cakkhu cakkhudhātu, rūpaṃ rūpadhātu, dassanaṃ cakkhuviññāṇadhātu, taṃsampayuttā vedanādayo dhammadhātu. Evametāsaṃ catunnaṃ dhātūnaṃ samavāye ālokanavilokanaṃ paññāyati. Tattha ko eko āloketi, ko viloketi? Tathā cakkhu nissayapaccayo, rūpaṃ ārammaṇapaccayo, āvajjanaṃ anantarasamanantarūpanissayanatthivigatapaccayo, āloko upanissayapaccayo vedanādayo sahajātapaccayo. Evametesaṃ paccayānaṃ samavāye ālokanavilokanaṃ paññāyati. Tattha ko eko āloketi, ko viloketīti? Evamettha khandhāyatanadhātupaccayapaccavekkhaṇavasenapi asammohasampajaññaṃ veditabbaṃ.
Và hơn nữa, việc nhận biết rõ về sự mê lầm này có thể biết với mãnh lực quán chiếu Uẩn, Xứ, Giới và Duyên trợ. Ở trong trường hợp này, Nhãn và Sắc gọi là Sắc uẩn; sự thấy là Thức uẩn; Thọ tương ưng với Thức uẩn đó (để thấy cảnh) gọi là Thọ uẩn, Tưởng là Tưởng uẩn; Pháp (còn lại) có Xúc v.v., gọi là Hành uẩn. Như vậy việc nhìn thẳng và nhìn trái nhìn phải hiện hữu trong Ngũ uẩn này kết hợp với nhau là như thế. Ở đây “có một ai nhìn thẳng; có một ai nhìn trái nhìn phải?” Theo cách đó, Nhãn là Nhãn xứ, Sắc là Sắc xứ, cái thấy là Ý xứ, các Pháp tương ưng có Thọ v.v, là Pháp xứ. ‘Việc nhìn thẳng và nhìn trái nhìn phải’ hiện hữu do bốn Xứ-āyatana này tụ hội lại với nhau là như thế. Ở đây, “có một ai nhìn thẳng; có một ai nhìn trái nhìn phải?” Theo cách đó, Nhãn là Nhãn giới; sắc gọi là sắc giới; sự thấy gọi là Nhãn thức giới; các Pháp tương ưng có Thọ v.v gọi là Pháp giới. Việc nhìn thẳng và nhìn trái nhìn phải hiện hữu do bốn Giới này kết hợp với nhau là như thế. Ở đây, “có một ai nhìn thẳng; có một ai nhìn trái nhìn phải?” Theo cách đó, Nhãn làm y chỉ duyên; Sắc làm cảnh duyên [ārammaṇapaccayo]; Tâm Khai Môn làm vô gián duyên, đẳng vô gián duyên, cận y duyên, vô hữu duyên và ly khứ duyên; Ánh sáng làm cận y duyên; Thọ v.v., làm câu sanh duyên [sahajātapaccayo]. Như vậy, việc nhìn thẳng và nhìn trái nhìn phải hiện hữu do các duyên này kết hợp với nhau là như thế. Ở đây “có một ai nhìn thẳng; có một ai nhìn trái nhìn phải?” Nên biết rằng việc nhận biết rõ về sự mê lầm này do mãnh lực quan sát Uẩn, Xứ, Giới và Duyên trợ ở đây là như vậy.
Samiñjite pasāriteti pabbānaṃ samiñjanapasāraṇe. Tattha cittavaseneva samiñjanapasāraṇaṃ akatvā hatthapādānaṃ samiñjanapasāraṇapaccayā atthānatthaṃ pariggahetvā atthapariggahaṇaṃ sātthakasampajaññaṃ. Tattha hatthapāde aticiraṃ samiñjetvā pasāretvā eva vā ṭhitassa khaṇe khaṇe vedanā uppajjanti, cittaṃ ekaggaṃ na labhati, kammaṭṭhānaṃ paripatati, visesaṃ nādhigacchati. Kāle samiñjentassa kāle pasārentassa pana tā vedanā na uppajjanti, cittaṃ ekaggaṃ hoti, kammaṭṭhānaṃ phātiṃ gacchati, visesamadhigacchatīti evaṃ atthānatthapariggahaṇaṃ veditabbaṃ.
Khi co vào và duỗi ra (tay chân): hành động co vào và duỗi ra của các chi (tay chân). Ở đây, sau khi cân nhắc đến điều lợi ích và không lợi ích vì sự co tứ chi vào và duỗi tứ chi ra làm duyên trợ, không co tứ chi vào và duỗi tứ chi, do mãnh lực tâm điều khiển, lựa chọn điều lợi ích trong sự co tứ chi vào và duỗi tứ chi ra đó, gọi là “việc nhận biết rõ điều lợi ích”. Như vậy, khi hành giả co tay hoặc chân quá lâu, hoặc duỗi tay hoặc chân quá lâu (đặt ở một tư thế) thì các cảm thọ sanh khởi liên tục trong từng sát-na , tâm không đạt đến (trạng thái) định, đề mục thiền định sẽ mất đi, không đắc được pháp cao thượng. Tuy nhiên, khi hành giả co tứ chi vào hợp thời và duỗi tứ chi ra vừa phải, các cảm thọ ấy sẽ không sanh, (đạt được) trạng thái chuyên nhất của tâm, đề mục thiền đi đến tăng trưởng, hành giả (sẽ) chứng đắc pháp cao thượng. Việc cân nhắc đến điều lợi ích và không lợi ích (hành giả) nên biết là như vậy.
Atthe pana satipi sappāyāsappāyaṃ pariggaṇhitvā sappāyapariggahaṇaṃ sappāyasampajaññaṃ. Tatrāyaṃ nayo – mahācetiyaṅgaṇe kira daharabhikkhū sajjhāyaṃ gaṇhanti. Tesaṃ piṭṭhipasse daharabhikkhuniyo dhammaṃ suṇanti. Tatreko daharo hatthaṃ pasārento kāyasaṃsaggaṃ patvā teneva kāraṇena gihī jāto. Aparopi bhikkhu pādaṃ pasārento aggimhi pasāresi, aṭṭhiṃ āhacca pādo jhāyi. Aparo vammike pasāresi, so āsīvisena daṭṭho. Aparo cīvarakuṭidaṇḍake pasāresi, taṃ maṇisappo ḍaṃsi. Tasmā evarūpe asappāye apasāretvā sappāye pasāretabbaṃ. Idamettha sappāyasampajaññaṃ.
Lại nữa, dầu có lợi ích thì sau khi cân nhắc đến đối tượng thích hợp và không thích hợp, vị ấy suy xét đến đối tượng thích hợp gọi là ‘việc nhận biết rõ về điều thích hợp’. Trong trường hợp này có phương cách như sau – Được biết rằng: các vị tỳ khưu trẻ đang tụng kinh ở Đại bảo điện. Đằng sau họ là các vị tỳ khưu ni trẻ đang lắng tai nghe Pháp. Trong số các vị tỳ khưu đó, có một tỳ khưu trẻ duỗi tay ra và đã đụng vào thân một tỳ khưu ni trẻ. Vì chính lý do đó mà vị ấy đã trở thành người cư sĩ. Một vị tỳ khưu khác, khi duỗi chân ra lại đụng phải lò lửa đang cháy gần đó và chân đã bị bỏng tới xương. Một vị khác lại duỗi tay ra đụng phải gò mối và đã bị rắn độc cắn. Một vị khác duỗi tay đụng cây cột phơi y và thế là bị con rắn lục cắn. Do đó, khi duỗi chân ra cũng không nên duỗi vào những vị trí không thích hợp như vậy, cần duỗi ra ở những nơi thích hợp. Điều này ở đây là việc nhận biết rõ về điều thích hợp.
Gocarasampajaññaṃ pana mahātheravatthunā dīpetabbaṃ – mahāthero kira divāṭṭhāne nisinno antevāsikehi saddhiṃ kathayamāno sahasā hatthaṃ samiñjetvā puna yathāṭhāne ṭhapetvā saṇikaṃ samiñjesi. Taṃ antevāsikā pucchiṃsu ‘‘kasmā bhante sahasā hatthaṃ samiñjetvā puna yathāṭhāne ṭhapetvā saṇikaṃ samiñjayitthā’’ti. Yato paṭṭhāyāhaṃ, āvuso, kammaṭṭhānaṃ manasikātuṃ āraddho, na me kammaṭṭhānaṃ muñcitvā hattho samiñjitapubbo, idāni pana tumhehi saddhiṃ kathayamānena kammaṭṭhānaṃ muñcitvā samiñjito, tasmā puna yathāṭhāne ṭhapetvā samiñjesinti. Sādhu, bhante, bhikkhunā nāma evarūpena bhavitabbanti. Evametthāpi kammaṭṭhānāvijahanameva gocarasampajaññanti veditabbaṃ.
Lại nữa, việc nhận biết rõ về hành xứ có thể mô tả bằng câu chuyện của vị Đại trưởng lão – Kể rằng vị Đại trưởng lão ngồi nghỉ trưa. Khi nói chuyện với các đệ tử (vị ấy) nắm nắm tay và lại mở ra như trước, (rồi) lại từ từ nắm nắm tay lại, Các đệ tử hỏi Ngài – “Bạch Ngài, vì sao Ngài lại nhanh chóng nắm nắm tay lại rồi lại mở ra về vị trí ban đầu? Rồi từ từ nắm lại”. – Ngài trả lời rằng: “Này các con, kể từ khi thầy bắt đầu chú ý đến thiền định. Thầy chưa bao giờ từ bỏ thiền định rồi nắm tay. Nhưng giờ thầy nói với các con, ta đã rời bỏ đề mục thiền định rồi mới nắm tay lại, vì vậy thầy đã mở bàn tay ra như cũ và từ từ nắm lại”. – Các đệ tử liền tán thán: “Lành thay, thưa Ngài, chư tỳ khưu cần phải hành theo như vậy. Nên hiểu rằng Việc không từ bỏ đề mục thiền trong trường hợp này nên biết rằng – việc nhận biết rõ về hành xứ là như thế.
Abbhantare attā nāma koci samiñjento vā pasārento vā natthi. Vuttappakāracittakiriyavāyodhātuvipphārena pana suttakaḍḍhanavasena dāruyantassa hatthapādalaḷanaṃ viya samiñjanapasāraṇaṃ hotīti evaṃ parijānanaṃ panettha asammohasampajaññanti veditabbaṃ.
Không có ai gọi là bản ngã ở bên trong việc co tứ chi vào hoặc duỗi tứ chi, chỉ có việc co tứ chi vào và duỗi tứ chi do nhờ vào sự khuếch tán của Phong đại sanh lên từ tâm duy tác theo cách thức đã được nói. Giống như sự chuyển động tay và chân của con robot do tác động của sợi dây cót. Sự biết toàn diện như vậy nên biết rằng đây là “việc nhận biết rõ về sự mê lầm” trong việc co tứ chi vào hoặc duỗi tứ chi.
Saṅghāṭipattacīvaradhāraṇeti ettha saṅghāṭicīvarānaṃ nivāsanapārupanavasena pattassa bhikkhāpaṭiggahaṇādivasena paribhogo dhāraṇaṃ nāma. Tattha saṅghāṭicīvaradhāraṇe tāva nivāsetvā pārupitvā ca piṇḍāya carato āmisalābho ‘‘sītassa paṭighātāyā’’tiādinā nayena bhagavatā vuttappakāroyeva ca attho attho nāma. Tassa vasena sātthakasampajaññaṃ veditabbaṃ.
Với việc mang y hai lớp và y phục, và với việc thọ nhận vật thực khất thực bằng bình bát v.v, gọi là ‘mang, mặc’ trong cụm từ ‘trong việc mang y hai lớp, bình bát, y phục’ này. Việc mang y hai lớp và y phục ấy được lý giải trong việc mang y hai lớp và y phục trước, việc vị tỳ khưu mặc (y nội) hoặc đắp y (hai lớp) đi khất thực (nhận được y phục), tức là nhận được vật chất, lợi ích được đức Thế Tôn nói theo cách thức v.v, sau – “để ngăn ngừa gió lạnh” chính vì điều này gọi là điều lợi ích. Nên biết việc nhận biết rõ điều lợi ích do tác động của lợi ích đó.
Uṇhapakatikassa pana dubbalassa ca cīvaraṃ sukhumaṃ sappāyaṃ. Sītālukassa ghanaṃ dupaṭṭaṃ. Viparītaṃ asappāyaṃ. Yassa kassaci jiṇṇaṃ asappāyameva. Aggaḷādidāne hissa taṃ palibodhakaraṃ hoti. Tathā paṭṭuṇṇadukūlādibhedaṃ lobhanīyacīvaraṃ. Tādisañhi araññe ekakassa nivāsantarāyakaraṃ jīvitantarāyakaraṃ vāpi hoti. Nippariyāyena pana yaṃ nimittakammādimicchājīvavasena uppannaṃ, yañcassa sevamānassa akusalā dhammā abhivaḍḍhanti, kusalā dhammā parihāyanti, taṃ asappāyaṃ. Viparītaṃ sappāyaṃ. Tassa vasenettha sappāyasampajaññaṃ, kammaṭṭhānāvijahanavaseneva ca gocarasampajaññaṃ veditabbaṃ.
Còn y phục chất vải mỏng là (loại vải) phù hợp với vị tỳ khưu hay nóng và có sức khỏe yếu, nhưng y phục chất vải dày sáu lớp là phù hợp với vị tỳ khưu hay lạnh, y phục trái ngược (với những điều đã nói) là không phù hợp. Một tấm y cũ kỹ chẳng thích hợp cho bất kỳ vị tỳ khưu nào; vì nó là nguyên nhân gây trở ngại cho vị ấy trong việc phải may vá lại v.v. Y phục được làm nguyên mảnh [chưa cắt thành từng khối (khandha)] và vải lụa tốt v.v, gây ra sự dính mắc, cũng vì vậy mà y phục loại này cũng gây ra tai hoạ hoặc ảnh hưởng đến tánh mạng đối với những hành giả sống độc cư trong rừng. Hơn nữa theo cách không vòng vo, bất kỳ y phục nào phát sanh do năng lực của tà mạng như việc ra dấu, gợi ý v.v, và y phục nào mà vị ấy sử dụng khiến pháp bất thiện tăng trưởng, thiện pháp suy giảm thì y phục đó là hoàn toàn không thích hợp. Những y phục có được trái ngược lại với điều đã nói là thích hợp. Trong trường hợp này, bậc trí nên hiểu rằng “việc nhận thức rõ điếu thích hợp” về phương diện y phục đó và “việc nhận biết rõ về hành xứ” về phương diện không từ bỏ đề mục thiền.
Abbhantare attā nāma koci cīvaraṃ pārupanto natthi. Vuttappakāracittakiriyavāyodhātuvipphāreneva pana cīvarapārupanaṃ hoti. Tattha cīvarampi acetanaṃ, kāyopi acetano. Cīvaraṃ na jānāti ‘‘mayā kāyo pāruto’’ti. Kāyopi na jānāti ‘‘ahaṃ cīvarena pāruto’’ti, dhātuyova dhātusamūhaṃ paṭicchādenti paṭapilotikāya potthakarūpapaṭicchādane viya. Tasmā neva sundaraṃ cīvaraṃ labhitvā somanassaṃ kātabbaṃ, na asundaraṃ labhitvā domanassaṃ. Nāgavammikacetiyarukkhādīsu hi keci mālāgandhadhūmavatthādīhi sakkāraṃ karonti, keci gūthamuttakaddamadaṇḍasatthappahārādīhi asakkāraṃ, na te nāgavammikarukkhādayo somanassaṃ vā domanassaṃ vā karonti; evameva neva sundaraṃ cīvaraṃ labhitvā somanassaṃ kātabbaṃ, na asundaraṃ labhitvā domanassanti evaṃ pavattapaṭisaṅkhānavasena panettha asammohasampajaññaṃ veditabbaṃ.
Không có ai gọi là bản ngã ở bên trong mặc y phục. Chỉ có việc mặc y phục do nhờ sự khuếch tán của Phong đại sanh lên từ tâm duy tác theo cách đã được trình bày. Ở đây, cả tấm y không có tâm tư, và cả thân cũng không tâm tư. Tấm y không biết rằng: “Tôi (tấm y) được mặc vào thân.” Luôn cả thân cũng không biết được: “Tấm y được khoác lên tôi.” Chỉ có các Đại hay nguyên tố-dhātu được bao phủ bằng tập hợp các Đại; Tựa như một tấm vải cũ quấn lấy bức tượng. Do đó, vị tỳ khưu có được một tấm y tốt cũng không nên hoan hỷ, có được tấm y xấu cũng không nên buồn lòng. Bởi vậy, một vài nhóm người thực hiện lễ bái đối với loài rồng, gò mối, miếu thờ và cây cối v.v., bằng các lễ vậy như hoa quả, hương thơm, vải vóc v.v. Nhưng một số khác lại thiếu sự tôn trọng như đại tiện, tiểu tiện, lấy bùn đất, dùng gậy gộc, vũ khí để phá hoại v.v., loài rồng, gò mối, cây cối v.v… cũng không khiến chúng vui vẻ hay buồn rầu với sự tôn trọng hay thiếu tôn trọng như thế nào; vị tỳ khưu cũng tương tự như thế đó, không nên bày tỏ sự vui mừng khi nhận được y phục tốt, mà cũng không nên buồn rầu khi nhận được y phục xấu. Bậc trí nên hiểu rằng “việc nhận biết rõ về sự mê lầm” trong việc sử dụng y hai lớp, bình bát và y phục về phương diện suy xét được diễn tiến như vậy.
Pattadhāraṇepi pattaṃ sahasāva aggahetvā imaṃ gahetvā piṇḍāya caramāno bhikkhaṃ labhissāmīti evaṃ pattagahaṇapaccayā paṭilabhitabbaatthavasena sātthakasampajaññaṃ veditabbaṃ.
Ngay cả việc ôm bình bát, không vội vàng lấy bình bát, mà chỉ lấy bình bát bằng cách quan sát (với đề mục thiền định) ta sẽ nhận được vật thực trong khi bước đi khất thực. Nên biết rằng “việc nhận biết rõ về điều lợi ích” về phương diện điều lợi ích có thể đạt được do duyên cầm lấy bình bát như vậy.
Kisadubbalasarīrassa pana garu patto asappāyo. Yassa kassaci catupañcagaṇḍikāhato dubbisodhanīyo asappāyova. Duddhotapatto hi na vaṭṭati, taṃ dhovantasseva cassa palibodho hoti. Maṇivaṇṇapatto pana lobhanīyo cīvare vuttanayeneva asappāyo. Nimittakammādivasena laddho pana yañcassa sevamānassa akusalā dhammā abhivaḍḍhanti, kusalā dhammā parihāyanti, ayaṃ ekantaasappāyova. Viparīto sappāyo. Tassa vasenettha sappāyasampajaññaṃ, kammaṭṭhānāvijahanavaseneva ca gocarasampajaññaṃ veditabbaṃ.
Bình bát nặng nề là không thích hợp đối với vị tỳ khưu gầy yếu, có sức khỏe yếu; và bình bát được hàn bằng 4-5 miếng sắt lại với nhau, mài giũa không hoàn thiện, không thích hợp cho bất cứ ai cả. Luôn cả bình bát khó rửa cũng không thích hợp (vì) khi rửa sẽ gặp trở ngại. Còn bình bát nhận được có màu sắc như màu ngọc bích là chỗ vững trú của tham cũng không thích hợp không thích hợp theo phương thức được nói theo phương cách được nói trong chính phần y phục. Hơn nữa, bình bát có được nhờ hành động ra dấu, gợi ý v.v, không thích hợp và bình bát khi vị tỳ khưu sử dụng làm cho các bất thiện tăng trưởng, các thiện pháp suy giảm, bình bát này là hoàn toàn không thích hợp. Bình bát có được trái ngược lại với điều đã nói là thích hợp. Trong trường hợp này, bậc trí nên hiểu rằng “việc nhận thức rõ điếu thích hợp” về phương diện bình bát đó và “việc nhận biết rõ về hành xứ” về phương diện không từ bỏ đề mục thiền.
Abbhantare attā nāma koci pattaṃ gaṇhanto natthi. Vuttappakāracittakiriyavāyodhātuvipphāreneva pana pattaggahaṇaṃ nāma hoti. Tattha pattopi acetano, hatthāpi acetanā. Patto na jānāti ‘‘ahaṃ hatthehi gahito’’ti. Hatthāpi na jānanti ‘‘patto amhehi gahito’’ti. Dhātuyova dhātusamūhaṃ gaṇhanti saṇḍāsena aggivaṇṇapattaggahaṇe viyāti evaṃ pavattapaṭisaṅkhānavasenettha asammohasampajaññaṃ veditabbaṃ.
Không có ai gọi là bản ngã ở bên trong việc cầm lấy bình bát. Chỉ có việc cầm lấy bình bát do nhờ sự khuếch tán của Phong giới sanh lên từ tâm duy tác theo cách thức đã được nói. Ở đây, cả tấm y không có tâm tư, và luôn cả bàn tay cũng không tâm tư, bình bát không biết rằng: “Tôi (bình bát) được ôm lấy bằng bàn tay.” Và bàn tay cũng không biết được: “Bình bát được ôm bởi tôi.” Chỉ có các Đại hay nguyên tố-dhātu được ôm bằng tập hợp các Đại; giống như lấy dụng cụ gắp thức ăn để gắp bình bát ở lò lửa. Do đó, nên biết rằng “vô hỗn loạn tỉnh giác” này về phương diện suy xét điều đang diễn ra như vậy.
Apica yathā chinnahatthapāde vaṇamukhehi paggharitapubbalohitakimikule nīlamakkhikasamparikiṇṇe anāthasālāyaṃ nipanne anāthamanusse disvā dayālukā purisā tesaṃ vaṇapaṭṭacoḷakāni ceva kapālādīhi ca bhesajjāni upanāmenti. Tattha coḷakānipi kesañci saṇhāni, kesañci thūlāni pāpuṇanti. Bhesajjakapālakānipi kesañci susaṇṭhānāni, kesañci dussaṇṭhānāni pāpuṇanti, na te tattha sumanā vā dummanā vā honti. Vaṇappaṭicchādanamatteneva hi coḷakena bhesajjapaṭiggahaṇamatteneva ca kapālakena tesamattho, evameva yo bhikkhu vaṇacoḷakaṃ viya cīvaraṃ, bhesajjakapālakaṃ viya pattaṃ, kapāle bhesajjamiva ca patte laddhaṃ bhikkhaṃ sallakkheti. Ayaṃ saṅghāṭipattacīvaradhāraṇe asammohasampajaññena uttamasampajānakārīti veditabbo.
Lại nữa, cũng giống như sau khi nhìn thấy những người lâm vào hoàn cảnh khó khăn, nằm ngủ ở những ngôi nhà dành cho những người không có nơi nương tựa, cụt tay, cụt chân, máu mủ rỉ ra từ miệng vết thương, đầy những con ruồi đầu xanh bu quanh, một người có đầy lòng thương cảm tìm kiếm vải băng vết thương và thuốc men, cùng với những lọ đựng thuốc mang đến hỗ trợ họ. Trong số những thứ đó, một số người nhận được loại vải có chất liệu tốt mềm mại, nhưng số còn lại lại nhận các loại vải xấu thô cứng. Một số người nhận được lọ đựng thuốc có kiểu dáng đẹp, số còn lại lại nhận được những lọ đựng thuốc có kiểu dáng xấu. Tuy nhiên, chẳng có ai tỏ ra sung sướng hay buồn rầu về những điều đó cả, bởi vì họ chỉ cần vải băng vết thương để băng bó vết thương, và lọ đựng thuốc chỉ dùng để nhận thuốc mà thôi. Vị tỳ khưu nào quán tưởng y phục giống như vải băng vết thương, bình bát giống như lọ đựng thuốc, thức ăn có được trong bình bát tựa như thuốc men trong lọ thuốc. Bậc trí nên biết rằng: đây là vị đang thực hành việc nhận biết rõ cao thượng nhờ “vô hỗn loạn tỉnh giác” trong việc mang y hai lớp, mang bình bát và mặc y phục.
Asitādīsu asiteti piṇḍapātabhojane. Pīteti yāguādipāne. Khāyiteti piṭṭhakhajjakādikhādane. Sāyiteti madhuphāṇitādisāyane. Tattha ‘‘neva davāyā’’tiādinā nayena vutto aṭṭhavidhopi attho attho nāma. Tassa vasena sātthakasampajaññaṃ veditabbaṃ. Lūkhapaṇītatittamadhurādīsu pana yena bhojanena yassa aphāsu hoti, taṃ tassa asappāyaṃ. Yaṃ pana nimittakammādivasena paṭiladdhaṃ, yañcassa bhuñjato akusalā dhammā abhivaḍḍhanti, kusalā dhammā parihāyanti, taṃ ekantaasappāyameva. Viparītaṃ sappāyaṃ. Tassa vasenettha sappāyasampajaññaṃ, kammaṭṭhānāvijahanavaseneva ca gocarasampajaññaṃ veditabbaṃ.
Khi ăn v.v, khi ăn: trong việc thọ dụng vật thực khất thực; khi uống: trong việc uống nước cháo v.v., khi nhai: trong việc nhai và ăn các loại thức ăn được chế biến từ bột v.v., khi nếm: trong việc nếm mật ong và nước mía v.v. Trong việc thọ thực đó, tám điều lợi ích đã được Thế Tôn nói theo phương thức sau: “neva davāyā = không phải để vui đùa” gọi là lợi ích. Nên biết rằng “việc nhận biết rõ điều lợi ích” về phương diện lợi ích đối với vị tỳ khưu ấy. Hơn nữa, loại vật thực nào có được do hành động ra dấu và loại vật thực nào làm cho các bất thiện pháp tăng trưởng, các thiện pháp suy giảm, thì vật thức đó là hoàn toàn không thích hợp. Những vật thực có được trái ngược lại với điều đã nói là thích hợp. Trong việc thọ dụng v.v, này nên biết “việc nhận biết rõ điều thích hợp” về phương diện thích hợp, và “việc nhận biết rõ hành xứ” về phương diện không từ bỏ đề mục thiền.
Abbhantare attā nāma koci bhuñjako natthi, vuttappakāracittakiriyavāyodhātuvipphāravaseneva pana pattapaṭiggahaṇaṃ nāma hoti. Cittakiriyavāyodhātuvipphāreneva hatthassa patte otāraṇaṃ nāma hoti. Cittakiriyavāyodhātuvipphāreneva ālopakaraṇaṃ ālopauddharaṇaṃ mukhavivaraṇañca hoti. Na koci kuñcikāya yantakena ca hanukaṭṭhīni vivarati, cittakiriyavāyodhātuvipphāreneva ālopassa mukhe ṭhapanaṃ, uparidantānaṃ musalakiccasādhanaṃ, heṭṭhādantānaṃ udukkhalakiccasādhanaṃ, jivhāya hatthakiccasādhanañca hoti.
Không có ai gọi là bản ngã ở bên trong là người thọ thực, chỉ có việc cầm lấy bình bát nhờ sự khuếch tán của Phong đại sanh lên từ tâm duy tác theo cách thức đã được nói. Việc hạ tay thấp xuống bình bát cũng nhờ vào sự khuếch tán Phong đại khởi lên từ tâm duy tác mà thôi, việc làm thành một vắt cơm, việc đưa vắt cơm lên miệng và mở miệng ra để đưa vắt cơm vào miệng cũng chỉ do sự khuếch tán phong đại khởi lên từ tâm duy tác. Chẳng ai có thể mở xương hàm bằng chìa khóa và bất kỳ dùng cụ nào cả, chỉ có việc để vắt cơm vào miệng. Răng hàm trên làm nhiệm vụ thay cho cái chày, răng hàm dưới làm nhiệm vụ thay cho cái cối và cái lưỡi có nhiệm vụ thay cho bàn tay, cũng chỉ nhờ vào sự khuếch tán của Phong đại sanh lên từ tâm duy tác.
Iti taṃ tattha aggajivhāya tanukakheḷo mūlajivhāya bahalakheḷo makkheti. Taṃ heṭṭhādantaudukkhale jivhāhatthaparivattitaṃ kheḷaudakatemitaṃ uparidantamusalasañcuṇṇitaṃ koci kaṭacchunā vā dabbiyā vā antopavesento nāma natthi, vāyodhātuyāva pavisati. Paviṭṭhaṃ paviṭṭhaṃ koci palālasantharaṃ katvā dhārento nāma natthi, vāyodhātuvaseneva tiṭṭhati. Ṭhitaṃ ṭhitaṃ koci uddhanaṃ katvā aggiṃ jāletvā pacanto nāma natthi, tejodhātuyāva paccati. Pakkaṃ pakkaṃ koci daṇḍena vā yaṭṭhiyā vā bahi nīhārako nāma natthi, vāyodhātuyeva nīharati.
Như vậy, hàm lượng nhỏ nước bọt ở đầu lưỡi và hàm lượng nước bọt đặc hơn ở cuối lưỡi sẽ hoà vào vắt cơm. Vắt cơm ấy được vo tròn bằng tay, là lưỡi; trong cối giã, là hàm răng dưới; được làm ướt bằng nước bọt và giã nhuyễn bằng cái chày, là hàm răng trên; Không có ai gọi là lấy muỗng hoặc vá đặt vào trong miệng cả. (Vắt cơm) được đặt vào trong miệng do nhờ vào Phong đại. Khi vắt cơm đã vào bên trong cổ họng từ từ xuống (bào tử) chẳng có ai dùng gì để giữ lại (như) trải tấm thảm rơm để tiếp nhận. Vật thực được đưa vào bên trong nhờ vào mãnh lực của Phong đại. Sau khi vật thực được đưa vào bên trong, cũng không có ai đốt lò để nấu chín (vật thực), vật thực được nấu chín nhờ vào Hỏa đại, (vật thực) sau khi đã nấu nhừ, cũng không có ai lấy que hay gậy để đẩy nó ra ngoài, cũng chỉ do Phong đại, mà chính nhờ Phong đại đẩy nó ra ngoài.
Iti vāyodhātu atiharati ca vītiharati ca dhāreti ca parivatteti ca sañcuṇṇeti visoseti ca nīharati ca. Pathavīdhātu dhāreti ca parivatteti ca sañcuṇṇeti ca visoseti ca. Āpodhātu sineheti ca allattañca anupāleti. Tejodhātu antopaviṭṭhaṃ paripāceti. Ākāsadhātu añjaso hoti. Viññāṇadhātu tattha tattha sammāpayogamanvāya ābhujatīti evaṃpavattapaṭisaṅkhānavasenettha asammohasampajaññaṃ veditabbaṃ.
Chính vì thế Phong đại đưa (vắt cơm) vào, đưa (vắt cơm) ra, giữ (vắt cơm) lại, xoay tròn (vắt cơm) tới lui, nghiền nát (vắt cơm), làm cho khố và đẩy (vật thực cũ) ra ngoài. Địa đại giữ lại (vắt cơm), xoay tròn tới lui, và nghiền nát (vắt cơm). Thuỷ đại khiến (vật thưc) được kết dính, và giữ cho tươi. Hoả đại tiêu hóa thức ăn đi vào bên trong. Hư không giới (ākāsadhātu) là tách vật thực thành từng phần. Thức giới (viññāṇadhātu) biết rõ dựa trên sự kết hợp đúng đắn trong nguyên tố đó. Nên biết rằng “vô hỗn loạn tỉnh giác” trong việc thọ dụng vật thực này về phương diện suy xét được vận hành như vậy.
Apica gamanato pariyesanato paribhogato āsayato nidhānato aparipakkato paripakkato phalato nissandato sammakkhaṇatoti evaṃ dasavidhapaṭikūlabhāvapaccavekkhaṇatopettha asammohasampajaññaṃ veditabbaṃ. Vitthārakathā panettha visuddhimagge āhārapaṭikūlasaññāniddesato gahetabbā.
Lại nữa, hành giả nên biết việc nhận biết rõ về sự mê lầm trong phần nhận biết rõ bằng việc quan sát 10 sự ghê tởm là (1) Việc đi đến nơi có vật thực; (2) việc tìm kiếm vật thực; (3) do dùng vật thực; (4) do chỗ vật thực nương nhờ; (5) Việc chứa đựng; (6) Do vật thực chưa tiêu hóa; (7) Do vật thực đã tiêu hóa rồi; (8) Do hiệu quả; (9) Do hấp thụ và đào thải; (10) Do dính bẩn. Còn giải thích chi tiết phần tỉnh giác này nên được tham khảo trong phần giảng giải về quán tưởng tính chất ghê tởm của vật thực trong bộ Visuddhimaga.
Uccārapassāvakammeti uccārassa ca passāvassa ca karaṇe. Tattha pattakāle uccārapassāvaṃ akarontassa sakalasarīrato sedā muccanti, akkhīni bhamanti, cittaṃ na ekaggaṃ hoti, aññe ca rogā uppajjanti. Karontassa pana sabbaṃ taṃ na hotīti ayamettha attho. Tassa vasena sātthakasampajaññaṃ veditabbaṃ. Aṭṭhāne uccārapassāvaṃ karontassa pana āpatti hoti, ayaso vaḍḍhati, jīvitantarāyo hoti. Patirūpe ṭhāne karontassa sabbaṃ taṃ na hotīti idamettha sappāyaṃ. Tassa vasena sappāyasampajaññaṃ, kammaṭṭhānāvijahanavaseneva ca gocarasampajaññaṃ veditabbaṃ.
Trong việc đại tiện tiểu tiện: trong hành động đại tiện và tiểu tiện. Việc đào thải phân và nước tiểu do đến giờ (buộc phải đi), nếu phân và nước không được đào thải ra ngoài thì toàn thân sẽ toát mồ hôi, tròng mắt sẽ nhoè đi, hoa mắt, tâm không đạt được định tĩnh, và những tật bệnh khác cũng có thể sẽ phát sanh, nhưng khi được đào thải thì sẽ không có chuyện gì xảy ra, đây là ý nghĩa giải thích trong việc đại tiện và tiểu tiện. Nên hiểu rằng “việc nhận biết rõ điều lợi ích” về phương diện ý nghĩa đó. Hơn nữa, vị tỳ khưu đi đại tiện và tiểu tiện ở nơi không thích hợp phạm tội āpatti, mất danh tiếng, nguy hiểm đến tánh mạng. Nhưng khi đi đại tiện và tiểu tiện ở đúng nơi quy định thì tất cả điều đó sẽ không có (không vi phạm āpatti v.v.,). Vì thế, đi đại tiện và tiểu tiện đúng nơi quy định gọi là điều thích hợp, “việc nhận biết điều lợi ích” nên hiểu theo khía cạnh lợi ích ấy. Còn “việc nhận biết rõ hành xứ” nên hiểu theo khía cạnh không từ bỏ đề mục thiền.
Abbhantare attā nāma koci uccārapassāvaṃ karonto natthi. Cittakiriyavāyodhātuvipphāreneva pana uccārapassāvakammaṃ hoti. Yathā pana pakke gaṇḍe gaṇḍabhedena pubbalohitaṃ akāmatāya nikkhamati, yathā ca atibharitā udakabhājanā udakaṃ akāmatāya nikkhamati, evaṃ pakkāsayamuttavatthīsu sannicitā uccārapassāvā vāyuvegasamuppīḷitā akāmatāyapi nikkhamanti. So panāyaṃ evaṃ nikkhamanto uccārapassāvo neva tassa bhikkhuno attano hoti, na parassa. Kevalaṃ sarīranissandova hoti. Yathā kiṃ? Yathā udakakumbhato purāṇaudakaṃ chaḍḍentassa neva taṃ attano hoti, na paresaṃ. Kevalaṃ paṭijagganamattameva hoti. Evaṃpavattapaṭisaṅkhānavasenettha asammohasampajaññaṃ veditabbaṃ.
Không có ai gọi là bản ngã ở bên trong việc đi đại tiện và tiểu tiện. Chỉ có việc đại tiện và tiểu tiện do nhờ sự khuếch tán của Phong đại khởi lên từ tâm tố. Điều này giống như một ung nhọt đã già, mủ và máu tự chảy ra dù không mong muốn ung nhọt bị vỡ; hoặc giống như nước tự tràn ra khỏi bình đựng được chứa đầy nước, dù không mong muốn(tràn ra); Tương tự như thế, phân và nước tiểu được chứa trong ruột già và bàng quang, khi bị lực đẩy của chất gió ép mạnh, nó tự đào thải ra ngoài, dù chẳng ai muốn xuất ra. Phân và nước tiểu này đây khi thải ra như vậy, chúng không thuộc về tự ngã của vị tỳ khưu ấy, mà cũng không thuộc về ai khác, chỉ là các chất cặn bã được cơ thể bài tiết. Giống như điều gì? Giống như khi một người đổ nước bẩn từ chum nước ra ngoài, nước bẩn ấy không phải của tự ngã, cũng không phải của ai khác. Đó chỉ đơn giản là (hành động) rửa sạch chum nước; Ở đây, nên biết rằng “việc nhận biết rõ về sự mê lầm” về phương diện xem xét về những điều đang diễn ra như vậy.
Gatādīsu gateti gamane. Ṭhiteti ṭhāne. Nisinneti nisajjāya. Sutteti sayane. Jāgariteti jāgaraṇe. Bhāsiteti kathane. Tuṇhībhāveti akathane. ‘‘Gacchanto vā gacchāmīti pajānāti, ṭhito vā ṭhitomhīti pajānāti, nisinno vā nisinnomhīti pajānāti, sayāno vā sayānomhīti pajānātī’’ti imasmiñhi ṭhāne addhānairiyāpathā kathitā. ‘‘Abhikkante paṭikkante ālokite vilokite samiñjite pasārite’’ti imasmiṃ majjhimā. ‘‘Gate ṭhite nisinne sutte jāgarite’’ti idha pana khuddakacuṇṇikairiyāpathā kathitā. Tasmā etesupi vuttanayeneva sampajānakāritā veditabbā.
Nên biết lý giải việc đi v.v., như sau: – khi đi: trong khi đi tới; khi đứng: trong khi đứng; khi ngồi: trong khi ngồi; khi nằm: trong khi nằm; khi thức: trong khi thức giấc; khi nói: trong khi nói; khi im lặng: trong khi im lặng. Trong bài kinh này “vị tỳ khưu trong khi đi (vị ấy) tuệ tri ‘tôi đi’; trong khi đứng (vị ấy) tuệ tri ‘tôi đứng’; trong khi ngồi (vị ấy) tuệ tri ‘tôi ngồi’; trong khi nằm (vị ấy) tuệ tri ‘tôi nằm’” (ngài) nói đến oai nghi dài oai dài lâu (hay đại oai nghi, vì được thực hiện trong thời gian dài lâu). “Khi bước tới, khi bước lui, khi nhìn trước, khi nhìn trái nhìn phải, khi co tứ chi vào, và duỗi tứ chi ra” (ngài) nói đến các oai nghi trung bình. Nhưng trong phần này chỉ nói đến tiểu oai nghi: “trong khi đi, trong khi đứng, trong khi ngồi, trong khi nằm, trong khi thức giấc.” Do đó, nên biết rằng – hành giả luôn thực hành trong việc nhận biết rõ với phương thức đã được nói đó.
Tipiṭakamahāsīvatthero panāha – yo ciraṃ gantvā vā caṅkamitvā vā aparabhāge ṭhito iti paṭisañcikkhati ‘‘caṅkamanakāle pavattā rūpārūpadhammā ettheva niruddhā’’ti, ayaṃ gate sampajānakārī nāma. Yo sajjhāyaṃ vā karonto pañhaṃ vā vissajjento kammaṭṭhānaṃ vā manasikaronto ciraṃ ṭhatvā aparabhāge nisinno iti paṭisañcikkhati ‘‘ṭhitakāle pavattā rūpārūpadhammā ettheva niruddhā’’ti, ayaṃ ṭhite sampajānakārī nāma. Yo sajjhāyādikaraṇavaseneva ciraṃ nisīditvā aparabhāge nipanno iti paṭisañcikkhati ‘‘nisinnakāle pavattā rūpārūpadhammā ettheva niruddhā’’ti, ayaṃ nisinne sampajānakārī nāma. Yo pana nipannako sajjhāyaṃ vā karonto kammaṭṭhānaṃ vā manasikaronto niddaṃ okkamitvā aparabhāge vuṭṭhāya iti paṭisañcikkhati ‘‘sayanakāle pavattā rūpārūpadhammā ettheva niruddhā’’ti, ayaṃ sutte jāgarite ca sampajānakārī nāma. Kiriyamayacittānañhi appavattaṃ suttaṃ nāma, pavattaṃ jāgaritaṃ nāmāti. Yo pana bhāsamāno ‘‘ayaṃ saddo nāma oṭṭhe ca paṭicca dante ca jivhañca tāluñca paṭicca cittassa tadanurūpaṃ payogaṃ paṭicca jāyatī’’ti sato sampajāno bhāsati, ciraṃ vā pana kālaṃ sajjhāyaṃ vā katvā dhammaṃ vā kathetvā kammaṭṭhānaṃ vā parivattetvā pañhaṃ vā vissajjetvā aparabhāge tuṇhībhūto iti paṭisañcikkhati ‘‘bhāsitakāle uppannā rūpārūpadhammā ettheva niruddhā’’ti, ayaṃ bhāsite sampajānakārī nāma. Yo tuṇhībhūto ciraṃ dhammaṃ vā kammaṭṭhānaṃ vā manasikatvā aparabhāge iti paṭisañcikkhati ‘‘tuṇhībhūtakāle pavattā rūpārūpadhammā ettheva niruddhā, upādārūpapavattiyā sati bhāsati nāma, asati tuṇhī bhavati nāmā’’ti, ayaṃ tuṇhībhāve sampajānakārī nāmāti.
Lại nữa, ngài trưởng lão Mahāsiva, bậc thống suốt Tam tạng đã nói rằng – Vị tỳ khưu nào sau khi đi, hoặc sau khi kinh hành trong thời gian dài, khi đã đứng, quán chiếu như vầy: “Sắc pháp và Vô sắc pháp được vận hành trong lúc đi kinh hành, đã diệt đi ngay trong lúc đó (trong lúc đứng lại)”. Vị tỳ khưu này được gọi là có sự nhận biết rõ khi đi. Vị nào trong khi thực hiện việc trì tụng, trong khi giải quyết vấn đề hoặc trong khi tác ý đến đề mục thiền, khi đã đứng quá lâu, kế đó, đã ngồi xuống quán chiếu như vầy – “Sắc pháp và Vô sắc pháp được vận hành trong lúc đứng, đã diệt ngay chính trong lúc đó”. Vị tỳ khưu này được gọi là có sự nhận biết rõ khi đứng. Vị nào khi đã ngồi lâu để thực hiện việc trì tụng v.v., sau đó, đã nằm, quán chiếu như vầy như vầy: “Sắc pháp và Vô sắc pháp được vận hành trong lúc ngồi, đã diệt ngay trong lúc đó”. Vị tỳ khưu này được gọi là có sự nhận biết rõ khi ngồi. Thêm nữa, vị nào khi đang nằm thực hiện việc trì tụng hoặc trong khi tác ý đến đề mục thiền, sau đó đi vào (trạng thái) ngủ, khi đứng dậy quán chiếu như vầy: “Sắc pháp và Vô sắc pháp được vận hành trong lúc nằm, đã diệt ngay trong lúc đó”. Vị tỳ khưu này được gọi là có sự nhận biết rõ khi nằm và khi thức. Bởi vì tâm ngưng lại mọi hành động (kiriyamayacittā) không vận hành (không tạo thành lộ trình tâm) được gọi là ngủ, và cả khi tỉnh thức. Do đó, vị ấy được gọi là thực hiện việc nhận thức rõ [sự biết mình] trong lúc ngủ và cả trong lúc thức giấc. Còn vị nào trong khi đang nói có niệm, có sự nhận biết rõ rằng: “Âm thành này xuất phát do nương vào bờ môi, do dựa vào răng, vào lưỡi, và dựa vào vòm miệng, và do sự cố gắng phù hợp đối với vấn đề đó của tâm”. Lại nữa, vị nào đã thực hiện trì tụng, hoặc đã thuyết pháp, hoặc đã tiến hành (thực hiện) đề mục thiền, hoặc giải đáp câu hỏi trong thời gian dài, sau đó (vị ấy) đã giữ im lặng (rồi) quán chiếu như vầy: “Sắc pháp và Vô sắc pháp được vận hành trong khi nói, đã diệt ngay trong lúc đó”. Vị đó được gọi là có sự nhận biết rõ khi nói. Vị nào khi tĩnh lặng, đã tác ý pháp hoặc đề mục thiền định, sau đó quán chiếu thấy rằng: “Sắc pháp và Vô sắc pháp được vận hành trong khi giữ im lặng, đã diệt ngay trong lúc đó”. Bởi vì khi Sắc y sinh-upādārūpa khởi lên gọi là nói, khi không sanh gọi là an tịnh (do tâm vắng lặng)”. Vị đó được gọi là có sự nhận biết rõ khi ở trạng thái im lặng.
Tayidaṃ mahāsīvattherena vuttaṃ asammohadhuraṃ imasmiṃ satipaṭṭhānasutte adhippetaṃ. Sāmaññaphale pana sabbampi catubbidhaṃ sampajaññaṃ labbhati. Tasmā visesato ettha asammohasampajaññasseva vasena sampajānakāritā veditabbā. Sampajānakārī sampajānakārīti ca sabbapadesu satisampayuttasseva sampajaññassa vasenattho veditabbo. Vibhaṅgappakaraṇe pana, ‘‘sato sampajāno abhikkamati, sato sampajāno paṭikkamatī’’ti (vibha. 523) evametāni padāni vibhattāneva.
Vấn đề này đây đã được nói bởi đại trưởng lão Mahāsiva, phận sự nhận biết rõ về sự mê lầm ngài muốn đề cập trong bài Kinh Thiết Lập Niệm này. Hơn nữa, trong bài Kinh Sa Môn Quả (vị ấy) đạt được bốn sự nhận biết rõ hoặc tất cả. Do đó, nên biết vị có sự nhận biết rõ do tác động của bốn sự nhận thức rõ ở trong trường hợp này theo phương thức đã nói. Và “có sự nhận biết rõ” nên biết ý nghĩa do tác động của sự nhận biết rõ tương ưng với niệm ở các câu (rằng) ‘vị có sự nhận biết rõ….’ Vả lại trong bộ Phân Tích đức Thế Tôn cũng đã phân tích câu này như vầy: “Hành giả có niệm, có sự nhận thức rõ (vị ấy) bước tới; có niệm, có sự nhận thức rõ (vị ấy) bước lui”. (vibha. 523);
Iti ajjhattaṃ vāti evaṃ catusampajaññapariggahaṇena attano vā kāye, parassa vā kāye, kālena vā attano, kālena vā parassa kāye kāyānupassī viharati. Idha samudayavayadhammānupassītiādīsu rūpakkhandhasseva samudayo ca vayo ca nīharitabbo. Sesaṃ vuttasadisameva.
Như vậy …. thuộc nội phần: Vị ấy có sự quan sát thân trong nội thân của chính mình, hoặc của người khác, trong thân của mình hợp thời, hoặc thân của người khác hợp thời bằng việc ghi nhận với bốn sự nhận biết rõ. Trong bốn sự nhận biết rõ cũng cần phải lấy sự sanh khởi, sự hoại diệt của chính sắc uẩn để đặt vào cụm từ “hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi và hoại diệt”. Các từ còn lại tương tự như những từ đã được trình bày trước đó.
Idha catusampajaññapariggāhikā sati dukkhasaccaṃ, tassā samuṭṭhāpikā purimataṇhā samudayasaccaṃ, ubhinnaṃ appavatti nirodhasaccaṃ, vuttappakāro ariyamaggo maggasaccaṃ. Evaṃ catusaccavasena ussakkitvā nibbutiṃ pāpuṇātīti idamekassa catusampajaññapariggāhakassa bhikkhuno vasena yāva arahattā niyyānamukhanti.
Niệm ghi nhận bốn sự nhận thức rõ là Khổ Đế, tham ái quá khứ làm cho niệm ấy sanh khởi là Tập Đế, sự không diễn tiến của cả hai là Diệt Đế, Thánh đạo có tính chất nói trên là Đạo đế. Sau khi ra sức tinh tấn do tác động Bốn Đế đạt đến sự tịch tịnh; đây là con đường dẫn dắt ra khỏi mọi khổ đau cho đến quả vị A-ra-hán của vị tỳ khưu do nhờ tác động của sự ghi nhận một trong bốn sự nhận thức rõ.
Giải Thích Phần Tỉnh Giác Kết Thúc
Giải thích phần tác ý vật ghê tởm
- Evaṃ catusampajaññavasena kāyānupassanaṃ vibhajitvā idāni paṭikūlamanasikāravasena vibhajituṃ puna caparantiādimāha. Tattha imameva kāyantiādīsu yaṃ vattabbaṃ siyā, taṃ sabbaṃ sabbākārena vitthārato visuddhimagge kāyagatāsatikammaṭṭhāne vuttaṃ. Ubhatomukhāti heṭṭhā ca upari cāti dvīhi mukhehi yuttā. Nānāvihitassāti nānāvidhassa.
Sau khi phân tích việc quan sát thân dựa trên bốn việc nhận thức rõ như vậy, bây giờ, để phân tích thông qua tác ý vật ghê tởm ngài đã nói rằng: “còn có điều khác nữa, v.v.” Trong phần đó, “chính thân này v.v,” từ nào cần được nói, tất cả những từ đó đã được nói đến trong phần đề mục thiền định niệm hướng đến thân thuộc Thanh Tịnh Đạo với đầy đủ mọi khía cạnh một cách chi tiết. Có miệng ở cả hai đầu: (bao tải) buộc miệng ở hai đầu là miệng trên và miệng dưới. Nhiều loại khác nhau: Có nhiều loại khác nhau.
Idaṃ panettha opammasaṃsandanaṃ – ubhatomukhā putoḷi viya hi cātumahābhūtiko kāyo, tattha missetvā pakkhittanānāvidhadhaññaṃ viya kesādayo dvattiṃsākārā, cakkhumā puriso viya yogāvacaro, tassa taṃ putoḷiṃ muñcitvā paccavekkhato nānāvidhadhaññassa pākaṭakālo viya yogino dvattiṃsākārassa vibhūtākāro veditabbo.
Trong vấn đề này có ví dụ so sánh như sau – Thân được cấu thành từ bốn đại (đất, nước, lửa, gió) giống như một cái bao tải có miệng ở hai đầu. Ba mươi hai bộ phận (của cơ thể) như tóc, v.v, được ví như nhiều loại hạt trộn lẫn với nhau trong chiếc bao tải ấy. Hành giả được ví như người đàn ông có đôi mắt tốt, thời điểm khi ba mươi hai bộ phận hiển lộ rõ ràng đối với hành giả thì nên biết rằng cũng giống như thời điểm hiện rõ của các loại hạt khác nhau đối với người nông dân khi mở chiếc bao ấy ra và xem xét.
Iti ajjhattaṃ vāti evaṃ kesādipariggahaṇena attano vā kāye, parassa vā kāye, kālena vā attano, kālena vā parassa kāye kāyānupassī viharati, ito paraṃ vuttanayameva. Kevalañhi idha dvattiṃsākārapariggāhikā sati dukkhasaccanti evaṃ yojanaṃ katvā niyyānamukhaṃ veditabbaṃ. Sesaṃ purimasadisamevāti.
Như vậy …. thuộc nội phần: vị ấy sống có sự quan sát thân trên thân của chính mình, hoặc trên thân của người khác, hoặc trên thân của mình hợp thời, hoặc trên thân của người khác hợp thời bằng việc xác định tóc, v.v. Những từ tiếp theo trong đoạn này có thể áp dụng theo cách đã được nêu trước. Ở phần này điểm khác biệt duy nhất là cần được phối hợp ý nghĩa như sau– niệm ghi nhận ba mươi hai bộ phận là Khổ Đế, nên biết rằng đây là con đường dẫn dắt ra khỏi khổ đau. Những từ còn lại ngoài những từ đã giải thích thì tương tự những từ trước đó.
Phần tác ý vật ghê tởm được kết thúc
Giải thích phần tác ý nguyên tố
- Evaṃ paṭikūlamanasikāravasena kāyānupassanaṃ vibhajitvā idāni dhātumanasikāravasena vibhajituṃ puna caparantiādimāha. Tatrāyaṃ opammasaṃsandanena saddhiṃ atthavaṇṇanā – yathā koci goghātako vā tasseva vā bhattavetanabhato antevāsiko gāviṃ vadhitvā vinivijjhitvā catasso disā gatānaṃ mahāpathānaṃ vemajjhaṭṭhānasaṅkhāte catumahāpathe koṭṭhāsaṃ koṭṭhāsaṃ katvā nisinno assa, evameva bhikkhu catunnaṃ iriyāpathānaṃ yena kenaci ākārena ṭhitattā yathāṭhitaṃ, yathāṭhitattā ca yathāpaṇihitaṃ kāyaṃ – ‘‘atthi imasmiṃ kāye pathavīdhātu…pe… vāyodhātū’’ti evaṃ paccavekkhati.
Sau khi phân tích việc quan sát thân thông qua dựa vào tác ý vật ghê tởm như vậy, giờ đây để phân tích dựa vào tác ý nguyên tố ngài đã nhắc đến rằng “còn có điều khác nữa, v.v.” Trong phần này, ngài giải thích ý nghĩa cùng với một ẩn dụ như sau: Cũng giống như một số người đồ tể hoặc học trò của người đồ tể lành nghề được nuôi dưỡng nhờ vào vật thực và tiền thù lao, sau khi giết chết con bò cái phân chia thành từng phần rồi ngồi ở ngã tư đường lớn, chỗ giao nhau giữa các con đường lớn nơi có thể đi được cả bốn hướng; tương tự như vậy vị tỳ khưu xem xét thân này dựa trên cách sắp xếp trong trạng thái vững chắc gắn liền với một trong bốn biểu hiện của bốn oai nghi (đi, đứng, nằm, ngồi), theo cách được bố trí và theo cách được vận hành như vầy: “Trong thân này có nguyên tố đất, ….nt…. nguyên tố gió.’”
Kiṃ vuttaṃ hoti – yathā goghātakassa gāviṃ posentassāpi āghātanaṃ āharantassāpi āharitvā tattha bandhitvā ṭhapentassāpi vadhentassāpi vadhitaṃ mataṃ passantassāpi tāvadeva gāvīti saññā na antaradhāyati, yāva naṃ padāletvā bīlaso na vibhajati. Vibhajitvā nisinnassa pana gāvīti saññā antaradhāyati, maṃsasaññā pavattati, nāssa evaṃ hoti ‘‘ahaṃ gāviṃ vikkiṇāmi, ime gāviṃ harantī’’ti. Atha khvassa ‘‘ahaṃ maṃsaṃ vikkiṇāmi, ime maṃsaṃ haranti’’cceva hoti, evameva imassāpi bhikkhuno pubbe bālaputhujjanakāle gihibhūtassāpi pabbajitassāpi tāvadeva sattoti vā puggaloti vā saññā na antaradhāyati, yāva imameva kāyaṃ yathāṭhitaṃ yathāpaṇihitaṃ ghanavinibbhogaṃ katvā dhātuso na paccavekkhati. Dhātuso paccavekkhato panassa sattasaññā antaradhāyati, dhātuvaseneva cittaṃ santiṭṭhati. Tenāha bhagavā – ‘‘imameva kāyaṃ yathāṭhitaṃ yathāpaṇihitaṃ dhātuso paccavekkhati, atthi imasmiṃ kāye pathavīdhātu āpodhātu tejodhātu vāyodhātūti. Seyyathāpi, bhikkhave, dakkho goghātako vā…pe… vāyodhātū’’ti.
Ngài giải thích như thế nào? Ngài giải thích rằng – Cũng giống như người đồ tể đang nuôi con bò cái, hoặc dẫn đến lò mổ, hoặc sau khi dẫn đến đã trói lại tại đó, hoặc đang giết thịt, hoặc nhìn thấy con bò cái đã bị giết, thì suy nghĩ: con bò cái chưa biến mất cho đến khi người ấy xẻ ra thành từng phần, nhưng khi người ấy xẻ ra từng phần thì suy nghĩ: ‘con bò đã biến mất’. Chỉ nghĩ về ‘thịt con bò’ người ấy không nghĩ rằng: ‘ta bán con bò cái, những người này mua con bò cái’. Thực chất người ấy nghĩ rằng: “ta bán thịt bò, những người này mua thịt bò”; vị tỳ khưu này cũng tương tự như vậy, trước đây khi còn là phàm phu ngu ngu muội dầu là cư sĩ, hay người xuất gia thì suy nghĩ: ‘chúng sanh hoặc cá nhân’ vẫn không biến mất ngay tại thời điểm không xem xét thân này theo cách được bố trí, theo cách được vận hành tách ra từ một khối về khía cạnh nguyên tố. Còn khi vị ấy xem xét về bản chất các nguyên tố thì suy nghĩ về chúng sanh biến mất, tâm được an trú theo bản chất các nguyên tố. Do đó, đức Thế Tôn mới nói rằng: “Vị tỳ khưu xem xét chính thân này theo cách được bố trí, theo cách được vận hành về khía cạnh nguyên tố: ‘Ở thân này có nguyên tố đất, nguyên tố nước, nguyên tố lửa, nguyên tố gió’. Cũng giống như người đồ tể hoặc học trò của người đồ tể lành nghề hoặc -nt- nguyên tố gió.’”
Goghātako viya hi yogī, gāvīti saññā viya sattasaññā, catumahāpatho viya catuiriyāpatho, bīlaso vibhajitvā nisinnabhāvo viya dhātuso paccavekkhaṇanti ayamettha pāḷivaṇṇanā, kammaṭṭhānakathā pana visuddhimagge vitthāritā.
Thật vậy, hành giả giống như người đồ tể, suy nghĩ về chúng sanh tương tự như suy nghĩ về con bò, bốn oai nghi được ví như con đường giao nhau nơi có bốn ngã, việc xem xét thân dựa trên bản chất các nguyên tố được ví như (hành động) người đồ tể phân chia thịt thành từng phần. Đây là sự giải thích ý nghĩa của từ Pāḷī liên quan đến tác ý về các nguyên tố. Bên cạnh đó, ngài đã giải thích chi tiết lời dạy liên quan đến các đề mục thiền định trong Thanh Tịnh Đạo.
Iti ajjhattaṃ vāti evaṃ catudhātupariggahaṇena attano vā kāye, parassa vā kāye, kālena vā attano, kālena vā parassa kāye kāyānupassī viharati. Ito paraṃ vuttanayameva. Kevalañhi idha catudhātupariggāhikā sati dukkhasaccanti evaṃ yojanaṃ katvā niyyānamukhaṃ veditabbaṃ. Sesaṃ purimasadisamevāti.
Như vậy …nt… thuộc nội phần: vị ấy sống có sự quan sát thân trên thân của mình, hoặc của người khác, quan sát thân trên thân của mình hợp thời, hoặc trong thân của người khác hợp thời với sự quan sát về bốn nguyên tố. Các câu tiếp theo kể từ đây đều có cách thức như đã đề cập. Ở phần này điểm khác biệt duy nhất là cần được phối hợp ý nghĩa như vầy – niệm ghi nhận bốn nguyên tố là Khổ Đế, nên biết rằng đây là con đường dẫn dắt ra khỏi khổ đau. Những từ còn lại ngoài những từ đã được giải thích thì tương tự những từ trước đó.
Giải thích tác ý nguyên tố được kết thúc
Giải thích việc quan sát tử thi nơi nghĩa địa
- Evaṃ dhātumanasikāravasena kāyānupassanaṃ vibhajitvā idāni navahi sivathikapabbehi vibhajituṃ, puna caparantiādimāha. Tattha seyyathāpi passeyyāti yathā passeyya. Sarīranti matasarīraṃ. Sivathikāya chaḍḍītanti susāne apaviddhaṃ. Ekāhaṃ matassa assāti ekāhamataṃ. Dvīhaṃ matassa assāti dvīhamataṃ. Tīhaṃ matassa assāti tīhamataṃ. Bhastā viya vāyunā uddhaṃ jīvitapariyādānā yathānukkamaṃ samuggatena sūnabhāvena uddhumātattā uddhumātakaṃ. Vinīlaṃ vuccati viparibhinnavaṇṇaṃ. Vilīnameva vinīlakaṃ. Paṭikūlattā vā kucchitaṃ vinīlanti vinīlakaṃ. Maṃsussadaṭṭhānesu rattavaṇṇassa pubbasannicayaṭṭhānesu setavaṇṇassa yebhuyyena ca nīlavaṇṇassa nīlaṭṭhānesu nīlasāṭakapārutasseva chavasarīrassetaṃ adhivacanaṃ. Paribhinnaṭṭhānehi navahi vā vaṇamukhehi visandamānaṃ pubbaṃ vipubbaṃ. Vipubbameva vipubbakaṃ, paṭikūlattā vā kucchitaṃ vipubbanti vipubbakaṃ. Vipubbakaṃ jātaṃ tathābhāvaṃ gatanti vipubbakajātaṃ.
Sau khi phân tích việc quan sát thân qua việc quán bốn nguyên tố như vậy, bây giờ để phân tích chín loại thi thể ở bãi tha ma mới nói rằng– “còn có điều khác nữa”. Ở đấy, cũng giống như … nhìn thấy: cũng giống như nhìn thấy. Thân xác: thi thể của người chết. Bị quăng bỏ ở bãi tha ma: bị quăng bỏ ở nghĩa địa; Thi thể đã chết một ngày là đã chết một ngày; Thi thể đã chết hai ngày gọi là đã chết hai ngày; Thi thể đã chết ba ngày gọi là đã chết ba ngày. Giống như túi bơm của người thợ kim hoàng bị phồng lên bởi khí, cũng vậy thi thể bị trương sình, bởi vì là một thi thể đã sưng phồng, và là một thi thể đang trong giai đoạn phân hủy theo trình tự kể từ khi chấm dứt mạng sống, thi thể phồng to đó được gọi là thi thể đã bị trương sình. Hoặc là, thi thể phồng to đáng ghê tởm bởi vì là vật có tính chất đáng nhờm gớm (vì lý do đó) gọi là thi thể đã bị trương sình. Thi thể có các màu sắc khác nhau pha lẫn xanh đen gọi là thi thể có màu xanh, chính thi thể có màu xanh ấy gọi là thi thể đã đổi màu xanh. Hoặc là, thi thể có màu xanh thật đáng kinh tởm bởi có tính chất vật ghê tởm nên gọi là thi thể đã đổi màu xanh. Điều này là đồng nghĩa với thi thể có màu đỏ ở vùng da thịt bị sưng phồng, có màu trắng ở chỗ có mủ bị tích tụ lại, và hầu hết là màu xanh ở những vùng đáng lẽ có màu xanh như thể được phủ lại với tấm vải màu xanh. Thi thể tiết ra nước vàng từ các vết nứt ở chín lỗ trên cơ thể gọi là thi thể có trạng thái chảy nước vàng. Chính thi thể tiết ra nước vàng gọi là có trạng thái chảy nước vàng. Vả lại, trạng thái chảy nước vàng đáng kinh tởm bởi có tính chất vật ghê tởm nên mới gọi là thi thể có trạng thái chảy nước vàng. Thi thể đã chuyển sang giai đoạn chảy nước vàng, đã đi đến tính chất như thế gọi là thi thể đã có trạng thái chảy nước vàng.
So imameva kāyanti so bhikkhu imaṃ attano kāyaṃ tena kāyena saddhiṃ ñāṇena upasaṃharati upaneti. Kathaṃ? Ayampi kho kāyo evaṃdhammo evaṃbhāvī evaṃanatītoti. Idaṃ vuttaṃ hoti – āyu, usmā, viññāṇanti imesaṃ tiṇṇaṃ dhammānaṃ atthitāya ayaṃ kāyo ṭhānagamanādikhamo hoti, imesaṃ pana vigamā ayampi kho kāyo evaṃdhammo evaṃ pūtikasabhāvoyeva, evaṃbhāvī evaṃ uddhumātādibhedo bhavissati, evaṃanatīto evaṃ uddhumātādibhāvaṃ anatikkantoti. Iti ajjhattaṃ vāti evaṃ uddhumātādipariggaṇhanena attano vā kāye, parassa vā kāye, kālena vā attano, kālena vā parassa kāye kāyānupassī viharati.
Vị ấy so sánh chính thân này (với tử thi ấy): vị tỳ khưu ấy đã đem chính thân này so sánh với tử thi ấy bằng trí tuệ. So sánh như thế nào? So sanh như vầy: “Thân này cũng có tính chất giống như vậy, có bản chất như vậy, không thể vượt qua điều ấy”. Điều này được nói là— Thân này có thể chịu đựng để đứng, đi lại, v.v, nhờ vào sự tồn tại của ba Pháp này là tuổi thọ (āyu), hơi ấm (usma), và thức (viññāṇa). Tuy nhiên, khi ba yếu tố này tách rời, thân thể này cũng có tính chất như vậy: là có bản chất thối rữa như vậy; Có bản chất như vậy: sẽ trở nên trương sình như vậy, v.v. Không vượt qua điều ấy: không thoát khỏi tính chất trương sình như vậy, v.v. Như vậy …. thuộc nội phần: vị ấy sống có sự quan sát thân trên thân của mình, hoặc trên thân của người khác, quan sát thân của mình hợp thời, hoặc trên thân của người khác hợp thời với sự quán chiếu tử thi bị trương sình, v.v, như vậy.
Khajjamānanti udarādīsu nisīditvā udaramaṃsaoṭṭhamaṃsaakkhikūṭādīni luñcitvā luñcitvā khādiyamānaṃ. Samaṃsalohitanti sesāvasesamaṃsalohitayuttaṃ. Nimaṃsalohitamakkhitanti maṃse khīṇepi lohitaṃ na sussati, taṃ sandhāya vuttaṃ ‘‘nimaṃsalohitamakkhita’’nti. Aññenāti aññena disābhāgena. Hatthaṭṭhikanti catusaṭṭhibhedampi hatthaṭṭhikaṃ pāṭiyekkaṃ vippakiṇṇaṃ. Pādaṭṭhikādīsupi eseva nayo. Terovassikānīti atikkantasaṃvaccharāni. Pūtīnīti abbhokāse ṭhitāni vātātapavuṭṭhisamphassena terovassikāneva pūtīni honti. Antobhūmigatāni pana cirataraṃ tiṭṭhanti. Cuṇṇakajātānīti cuṇṇaṃ cuṇṇaṃ hutvā vippakiṇṇāni. Sabbattha so imamevāti vuttanayena khajjamānādīnaṃ vasena yojanā kātabbā.
Đang bị ăn: Thi thể bị các loài quạ, kền kền v.v, ăn thịt, sau khi chộp lấy các bộ phận trên cơ thể như bụng, v.v, chúng đã kéo thịt ở bụng, thịt ở môi, nhãn cầu, v.v, ra ăn. Vẫn còn thịt và máu: Vẫn còn thịt và máu, tức là thi thể vẫn còn sót lại thịt và máu. Dù không còn thịt nhưng bị lấm lem bởi máu: Dù không còn thịt nhưng bị lắm lem bởi máu, tức là khi thịt đã hết, nhưng máu vẫn chưa bị khô; đức Thế Tôn ám chỉ đến trạng thái này nên mới nói rằng: “Dù không còn thịt nhưng bị lấm lem bởi máu”. Các hướng: ở các phương hướng khác; Xương bàn tay: xương bàn tay có đến 64 loại nằm vương vãi khắp nơi, luôn cả xương bàn chân v.v., cũng có tình trạng tương tự. Đã hơn một năm: (thời gian) đã trải qua hơn một năm. Hôi thối mục nát: đã hơn một năm các mẩu xương đặt ở ngoài trời bị hôi thối mục nát do tiếp xúc với gió, nắng và mưa, trong khi đó những mẩu xương nằm dưới mặt đất tồn tại lâu hơn. Trở thành bột: rã nát thành bột và vương vãi khắp nơi. Nên liên kết ý nghĩa trong toàn bộ câu do tác động “đang bị các loài vật ăn, v.v,” theo phương thức đã được trình bày— “Vị tỳ khưu so sánh chính thân này với tử thi ấy”.
Iti ajjhattaṃ vāti evaṃ khajjamānādipariggahaṇena yāva cuṇṇakabhāvā attano vā kāye, parassa vā kāye, kālena vā attano, kālena vā parassa kāye kāyānupassī viharati.
Như vậy …. thuộc nội phần: vị ấy sống có sự quan sát thân trên thân của mình, hoặc trên thân của người khác, quan sát thân của mình hợp thời, hoặc trên thân của người khác hợp thời với sự quán chiếu thi thể đang bị ăn thịt cho đến khi hôi thối mục nát trở thành bột như vậy.
Idha pana ṭhatvā navasivathikā samodhānetabbā. ‘‘Ekāhamataṃ vā’’tiādinā nayena vuttā sabbāpi ekā, ‘‘kākehi vā khajjamāna’’ntiādikā ekā, ‘‘aṭṭhikasaṅkhalikaṃ samaṃsalohitaṃ nhārusambandha’’nti ekā, ‘‘nimaṃsalohitamakkhitaṃ nhārusambandha’’nti ekā, ‘‘apagatamaṃsalohitaṃ nhārusambandha’’nti ekā, ‘‘aṭṭhikāni apagatasambandhānī’’tiādikā ekā, ‘‘aṭṭhikāni setāni saṅkhavaṇṇapaṭibhāgānī’’ti ekā, ‘‘puñjakitāni terovassikānī’’ti ekā, ‘‘pūtīni cuṇṇakajātānī’’ti ekā.
Hơn nữa, quan sát các giai đoạn phân hủy của tử thi cần tổng hợp ở đây được nói theo phương thức bắt đầu rằng– (1) Thi thể đã chết một ngày, toàn bộ phần này là một phần; (2) đang bị các chim quạ ăn, v.v, là một phần; (3) bộ xương với thịt và máu, được kết lại với nhau bằng những sợi gân là một phần; (4) bộ xương không còn thịt, bị lấm lem bởi máu, được kết lại với nhau bằng những sợi gân là một phần; (5) “bộ xương, thịt và máu đã không còn, được kết lại với nhau bằng những sợi gân là một phần”; (6) các mẩu xương không còn các sự gắn kết, v.v, là một phần; (7) các mẩu xương màu trắng tương tự màu vỏ sò là một phần; (8) các mẩu xương được chất thành đống đã hơn một năm là một phần; (9) các mẩu xương hôi thối, trở thành bột là một phần.
Evaṃ kho, bhikkhaveti idaṃ navasivathikā dassetvā kāyānupassanaṃ niṭṭhapento āha. Tattha navasivathikapariggāhikā sati dukkhasaccaṃ, tassā samuṭṭhāpikā purimataṇhā samudayasaccaṃ, ubhinnaṃ appavatti nirodhasaccaṃ, dukkhaparijānano samudayapajahano nirodhārammaṇo ariyamaggo maggasaccaṃ. Evaṃ catusaccavaseneva ussakkitvā nibbutiṃ pāpuṇātīti idaṃ navasivathikapariggāhakānaṃ bhikkhūnaṃ yāva arahattā niyyānamukhanti.
Sau khi thuyết giảng việc quan sát chín giai đoạn phân hủy của tử thi để kết thúc việc quan sát thân ngài đã nói rằng– “Này các tỳ khưu, … là như vậy.” Ở đấy, niệm quan sát chín giai đoạn phân hủy của tử thi làm đối tượng là Khổ Đế. Tham ái quá khứ khiến niệm ấy sanh khởi là Tập Đế. Sự không xuất hiện cả hai (Khổ Đế và Tập Đế) là Diệt Đế. Thánh đạo biết toàn diện Khổ, dứt bỏ Tập, có Diệt làm đối tượng là Đạo Đế. Sau khi nỗ lực do nhờ tác động của bốn Đế như vậy vị ấy đạt đến sự tịch tịnh, đây là con đường dẫn dắt ra khỏi khổ đau cho đến chứng đắc quả vị A-ra-hán của các vị tỳ khưu quan sát chín giai đoạn phân hủy của tử thi.
Quan sát chín giai đoạn phân hủy của tử thi được kết thúc
Ettāvatā ca ānāpānapabbaṃ iriyāpathapabbaṃ catusampajaññapabbaṃ paṭikūlamanasikārapabbaṃ dhātumanasikārapabbaṃ navasivathikapabbānīti cuddasapabbā kāyānupassanā niṭṭhitā hoti.
Như vậy, việc quan sát thân có mười bốn phần là— Phần niệm hơi thở, phần oai nghi, bốn việc nhận thức rõ, phần tác ý vật ghê tởm, phần quan sát chín giai đoạn phân hủy của tử thi. Kết thúc phần quan sát thân chỉ bấy nhiêu.
Tattha ānāpānapabbaṃ paṭikūlamanasikārapabbanti imāneva dve appanākammaṭṭhānāni. Sivathikānaṃ pana ādīnavānupassanāvasena vuttattā sesāni dvādasāpi upacārakammaṭṭhānānevāti.
Ở đấy, hai phần này là phần hơi thở và phần tác ý vật ghê tởm là đề mục thiền định đưa đến an chỉ định, còn mười hai phần còn lại là đề mục thiền định chỉ đưa đến cận định, bởi vì thi thể ở bãi tha ma được nói do tác động quán xét về tai hại.
Việc quan sát thân được kết thúc
Giải thích việc quan sát thọ
- Evaṃ bhagavā cuddasavidhena kāyānupassanāsatipaṭṭhānaṃ kathetvā idāni navavidhena vedanānupassanaṃ kathetuṃ kathañca, bhikkhavetiādimāha. Tattha sukhaṃ vedananti kāyikaṃ vā cetasikaṃ vā sukhaṃ vedanaṃ vedayamāno ‘‘ahaṃ sukhaṃ vedanaṃ vedayāmī’’ti pajānātīti attho. Tattha kāmaṃ uttānaseyyakāpi dārakā thaññapivanādikāle sukhaṃ vedayamānā ‘‘sukhaṃ vedayāmā’’ti pajānanti, na panetaṃ evarūpaṃ jānanaṃ sandhāya vuttaṃ. Evarūpaṃ jānanaṃ hi sattūpaladdhiṃ na jahati, sattasaññaṃ na ugghāṭeti, kammaṭṭhānaṃ vā satipaṭṭhānabhāvanā vā na hoti. Imassa pana bhikkhuno jānanaṃ sattūpaladdhiṃ jahati , sattasaññaṃ ugghāṭeti, kammaṭṭhānaṃ ceva satipaṭṭhānabhāvanā ca hoti. Idañhi ‘‘ko vedayati, kassa vedanā, kiṃ kāraṇā vedanā’’ti evaṃ sampajānavediyanaṃ sandhāya vuttaṃ.
Đức Thế Tôn sau khi thuyết giảng sự thiết lập niệm ở việc quan sát thân với mười bốn phương pháp như vậy, giờ đây để việc quan sát thọ với chín phương pháp nên ngài đã nói rằng: “Và này các tỳ khưu, vị tỳ khưu…là thế nào” Ở đấy, thọ lạc: (vị tỳ khưu) trong khi cảm giác thọ lạc thuộc về thân hoặc thuộc về tâm, biết rõ rằng: “Tôi cảm giác thọ lạc.” Trong câu đó, ngay cả đứa trẻ sơ sinh còn đang ẵm ngửa khi cảm giác hạnh phúc trong lúc bú sữa, v.v, cũng biết rõ rằng: “tôi cảm giác thọ lạc”, nhưng điều ấy không đề cập đến sự hiểu biết có hình thức như vậy. Bởi vì sự hiểu biết có hình thức như thế không thể loại bỏ quan niệm về chúng, không thể nhổ bỏ sự suy tưởng về ngã, không là đề mục thiền định mà cũng không là sự tu tập về thiết lập niệm. Còn sự hiểu biết của vị tỳ khưu có thể loại bỏ được quan điểm chúng sanh, nhổ bỏ được sự suy tưởng về ngã, là đề mục thiền định, và cũng là sự tu tập về thiết lập niệm. Sự hiểu biết này đức Thế Tôn nói đề cập đến cảm giác thọ lạc cùng với sự nhận thức rõ như vầy: “Ai đang cảm giác? Cảm thọ của ai? Cảm thọ do nguyên nhân gì?”.
Tattha ko vedayatīti na koci satto vā puggalo vā vedayati. Kassa vedanāti na kassaci sattassa vā puggalassa vā vedanā. Kiṃ kāraṇā vedanāti vatthuārammaṇāva panassa vedanā. Tasmā esa evaṃ pajānāti – ‘‘taṃ taṃ sukhādīnaṃ vatthuṃ ārammaṇaṃ katvā vedanāva vedayati. Taṃ pana vedanāpavattiṃ upādāya ‘ahaṃ vedayāmī’ti vohāramattaṃ hotī’’ti. Evaṃ vedanāva vatthuṃ ārammaṇaṃ katvā vedanāva vedayatīti sallakkhento esa ‘‘sukhaṃ vedanaṃ vedayāmī’’ti pajānātīti veditabbo. Cittalapabbate aññataro thero viya.
Ở đây, ai cảm thọ: không phải chúng sanh hoặc cá nhân nào cảm thọ. Cảm thọ của ai: Không phải cảm thọ của chúng sanh, hoặc cá nhân nào cả. Cảm thọ do nguyên nhân gì?: Hơn nữa, cảm thọ của vị tỳ khưu chỉ có vật làm đối tượng, vì vậy vị ấy biết rõ rằng: “các chúng sanh cảm giác cảm thọ bởi vì đã biến vật trở thành nơi thiết lập của thọ có thọ lạc ấy v.v, làm đối tượng; thêm vào đó, việc nói ‘tôi cảm giác cảm thọ’ chỉ là sự quy ước do nắm giữ sự vận hành của thọ. Vị ấy khi quan sát: “các chúng sanh cảm giác cảm thọ do đã biến vật trở thành đối tượng như vậy,” nên biết rằng “vị ấy biết rõ rằng ‘tôi cảm giác thọ lạc,’” tương tự như câu chuyện về vị trưởng lão khác cư ngụ ở Cittalapabbata.
Thero kira aphāsukakāle balavavedanāya nitthunanto aparāparaṃ parivattati. Tameko daharo āha ‘‘kataraṃ vo, bhante, ṭhānaṃ rujjatī’’ti. Āvuso, pāṭiyekkaṃ rujjanaṭṭhānaṃ nāma natthi, vatthuṃ ārammaṇaṃ katvā vedanāva vedayatīti. Evaṃ jānanakālato paṭṭhāya adhivāsetuṃ vaṭṭati no, bhanteti. Adhivāsemi āvusoti. Adhivāsanā, bhante, seyyāti. Thero adhivāsesi. Tato vāto yāva hadayā phālesi, mañcake antāni rāsikatāni ahesuṃ. Thero daharassa dassesi ‘‘vaṭṭatāvuso, ettakā adhivāsanā’’ti. Daharo tuṇhī ahosi. Thero vīriyasamataṃ yojetvā saha paṭisambhidāhi arahattaṃ pāpuṇitvā samasīsī hutvā parinibbāyi.
Được biết rằng trưởng lão đau đớn quằn quại với những cảm thọ mãnh liệt trong cơn bạo bệnh. Một vị tỳ khưu trẻ đã hỏi: “Thưa ngài, ngài đau ở đâu?” – Trưởng lão đáp: “Này hiền giả, không có chỗ đau cụ thể, chỉ có cảm thọ được cảm giác sau khi biến vật trở thành đối tượng”. Vị tỳ khưu trẻ tiếp tục hỏi: “Thưa ngài, từ thời điểm hiểu rõ như vậy, việc kham nhẫn có phải là thích hợp không? Trưởng lão đáp: Này hiền giả, tôi sẽ kham nhẫn. Vị tỳ khưu trẻ nói: Thưa ngài, kham nhẫn là điều tốt đẹp. – Trưởng lão đã kiên trì chịu đựng. (Cơn bệnh trở nên trầm trọng) luồng khí lan tới tận trái tim, ruột của trưởng lão bị đẩy ra ngoài chất thành đóng trên giường. Trưởng lão chỉ cho vị tỳ khưu trẻ thấy và nói rằng: “Này hiền giả, sự kham nhẫn như thế này có thích hợp không?” – Vị tỳ khưu trẻ đã im lặng. – Trưởng lão tiếp tục duy trì sự tinh tấn đều đặn, cuối cùng chứng đắc quả vị A-ra-hán cùng với các tuệ phân tích, sau khi trở thành bậc đắc đạo tột mạng ngài đã viên tịch Niết Bàn.
Yathā ca sukhaṃ, evaṃ dukkhaṃ…pe… nirāmisaṃ adukkhamasukhaṃ vedanaṃ vedayamāno ‘‘nirāmisaṃ adukkhamasukhaṃ vedanaṃ vedayāmī’’ti pajānāti. Iti bhagavā rūpakammaṭṭhānaṃ kathetvā arūpakammaṭṭhānaṃ kathento vedanāvasena kathesi. Duvidhañhi kammaṭṭhānaṃ rūpakammaṭṭhānañca arūpakammaṭṭhānañca. Rūpapariggaho arūpapariggahotipi etadeva vuccati. Tattha bhagavā rūpakammaṭṭhānaṃ kathento saṅkhepamanasikāravasena vā vitthāramanasikāravasena vā catudhātuvavatthānaṃ kathesi. Tadubhayampi sabbākārato visuddhimagge dassitameva.
Và lạc như thế nào, khổ như thế đó -nt- khi cảm nhận thọ không khổ không lạc không thuộc vật chất, biết rõ (rằng): “Tôi cảm giác thọ không khổ không lạc, không thuộc vật chất’. Đức Thế Tôn sau khi thuyết giảng sắc nghiệp xứ như vậy, khi thuyết về vô sắc nghiệp xứ đã nói do nhờ tác động của thọ. Bởi vì có hai phần nghiệp xứ là sắc nghiệp xứ và vô sắc giới. Hai nghiệp xứ này được gọi là sắc nhiếp và vô sắc nhiếp. Ở đấy, đức Thế Tôn khi thuyết về sắc nghiệp xứ mới giảng về đề mục phân biệt tướng của tứ đại (catudhātuvavatthāna) về phương diện tác ý tổng quát và về phương diện tác ý chi tiết. Cả hai nghiệp xứ này đã được trình bày chi tiết trong bộ Thanh Tịnh Đạo.
Arūpakammaṭṭhānaṃ pana kathento yebhuyyena vedanāvasena katheti. Tividho hi arūpakammaṭṭhāne abhiniveso phassavasena vedanāvasena cittavasenāti. Kathaṃ? Ekaccassa hi saṃkhittena vā vitthārena vā pariggahite rūpakammaṭṭhāne tasmiṃ ārammaṇe cittacetasikānaṃ paṭhamābhinipāto taṃ ārammaṇaṃ phusanto uppajjamāno phasso pākaṭo hoti. Ekaccassa taṃ ārammaṇaṃ anubhavantī uppajjamānā vedanā pākaṭā hoti. Ekaccassa taṃ ārammaṇaṃ pariggahetvā vijānantaṃ uppajjamānaṃ viññāṇaṃ pākaṭaṃ hoti. Tattha yassa phasso pākaṭo hoti, sopi ‘‘na kevalaṃ phassova uppajjati, tena saddhiṃ tadeva ārammaṇaṃ anubhavamānā vedanāpi uppajjati, sañjānanamānā saññāpi, cetayamānā cetanāpi, vijānanamānaṃ viññāṇampi uppajjatī’’ti phassapañcamakeyeva pariggaṇhāti. Yassa vedanā pākaṭā hoti. So ‘‘na kevalaṃ vedanāva uppajjati, tāya saddhiṃ tadevārammaṇaṃ phusamāno phassopi uppajjati, sañjānanamānā saññāpi, cetayamānā cetanāpi, vijānanamānaṃ viññāṇampi uppajjatī’’ti phassapañcamakeyeva pariggaṇhāti. Yassa viññāṇaṃ pākaṭaṃ hoti, so ‘‘na kevalaṃ viññāṇameva uppajjati, tena saddhiṃ tadevārammaṇaṃ phusamāno phassopi uppajjati, anubhavamānā vedanāpi, sañjānanamānā saññāpi, cetayamānā cetanāpi uppajjatī’’ti phassapañcamakeyeva pariggaṇhāti.
Lại nữa, đức Thế Tôn thuyết vô sắc nghiệp xứ, hầu hết các trường hợp đều nói liên quan đến tác động của thọ. Bởi sự nghiêng về trong vố sắc nghiệp xứ có 3 loại: do mãnh lực của xúc, với mãnh lực của thọ, với mãnh lực của tâm. Vậy, sự nghiêng về này diễn ra như thế nào? Khi xúc tiếp xúc với đối tượng, một sát-na tâm và tâm sở sẽ khởi lên và rớt xuống ngay trong đối tượng đó sẽ xuất hiện đối với một số hành giả trong sắc nghiệp xứ mà vị ấy xem xét đại cương hoặc chi tiết. Đối với một số hành giả, thọ trong khi sanh khởi để tiếp nhận đối tượng đó được hiển lộ. Đối với một số hành giả, sau khi suy xét đối tượng đó thức cũng sanh khởi để biết được hiển lộ. Xúc xuất hiện đối với hành giả nào, “không chỉ có xúc sanh khởi, mà thọ đang cảm giác đối tượng đó cũng đồng sanh với xúc, cả tưởng là sự nhận thức, đến sự chủ ý là sự đốc thúc, lươn cả thức là sự nhận biết đối tượng đó cũng đồng sanh với xúc.” Do đó, hành giả suy xét pháp tâm sở có xúc là yếu tố thứ năm. Thọ xuất hiện đối với hành giả nào, “không chỉ có thọ sanh khởi, cả xúc đang đụng chạm cảnh đó cũng đồng sanh với thọ đó, cả tưởng là sự nhận thức, đến sự chủ ý, đến thức là nhận biết đối tượng đó cũng sẽ đồng sanh với thọ. Do đó, hành giả suy xét pháp tâm sở có xúc là yếu tố thứ 5. Thức xuất hiện đối với hành giả nào, “không chỉ có thức sanh khởi, mà còn xúc đang đụng chạm cảnh đó cũng đồng sanh với thức đó, thọ đang cảm nghiệm đối tượng, và cả tưởng là sự tưởng tri, đến sự chủ ý, cũng sẽ đồng sanh với thức. Do đó, hành giả suy xét pháp tâm sở có xúc là yếu tố thứ năm.
So ‘‘ime phassapañcamakā dhammā kiṃ nissitā’’ti upadhārento ‘‘vatthuṃ nissitā’’ti pajānāti. Vatthu nāma karajakāyo, yaṃ sandhāya vuttaṃ ‘‘idañca me viññāṇaṃ ettha sitaṃ ettha paṭibaddha’’nti (dī. ni. 1.234,235; ma. ni. 2.252). So atthato bhūtāni ceva upādārūpāni ca. Evamettha ‘‘vatthu rūpaṃ, phassapañcamakā nāma’’nti nāmarūpamattameva passati. Rūpaṃ cettha rūpakkhandho, nāmaṃ cattāro arūpino khandhāti pañcakkhandhamattaṃ hoti. Nāmarūpavinimuttā hi pañcakkhandhā, pañcakkhandhavinimuttañca nāmarūpaṃ natthi.
Hành giả khi quan sát rằng “Các pháp có xúc là yếu tố thứ năm đó nương vào pháp nào?” biết rõ rằng: “nương vào sắc vật”. Xác thân gọi là vật, đức Thế Tôn muốn nói đến: “Thức của ta nương vào sắc thân này, cột dính vào thân này”. (dī. ni. 1.234,235; ma. ni. 2.252); Về ý nghĩa hành giả thấy được cả sắc đại hiển và sắc y sinh. Trong trường hợp này thấy chỉ đơn thuần là danh và sắc như vầy (rằng): “vật là sắc pháp, tâm sở có xúc là yếu tố thứ năm là danh pháp.” Và ở đây sắc là sắc uẩn, danh là 4 vô sắc uẩn do đó chỉ có năm uẩn. Bởi vì không có ngũ uẩn vượt ngoài danh sắc, mà cũng không có danh sắc vượt ngoài ngũ uẩn.
So ‘‘ime pañcakkhandhā kiṃ hetukā’’ti upaparikkhanto ‘‘avijjādihetukā’’ti passati. Tato paccayo ceva paccayuppannañca idaṃ, añño satto vā puggalo vā natthi, suddhasaṅkhārapuñjamattamevāti sappaccayanāmarūpavasena tilakkhaṇaṃ āropetvā vipassanāpaṭipāṭiyā ‘‘aniccaṃ dukkhaṃ anattā’’ti sammasanto vicarati.
Hành giả khi quan sát thấy rằng: “ngũ uẩn này có gì làm nhân”, sẽ thấy rằng: “vô minh v.v, làm nhân”. Từ đó hành giả sẽ lấy (ngũ uẩn) để quán sát Tam Tướng với mãnh lực Danh sắc cùng với duyên rằng đây chỉ là duyên và các pháp nương duyên sanh khởi, chẳng có gì khác gọi là chúng sanh hoặc hạng người, chỉ có khối các hành thuần tuý (suddhasaṅkhārapuñja) và sau khi quan sát thẩm tra rằng đó là vô thường, khổ não, vô ngã theo tuần tự của Minh sát.
So ‘‘ime pañcakkhandhā kiṃ hetukā’’ti upaparikkhanto ‘‘avijjādihetukā’’ti passati. Tato paccayo ceva paccayuppannañca idaṃ, añño satto vā puggalo vā natthi, suddhasaṅkhārapuñjamattamevāti sappaccayanāmarūpavasena tilakkhaṇaṃ āropetvā vipassanāpaṭipāṭiyā ‘‘aniccaṃ dukkhaṃ anattā’’ti sammasanto vicarati.
Vị ấy đang mong mỏi sẽ thành tựu (sự giác ngộ) “ngày hôm nay, ngày hôm nay…” có được thời tiết thích hợp, hạng người thích hợp, thực phẩm thích hợp , nghe pháp thích hợp trong ngày hôm đó (vị ấy) đã ngồi với một tư thế kiết già hành Minh sát đến cuối cùng, chứng đắc Đạo A-ra-hán, như cách đã được trình bày, nghiệp xứ đối với 3 hạng người (janāna[1]) cho đến thánh A-ra-hán.
Thọ là Vô Sắc Nghiệp Xứ
Idha pana bhagavā arūpakammaṭṭhānaṃ kathento vedanāvasena kathesi. Phassavasena vā hi viññāṇavasena vā kathīyamānaṃ na pākaṭaṃ hoti, andhakāraṃ viya khāyati. Vedanāvasena pana pākaṭaṃ hoti. Kasmā? Vedanānaṃ uppattipākaṭatāya. Sukhadukkhavedanānañhi uppatti pākaṭā. Yadā sukhaṃ uppajjati, sakalasarīraṃ khobhentaṃ maddantaṃ pharamānaṃ abhisandayamānaṃ satadhotaṃ sappiṃ khādāpayantaṃ viya satapākatelaṃ makkhayamānaṃ viya ghaṭasahassena pariḷāhaṃ nibbāpayamānaṃ viya ‘‘aho sukhaṃ aho sukha’’nti vācaṃ nicchārayamānameva uppajjati. Yadā dukkhaṃ uppajjati, sakalasarīraṃ khobhentaṃ maddantaṃ pharamānaṃ abhisandayamānaṃ tattaphālaṃ pavesentaṃ viya vilīnatambalohena āsiñcantaṃ viya sukkhatiṇavanappatimhi araññe dāruukkākalāpaṃ khipamānaṃ viya ‘‘aho dukkhaṃ aho dukkha’’nti vippalāpayamānameva uppajjati. Iti sukhadukkhavedanānaṃ uppatti pākaṭā hoti.
Lại nữa, Kinh Thiết Lập Niệm này đức Thế Tôn khi thuyết vô sắc nghiệp xứ ngài nói với mãnh lực thọ. Bởi vì khi nói với khả năng của xúc, hoặc với khả năng của thức thì đề mục thiền định không hiện hữu sẽ hiện hữu giống như bóng tối. Còn thuyết với khả năng của thọ thì đề mục thiền định sẽ hiện hữu. Tại sao? Vì đề mục thiền định sẽ hiện hữu do thọ sanh khởi. Quả thật, sự sanh khởi của lạc thọ và khổ thọ sẽ hiện hữu tiếp tục khi sự an lạc sanh khởi bao gồm sự an lạc sanh khởi khiến cho toàn thân run lên, tràn ngập thấm đượm cả tâm cang, giống như việc uống bơ lỏng gấp trăm lần, giống như việc thoa dầu được nấu cả trăm lần, và cũng giống như dập tắt cơn nóng bằng cả nghìn ấm nước khiến (vị ấy) phải thốt lên rằng “Thật hạnh phúc! Thật hạnh phúc”. Và khi khổ sanh khởi bao gồm sự đau khổ sanh khởi khiến cho thân run rẩy, tràn ngập thấm đượm cả tâm cang, giống như đi vào ngọn lửa cháy rực, giống như bị xối lên bằng nước đồng sôi nóng chảy, hoặc giống như ném đuốc lửa vào rừng có cỏ khô và cây cối khô héo, đến mức phải than khóc kêu rên: “đau khổ quá, đau khổ quá”. Sự sanh khởi của lạc thọ và khổ thọ xuất hiện với tính chất như vậy.
Adukkhamasukhā pana duddīpanā andhakārāva avibhūtā. Sā sukhadukkhānaṃ apagame sātāsātappaṭikkhepavasena majjhattākārabhūtā adukkhamasukhā vedanāti nayato gaṇhantassa pākaṭā hoti. Yathā kiṃ? Yathā antarā piṭṭhipāsāṇaṃ ārohitvā palātassa migassa anupathaṃ gacchanto migaluddako piṭṭhipāsāṇassa orabhāgepi parabhāgepi padaṃ disvā majjhe apassantopi ‘‘ito āruḷho, ito oruḷho, majjhe piṭṭhipāsāṇe iminā padesena gato bhavissatī’’ti nayato jānāti, evaṃ āruḷhaṭṭhāne padaṃ viya hi sukhavedanāya uppatti pākaṭā hoti. Oruḷhaṭṭhāne padaṃ viya dukkhavedanāya uppatti pākaṭā hoti. ‘‘Ito āruyha ito oruyha majjhe evaṃ gato’’ti nayato gahaṇaṃ viya sukhadukkhānaṃ apagame sātāsātappaṭikkhepavasena majjhattākārabhūtā adukkhamasukhā vedanāti nayato gaṇhantassa pākaṭā hoti. Evaṃ bhagavā paṭhamaṃ rūpakammaṭṭhānaṃ kathetvā pacchā arūpakammaṭṭhānaṃ vedanāvasena nibbattetvāva dassesi.
Còn bất khổ bất lạc thọ rất khó hiển thị (khó thấy) không rõ ràng. Bất khổ bất lạc thọ sẽ hiện hữu cùng hành giả giữ chặt lấy theo cách cho rằng bất khổ bất lạc thọ có tính chất trung tính, bằng việc vứt bỏ hạnh phúc và không hạnh phúc khi lạc và khổ chấm dứt. Ví như điều gì? Như thể một người thợ săn nai lần theo dấu vết của con nai đã nhảy lên phiến đá dọc đường rồi trốn thoát, (anh ta) nhìn thấy dấu chân con mồi cả bên này lẫn bên kia của phiến đá, dù không nhìn thấy (dấu chân) ở chính giữa (trên phiến đá) cũng biết được bằng cách như sau: “con mồi đi lên hướng này, đi xuống hướng kia, sẽ đi ngang qua tảng đá chính giữa như thế nào”, sự sanh khởi của lạc thọ cũng như thế đó, (lạc thọ) hiện hữu giống như dấu chân (của con mồi xuất hiện) ở nơi mà nó đi lên. Sự sanh khởi của khổ thọ sẽ hiện hữu tương tự như dấu chân (của con mồi xuất hiện) ở nơi mà nó đi xuống. Bất khổ bất lạc thọ hiện hữu cùng hành giả bám chấp theo cách sau bất khổ bất lạc thọ có tính chất trung tính bằng việc vứt bỏ hạnh phúc và không hạnh phúc khi lạc và khổ chấm dứt, cũng giống như cách “như vậy, đi lên phía bên này, rồi đi xuống phía bên kia, rồi đi ngang qua chính giữa”. Thế Tôn thuyết giảng sự thiết lập niệm (satipaṭṭhāna) với việc thuyết sắc nghiệp xứ (rūpakammaṭṭhāna) trước, sau đó thuyết làm cho sanh khởi vô sắc nghiệp xứ (arūpakammaṭṭhāna) với mãnh lực của thọ.
Na kevalañca idheva evaṃ dassesi, cūḷataṇhāsaṅkhaye, mahātaṇhāsaṅkhaye, cūḷavedalle, mahāvedalle, raṭṭhapālasutte, māgaṇḍiyasutte, dhātuvibhaṅge, āneñjasappāye, dīghanikāyamhi mahānidāne, sakkapañhe, mahāsatipaṭṭhāne, saṃyuttamhi cūḷanidānasutte, rukkhopame, parivīmaṃsanasutte, sakale vedanāsaṃyutteti evaṃ anekesu suttesu paṭhamaṃ rūpakammaṭṭhānaṃ kathetvā pacchā arūpakammaṭṭhānaṃ vedanāvasena nibbattetvā dassesi. Yathā ca tesu, evaṃ imasmimpi satipaṭṭhānasutte paṭhamaṃ rūpakammaṭṭhānaṃ kathetvā pacchā arūpakammaṭṭhānaṃ vedanāvasena nibbattetvā dassesi.
Đức Thế Tôn thuyết giảng không chỉ riêng trong Kinh Thiết Lập Niệm với việc thuyết sắc nghiệp xứ trước, sau đó thuyết làm cho sanh khởi vô sắc nghiệp xứ với mãnh lực của thọ, mà còn trong nhiều bài kinh khác nữa như: trong Tiểu Kinh Đoạn Tận Ái (Cūḷataṇhāsaṅkhaya), trong Đại Kinh Đoạn Tận Ái (Mahātaṇhāsaṅkhaya), trong Tiểu Kinh Phương Quảng (Cūḷavedalla), trong Đại Kinh Phương Quảng (Mahāvedalla), trong Kinh Ratthapāla, trong Kinh Māgaṇḍiya, trong Kinh Giới Phân Biệt (Dhātuvibhaṅga), trong Kinh Bất Động Lợi Ích (Āneñjasappāya) (6 bài kinh này) thuộc Trung Bộ Kinh; trong Kinh Đại Duyên (Mahānidāna), trong Kinh Đế Thích Sở Vấn (Sakkapañhā), trong Đại Kinh Thiết Lập Niệm (Mahāsatipaṭṭhāna) thuộc Trường Bộ Kinh; trong Kinh Cūḷanidāna, trong Kinh Rukkhopama, trong Kinh Parivīmaṃsana và kinh Tương Ưng Thọ, thuộc Tương Ưng Bộ Kinh. Và trong Kinh Thiết Lập Niệm này, đức Thế Tôn thuyết giảng về sự thiết lập niêm bằng việc nói đến sắc nghiệp xứ (rūpakammaṭṭhāna) trước, sau đó thuyết làm cho sanh khởi vô sắc nghiệp xứ (arūpakammaṭṭhāna) với mãnh lực của thọ, giống như những bài kinh đó.
Tattha sukhaṃ vedanantiādīsu ayaṃ aparopi pajānanapariyāyo, sukhaṃ vedanaṃ vedayāmīti pajānātīti sukhavedanākkhaṇe dukkhavedanāya abhāvato sukhaṃ vedanaṃ vedayamāno ‘‘sukhaṃ vedanaṃyeva vedayāmī’’ti pajānāti. Tena yā pubbe bhūtapubbā dukkhavedanā, tassa idāni abhāvato imissā ca sukhāya vedanāya ito paṭhamaṃ abhāvato vedanā nāma aniccā adhuvā vipariṇāmadhammā, itiha tattha sampajāno hoti. Vuttampi cetaṃ bhagavatā –
Ở đây, thọ lạc, v.v, này có một phương pháp nhận biết khác, biết rõ rằng: “tôi cảm giác thọ lạc”, trong khi cảm giác thọ lạc thì ở sát-na thọ lạc không tồn tại thọ khổ, biết rõ rằng: ‘tôi đang cảm giác thọ lạc’. Những cảm thọ khổ xảy ra trước đây trong quá khứ nay không còn hiện hữu, và trước đây cũng không có sự hiện hữu của cảm giác thọ lạc này. Như vậy, cảm thọ vốn dĩ là vô thường, không bền vững và có bản chất biến hoại. Do đó, hành giả có sự nhận biết rõ bản chất của thọ ấy là như thế. Và điều này đã được đức Thế Tôn nói rằng –
‘‘Yasmiṃ, aggivessana, samaye sukhaṃ vedanaṃ vedeti, neva tasmiṃ samaye dukkhaṃ vedanaṃ vedeti, na adukkhamasukhaṃ vedanaṃ vedeti, sukhaṃyeva tasmiṃ samaye vedanaṃ vedeti. Yasmiṃ, aggivessana, samaye dukkhaṃ…pe… adukkhamasukhaṃ vedanaṃ vedeti, neva tasmiṃ samaye sukhaṃ vedanaṃ vedeti, na dukkhaṃ vedanaṃ vedeti, adukkhamasukhaṃyeva tasmiṃ samaye vedanaṃ vedeti. Sukhāpi, kho, aggivessana, vedanā aniccā saṅkhatā paṭiccasamuppannā khayadhammā vayadhammā virāgadhammā nirodhadhammā. Dukkhāpi, kho…pe… adukkhamasukhāpi kho, aggivessana, vedanā aniccā…pe… nirodhadhammā. Evaṃ passaṃ, aggivessana, sutavā ariyasāvako sukhāyapi vedanāya nibbindati, dukkhāyapi vedanāya nibbindati, adukkhamasukhāyapi vedanāya nibbindati, nibbindaṃ virajjati, virāgā vimuccati, vimuttasmiṃ ‘vimuttamī’ti ñāṇaṃ hoti, ‘khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’ti pajānātī’’ti (ma. ni. 2.205).
“Này Aggivessana, trong khi cảm giác lạc thọ, chính khi ấy không cảm giác khổ thọ, không cảm giác thọ không khổ không lạc, chỉ cảm giác lạc thọ; Này Aggivessana, trong khi cảm giác khổ thọ, -nt- cảm giác thọ không khổ không lạc, chính khi ấy không cảm giác lạc thọ, không cảm giác khổ thọ, chỉ cảm giác thọ không khổ không lạc; Này Aggivessana, lạc thọ là vô thường, được tạo tác, được sanh khởi theo điều kiện, có bản chất tan rã, có bản chất hoại diệt, có bản chất lụi tàn, có bản chất diệt tận; cả khổ thọ -nt- luôn cả không khổ không lạc thọ, này Aggivessana, đều là vô thường -nt- có bản chất diệt tận; Thấy vậy, này Aggivessana, vị Ða văn Thánh đệ tử nhàm chán lạc thọ, nhàm chán khổ thọ, nhàm chán thọ không khổ không lạc, do nhàm chán (vị ấy) không có tham dục. do không tham dục (vị ấy) được giải thoát. Khi đã được giải thoát, trí khởi lên rằng: ‘Đã được giải thoát.’ (vị ấy) biết rõ rằng: ‘‘Sự tái sanh đã cạn kiệt, Phạm hạnh đã sống, việc cần làm đã làm, không còn gì khác (phải làm) đối với bản thể A-ra-hán này nữa.’” (ma. ni. 2.205);
Sāmisaṃ vā sukhantiādīsu sāmisā sukhā nāma pañcakāmaguṇāmisanissitā cha gehasitasomanassavedanā. Nirāmisā sukhā nāma cha nekkhammasitasomanassavedanā. Sāmisā dukkhā nāma cha gehasitadomanassavedanā. Nirāmisā dukkhā nāma cha nekkhammasitadomanassavedanā. Sāmisā adukkhamasukhā nāma cha gehasitaupekkhā vedanā. Nirāmisā adukkhamasukhā nāma cha nekkhammasitaupekkhā vedanā. Tāsaṃ vibhāgo uparipaṇṇāsake pāḷiyaṃ āgatoyeva.
Hoặc….thọ lạc liên hệ vật chất v.v. Sáu cảm thọ hỷ tâm liên hệ đến tại gia, năm loại dục lạc liên quan đến vật chất gọi là thọ lạc liên hệ vật chất. Sáu cảm thọ vui mừng liên hệ đến xuất ly gọi là thọ lạc không liên hệ vật chất. Sáu cảm thọ ưu tâm liên hệ đến tại gia gọi là khổ thọ liên hệ vật chất. Sáu cảm thọ ưu tâm liên hệ đến xuất ly gọi là khổ thọ không liên hệ vật chất. Sáu cảm thọ xả tâm liên hệ đến tại gia gọi là thọ không khổ không lạc liên hệ vật chất. Sáu cảm thọ xả tâm liên hệ đến xuất ly gọi là thọ không khổ không lạc không liên hệ vật chất. Việc phân tích các thọ đã được nói rõ trong kinh điển Pāḷi, Năm Mươi Kinh Cuối thuộc Trung Bộ Kinh.
Iti ajjhattaṃ vāti evaṃ sukhavedanādipariggahaṇena attano vā vedanāsu, parassa vā vedanāsu, kālena vā attano, kālena vā parassa vedanāsu vedanānupassī viharati. Samudayavayadhammānupassī vāti ettha pana ‘‘avijjāsamudayā vedanāsamudayo’’tiādīhi (paṭi. ma. 1.50) pañcahi pañcahi ākārehi vedanānaṃ samudayañca vayañca passanto samudayadhammānupassī vā vedanāsu viharati, vayadhammānupassī vā vedanāsu viharati, kālena samudayadhammānupassī vā, kālena vayadhammānupassī vā vedanāsu viharatīti veditabbo. Ito paraṃ kāyānupassanāyaṃ vuttanayameva.
Như vậy …. thuộc nội phần: vị ấy sống có sự quan sát thọ trên các thọ của mình, hoặc trên các thọ của người khác, hoặc trên các thọ của mình hợp thời, hoặc trên thân của người khác hợp thời. Hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi và hoại diệt: Trong khi nhìn thấy sự sanh khởi và hoại diệt ở các thọ với năm biểu hiện mỗi phần (như sau) ‘do sự sanh khởi của vô minh, có sự sanh khởi của thọ, v.v.’ paṭi. ma. 1.50; nên biết rằng: “Hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi trên các thọ, hoặc sống có sự quan sát pháp hoại diệt trên các thọ, hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi trên các thọ hợp thời, hoặc sống có sự quan sát pháp hoại diệt trên các thọ hợp thời.” Câu tiếp theo có cách thức như đã nói trong phần việc quan sát thân.
Kevalañhi idha vedanāpariggāhikā sati dukkhasaccanti evaṃ yojanaṃ katvā vedanāpariggāhakassa bhikkhuno niyyānamukhaṃ veditabbaṃ. Sesaṃ tādisamevāti.
Tuy nhiên, ở phần này, điểm khác biệt duy nhất là ý nghĩa nên phối hợp như vầy– niệm ghi nhận thọ (làm đối tượng) là Khổ Đế. Nên biết rằng đây là con đường dẫn dắt ra khỏi khổ đau của vị tỳ khưu xác định thọ (làm đối tượng), các từ còn lại có ý nghĩa tương tự.
Việc quan sát thọ được kết thúc
Giảng Giải Tâm Tuỳ Quán
- Evaṃ navavidhena vedanānupassanāsatipaṭṭhānaṃ kathetvā idāni soḷasavidhena cittānupassanaṃ kathetuṃ kathañca, bhikkhavetiādimāha. Tattha sarāganti aṭṭhavidhaṃ lobhasahagataṃ. Vītarāganti lokiyakusalābyākataṃ. Idaṃ pana yasmā sammasanaṃ na dhammasamodhānaṃ, tasmā idha ekapadepi lokuttaraṃ na labbhati. Sesāni cattāri akusalacittāni neva purimapadaṃ, na pacchimapadaṃ bhajanti. Sadosanti duvidhaṃ dosasahagataṃ . Vītadosanti lokiyakusalābyākataṃ. Sesāni dasākusalacittāni neva purimaṃ padaṃ, na pacchimaṃ padaṃ bhajanti. Samohanti vicikicchāsahagatañceva uddhaccasahagatañcāti duvidhaṃ. Yasmā pana moho sabbākusalesu uppajjati, tasmā tānipi idha vaṭṭantiyeva. Imasmiṃyeva hi duke dvādasākusalacittāni pariyādiṇṇānīti. Vītamohanti lokiyakusalābyākataṃ. Saṃkhittanti thinamiddhānupatitaṃ, etañhi saṃkuṭitacittaṃ nāma. Vikkhittanti uddhaccasahagataṃ, etañhi pasaṭacittaṃ nāma.
Sau khi thuyết giảng sự thiết lập niệm ở việc quan sát niệm với chín phương pháp, bây giờ, để thuyết về mười sáu phương pháp của việc quan sát tâm, ngài nói rằng: “Và này các tỳ khưu, vị tỳ khưu sống có sự quan sát tâm trên tâm là thế nào?” Ở đấy, tâm có luyến ái: Tâm đi chúng với tám thứ tâm tham. Đã xa lìa luyến ái: Tâm thiện và tâm vô ký thuộc Hiệp Thế. Tuy nhiên, việc quan sát ở trường hợp này không phải là sự liên kết các pháp, do đó tâm đã xa lìa luyến ái này không bao gồm bất kỳ tâm Siêu Thế nào, dù chỉ một câu. Bốn tâm bất thiện còn lại không được xếp vào mệnh đề đầu và cũng không được xếp vào mệnh đề sau. Tâm có sân hận: hai thứ tâm đi chung với thọ ưu. Tâm đã xa lìa sân hận: Tâm thiện và tâm vô ký thuộc Hiếp Thế. Mười tâm bất thiện còn lại không được xếp vào mệnh đề đầu và cũng không được xếp vào mệnh đề sau. Tâm có si mê: hai thứ tâm là tâm đi chung với hoài nghi và tâm đi chung với phóng dật. Tuy nhiên, bởi vì tâm si có thể sanh khởi trong tất cả tâm bất thiện, cho nên các tâm bất thiện còn lại cũng được xếp vào nhóm này (tâm có si mê). Thật vậy, mười hai tâm bất thiện đều được tập hợp lại trong chính trong nhóm đôi này. Tâm đã xa lìa si mê: tâm thiện và tâm vô ký thuộc Hiệp Thế. Tâm bị thâu hẹp: Tâm rơi vào trạng thái dã dượi, buồn ngủ. Thật vậy, tâm rơi vào trạng thái này được gọi là tâm bị thâu hẹp. Tâm bị tán loạn: Tâm đi chung với phóng dật, tâm đi chung với phóng dật ấy được gọi là tâm bị tán loạn.
Mahaggatanti rūpārūpāvacaraṃ. Amahaggatanti kāmāvacaraṃ. Sauttaranti kāmāvacaraṃ. Anuttaranti rūpāvacarañca arūpāvacarañca. Tatrāpi sauttaraṃ rūpāvacaraṃ, anuttaraṃ arūpāvacarameva. Samāhitanti yassa appanāsamādhi upacārasamādhi vā atthi. Asamāhitanti ubhayasamādhivirahitaṃ. Vimuttanti tadaṅgavikkhambhanavimuttīhi vimuttaṃ. Avimuttanti ubhayavimuttivirahitaṃ, samucchedapaṭippassaddhinissaraṇavimuttīnaṃ pana idha okāsova natthi.
Tâm đại hành: Tâm Sắc giới và tâm Vô sắc giới. Tâm không đại hành: Tâm Dục giới. Tâm hữu thượng: Tâm Dục giới. Tâm vô thượng: Tâm Sắc giới và tâm Vô sắc giới. Ngay cả trong những tâm ấy thì tâm hữu thượng là tâm Sắc giới, còn tâm vô thượng chính là tâm Vô sắc giới. Tâm định tĩnh: tâm có cận định hoặc an chỉ định. Tâm không định tĩnh: tâm không có 2 định trên. Tâm được giải thoát: Tâm đã giải thoát bằng sự giải thoát do áp chế và sự giải thoát do chế ngự. Tâm không được giải thoát: tâm không có 2 sự giải thoát trên. Còn sự giải thoát nhờ đoạn trừ, sự giải thoát nhờ an tịnh và sự giải thoát nhờ xuất ly không có cơ hội ở đây.
Iti ajjhattaṃ vāti evaṃ sarāgādipariggaṇhanena yasmiṃ yasmiṃ khaṇe yaṃ yaṃ cittaṃ pavattati, taṃ taṃ sallakkhento attano vā citte, parassa vā citte, kālena vā attano, kālena vā parassa citte cittānupassī viharati. Samudayavayadhammānupassīti ettha pana ‘‘avijjāsamudayā viññāṇasamudayo’’ti (paṭi. ma. 1.50) evaṃ pañcahi pañcahi ākārehi viññāṇassa samudayo ca vayo ca nīharitabbo. Ito paraṃ vuttanayameva. Kevalañhi idha cittapariggāhikā sati dukkhasaccanti evaṃ padayojanaṃ katvā cittapariggāhakassa bhikkhuno niyyānamukhaṃ veditabbaṃ. Sesaṃ tādisamevāti.
Như vậy …. thuộc nội phần: hành giả quan sát tâm trong từng sát-na bằng sự quan sát tâm có luyến ái v.v., như vậy gọi là sống có sự quan sát tâm trên tâm của mình, hoặc trên tâm của người khác, hoặc trên tâm của mình hợp thời, hoặc trên tâm của người khác hợp thời. Hơn nữa, ở đấy– hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi và hoại diệt: Nên đem sự sanh khởi và hoại diệt của thức ra để so sánh mỗi phần với năm biểu hiện như vầy ‘do sự sanh khởi của vô minh, có sự sanh khởi của thức’. (paṭi. ma. 1.50); Câu tiếp theo có cách thức như đã trình bày trước đó. Tuy nhiên, ở phần này, điểm khác biệt duy nhất là ý nghĩa nên phối hợp như vầy– niệm ghi nhận tâm (làm đối tượng) là Khổ Đế. Nên biết rằng đây là con đường dẫn dắt ra khỏi khổ đau của vị tỳ khưu xác định tâm (làm đối tượng), các từ còn lại có ý nghĩa tương tự.
Việc quan sát tâm – được kết thúc
Giải thích việc quan sát pháp
- Evaṃ soḷasavidhena cittānupassanāsatipaṭṭhānaṃ kathetvā idāni pañcavidhena dhammānupassanaṃ kathetuṃ kathañca, bhikkhavetiādimāha. Apica bhagavatā kāyānupassanāya suddharūpapariggaho kathito, vedanācittānupassanāhi suddhaarūpapariggaho. Idāni rūpārūpamissakapariggahaṃ kathetuṃ ‘‘kathañca, bhikkhave’’tiādimāha . Kāyānupassanāya vā rūpakkhandhapariggahova kathito, vedanānupassanāya vedanākkhandhapariggahova, cittānupassanāya viññāṇakkhandhapariggahovāti idāni saññāsaṅkhārakkhandhapariggahampi kathetuṃ ‘‘kathañca, bhikkhave’’tiādimāha.
Sau khi thuyết giảng sự thiết lập niệm ở việc quan sát tâm với mười sáu phương pháp, bây giờ, để thuyết việc quan sát pháp với năm phương pháp (ngài) mới nói rằng: “Và này các tỳ khưu, vị tỳ khưu sống có sự quan sát pháp ở các pháp là thế nào?” Và hơn nữa, (đức Thế Tôn) thuyết sự xác định thuần về sắc bằng việc quan sát thân, sự xác định thuần về vô sắc bằng việc quan sát thọ và việc quan sát tâm. Bây giờ, để thuyết sự xác định hỗn hợp giữa sắc và vô sắc (ngài) mới nói rằng: “Và này các tỳ khưu, vị tỳ khưu sống có sự quan sát pháp ở các pháp là thế nào?” Hoặc, đức Thế Tôn thuyết sự xác định sắc uẩn bằng việc quan sát thân, sự xác định thọ uẩn bằng việc quan sát thọ, sự xác định thức uẩn bằng việc quan sát tâm. Bây giờ, để thuyết cả sự xác định tưởng uẩn và hành uẩn (ngài) mới nói rằng: “Và này các tỳ khưu, vị tỳ khưu sống có sự quan sát pháp ở các pháp là thế nào?”
Tattha santanti abhiṇhasamudācāravasena saṃvijjamānaṃ. Asantanti asamudācāravasena vā pahīnattā vā avijjamānaṃ. Yathā cāti yena kāraṇena kāmacchandassa uppādo hoti. Tañca pajānātīti tañca kāraṇaṃ pajānāti. Iminā nayena sabbapadesu attho veditabbo.
Trong số những từ đó, đang hiện hữu: đang tồn tại do tác động lan tỏa liên tục. Không hiện hữu: không tồn tại do tác động không lan tỏa, hoặc do trạng thái đã dứt bỏ. Như thế nào: sự mong muốn về dục sanh khởi do nguyên nhân nào? Biết rõ điều ấy: biết rõ nguyên nhân đó. Như vậy, nên biết ý nghĩa ở mỗi câu theo chính cách thức này.
Tattha subhanimitte ayonisomanasikārena kāmacchandassa uppādo hoti. Subhanimittaṃ nāma subhampi subhanimittaṃ, subhārammaṇampi subhanimittaṃ. Ayonisomanasikāro nāma anupāyamanasikāro uppathamanasikāro anicce niccanti vā dukkhe sukhanti vā anattani attāti vā asubhe subhanti vā manasikāro, taṃ tattha bahulaṃ pavattayato kāmacchando uppajjati. Tenāha bhagavā – ‘‘atthi, bhikkhave, subhanimittaṃ, tattha ayonisomanasikārabahulīkāro , ayamāhāro anuppannassa vā kāmacchandassa uppādāya uppannassa vā kāmacchandassa bhiyyobhāvāya vepullāyā’’ti (saṃ. ni. 5.232).
Ở đấy, sự mong muốn về dục được sanh khởi do tác ý không đúng đường lối đến hiện tướng đẹp. Những thứ đẹp đẽ, hay những đối tượng xinh đẹp gọi là hiện tướng đẹp. Tác ý không đúng phương pháp, hay tác ý không đúng đường lối, chính là tác ý vô thường nghĩ là thường, khổ nghĩ là an lạc, vô ngã nghĩ là ngã, hoặc bất tịnh nghĩ là tịnh gọi là tác ý không đúng đường lối. Khi thực hành tác ý không đúng đường lối này đến hiện tướng đẹp thường xuyên thì sự ước muốn về dục sanh khởi. Do đó, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Có, này các tỳ khưu, hiện tướng về cái đẹp, ở đấy tác ý không đúng đường lối được thực hiện nhiều lần, thời chính cái này là thức ăn khiến những ước muốn về dục chưa sanh khởi được sanh khởi, hay ước muốn về dục đã sanh khởi còn đi đến sự tăng trưởng, sự lớn mạnh,” (saṃ. ni. 5.232);
Asubhanimitte pana yonisomanasikārenassa pahānaṃ hoti. Asubhanimittaṃ nāma asubhampi asubhārammaṇampi. Yonisomanasikāro nāma upāyamanasikāro pathamanasikāro anicce aniccanti vā dukkhe dukkhanti vā anattani anattāti vā asubhe asubhanti vā manasikāro, taṃ tattha bahulaṃ pavattayato kāmacchando pahīyati. Tenāha bhagavā – ‘‘atthi, bhikkhave, asubhanimittaṃ, tattha yonisomanasikārabahulīkāro, ayamanāhāro anuppannassa vā kāmacchandassa anuppādāya uppannassa vā kāmacchandassa pahānāyā’’ti (saṃ. ni. 5.232).
Hơn nữa, sự ước muốn về dục được dứt bỏ nhờ tác ý đúng đường lối đến hiện tướng bất tịnh. Những thứ không đẹp đẽ hoặc những đối tượng không xinh đẹp gọi là hiện tướng bất tịnh. Tác ý đúng phương pháp, hay tác ý đúng đường lối, chính là tác ý vô thường là vô thường, khổ đau là khổ đau, vô ngã là vô ngã, hoặc bất tịnh là bất tịnh gọi là tác ý đúng đường lối. khi thực hành tác ý đúng đường lối này đến hiện tướng bất tịnh thường xuyên thì sự ước muốn về dục được dứt bỏ. Do đó, đức Thế Tôn đã nói rằng – “Có, này các tỳ khưu, hiện tướng bất tịnh, ở đây tác ý đúng đường lối được thực hiện nhiều lần, thời chính cái này là thức ăn làm cho những ước muốn về dục chưa sanh khởi sẽ không sanh khởi, hay những ước muốn về dục đã sanh được dứt bỏ” (saṃ. ni. 5.232);
Apica cha dhammā kāmacchandassa pahānāya saṃvattanti asubhanimittassa uggaho asubhabhāvanānuyogo indriyesu guttadvāratā bhojane mattaññutā kalyāṇamittatā sappāyakathāti. Dasavidhañhi asubhanimittaṃ uggaṇhantassāpi kāmacchando pahīyati, bhāventassāpi, indriyesu pihitadvārassāpi, catunnaṃ pañcannaṃ ālopānaṃ okāse sati udakaṃ pivitvā yāpanasīlatāya bhojane mattaññunopi. Tenetaṃ vuttaṃ –
Thêm nữa, sáu pháp vận hành dẫn đến việc dứt bỏ những ước muốn về dục là (1) học tập về hiện tướng bất tịnh; (2) thường xuyên tu tập về hiện tướng bất tịnh; (3) có sự phòng vệ ở các giác quan; (4) có sự biết chừng mực ở vật thực; (5) có bạn lành; (6) lắng nghe và thảo luận những vấn đề phù hợp. Khi hành giả học tập mười hiện tướng bất tịnh trong giai đoạn này những ước muốn về dục được dứt bỏ. Tương tự, khi hành giả thường xuyên thực hành hiện tướng bất tịnh, đóng kín cánh cửa ở các giác quan, hoặc biết chừng mực ở vật thực—chằng hạn như ngừng ăn thêm bốn đến năm vắt cơm (sau cùng) và uống nước vậy là đủ để duy trì cơ thể—cũng có thể dứt bỏ được những ước muốn về dục. Do đó, ngài đã nói rằng–
‘‘Cattāro pañca ālope, abhutvā udakaṃ pive;
Alaṃ phāsuvihārāya, pahitattassa bhikkhuno’’ti. (theragā. 983);
Nên ngưng không ăn bốn, năm vắt cơm (sau cùng) và nên uống nước, chỉ bấy nhiêu thôi là đủ cho sự sống thoải mái của vị tỳ khưu bản tánh cương quyết. (theragā. 983);
Asubhakammikatissattherasadise asubhabhāvanārate kalyāṇamitte sevantassāpi kāmacchando pahīyati, ṭhānanisajjādīsu dasaasubhanissitasappāyakathāyapi pahīyati. Tena vuttaṃ ‘‘cha dhammā kāmacchandassa pahānāya saṃvattantī’’ti. Imehi pana chahi dhammehi pahīnassa kāmacchandassa arahattamaggena āyatiṃ anuppādo hotīti pajānāti.
Cả vị tỳ khưu thân cận với các bạn lành, hoan hỷ trong việc tu tập quán bất tịnh, như trưởng lão Tissa thực hành quán bất tịnh cũng có thể dứt bỏ những ước muốn về dục. Thậm chí, thông qua việc đàm luận về những vấn đề phù hợp y cứ mười đề mục quán bất tịnh trong các oai nghi như đứng, ngồi, v.v, cũng có thể dứt bỏ những ước muốn về dục. Do đó, ngài đã nói rằng: “Sáu pháp vận hành để dứt bỏ những ước muốn về dục”. Vị ấy biết rõ rằng: Sự ước muốn về dục được dứt bỏ với 6 pháp này, sẽ không sanh khởi tiếp tục trong thời vị lai bởi A-ra-hán đạo.
Paṭighanimitte ayonisomanasikārena pana byāpādassa uppādo hoti. Tattha paṭighampi paṭighanimittaṃ, paṭighārammaṇampi paṭighanimittaṃ. Ayonisomanasikāro sabbattha ekalakkhaṇova. Taṃ tasmiṃ nimitte bahulaṃ pavattayato byāpādo uppajjati. Tenāha bhagavā – ‘‘atthi, bhikkhave, paṭighanimittaṃ, tattha ayonisomanasikārabahulīkāro, ayamāhāro anuppannassa vā byāpādassa uppādāya uppannassa vā byāpādassa bhiyyobhāvāya vepullāyā’’ti (saṃ. ni. 5.232).
Lại nữa, sân hận sanh khởi do tác ý không đúng đường lối đến hiện tướng thù nghịch. Trong trường hợp này, sự bất bình hoặc đối tượng làm khởi phát sư bất bình đều được gọi là hiện tướng thù nghịch trong cụm từ ‘hiện tướng thù nghịch’ ấy. Tác ý không đúng đường lối có chung tướng trạng trong các Pháp. Khi thực hành tác ý không đúng đường lối đến hiện tướng thù nghịch ấy thường xuyên thì sân hận sanh khởi. Do đó, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Có, này các tỳ khưu, hiện tướng thù nghịch, ở đây tác ý không đúng đường lối được thực hiện nhiều lần, thời chính cái này là thức ăn làm cho sân hận chưa sanh khởi được sanh khởi, hay sân hận đã sanh khởi đi đến sự tăng trưởng, sự lớn mạnh,” (saṃ. ni. 5.232);
Mettāya pana cetovimuttiyā yonisomanasikārenassa pahānaṃ hoti. Tattha tattha ‘‘mettā’’ti vutte appanāpi upacāropi vaṭṭati. ‘‘Cetovimuttī’’ti appanāva. Yonisomanasikāro vuttalakkhaṇova. Taṃ tattha bahulaṃ pavattayato byāpādo pahīyati. Tenāha bhagavā – ‘‘atthi, bhikkhave, mettā cetovimutti, tattha yonisomanasikārabahulīkāro, ayamanāhāro anuppannassa vā byāpādassa anuppādāya uppannassa vā byāpādassa pahānāyā’’ti (saṃ. ni. 5.232).
Tuy nhiên, sân hận ấy được dứt bỏ do tác ý đúng đường lối với từ-tâm giải-thoát. Ở đây, khi nói đến ‘từ-tâm’ thì cả cận định và cả an chỉ định đều phù hợp. Từ-tâm giải-thoát chính là an chỉ định. Có tác ý đúng đường lối là tướng trạng đã được trình bày. Khi thực hành tác ý đúng đường lối đến hiện tướng thù nghịch ấy thường xuyên thì sân hận được dứt bỏ. Do đó, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Có, này các tỳ khưu, từ-tâm giải-thoát, ở đây tác ý đúng đường lối được thực hiện nhiều lần, thời chính cái này là thức ăn làm cho sân hận chưa sanh khởi sẽ không sanh khởi, hay sân hận đã sanh khởi được đoạn tận”. (saṃ. ni. 5.232);
Apica cha dhammā byāpādassa pahānāya saṃvattanti mettānimittassa uggaho mettābhāvanānuyogo kammassakatāpaccavekkhaṇā paṭisaṅkhānabahutā kalyāṇamittatā sappāyakathāti. Odhisakaanodhisakadisāpharaṇānañhi aññataravasena mettaṃ uggaṇhantassāpi byāpādo pahīyati, odhiso anodhiso disāpharaṇavasena mettaṃ bhāventassāpi. ‘‘Tvaṃ etassa kuddho kiṃ karissasi, kimassa sīlādīni nāsetuṃ sakkhissasi, nanu tvaṃ attano kammena āgantvā attano kammeneva gamissasi, parassa kujjhanaṃ nāma vītaccitaṅgāra-tattaayasalāka-gūthādīni gahetvā paraṃ paharitukāmatāsadisaṃ hoti. Esopi tava kuddho kiṃ karissati, kiṃ te sīlādīni vināsetuṃ sakkhissati, esa attano kammeneva āgantvā attano kammena gamissati, appaṭicchitapaheṇakaṃ viya paṭivātaṃ khittarajomuṭṭhi viya ca etassevesa kodho matthake patissatī’’ti evaṃ attano ca parassa ca kammassakataṃ paccavekkhatopi, ubhayakammassakataṃ paccavekkhitvā paṭisaṅkhāne ṭhitassāpi, assaguttattherasadise mettābhāvanārate kalyāṇamitte sevantassāpi byāpādo pahīyati. Ṭhānanisajjādīsu mettānissitasappāyakathāyapi pahīyati. Tena vuttaṃ ‘‘cha dhammā byāpādassa pahānāya saṃvattantī’’ti. Imehi pana chahi dhammehi pahīnassa byāpādassa anāgāmimaggena āyatiṃ anuppādo hotīti pajānāti.
Lại nữa, sáu pháp vận hành dẫn đến việc dứt bỏ sân hận là: (1) học tập hiện tướng tâm từ; (2) thường xuyên thực hành về đề mục tâm từ; (3) quán xét đến bản thể các chúng sanh đều có nghiệp riêng của mình; (4) phải suy xét thật nhiều về nghiệp; (5) thân cận với bạn lành (6) lắng nghe và thảo luận những vấn đề phù hợp. Ngay cả khi hành giả học tập tâm từ do tác động rải tâm từ khắp các phương hướng dù cụ thể hoặc không cụ thể, tương tự, khi hành giả tu tập tâm từ đo tác động rải tâm từ khắp các phương hướng cụ thể hoặc không cụ thể, cũng dứt bỏ được sân hận. Sự sân hận được dứt bỏ khi hành giả quán xét đến bản thể của chính mình và người khác đều có nghiệp lực riêng như vầy– “Ngươi phẫn nộ hắn, ngươi sẽ làm được gì? Ngươi có thể làm cho giới hạnh của hắn bị hư hoại sao? Ngươi đã đến theo nghiệp của ngươi, cũng sẽ đi theo nghiệp của ngươi, không phải sao? Sự thù hận kẻ khác cũng giống như việc một người cầm lấy cục than đang cháy, thanh sắt đang nóng đỏ và phân uế, v.v, với ý định làm hại người khác. Hoặc nếu hắn nổi giận với ngươi, hắn sẽ làm gì được ngươi? Hắn có thể làm cho giới hạnh của ngươi hư hoại chăng? Hắn đến do nghiệp của hắn và cũng sẽ đi theo nghiệp của hắn tương tự; Cơn nóng giận đó sẽ đổ lên đầu của chính hắn giống như đồ vật được gửi đi mà không có ai nhận (đồ vật đó sẽ được trả lại người gửi) và giống như ném một nắm bụi bay ngược chiều gió (nắm bụi sẽ bị thổi ngược lại người ném)”. Sau khi xem xét về nghiệp đã tạo của cả hai (hành giả) đã an trú trong sự xem xét đó; thân cận bạn lành, những người hoan hỷ trong sự tu tập tâm từ chẳng hạn như trưởng lão Assagutta—cũng dứt bỏ được sân hận. Ngay cả việc đàm luận về các vấn đề phù hợp liên quan đến đề mục tâm từ trong các oai nghi như đứng hoặc ngồi, v.v, cũng đứt bỏ được sân hận. Do đó, ngài mới nói rằng: “Sáu pháp này vận hành để dứt bỏ sự sân hận”. Hành giả biết rõ rằng: hơn nữa, sân hận được dứt bỏ nhờ sáu pháp này sẽ không sanh khởi tiếp tục bởi A-na-hàm đạo.
Aratiādīsu ayonisomanasikārena thinamiddhassa uppādo hoti. Arati nāma ukkaṇṭhitā. Tandī nāma kāyālasiyatā. Vijambhitā nāma kāyavināmanā. Bhattasammado nāma bhattamucchā bhattapariḷāho. Cetaso līnattaṃ nāma cittassa līnākāro. Imesu aratiādīsu ayonisomanasikāraṃ bahulaṃ pavattayato thinamiddhaṃ uppajjati. Tenāha – ‘‘atthi, bhikkhave, arati tandī vijambhitā bhattasammado cetaso līnattaṃ, tattha ayonisomanasikārabahulīkāro, ayamāhāro anuppannassa vā thinamiddhassa uppādāya uppannassa vā thinamiddhassa bhiyyobhāvāya vepullāyā’’ti (saṃ. ni. 5.232).
Hôn trầm, thụy miên sanh khởi do tác ý không đúng đường lối trong các pháp có sự bất mãn, v.v. Sự lười biếng của cơ thể gọi là sự biếng nhác. Sự vặn vẹo của cơ thể là sự uể oải. Sự đờ đẫn do vật thực, sự nóng nảy do thức ăn là trạng thái ngây ngất sau bữa ăn. Trạng thái co rút của tâm là trạng thái trì trệ của tâm. Khi thực hành tác ý không đúng đường lối trong sự bất mãn, v.v, thường xuyên thì sự dã dượi và buồn ngủ sanh khởi. Do đó, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Có, này các tỳ khưu, sự bất mãn, sự biếng nhác, sự uể oải, trạng thái ngây ngất sau bữa ăn, trạng thái trì trệ của tâm, ở đấy tác ý không đúng đường lối được thực hiện nhiều lần, thời chính cái này là thức ăn khiến cho hôn trầm, thuỵ miên chưa sanh khởi được sanh khởi; hay hôn trầm, thuỵ miên đã sanh khởi đi đến sự tăng trưởng, sự lớn mạnh”. (saṃ. ni. 5.232);
Ārambhadhātuādīsu pana yonisomanasikārenassa pahānaṃ hoti. Ārambhadhātu nāma paṭhamārambhavīriyaṃ. Nikkamadhātu nāma kosajjato nikkhantatāya tato balavataraṃ. Parakkamadhātu nāma paraṃ paraṃ ṭhānaṃ akkamanato tatopi balavataraṃ. Imasmiṃ tippabhede vīriye yonisomanasikāraṃ bahulaṃ pavattayato thinamiddhaṃ pahīyati. Tenāha – ‘‘atthi, bhikkhave, ārambhadhātu nikkamadhātu parakkamadhātu, tattha yonisomanasikārabahulīkāro, ayamāhāro anuppannassa vā thinamiddhassa anuppādāya uppannassa vā thinamiddhassa pahānāyā’’ti (saṃ. ni. 5.232).
Hơn nữa, sự dã dượi và buồn ngủ được dứt bỏ bởi tác ý đúng đường lối trong các pháp có tinh cần giới, v.v, Sự ra sức nỗ lực ban đầu gọi là tinh cần giới. Sự nỗ lực có sức mạnh hơn tinh cần giới ấy do đã vượt qua sự lười biếng gọi là tinh tấn giới. Sự nỗ lực có sức mạnh vượt trội hơn hẳn tinh tấn giới ấy do vượt qua các vị trí khác gọi là dõng mãnh giới. Khi thực hành tác ý đúng đường lối trong ba sự nỗ lực này thường xuyên sẽ từ bỏ được sự dã dượi và buồn ngủ. Do đó, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Có, này các tỳ khưu, tinh cần giới, tinh tấn giới, dõng mãnh giới, ở đây tác ý đúng đường lối được thực hiện nhiều lần, thời chính cái này là thức ăn làm cho sự dã dượi và buồn ngủ chưa sanh khởi không sanh khởi, hay sự dã dượi và buồn ngủ đã sanh khởi được dứt bỏ”. (saṃ. ni. 5.232);
Apica cha dhammā thinamiddhassa pahānāya saṃvattanti, atibhojane nimittaggāho iriyāpathasamparivattanatā ālokasaññāmanasikāro abbhokāsavāso kalyāṇamittatā sappāyakathāti. Āharahatthaka tatravaṭṭaka alaṃsāṭa kakākamāsaka bhuttavamitakabhojanaṃ bhuñjitvā rattiṭṭhāne divāṭṭhāne nisinnassa hi samaṇadhammaṃ karoto thinamiddhaṃ mahāhatthī viya ottharantaṃ āgacchati. Catupañcaālopaokāsaṃ pana ṭhapetvā pānīyaṃ pivitvā yāpanasīlassa bhikkhuno taṃ na hotīti evaṃ atibhojane nimittaṃ gaṇhantassāpi thinamiddhaṃ pahīyati. Yasmiṃ iriyāpathe thinamiddhaṃ okkamati, tato aññaṃ parivattentassāpi, rattiṃ candālokadīpālokaukkāloke divā sūriyālokaṃ manasikarontassāpi, abbhokāse vasantassāpi, mahākassapattherasadise pahīnathinamiddhe kalyāṇamitte sevantassāpi thinamiddhaṃ pahīyati. Ṭhānanisajjādīsu dhutaṅganissitasappāyakathāyapi pahīyati. Tena vuttaṃ ‘‘cha dhammā thinamiddhassa pahānāya saṃvattantī’’ti . Imehi pana chahi dhammehi pahīnassa thinamiddhassa arahattamaggena āyatiṃ anuppādo hotīti pajānāti.
Lại nữa, sáu pháp đưa đến để dứt bỏ sự dã dượi và buồn ngủ là (1) Việc xác định dấu hiệu ở phần thức ăn dư thừa (tiết chế trong việc thọ dụng); (2) việc thay đổi oai nghi; (3) tác ý đến tưởng ánh sáng ; (4) ở nơi thoáng đãng (như ở ngoài trời); (5) thân cận bạn lành; (6) lắng nghe và thảo luận những vấn đề phù hợp. Bởi vì, sau khi thọ dụng vật thực (quá mức không tiết độ) như Bà-la-môn Āharahatthaka, Bhuttavamitaka, Tatravaṭṭaka, Ālaṃsāṭakaka và Bà-la-môn Kākamāsaka đã ngồi xuống ở chỗ nghỉ ban đêm và chỗ nghỉ ban ngày để thực hành Sa-môn pháp (thì) sự dã dượi và buồn ngủ đến bao trùm lên tựa như con voi to lớn đè lên. Ngược lại, sự dã dượi và buồn ngủ sẽ không xuất hiện đối với vị tỳ khưu không cho phép thọ dụng bốn-năm vắt cơm sau cùng và uống nước để duy trì thân thể ở trạng thái cân bằng; khi hành giả xác định dấu hiệu thức ăn dư thừa như vậy, (sẽ) dứt bỏ được hôn trầm và thuỵ miên; Ngoài ra, khi hành giả chìm vào sự dã dượi và buồn ngủ ở oai nghi nào, (thì) thay đổi sang oai nghi khác từ oai nghi đó; hoặc khi tác ý đến ánh sáng mặt trăng, ánh sáng của những ngọn đèn và ánh sáng của những ngọn đuốc vào ban đêm và ánh sáng mặt trời vào ban ngày, hay những nơi thoáng đãng (như ở ngoài trời); hoặc thân cận bạn lành vị đã dứt bỏ được sự dã dượi và buồn ngủ chẳng hạn như trưởng lão Mahākassapa cũng giúp vị ấy từ bỏ được sự dã dượi và buồn ngủ. Ngay cả với việc thảo luận các vấn đề phù hợp liên quan đến hạnh đầu đà (dhutaṅga) trong các oai nghi như đứng hoặc ngồi, v.v, cũng dứt bỏ được sự dã dượi và buồn ngủ. Do đó, đức Thế Tôn đã nói rằng: “sáu pháp vận hành để dứt bỏ sự dã dượi và buồn ngủ”. Lại nữa, hành giả biết rõ rằng: sự dã dượi và buồn ngủ được dứt bỏ nhờ sáu pháp này sẽ không sanh khởi tiếp tục bởi A-ra-hán đạo.
Cetaso avūpasame ayonisomanasikārena uddhaccakukkuccassa uppādo hoti. Avūpasamo nāma avūpasantākāro, uddhaccakukkuccamevetaṃ atthato. Tattha ayonisomanasikāraṃ bahulaṃ pavattayato uddhaccakukkuccaṃ uppajjati. Tenāha – ‘‘atthi, bhikkhave, cetaso avūpasamo, tattha ayonisomanasikārabahulīkāro, ayamāhāro anuppannassa vā uddhaccakukkuccassa uppādāya, uppannassa vā uddhaccakukkuccassa bhiyyobhāvāya vepullāyā’’ti. (saṃ. ni. 5.232).
Việc sanh ra của sự phóng dật và hối hận do tác ý không đúng đường lối trong sự không vắng lặng của tâm. Trạng thái tâm không tĩnh lặng gọi là không vắng lặng. Điều này có ý nghĩa là sự phóng và hối hận. Ơ đấy, khi thực hành tác ý không đúng đường lối thường xuyên thì sự phóng dật và hối hận sanh khởi. Do đó, đức thế Tôn đã nói rằng: “Có, này các tỳ khưu, sự không vắng lặng của tâm, ở đấy tác ý không đúng đường lối được thực hiện nhiều lần, thời chính cái này là thức ăn làm cho sự phóng dật và hối hận chưa sanh khởi được sanh khởi, hay sự phóng dật và hối hận đã sanh khởi đi đến sự tăng trưởng, sự lớn mạnh”. (saṃ. ni. 5.232);
Samādhisaṅkhāte pana cetaso vūpasame yonisomanasikārenassa pahānaṃ hoti. Tenāha – ‘‘atthi, bhikkhave, cetaso vūpasamo, tattha yonisomanasikārabahulīkāro, ayamāhāro anuppannassa vā uddhaccakukkuccassa anuppādāya uppannassa vā uddhaccakukkuccassa pahānāyā’’ti (saṃ. ni. 5.232).
Hơn nữa, việc dứt bỏ của sự phóng dật và hối hận nhờ tác ý đúng đường lối trong sự vắng lặng của tâm được xem là định tâm. Do đó, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Có, này các tỳ khưu, sự vắng lặng của tâm, ở đây tác ý đúng đường lối được thực hiện nhiều lần, thời chính cái này là thức ăn làm cho sự phóng dật và hối hận chưa sanh khởi sẽ không sanh khởi, hay sự phóng dật và hối hận đã sanh được dứt bỏ”. (saṃ. ni. 5.232);
Apica cha dhammā uddhaccakukkuccassa pahānāya saṃvattanti bahussutatā paripucchakatā vinaye pakataññutā vuddhasevitā kalyāṇamittatā sappāyakathāti. Bāhusaccenapi hi ekaṃ vā dve vā tayo vā cattāro vā pañca vā nikāye pāḷivasena ca atthavasena ca uggaṇhantassāpi uddhaccakukkuccaṃ pahīyati. Kappiyākappiyaparipucchābahulassāpi, vinayapaññattiyaṃ ciṇṇavasibhāvatāya pakataññunopi, vuddhe mahallakatthere upasaṅkamantassāpi, upālittherasadise vinayadhare kalyāṇamitte sevantassāpi uddhaccakukkuccaṃ pahīyati. Ṭhānanisajjādīsu kappiyākappiyanissitasappāyakathāyapi pahīyati. Tena vuttaṃ – ‘‘cha dhammā uddhaccakukkuccassa pahānāya saṃvattantī’’ti. Imehi pana chahi dhammehi pahīne uddhaccakukkucce uddhaccassa arahattamaggena kukkuccassa anāgāmimaggena āyatiṃ anuppādo hotīti pajānāti.
Lại nữa, sáu pháp vận hành để dứt trừ phóng dật và hối hận là (1) Nghe nhiều (đa văn); (2) ham thích hỏi han; (3) hiểu biết rành rẽ trong giới luật; (4) thân cận bậc trưởng thượng (những vị cao niên tinh thông giới luật); (5) thân cận bạn lành; (6) lắng nghe và thảo luận các vấn đề phù hợp. Thật vậy, nhờ việc nghe nhiều, hành giả sau khi học tập một, hai, ba, bốn hoặc năm bộ Kinh bao gồm cả Chánh Tạng Pāḷi và Chú giải, (vị ấy) dứt bỏ được sự phóng dật và hối hận; Vị tỳ khưu thường xuyên đặt câu hỏi về những điều được phép và không được phép, vị thiện xảo do có sự thông thạo các quy định về giới luật vốn đã được tích lũy; thân cận bậc trưởng thượng là những vị trưởng lão cao niên lạp trưởng, hoặc thân cận bạn lành, vị rành rẽ về giới luật chẳng hạn như trưởng lão Upālī sẽ dứt bỏ được sự phóng dật và hối hận; Ngoài ra, với việc thảo luận các vấn đề liên quan đến điều được phép và không được phép trong các oai nghi đứng hoặc ngồi, v.v, cũng dứt bỏ được sự phóng dật và hối hận. Do đó, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Sáu pháp vận hành để dứt bỏ sự phóng dật và hối hận”. Lại nữa, hành giả biết rõ rằng: sự phóng dật và hối hận từ bỏ được nhờ sáu pháp này, sự phóng dật không sanh khởi tiếp tục bởi A-ra-hán đạo, còn sự hối hận không sanh khởi tiếp tục bởi A-na-hàm đạo.
Vicikicchāṭṭhānīyesu dhammesu ayonisomanasikārena vicikicchāya uppādo hoti. Vicikicchāṭṭhānīyā dhammā nāma punappunaṃ vicikicchāya kāraṇattā vicikicchāva. Tattha ayonisomanasikāraṃ bahulaṃ pavattayato vicikicchā uppajjati. Tenāha – ‘‘atthi, bhikkhave, vicikicchāṭṭhānīyā dhammā, tattha ayonisomanasikārabahulīkāro, ayamāhāro anuppannāya vā vicikicchāya uppādāya uppannāya vā vicikicchāya bhiyyobhāvāya vepullāyā’’ti (saṃ. ni. 5.232).
Việc sanh khởi của sự hoài nghi do tác ý không đúng đường lối trong các pháp trú xứ của hoài nghi. Sự hoài nghi vì là nguyên nhân của sự nghi ngờ thường xuyên, được gọi là pháp trú xứ của hoài nghi. Khi thực hành tác ý không đúng đường lối ở các pháp trú xứ của hoài nghi ấy thường xuyên thì sự hoài nghi sanh khởi. Do đó, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Có, này các tỳ khưu, các pháp trú xứ của hoài nghi, ở đấy tác ý không đúng đường lối được thực hiện nhiều lần, thời chính cái này là thức ăn khiến cho hoài nghi chưa sanh khởi được sanh khởi, hay hoài nghi đã sanh khởi đi đến sự tăng trưởng, sự lớn mạnh”. (saṃ. ni. 5.232);
Kusalādīsu dhammesu yonisomanasikārena panassā pahānaṃ hoti. Tenāha – ‘‘atthi, bhikkhave, kusalākusalā dhammā sāvajjānavajjā dhammā sevitabbāsevitabbā dhammā hīnappaṇītā dhammā kaṇhasukkasappaṭibhāgā dhammā, tattha yonisomanasikārabahulīkāro , ayamāhāro anuppannāya vā vicikicchāya anuppādāya uppannāya vā vicikicchāya pahānāyā’’ti (saṃ. ni. 5.232).
Tuy nhiên, sự hoài nghi ấy được dứt bỏ nhờ tác ý đúng đường lối ở các pháp có pháp thiện, v.v. Do đó, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Có, này các tỳ khưu, các pháp thiện và pháp bất thiện, pháp đáng bị quở trách và không đáng bị quở trách, pháp nên được thân cận và không nên được thân cận, các pháp hạ liệt và các pháp thù thắng, các pháp đen và các pháp trắng ở đây tác ý đúng đường lối được thực hiện nhiều lần, thời chính cái này là thức ăn khiến cho hoài nghi chưa sanh khởi không sanh khởi, hay hoài nghi đã sanh được dứt bỏ”. (saṃ. ni. 5.232);
Apica cha dhammā vicikicchāya pahānāya saṃvattanti bahussutatā paripucchakatā vinaye pakataññutā adhimokkhabahulatā, kalyāṇamittatā, sappāyakathāti. Bāhusaccenapi hi ekaṃ vā…pe… pañca vā nikāye pāḷivasena atthavasena ca uggaṇhantassāpi vicikicchā pahīyati. Tīṇi ratanāni ārabbha paripucchābahulassāpi, vinaye ciṇṇavasibhāvassāpi, tīsu ratanesu okappaniyasaddhāsaṅkhātaadhimokkhabahulassāpi, saddhādhimutte vakkalittherasadise kalyāṇamitte sevantassāpi vicikicchā pahīyati. Ṭhānanisajjādīsu tiṇṇaṃ ratanānaṃ guṇanissitasappāyakathāyapi pahīyati. Tena vuttaṃ – ‘‘cha dhammā vicikicchāya pahānāya saṃvattantī’’ti. Imehi pana chahi dhammehi pahīnāya vicikicchāya sotāpattimaggena āyatiṃ anuppādo hotīti pajānāti.
Lại nữa, sáu pháp vận hành để dứt bỏ sự hoài nghi là (1) nghe nhiều (đa văn); (2) ham thích hỏi han; (3) hiểu biết rành rẽ trong giới luật; (4) phần nhiều có sự quyết định chắc chắn; (5) thân cận bạn lành; (6) lắng nghe và thảo luân những vấn đề phù hợp. Vì vậy, nhờ nghe nhiều hành giả sau khi học tập một một bộ Kinh -nt- hoặc năm bộ Kinh gồm Chánh Tạng Pāḷi và Chú giải (vị ấy) dứt bỏ được sự hoài nghi; Vị thường xuyên ưa thích hỏi những vấn đề liên quan đến Tam Bảo; có sự rành rẽ trong giới luật do đã được tích lũy; phần lớn có sự quyết định chắc chắn được xem là có lòng tin bất thối chuyển nơi Tam Bảo; hoặc thân cận bạn lành chẳng hạn như trưởng lão Vakkali – vị có tín thắng giải – cũng sẽ dứt bỏ được sự hoài nghi; ngay cả việc thảo luận về các vấn đề liên quan đến ân đức Tam Bảo trong các oai nghi như đứng hoặc ngồi, v.v, cũng dứt bỏ được hoài nghi. Do đó, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Sáu pháp vận hành để dứt bỏ hoài nghi”. Lại nữa, hành giả biết rõ rằng: “Sự hoài nghi được dứt bỏ nhờ 6 pháp này, hoài nghi không sanh khởi tiếp tục bởi Nhập Lưu đạo.
Iti ajjhattaṃ vāti evaṃ pañcanīvaraṇapariggahaṇena attano vā dhammesu, parassa vā dhammesu, kālena vā attano, kālena vā parassa dhammesu dhammānupassī viharati. Samudayavayā panettha subhanimitta asubhanimittādīsu ayonisomanasikārayonisomanasikāravasena pañcasu nīvaraṇesu vuttanayena nīharitabbā. Ito paraṃ vuttanayameva. Kevalañhi idha nīvaraṇapariggāhikā sati dukkhasaccanti evaṃ yojanaṃ katvā nīvaraṇapariggāhakassa bhikkhuno niyyānamukhaṃ veditabbaṃ. Sesaṃ tādisamevāti.
Như vậy … thuộc nội phần: vị ấy sống có sự quan sát pháp trên các pháp của mình, hoặc trên các pháp của người khác, hoặc trên các pháp của mình hợp thời, hoặc trên các pháp của người khác hợp thời bằng việc xác định năm pháp ngăn che như vậy. Nhưng ở đây, sự sanh khởi và hoại diệt trong câu ‘sống có sự quan sát pháp sanh khởi và hoại diệt’ đã được đề cập trong năm pháp ngăn che do tác động tác ý không đúng đường lối và tác ý đúng đường lối đến hiện tướng đẹp và hiện tướng bất tịnh, v.v. Bậc trí nên đem đến để so sánh (để làm rõ hơn). Câu tiếp theo cũng có cách thức như đã nói trước. Ở phần này điểm khác biệt duy nhất là cần được phối hợp ý nghĩa như sau– niệm xác định năm pháp ngăn che là Khổ Đế, nên biết rằng đây là con đường dẫn dắt ra khỏi khổ đau của vị tỳ khưu xác định năm pháp ngăn che (làm đối tượng). Những từ còn lại tương tự.
Phần năm pháp ngăn che – được kết thúc
Phần Uẩn Khandha
- Evaṃ pañcanīvaraṇavasena dhammānupassanaṃ vibhajitvā idāni pañcakkhandhavasena vibhajituṃ puna caparantiādimāha. Tattha pañcasu upādānakkhandhesūti upādānassa khandhā upādānakkhandhā, upādānassa paccayabhūtā dhammapuñjā dhammarāsayoti attho. Ayamettha saṅkhepo . Vitthārato pana khandhakathā visuddhimagge vuttā. Iti rūpanti ‘‘idaṃ rūpaṃ, ettakaṃ rūpaṃ, na ito paraṃ rūpaṃ atthī’’ti sabhāvato rūpaṃ pajānāti. Vedanādīsupi eseva nayo. Ayamettha saṅkhepo. Vitthārena pana rūpādīni visuddhimagge khandhakathāyameva vuttāni. Iti rūpassa samudayoti evaṃ avijjāsamudayādivasena pañcahākārehi rūpassa samudayo. Iti rūpassa atthaṅgamoti evaṃ avijjānirodhādivasena pañcahākārehi rūpassa atthaṅgamo, vedanādīsupi eseva nayo. Ayamettha saṅkhepo. Vitthāro pana visuddhimagge udayabbayañāṇakathāyaṃ vutto.
Sau khi phân tích việc quan sát pháp với năm pháp ngăn che như vậy, bây giờ, để phân tích năm uẩn ngài đã nói rằng: “còn có điều khác nữa…”. Ở đây, “về năm thủ uẩn: là các uẩn đưa đến thủ, gọi là thủ uẩn; nghĩa là “năm khối pháp, năm đống pháp có tính chất là duyên đưa đến chấp thủ. Ở đây nội dung này là phần tóm tắt. Còn chi tiết về uẩn đã được giải thích trong Thanh Tịnh Đạo. Thế này là sắc: biết rõ sắc có thực tính rằng: “đây là sắc, sắc có chừng này, không có sắc nào khác ngoài sắc này”. Cả trong thọ v.v, cũng áp dụng cách này. Ở đây nội dung này là phần tóm tắt. Còn chi tiết về sắc đã được giảng giải trong Khandhakathā thuộc bộ Thanh Tịnh Đạo. Thế này là sự sanh khởi của sắc: sự sanh khởi của sắc với năm biểu hiện do sự sanh khởi của vô minh, v.v, như vậy. Thế này là sự diệt của sắc: sự diệt của sắc với năm biểu hiện do sự diệt tận của vô minh v.v. Ngay cả trong thọ cũng áp dụng cách này. Ở đây nội dung này là phần tóm tắt. Còn chi tiết đã được giảng giải ở phần ‘trí về sanh diệt’ trong bộ Thanh Tịnh Đạo.
Iti ajjhattaṃ vāti evaṃ pañcakkhandhapariggahaṇena attano vā dhammesu, parassa vā dhammesu, kālena vā attano, kālena vā parassa dhammesu dhammānupassī viharati. Samudayavayā panettha ‘‘avijjāsamudayā rūpasamudayo’’tiādīnaṃ (paṭi. ma. 1.50) pañcasu khandhesu vuttānaṃ paññāsāya lakkhaṇānaṃ vasena nīharitabbā. Ito paraṃ vuttanayameva. Kevalañhi idha khandhapariggāhikā sati dukkhasaccanti evaṃ yojanaṃ katvā khandhapariggāhakassa bhikkhuno niyyānamukhaṃ veditabbaṃ. Sesaṃ tādisamevāti.
Như vậy… thuộc nội phần: vị ấy sống có sự quan sát pháp trên các pháp của mình, hoặc trên các pháp của người khác, hoặc trên các pháp của mình hợp thời, hoặc trên các pháp của người khác hợp thời bằng việc xác định năm thủ uẩn như vậy. Ở trường hợp này, sự sanh khởi và hoại diệt nên được đem ra so sánh với năm mươi tướng trạng được nói ở năm uẩn như sau: “do sự sanh khởi của vô minh có sự sanh khởi của sắc”. (paṭi. ma. 1.50); Những từ còn lại ngoài những từ này áp dụng theo cách đã nói. Ở phần này điểm khác biệt duy nhất là cần được phối hợp ý nghĩa như vầy – niệm ghi nhận năm uẩn là Khổ Đế, nên biết rằng đây là con đường dẫn dắt ra khỏi khổ đau của vị tỳ khưu xác định năm uẩn (làm đối tượng). Những từ còn lại tương tự.
Phần uẩn được kết thúc
Giải thích phần xứ
- Evaṃ pañcakkhandhavasena dhammānupassanaṃ vibhajitvā idāni āyatanavasena vibhajituṃ puna caparantiādimāha. Tattha chasu ajjhattikabāhiresu āyatanesūti cakkhu sotaṃ ghānaṃ jivhā kāyo manoti imesu chasu ajjhattikesu rūpaṃ saddo gandho raso phoṭṭhabbo dhammāti imesu chasu bāhiresu. Cakkhuṃ ca pajānātīti cakkhupasādaṃ yāthāvasarasalakkhaṇavasena pajānāti. Rūpe ca pajānātīti bahiddhā catusamuṭṭhānikarūpañca yāthāvasarasalakkhaṇavasena pajānāti. Yañca tadubhayaṃ paṭicca uppajjati saṃyojananti yañca taṃ cakkhuṃ ceva rūpe cāti ubhayaṃ paṭicca kāmarāgasaṃyojanaṃ paṭigha– māna– diṭṭhi– vicikicchā– sīlabbataparāmāsa– bhavarāga– issā– macchariya– avijjāsaṃyojananti dasavidhaṃ saṃyojanaṃ uppajjati, tañca yāthāvasarasalakkhaṇavasena pajānāti.
Sau khi phân tích việc quan sát pháp do tác động của năm uẩn, bây giờ, để phân tích Xứ, ngài đã nói như sau: “còn có điều khác nữa”. Trong số những câu ấy, đối với các pháp về sáu nội và ngoại xứ: Sáu nội xứ này là–mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý; sáu ngoại xứ này là–sắc, thanh, khí, vị, xúc và pháp. Biết rõ con mắt: (vị ấy) biết rõ thần kinh nhãn nhờ vào tướng trạng cùng với chức năng của chúng đúng theo thực thể. Biết rõ các sắc: (vị ấy) biết rõ các sắc có bốn nguồn sanh khởi (nghiệp, quý tiết, tâm và vật thực) ở bên ngoài nhờ vào tướng trạng cùng với chức năng của chúng đúng theo thực thể. Và sự ràng buộc sanh lên tùy thuộc vào cả hai nơi ấy: Mười sự ràng buộc là— sự ràng buộc của ái dục, sự ràng buộc của bất bình, sự ràng buộc của ngã mạn, sự ràng buộc của tà kiến, sự ràng buộc của hoài nghi, sự ràng buộc của giới cấm thủ, sự ràng buộc của hữu ái, sự ràng buộc của ganh tị, sự ràng buộc của bỏn xẻn và sự ràng buộc của vô minh thì sự ràng buộc sanh lên tùy thuộc vào cả hai nơi ấy là– con mắt và các sắc, và biết rõ mười sự ràng buộc đó nhờ vào tướng trạng cùng với chức năng của chúng đúng theo thực thể.
Kathaṃ panetaṃ uppajjatīti? Cakkhudvāre tāva āpāthagataṃ iṭṭhārammaṇaṃ kāmassādavasena assādayato abhinandato kāmarāgasaṃyojanaṃ uppajjati. Aniṭṭhārammaṇe kujjhato paṭighasaṃyojanaṃ uppajjati. ‘‘Ṭhapetvā maṃ ko añño etaṃ ārammaṇaṃ vibhāvetuṃ samattho atthī’’ti maññato mānasaṃyojanaṃ uppajjati. Etaṃ rūpārammaṇaṃ niccaṃ dhuvanti gaṇhato diṭṭhisaṃyojanaṃ uppajjati. ‘‘Etaṃ rūpārammaṇaṃ satto nu kho, sattassa nu kho’’ti vicikicchato vicikicchāsaṃyojanaṃ uppajjati. ‘‘Sampattibhave vata no idaṃ sulabhaṃ jāta’’nti bhavaṃ patthentassa bhavarāgasaṃyojanaṃ uppajjati. ‘‘Āyatimpi evarūpaṃ sīlabbataṃ samādiyitvā sakkā laddhu’’nti sīlabbataṃ samādiyantassa sīlabbataparāmāsasaṃyojanaṃ uppajjati. ‘‘Aho vata taṃ rūpārammaṇaṃ aññe na labheyyu’’nti usūyato issāsaṃyojanaṃ uppajjati. Attanā laddhaṃ rūpārammaṇaṃ aññassa maccharāyato macchariyasaṃyojanaṃ uppajjati. Sabbeheva sahajātaaññāṇavasena avijjāsaṃyojanaṃ uppajjati.
Hơn nữa, sự ràng buộc này sanh lên như thế nào? Sanh lên như vầy– trước tiên, tại lộ nhãn môn, sự ràng buộc của ái dục sanh lên khi một người có sự hài lòng, có sự thích thú trong đối tượng khả ái đã đến xuất hiện qua lộ nhãn môn do sự ưa thích trong các dục. Sự ràng buộc của bất bình sanh lên khi một người bực bội với đối tượng bất khả ái. Sự ràng buộc của ngã mạn sanh lên khi một người có suy nghĩ rằng: “Ngoại trừ ta thì không có ai khác có thể cảm nghiệm đối tượng ấy”. Sự ràng buộc của tà kiến sanh lên khi nắm lấy đối tượng sắc nghĩ rằng: là thường hằng, bền vững. Sự ràng buộc của hoài nghi sanh lên khi có sự phân vân: “Đối tượng sắc này có phải là một chúng sanh? hay là của chúng sanh”. Sự ràng buộc của hữu ái sanh lên khi mong muốn rằng: “Đối tượng này chắc chắn ta sẽ dễ dàng đạt được ở thế giới có sự thuận lợi”. Sự ràng buộc của giới cấm thủ sanh lên khi chấp chặt vào giới và phận sự, nghĩ rằng: “Nhờ hành trì giới và phận sự này, ta có thể đạt được đối tượng sắc có hình thức như vậy trong tương lai”. Sự ràng buộc của ganh tị sanh lên khi có sự đố kỵ rằng “Ôi! những kẻ khác không nên có được các đối tượng sắc có hình thức như thế này”. Sự ràng buộc của bỏn xẻn sanh lên khi có sự ích kỷ đối với người khác về đối tượng sắc mà mình sở hữu. Sự ràng buộc của vô minh sanh lên khi không biết rõ do năng lực không hiểu biết các pháp đồng sanh với hết thảy tất cả điều này (mắt và các sắc).
Yathā ca anuppannassāti yena kāraṇena asamudācāravasena anuppannassa tassa dasavidhassāpi saṃyojanassa uppādo hoti, tañca kāraṇaṃ pajānāti. Yathā ca uppannassāti appahīnaṭṭhena pana samudācāravasena vā uppannassa tassa dasavidhassāpi saṃyojanassa yena kāraṇena pahānaṃ hoti, tañca kāraṇaṃ pajānāti. Yathā ca pahīnassāti tadaṅgavikkhambhanappahānavasena pahīnassāpi tassa dasavidhassa saṃyojanassa yena kāraṇena āyatiṃ anuppādo hoti, tañca pajānāti. Kena kāraṇena panassa āyatiṃ anuppādo hoti? Diṭṭhivicikicchāsīlabbataparāmāsaissāmacchariyabhedassa tāva pañcavidhassa saṃyojanassa sotāpattimaggena āyatiṃ anuppādo hoti. Kāmarāgapaṭighasaṃyojanadvayassa oḷārikassa sakadāgāmimaggena, aṇusahagatassa anāgāmimaggena, mānabhavarāgāvijjāsaṃyojanattayassa arahattamaggena āyatiṃ anuppādo hoti.
Chưa được sanh lên là như thế nào: Mười sự ràng buộc đó vẫn chưa sanh lên do tác động của sự không kiểm soát được sanh lên bởi nguyên nhân nào? vị ấy biết rõ nguyên nhân ấy; Đã được sanh lên là như thế nào: Mười sự ràng buộc ấy đã được sanh lên với ý nghĩa vẫn chưa dứt bỏ, hoặc do tác động của sự kiểm soát được dứt bỏ do nhân nào? vị ấy biết rõ nhân ấy; Đã được dứt bỏ là như thế nào : mười sự ràng buộc ấy đã được dứt trừ nhờ tác động của sự từ bỏ do thay thế và sự từ bỏ do chế ngự đã không sanh lên trong tương lai bởi nguyên nhân nào? vị ấy biết rõ nhân ấy. Việc không sanh lên trong tương lai của mười sự ràng buộc do nhân gì? Trước hết, việc không sanh lên trong tương lai của năm sự ràng buộc là– tà kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, ganh tị và bỏn xẻn do Đạo Nhập Lưu; Hai sự ràng buộc là– sự ràng buộc của ái dục và sự ràng buộc của bất bình có tính chất thô thiển sẽ không sanh lên do Đạo Nhất Lai; Còn có tính chất vi tế không sanh lên do Đạo Bất Lai. Ba sự ràng buộc là– sự ràng buộc của ngã mạn, sự ràng buộc của hữu ái và sự ràng buộc của vô mình không sanh lên trong tương lai do Đạo A-ra-hán , (vị ấy) biết rõ nhân ấy.
Sotañca pajānāti sadde cā tiādīsupi eseva nayo. Apicettha āyatanakathā vitthārato visuddhimagge āyatananiddese vuttanayeneva veditabbā.
Tương tự, vị ấy biết rõ tai, biết rõ các thinh, v.v.: cũng áp dụng cách này. Hơn nữa, lời thuyết giảng về Xứ ở đây nên hiểu chi tiết theo cách đã trình bày ở phần diễn giải về Xứ trong bộ Thanh Tịnh Đạo.
Iti ajjhattaṃ vāti evaṃ ajjhattikāyatanapariggahaṇena attano vā dhammesu, bāhirāyatanapariggahaṇena parassa vā dhammesu, kālena vā attano, kālena vā parassa dhammesu dhammānupassī viharati. Samudayavayā panettha ‘‘avijjāsamudayā cakkhusamudayo’’ti rūpāyatanassa rūpakkhandhe, arūpāyatanesu manāyatanassa viññāṇakkhandhe, dhammāyatanassa sesakkhandhesu vuttanayena nīharitabbā. Lokuttaradhammā na gahetabbā. Ito paraṃ vuttanayameva.
Như vậy … hoặc ngoại phần: vị ấy sống có sự quan sát pháp trên các pháp của mình với việc xác định nội xứ, hoặc trên các pháp của người khác với việc xác định ngoại xứ, hoặc trên các pháp của mình hợp thời, hoặc trên các pháp của người khác hợp thời như vậy. Sự sanh khởi và sự hoại diệt trong phần Xứ này nên được đem đến so sánh với phần Sắc xứ thuộc Sắc uẩn, Ý xứ trong Vô sắc xứ thuộc Thức uẩn, Pháp xứ thuộc các uẩn còn lại rằng: “do sự sanh khởi của vô minh có sự sanh khởi của mắt”, không nên nắm giữ là Pháp Siêu Thế. Các câu từ tiếp theo có cách thức như đã trình bày.
Kevalañhi idha āyatanapariggāhikā sati dukkhasaccanti evaṃ yojanaṃ katvā āyatanapariggāhakassa bhikkhuno niyyānamukhaṃ veditabbaṃ. Sesaṃ tādisamevāti.
Ở phần này điểm khác biệt duy nhất là cần được phối hợp ý nghĩa như vầy – niệm ghi nhận các Xứ (làm đối tượng) là Khổ Đế, nên biết rằng đây là con đường dẫn dắt ra khỏi khổ đau của vị tỳ khưu xác định Xứ (làm đối tượng). Những từ còn lại tương tự.
Giảng giải phần Xứ được kết thúc
Giảng giải phần yếu tố đưa đến giác ngộ
- 118. Evaṃ cha ajjhattikabāhirāyatanavasena dhammānupassanaṃ vibhajitvā idāni bojjhaṅgavasena vibhajituṃ puna caparanti ādimāha. Tattha bojjhaṅgesūti bujjhanakasattassa aṅgesu. Santanti paṭilābhavasena saṃvijjamānaṃ. Satisambojjhaṅganti satisaṅkhātaṃ sambojjhaṅgaṃ. Ettha hi sambujjhati āraddhavipassakato paṭṭhāya yogāvacaroti sambodhi, yāya vā so satiādikāya sattadhammasāmaggiyā sambujjhati kilesaniddāto uṭṭhāti, saccāni vā paṭivijjhati, sā dhammasāmaggī sambodhi. Tassa sambodhissa, tassā vā sambodhiyā aṅganti sambojjhaṅgaṃ. Tena vuttaṃ ‘‘satisaṅkhātaṃ sambojjhaṅga’’nti. Sesasambojjhaṅgesupi imināva nayena vacanattho veditabbo.
- Sau khi phân tích việc quan sát pháp do tác động sáu nội và ngoại xứ như vậy, giờ đây, để phân tích về các giác chi, ngài đã nói rằng: “Còn có điều khác nữa, v.v.” Ở đây, giác chi là những yếu tố của chúng sanh giác ngộ. Đang hiện hữu: Hiện hữu bởi sự thành tựu. Niệm giác chi: yếu tố giác ngộ được gọi là niệm. Chính ở đây, hành giải thấy rõ hoàn toàn từ lúc bắt đầu thực hành Minh sát được gọi là sự giác ngộ hoàn toàn. Hoặc vị ấy tỉnh dậy từ giấc ngủ phiền não thấy rõ hoàn toàn hoặc thấu triệt các Chân lý bằng bảy pháp hòa hợp nào có niệm, v.v, (thì) pháp hòa hợp ấy gọi là sự giác ngộ hoàn toàn. Yếu tố của người tỉnh thức ấy, hoặc pháp hòa hợp là phương tiện đánh thức ấy được gọi là giác chi. Do đó, ngài đã nói rằng: “Giác chi được gọi là niệm”. Cả các giác chỉ còn cũng nên hiểu ý nghĩa của từ theo chính cách thức này.
Asantanti appaṭilābhavasena avijjamānaṃ. Yathā ca anuppannassātiādīsu pana satisambojjhaṅgassa tāva – ‘‘atthi, bhikkhave, satisambojjhaṅgaṭṭhānīyā dhammā, tattha yonisomanasikārabahulīkāro, ayamāhāro anuppannassa vā satisambojjhaṅgassa uppādāya, uppannassa vā satisambojjhaṅgassa bhiyyobhāvāya vepullāya bhāvanāya pāripūriyā saṃvattatī’’ti (saṃ. ni. 5.183) evaṃ uppādo hoti . Tattha satiyeva satisambojjhaṅgaṭṭhānīyā dhammā. Yonisomanasikāro vuttalakkhaṇoyeva, taṃ tattha bahulaṃ pavattayato satisambojjhaṅgo uppajjati.
Không hiện hữu: Không hiện hữu do không thành tựu. Chưa sanh lên là như thế nào,v.v, trước tiên, niệm giác chi sanh khởi như vầy: “Có, này các tỳ khưu, có các pháp trú xứ cho niệm giác chi, ở đây tác ý đúng đường lối được thực hiện nhiều lần, thời chính cái này là thức ăn khiến cho niệm giác chi chưa sanh khởi được sanh khởi, hoặc hay niệm giác chi đã sanh khởi được vận hành đưa đến sự tăng trưởng, sự phát triển, sự tu tập và làm cho trọn vẹn.” (saṃ. ni. 5.232); Trong các pháp đó, chính niệm ấy được gọi là pháp trú xứ cho niệm giác chi. Tác ý đúng đường lối có tướng trạng như đã được trình bày. Ở đây, khi tác ý đúng đường lối được thực hiện nhiều lần thời niệm giác chi sanh khởi.
Apica cattāro dhammā satisambojjhaṅgassa uppādāya saṃvattanti satisampajaññaṃ muṭṭhassatipuggalaparivajjanatā upaṭṭhitassatipuggalasevanatā tadadhimuttatāti. Abhikkantādīsu hi sattasu ṭhānesu satisampajaññena bhattanikkhittakākasadise muṭṭhassatipuggale parivajjanena tissadattattheraabhayattherasadise upaṭṭhitassatipuggale sevanena ṭhānanisajjādīsu satisamuṭṭhāpanatthaṃ ninnapoṇapabbhāracittatāya ca satisambojjhaṅgo uppajjati. Evaṃ catūhi kāraṇehi uppannassa panassa arahattamaggena bhāvanāpāripūrī hotīti pajānāti.
Thêm nữa, bốn pháp được vận hành đưa đến sự sanh khởi của niệm giác chi gồm (1) có niệm và sự nhận biết rõ; (2) tránh xa những người có niệm bị quên lãng; (3) gần gũi những người có niệm được thiết lập; (4) tâm luôn hướng đến niệm giác chi ấy. Thật vậy, niệm giác chi sanh khởi nhờ có niệm và sự nhận biết rõ trong bảy trường hợp như ‘bước tới”; với việc tránh xa những kẻ có niệm bị quên lãng cũng giống như loài quạ cất giữ thức ăn; gần gũi những người có niệm được thiết lập chẳng hạn như trưởng lão Tissadatta và trưởng lão Abhaya v.v. Và với bản thể vị có tâm hướng đến để thiết niệm niệm trong các oai nghi như đứng hoặc ngồi, v.v. Vị ấy biết rõ rằng– niệm giác chi đã khơi lên nhờ bốn nguyên nhân như vậy, được phát triển trọn vẹn bởi Đạo A-ra-hán.
Dhammavicayasambojjhaṅgassa pana – ‘‘atthi, bhikkhave, kusalākusalā dhammā…pe… kaṇhasukkasappaṭibhāgā dhammā, tattha yonisomanasikārabahulīkāro, ayamāhāro anuppannassa vā dhammavicayasambojjhaṅgassa uppādāya, uppannassa vā dhammavicayasambojjhaṅgassa bhiyyobhāvāya vepullāya bhāvanāya pāripūriyā saṃvattatī’’ti (saṃ. ni. 5.232) evaṃ uppādo hoti.
Lại nữa, việc sanh lên của trạch pháp giác chi như vầy: “Có, này các tỳ khưu, các pháp thiện và bất thiên -nt- các pháp đen và trắng, ở đây tác ý đúng đường lối được thực hiện nhiều lần, thời chính cái này là thức ăn khiến cho trạch pháp giác chi chưa sanh khởi được sanh khởi, hoặc trạch pháp giác chi đã sanh khởi được vận hành đưa đến sự tăng trưởng, sự phát triển, sự tu tập và làm cho trọn vẹn.” (saṃ. ni. 5.232);
Apica satta dhammā dhammavicayasambojjhaṅgassa uppādāya saṃvattanti paripucchakatā vatthuvisadakiriyā indriyasamattapaṭipādanā duppaññapuggalaparivajjanā paññavantapuggalasevanā gambhīrañāṇacariyapaccavekkhaṇā tadadhimuttatāti. Tattha paripucchakatāti khandha– dhātu– āyatana– indriya– bala– bojjhaṅga– maggaṅga– jhānaṅga– samatha– vipassanānaṃ atthasannissitaparipucchābahulatā.
Lại nữa, bảy pháp được vận hành đưa đến sự sanh khởi của trạch pháp giác chi gồm– (1) ham thích học hỏi; (2) làm sạch sẽ vật bên trong và bên ngoài; (3) điều chỉnh các Quyền được cân bằng; (4) tránh xa những kẻ có tuệ kém; (5) gần gũi những người có tuệ; (6) quán xét lại hành vi của tri sâu sắc; (7) hướng tâm vào trạch pháp giác chi. Trong số bảy pháp đó, bản thể vị thường xuyên tìm hiểu và đặt câu hỏi về các vấn đề liên quan đến ý nghĩa của uẩn, xứ, giới, quyền, lực, giác chi, chi đạo, chi thiền, Chỉ tịnh và Minh sát gọi là ham thích học hỏi.
Vatthuvisadakiriyāti ajjhattikabāhirānaṃ vatthūnaṃ visadabhāvakaraṇaṃ. Yadā hissa kesanakhalomā atidīghā honti, sarīraṃ vā ussannadosañceva sedamalamakkhitañca, tadā ajjhattikaṃ vatthu avisadaṃ hoti aparisuddhaṃ . Yadā pana cīvaraṃ jiṇṇaṃ kiliṭṭhaṃ duggandhaṃ hoti, senāsanaṃ vā uklāpaṃ, tadā bāhiraṃ vatthu avisadaṃ hoti aparisuddhaṃ. Tasmā kesādicchedāpanena uddhaṃvirecanaadhovirecanādīhi sarīrasallahukabhāvakaraṇena ucchādananhāpanena ca ajjhattikaṃ vatthu visadaṃ kātabbaṃ.
Cần được làm sạch sẽ vật bên trong và bên ngoài gọi là làm sạch vật bên trong và bên ngoài. Khi nào tóc, râu và móng dài, hoặc cơ thể bị bẩn, hôi hám bởi mồ hôi và chất nhờn; khi đó vật bên trong không sạch sẽ, không trong sạch. Còn khi nào y phục đã cũ, rách, dơ bẩn, bốc mùi hoặc chỗ ở dơ bẩn, bừa bộn; khi ấy vật bên ngoài không được sạch sẽ, không trong sạch. Do đó, cần giữ sạch vật bên trong bằng việc cạo râu, tóc, v.v, làm cho cơ thể được thoải mái, tẩy rửa bụi bẩn toàn thân từ trên xuống dưới và kỳ cọ sạch sẽ, tắm rửa để loại bỏ mùi hôi.
Sūcikammadhovanarajanaparibhaṇḍakaraṇādīhi bāhiraṃ vatthu visadaṃ kātabbaṃ. Etasmiñhi ajjhattikabāhire vatthusmiṃ avisade uppannesu cittacetasikesu ñāṇampi aparisuddhaṃ hoti, aparisuddhāni dīpakapallakavaṭṭitelāni nissāya uppannadīpasikhāya obhāso viya. Visade pana ajjhattikabāhire vatthumhi uppannesu cittacetasikesu ñāṇampi visadaṃ hoti, parisuddhāni dīpakapallakavaṭṭitelāni nissāya uppannadīpasikhāya obhāso viya. Tena vuttaṃ – ‘‘vatthuvisadakiriyā dhammavicayasambojjhaṅgassa uppādāya saṃvattatī’’ti.
Đồng thời, cần làm sạch sẽ vật bên ngoài bằng cách khâu vá, nhuộm và giặt giũ (y phục cũ, rách), và thực hiện xông bình bát, v.v. Bởi lẽ, khi cả vật bên trong và vật bên ngoài không sạch sẽ, thì khi tâm và tâm sở sanh khởi, trí cũng không trong sáng; (điều này) giống như ánh sáng của ngọn đèn phát ra (mờ đục) do tim đèn và dầu không sạch. Ngược lại, khi vật bên trong và vật bên ngoài đều được làm sạch, thì khi tâm và tâm sở sanh khởi, trí cũng trở nên trong sáng; (điều này) giống như ánh sáng của ngọn đèn phát ra (sáng rõ) do tim đèn và dầu sạch. Do đó, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Việc làm vật sạch sẽ vận hành đưa đến sự sanh khởi của trạch pháp giác chi”.
Indriyasamattapaṭipādanā nāma saddhādīnaṃ indriyānaṃ samabhāvakaraṇaṃ. Sace hissa saddhindriyaṃ balavaṃ hoti, itarāni mandāni. Tato vīriyindriyaṃ paggahakiccaṃ, satindriyaṃ upaṭṭhānakiccaṃ, samādhindriyaṃ avikkhepakiccaṃ, paññindriyaṃ dassanakiccaṃ kātuṃ na sakkoti. Tasmā taṃ dhammasabhāvapaccavekkhaṇena vā yathā vā manasikaroto balavaṃ jātaṃ, tathā amanasikārena hāpetabbaṃ. Vakkalittherassa vatthu cettha nidassanaṃ. Sace pana vīriyindriyaṃ balavaṃ hoti, atha neva saddhindriyaṃ adhimokkhakiccaṃ kātuṃ sakkoti, na itarāni itarakiccabhedaṃ. Tasmā taṃ passaddhādibhāvanāya hāpetabbaṃ. Tatrāpi soṇattherassa vatthu dassetabbaṃ. Evaṃ sesesupi ekassa balavabhāve sati itaresaṃ attano kiccesu asamatthatā veditabbā.
Việc điều chỉnh các Quyền gồm Tín quyền, v.v, để đạt được trạng thái cân bằng gọi là việc điều chỉnh các Quyền được cân bằng. Nếu Tín quyền trở nên mạnh mẽ trong khi các Quyền còn lại yếu, khi đó Tấn quyền không thể thực hiện phận sự bảo hộ tâm; Niệm quyền không thể thực hiện chức năng ghi nhớ nơi các đối tượng; Định quyền không thể thực hiện được phận sự không tản mạn và Tuệ quyền không thể thực hiện phận sự thấy. Do đó, khi chú ý đến Tín quyền qua việc suy xét đến thực tính pháp hoặc bằng cách nào Tín quyền trở nên mạnh mẽ có thể kìm hãm nhờ không chú ý bằng cách ấy. Trong trường hợp này, câu chuyện về trưởng lão Vakkali là ví dụ. Tuy nhiên, nếu Tấn quyền trở nên mạnh mẽ, khi đó Tín quyền không thể thực hiện được phận sự quyết định chắc chắn, các Quyền còn lại cũng không thể thực hiện phận sự của mình. Do đó, cần phải kìm hãm Tấn quyền ấy bằng việc tu tập tịnh giác chi, v.v. Trong trường hợp này, nên trình bày câu chuyện của trưởng lão Soṇa là ví dụ. Các Quyền còn lại cũng tương tự như vậy, nên biết rằng khi một Quyền trở nên mạnh mẽ, thì các Quyền còn lại không thể thực hiện phận sự của chính nó.
Visesato panettha saddhāpaññānaṃ samādhivīriyānaṃ ca samataṃ pasaṃsanti. Balavasaddho hi mandapañño mudhāpasanno hoti, avatthusmiṃ pasīdati. Balavapañño mandasaddho kerāṭikapakkhaṃ bhajati. Bhesajjasamuṭṭhito viya rogo atekiccho hoti. Cittuppādamatteneva kusalaṃ hotīti atidhāvitvā dānādīni akaronto niraye uppajjati. Ubhinnaṃ samatāya vatthusmiṃyeva pasīdati . Balavasamādhiṃ pana mandavīriyaṃ samādhissa kosajjapakkhattā kosajjaṃ adhibhavati. Balavavīriyaṃ mandasamādhiṃ vīriyassa uddhaccapakkhattā uddhaccaṃ adhibhavati . Samādhi pana vīriyena saṃyojito kosajje patituṃ na labhati. Vīriyaṃ samādhinā saṃyojitaṃ uddhacce patituṃ na labhati. Tasmā tadubhayaṃ samaṃ kātabbaṃ. Ubhayasamatāya hi appanā hoti.
Đặc biệt, trong vấn đề này, ngài nhấn mạnh sự cân bằng giữa đức tin với trí tuệ, cũng như định với tinh tấn. Bởi vì người có đức tin mạnh nhưng có trí tuệ yếu dễ rơi vào niềm tin mù quáng, niềm tin không có cơ sở. Người có trí tuệ mạnh nhưng đức tin yếu thường có khuynh hướng lệch lạc cũng giống như bệnh tật không thể chữa trị do sai thuốc, người ấy nghĩ rằng: thiện nghiệp có được chỉ với ý định khởi tâm, mà không cần tạo các việc lành như bố thí v.v, (với suy nghĩ như vậy) người ấy bị tái sanh vào địa ngục. Khi cả hai (đức tin và trí tuệ) cân bằng thì người ấy chỉ đặt niềm tin nơi Tam Bảo. Hơn nữa, định mạnh nhưng tinh tấn yếu, sự lười biếng sẽ chi phối bởi trạng thái định thuộc về phía của sự lười biếng. Khi tinh tấn mạnh nhưng định yếu, phóng dật sẽ chế ngự, vì tinh tấn thuộc về phía của phóng dật. Vả lại, định phối hợp với tinh tấn sẽ không bị rơi vào sự lười biếng. (Và ngược lại), tinh tấn phối hợp với định sẽ không rơi vào sự phóng dật. Do đó, cần phải làm cho hai quyền ấy được cân bằng. Vì chỉ khi định và tinh tấn cân bằng, an chỉ định mới được thiết lập.
Apica samādhikammikassa balavatīpi saddhā vaṭṭati. Evaṃ saddahanto okappento appanaṃ pāpuṇissati. Samādhipaññāsu pana samādhikammikassa ekaggatā balavatī vaṭṭati, evañhi so appanaṃ pāpuṇāti. Vipassanākammikassa paññā balavatī vaṭṭati, evañhi so lakkhaṇappaṭivedhaṃ pāpuṇāti. Ubhinnaṃ pana samatāyapi appanā hotiyeva. Sati pana sabbattha balavatī vaṭṭati. Sati hi cittaṃ uddhaccapakkhikānaṃ saddhāvīriyapaññānaṃ vasena uddhaccapātato, kosajjapakkhikena ca samādhinā kosajjapātato rakkhati. Tasmā sā loṇadhūpanaṃ viya sabbabyañjanesu sabbakammikaamacco viya ca sabbarājakiccesu sabbattha icchitabbā. Tenāha – ‘‘sati ca pana sabbatthikā vuttā bhagavatā. Kiṃ kāraṇā? Cittañhi sati paṭisaraṇaṃ, ārakkhapaccupaṭṭhānā ca sati, na ca vinā satiyā cittassa paggahaniggaho hotī’’ti.
Tuy nhiên, đức tin mạnh là (yếu tố) cần thiết đối với hành giả tu tập thiền định. Khi có đức tin và sự tin tưởng vững chắc như vậy, vị ấy sẽ đạt được an chỉ định. Hơn nữa, định và tuệ cùng với nhất hành có năng lực mạnh là (yếu tố) cần thiết đối với hành giả tu tập thiền định. Bởi vì, vị ấy đạt được trạng thái an chỉ định nhờ vào định tâm như vậy. Tuệ mạnh là phù hợp đối với hành giả tu tập thiền minh sát. Bởi vì, vị ấy đạt đến sự thấu triệt tam tướng bằng tuệ như vậy. Tuy nhiên, trạng thái an chỉ định có được khi cả hai (đức tin và tuệ) cân bằng hoàn toàn. Ngoài ra, niệm có năng lực mạnh là cần thiết cho tất cả. Bởi vì niệm hộ trì tâm khỏi rơi vào phóng dật do tác động của đức tin, tinh tấn và tuệ thuộc về phía phóng dật; hộ trì tâm khỏi rơi vào sự lười biếng do định tâm thuộc về phía của sự lười biếng. Do đó, niệm nên được ước muốn đối với tất cả, giống như muối là thành phần không thể thiếu khi nêm nếm các món canh, và giống như viên quan đại thần am hiểu về mọi việc triều chính là cần thiết cho tất cả công việc của triều đình. Chính vì lý do đó, đức Thế Tôn mới nói rằng: – “Và hơn nữa, niệm nên được ước muốn đối với tất cả. tại sao? Bởi vì tâm có niệm là nơi trú ẩn, và niệm có sự bảo vệ là thành tựu, và không có niệm thì không có sự nâng đỡ và chế ngự tâm”.
Duppaññapuggalaparivajjanā nāma khandhādibhede anogāḷhapaññānaṃ dummedhapuggalānaṃ ārakāva parivajjanaṃ. Paññavantapuggalasevanā nāma samapaññāsalakkhaṇapariggāhikāya udayabbayapaññāya samannāgatapuggalasevanā. Gambhīrañāṇacariyapaccavekkhaṇā nāma gambhīresu khandhādīsu pavattāya gambhīrapaññāya pabhedapaccavekkhaṇā. Tadadhimuttatā nāma ṭhānanisajjādīsu dhammavicayasambojjhaṅgasamuṭṭhāpanatthaṃ ninnapoṇapabbhāracittatā. Evaṃ uppannassa panassa arahattamaggena bhāvanāpāripūrī hotīti pajānāti.
Việc tránh xa những người ngu si, không có tuệ thấm nhuần về sự phân tích các uẩn v.v, gọi là tránh xa những người có tuệ kém. Thân cận những người thành tựu với tuệ về sự sanh diệt được xác định thông qua năm mươi tướng trạng gọi là thân cận với người có tuệ. Quán chiếu sự khác biệt với trí tuệ thâm sâu về sự vận hành của các uẩn v.v, có thực tính sâu sắc gọi là quán xét lại hành vi của tri thâm sâu. Trạng thái tâm có khuynh hướng xuôi theo nhằm mục đích thiết lập trạch pháp giác chi trong các oai nghi như ngồi và đứng v.v, gọi là hướng tâm vào trạch pháp giác chi. Vị ấy biết rõ trạch pháp giác chi sanh khởi như vậy được tu tập trọn vẹn bởi Đạo A-ra-hán.
Vīriyasambojjhaṅgassa – ‘‘atthi, bhikkhave, ārabbhadhātu nikkamadhātu parakkamadhātu, tattha yoniso manasikārabahulīkāro, ayamāhāro anuppannassa vā vīriyasambojjhaṅgassa uppādāya, uppannassa vā vīriyasambojjhaṅgassa bhiyyobhāvāya vepullāya bhāvanāya pāripūriyā saṃvattatī’’ti (saṃ. ni. 5.232) evaṃ uppādo hoti.
Việc sanh khởi của tinh tinh tấn giác chi như vầy— “Có, này các tỳ khưu, tinh cần giới, tinh tấn giới và dõng mãnh giới, ở đây tác ý đúng đường lối được thực hiện nhiều lần, thời chính cái này là thức ăn khiến cho tinh tấn giác chi chưa sanh khởi được sanh khởi, hoặc tinh tấn giác chi đã sanh khởi được vận hành đưa đến sự tăng trưởng, sự phát triển, sự tu tập và làm cho trọn vẹn”. (saṃ. ni. 5.232);
Apica ekādasa dhammā vīriyasambojjhaṅgassa uppādāya saṃvattanti apāyabhayapaccavekkhaṇatā ānisaṃsadassāvitā gamanavīthipaccavekkhaṇatā piṇḍapātāpacāyanatā dāyajjamahattapaccavekkhaṇatā satthumahattapaccavekkhaṇatā jātimahattapaccavekkhaṇatā sabrahmacārimahattapaccavekkhaṇatā kusītapuggalaparivajjanatā āraddhavīriyapuggalasevanatā tadadhimuttatāti.
Và hơn nữa, mười một pháp vận hành đưa đến sự sanh khởi của tinh tấn giác chi gồm— (1) quán chiếu sự sợ hãi trong khổ cảnh; (2) thấy được sự lợi ích; (3) quán xét về hành trình đi đến; (4) tôn trọng vật thực cúng dường của thiện tíní; (5) quán xét về sự vĩ đại của việc thừa hưởng tài sản; (6) quán xét về tính chất có bậc Đạo Sư là vĩ đại; (7) quán xét sự cao quý của dòng dõi; (8) quán xét tính chất có Phạm hạnh là vĩ đại; (9) tránh xa những người lười biếng; (10) Thân cận với những người nỗ lực tinh tấn; (11) hướng tâm đến tinh tấn giác chi ấy.
Tattha nirayesu pañcavidhabandhanakammakāraṇato paṭṭhāya mahādukkhaṃ anubhavanakālepi, tiracchānayoniyaṃ jālakkhipakumīnādīhi gahitakālepi, pājanakaṇṭakādippahāratunnassa pana sakaṭavāhanādikālepi, pettivisaye anekānipi vassasahassāni ekaṃ buddhantarampi khuppipāsāhi āturitakālepi, kālakañjikaasuresu saṭṭhihatthaasītihatthappamāṇena aṭṭhicammamatteneva attabhāvena vātātapādidukkhānubhavanakālepi na sakkā vīriyasambojjhaṅgaṃ uppādetuṃ. Ayameva te bhikkhu kālo vīriyakaraṇāyāti evaṃ apāyabhayaṃ paccavekkhantassāpi vīriyasambojjhaṅgo uppajjati.
Trong số mười một pháp ấy, vào thời điểm chịu đựng khổ đau lớn lao kể từ khi lãnh chịu hình phạt ‘trói buộc năm cách’ ở địa ngục; trong lúc bị bắt bằng lưới, lồng và bẫy sập, v.v, hoặc trong lúc bị xua đuổi, đâm xuyên bởi những loại vũ khí sắc nhọn như cây xiên, v.v, và thậm chí bị buộc phải kéo xe khi sanh làm súc sanh; hoặc trong lúc phải chịu sự đau đớn khổ sở do đói khát trong nhiều nghìn năm, hoặc khoảng thời gian giữa hai vị Phật khi sinh vào loài ngạ quỷ; hoặc đối mặt với khổ đau vì sức gió, sức nóng, v.v, với thể thể chỉ còn da bọc xương cao khoảng sáu mươi cánh tay hoặc tám mươi cánh tay trong nhóm a-tu-la Kālakañcika, (trong những hoàn cảnh đó) tinh tấn giác chi không thể khởi lên; Này các tỳ khưu, chính thời gian này là lúc thực hành sự tinh tấn để tinh tấn giác chi được sanh khởi ngay cả khi quán xét sự sợ hãi trong các khổ cảnh như vậy.
‘‘Na sakkā kusītena navalokuttaradhammaṃ laddhuṃ, āraddhavīriyeneva sakkā ayamānisaṃso vīriyassā’’ti evaṃ ānisaṃsadassāvinopi uppajjati. ‘‘Sabbabuddhapaccekabuddhamahāsāvakehi te gatamaggo gantabbo, so ca na sakkā kusītena gantu’’nti evaṃ gamanavīthiṃ paccavekkhantassāpi uppajjati. ‘‘Ye taṃ piṇḍapātādīhi upaṭṭhahanti, ime te manussā neva ñātakā, na dāsakammakarā, nāpi ‘taṃ nissāya jīvissāmā’ti te paṇītāni piṇḍapātādīni denti, atha kho attano kārānaṃ mahapphalataṃ paccāsīsamānā denti, satthārāpi ‘ayaṃ ime paccaye paribhuñjitvā kāyadaḷhībahulo sukhaṃ viharissatī’ti na evaṃ sampassatā tuyhaṃ paccayā anuññātā, atha kho ‘ayaṃ ime paribhuñjamāno samaṇadhammaṃ katvā vaṭṭadukkhato muccissatī’ti te paccayā anuññātā, so dāni tvaṃ kusīto viharanto na taṃ piṇḍaṃ apacāyissasi, āraddhavīriyasseva hi piṇḍapātāpacāyanaṃ nāma hotī’’ti evaṃ piṇḍapātāpacāyanaṃ paccavekkhantassāpi uppajjati mahāmittattherassa viya.
Tinh tấn giác chi được sanh khởi ngay cả khi hành giả thấy lợi ích như vầy— “những kẻ lười biếng không thể đạt được chín Pháp Siêu Thế, chỉ có những người tinh cần tinh tấn mới có thể (đạt được chín pháp siêu thế)”, đây chính là lợi ích của tinh tấn. Tinh tấn giác chi được sanh khởi ngay cả khi quán xét về hành trình đi đến như vầy: “Cần đi trên con đường mà chư Phật, chư Độc Giác Phật và chư Thánh Thinh Văn Đại Đệ Tử đã đi qua, con đường này không dành cho những kẻ lười biếng”. Ngay cả khi hành giả quán xét đến sự tôn trọng đối với vật thực cúng dường của thiện tín như vầy— Những người nào phục vụ ta bằng các món vật dụng như vật thực, v.v, những người này đây không phải là thân quyến mà cũng không phải nô lệ làm công, những người ấy không phải cúng dường các món vật dụng như y phục, v.v, thượng hạng đến ngươi với suy nghĩ rằng: sẽ nương nhờ ngươi để nuôi mạng. Thực tế, họ cúng dường với hy vọng việc họ đã làm mang lại quả báo lớn lao. Ngay cả bậc Đạo Sư cũng không suy xét như vầy— “Vị tỳ khưu sau thọ dụng các món vật dụng này sẽ có cơ thể cường tráng (và) sống an lạc,” rồi cho phép thọ dụng những món vật dụng ấy đến vị ấy; Thực ra, ngài suy xét rằng— “Vị tỳ khưu thọ dụng các món vật dụng này để thực hành Sa-môn Pháp sẽ thoát khỏi khổ đau trong luân hồi,’ mới cho phép họ thọ dụng các món vật dụng ấy. Nhưng giờ đây, ngươi lại lười biếng, không tôn trọng các vật thí đó; Bởi sự tôn trọng đối với vật thực cúng dường của thiện tín chỉ tồn tại nơi người tinh cần tinh tấn. Tinh tấn giác chi được khởi lên, giống như của trưởng lão Ayyamitta.
Thero kira kassakaleṇe nāma paṭivasati. Tassa ca gocaragāme ekā mahāupāsikā theraṃ puttaṃ katvā paṭijaggati. Sā ekadivasaṃ araññaṃ gacchantī dhītaraṃ āha – ‘‘amma asukasmiṃ ṭhāne purāṇataṇḍulā, asukasmiṃ khīraṃ, asukasmiṃ sappi, asukasmiṃ phāṇitaṃ, tava bhātikassa ayyamittassa āgatakāle bhattaṃ pacitvā khīrasappiphāṇitehi saddhiṃ dehi, tvaṃ ca bhuñjeyyāsi, ahaṃ pana hiyyo pakkaṃ pārivāsikabhattaṃ kañjikena bhuttāmhī’’ti. Divā kiṃ bhuñjissasi ammāti? Sākapaṇṇaṃ pakkhipitvā kaṇataṇḍulehi ambilayāguṃ pacitvā ṭhapehi ammāti.
Kể rằng trưởng lão Ayyamitta cư ngụ trong thạch động Kassaka. Và một bà đại tín nữ trong ngôi làng là khu vực đi khất thực của trưởng lão, đã chăm ngài giống như con ruột. Một hôm bà đi vào rừng mới đã dặn con gái — “Con ơi, cơm đã nấu chín để ở kia; sữa ở chỗ đó; bơ lỏng ở chỗ này; và mật mía ở chỗ đấy. Khi nào sư huynh của con, trưởng lão Ayyamitta đến thì con hãy trộn vật thực cúng dường cùng với sữa, bơ và mật mía; rồi con cũng nên ăn luôn. Còn mẹ, mẹ đã ăn phần cơm nguội để đêm qua”. Con gái hỏi– ‘Thế buổi trưa mẹ sẽ dùng gì?’ Con hãy lấy gạo vỡ nấu cháo chua thêm ít rau cải muối rồi để đó cho mẹ.
Thero cīvaraṃ pārupitvā pattaṃ nīharantova taṃ saddaṃ sutvā attānaṃ ovadi – ‘‘mahāupāsikā kira kañjiyena pārivāsikabhattaṃ bhuñji, divāpi kaṇapaṇṇambilayāguṃ bhuñjissati, tuyhaṃ atthāya pana purāṇataṇḍulādīni ācikkhati, taṃ nissāya kho panesā neva khettaṃ na vatthuṃ na bhattaṃ na vatthaṃ paccāsīsati, tisso pana sampattiyo patthayamānā deti, tvaṃ etissā tā sampattiyo dātuṃ sakkhissasi na sakkhissasīti, ayaṃ kho pana piṇḍapāto tayā sarāgena sadosena samohena na sakkā gaṇhitunti pattaṃ thavikāya pakkhipitvā gaṇṭhikaṃ muñcitvā nivattitvā kassakaleṇameva gantvā pattaṃ heṭṭhāmañce cīvaraṃ cīvaravaṃse ṭhapetvā arahattaṃ apāpuṇitvā na nikkhamissāmī’’ti vīriyaṃ adhiṭṭhahitvā nisīdi. Dīgharattaṃ appamatto hutvā nivutthabhikkhu vipassanaṃ vaḍḍhetvā purebhattameva arahattaṃ patvā vikasitaṃ viya padumaṃ mahākhīṇāsavo sitaṃ karontova nikkhami. Leṇadvāre rukkhamhi adhivatthā devatā –
Trưởng lão đã đắp y, chuẩn bị lấy bát (từ trong túi đựng bát) ra, sau khi nghe lời nói đó liền tự nhắc nhở bản thân rằng— “Nghe rằng bà đại tín nữ đã ăn phần cơm nguội để qua đêm, thậm chí vào buổi trưa bà sẽ ăn cháo chua với rau cải muối, bà đã dặn con gái chuẩn bị thức ăn gồm cơm đã nấu chín, v.v, cho ta. Tuy nhiên, bà không ao ước ruộng vườn, vật thực hay vải vóc từ ta; mà chỉ mong cầu đạt được ba loại tài sản (Nhân sản, Thiên sản và Thánh sản) nên bà mới cúng dường đến ta. Liệu ta có thể ban cho bà ấy những thứ tài sản đó hay không thể? Ngài suy nghĩ rằng– Vật thực cúng dường này thật không thể nhận lãnh với tâm vẫn còn ái luyến, sân hận và si mê”, ngài đặt bình bát trở lại túi đựng bát, nới lỏng y, quay trở về thạch động Kassaka cất bình bát dưới giường, máng y lên sào treo y, rồi ngồi xuống phát nguyện sự tinh tấn rằng– “Nếu không chứng đắc quả vị A-ra-hán, ta sẽ không rời khỏi thạch động này”. Là vị không phóng dật suốt đêm, sau khi phát triển minh sát, ngài đã đạt quả vị A-ra-hán ngay trước bữa sáng, trở thành bậc Đại Lậu Tận, ngài ngồi mỉm cười tựa như hoa sen vừa hé nở, đi ra khỏi thạch động. Chư thiên trú ngụ trên cây gần cửa động liền thốt lên lời Cảm Hứng Ngữ rằng—
‘‘Namo te purisājañña, namo te purisuttama;
Yassa te āsavā khīṇā, dakkhiṇeyyosi mārisā’’ti. –
Evaṃ udānaṃ udānetvā ‘‘bhante, piṇḍāya paviṭṭhānaṃ tumhādisānaṃ arahantānaṃ bhikkhaṃ datvā mahallakitthiyo dukkhā muccissantī’’ti āha.
‘Thưa bậc siêu nhân, tôi xin đảnh lễ ngài; thưa bậc tối thượng nhân, tôi xin đảnh lễ ngài. Tôi xin đảnh lễ vị có các lậu hoặc đã cạn kiệt. Thưa ngài, ngài là bậc xứng đáng được cúng dường’.
Sau khi thốt lên Cảm Hứng Ngữ, vị ấy đã nói: “Kính bạch ngài, sau khi cúng dường vật thực đến các vị A-ra-hán đang tìm kiếm thức ăn như ngài, bà đại cư sĩ thiện tín sẽ thoát khỏi khổ đau.”
Thero uṭṭhahitvā dvāraṃ vivaritvā kālaṃ olokento pātoyevāti ñatvā pattacīvaramādāya gāmaṃ pāvisi. Dārikāpi bhattaṃ sampādetvā ‘‘idāni me bhātā āgamissati , idāni āgamissatī’’ti dvāraṃ olokayamānā nisīdi. Sā there gharadvāraṃ sampatte pattaṃ gahetvā sappiphāṇitayojitassa khīrapiṇḍapātassa pūretvā hatthe ṭhapesi. Thero ‘‘sukhaṃ hotū’’ti anumodanaṃ katvā pakkāmi. Sāpi taṃ olokayamānāva aṭṭhāsi. Therassa hi tadā ativiya parisuddho chavivaṇṇo ahosi, vippasannāni indriyāni, mukhaṃ bandhanā pamuttatālapakkaṃ viya ativiya virocittha. Mahāupāsikā araññā āgantvā ‘‘kiṃ amma, bhātiko te āgato’’ti pucchi. Sā sabbaṃ taṃ pavattiṃ ārocesi. Sā upāsikā ‘‘ajja me puttassa pabbajitakiccaṃ matthakaṃ patta’’nti ñatvā ‘‘abhiramati te amma bhātā buddhasāsane na ukkaṇṭhatī’’ti āha.
Trưởng lão sau khi đứng dậy đã mở cửa, trong khi xem thời gian đã biết rằng “vẫn còn sớm,” liền mang y bát đi vào làng. Còn phía cô gái đã chuẩn bị xong thức ăn, ngồi nhìn ra cửa với suy nghĩ rằng: “Một lát nữa sư huynh sẽ đến, một lát nữa sư huynh sẽ đến”. Khi trưởng lão vừa bước đến cửa, cô ấy liền cầm lấy bình bát, đổ đầy thức ăn hòa với sữa được trộn với bơ lỏng và mật mía, đặt nó vào tay của ngài. Trưởng lão đã nói lời tuỳ hỷ: ‘Nguyện cho cô hãy được sự an lạc’ rồi rời đi. Còn cô đứng nhìn ngài. Bởi vì, lúc bấy giờ màu da của trưởng lão vô cùng trong sáng, các giác quan vô cùng thanh tịnh, và khuôn mặt của Ngài vô cùng rực rỡ tựa như trái chà là chính vừa rời khỏi cuống. Bà đại tín nữ sau khi trở về từ rừng đã hỏi rằng: “Con ơi, sư huynh của con có đến không?” Cô ấy đã thuật lại toàn bộ sự việc diễn ra cho mẹ nghe. Bà đã hiểu ra: “Hôm nay phận sự xuất gia của con trai ta đã đạt đến cứu cánh”. Bà lão vui mừng nói: “Con ơi, sư huynh của con vui thích trong Giáo Pháp của Đức Phật, không bất mãn.”
‘‘Mahantaṃ kho panetaṃ satthu dāyajjaṃ, yadidaṃ sattaariyadhanaṃ nāma, taṃ na sakkā kusītena gahetuṃ. Yathā hi vippaṭipannaṃ puttaṃ mātāpitaro ‘ayaṃ amhākaṃ aputto’ti paribāhiraṃ karonti, so tesaṃ accayena dāyajjaṃ na labhati, evaṃ kusītopi idaṃ ariyadhanadāyajjaṃ na labhati, āraddhavīriyova labhatī’’ti dāyajjamahattataṃ paccavekkhatopi uppajjati. ‘‘Mahā kho pana te satthā, satthuno hi mātukucchismiṃ paṭisandhiggahaṇakālepi abhinikkhamanepi abhisambodhiyampi dhammacakkappavattanayamakapāṭihāriyadevorohaṇa-āyusaṅkhāravossajjanesupi parinibbānakālepi dasasahassilokadhātu kampittha, yuttaṃ nu te evarūpassa satthuno sāsane ‘pabbajitvā kusītena bhavitu’’’nti evaṃ satthumahattaṃ paccavekkhatopi uppajjati.
Quả thật tài sản thừa kế của bậc Đạo Sư có phong phú, chính là Thất Thánh Sản. Tuy nhiên, tài sản này không thể giữ lấy bởi kẻ lười biếng. Giống như cha mẹ từ bỏ đứa con hành động sai trái, và coi đó là người ngoài: “đây không phải là con trai của chúng tôi”, khi họ qua đời, người con ấy không nhận được phần tài sản thừa kế. Cũng tương tự như vậy, kẻ lười biếng cũng không nhận được tài sản thừa kế của bậc Thánh. Chỉ có những người tinh cần tinh tấn mới có thể nhận được; ngay cả khi quán xét sự thừa kế tài sản là lớn lao như vậy, tinh tấn giác chi cũng khởi lên. Tinh tấn giác chi cũng khởi lên đối với hành giả quán xét về sự vĩ đại của bậc Đạo Sư như vầy: ‘Bậc Đạo Sư của ngươi thật vĩ đại từ giây phút bậc Đạo Sự nhập mẫu thai, hay khi ra đi tầm cầu đạo giải thoát, hoặc trong lúc chứng đạt vô thượng Chánh Đẳng Giác, hay vào lúc chuyển vận bánh xe pháp, hoặc thời điểm thị hiện song thông, trong lúc trở về từ thiên giới, hoặc ngay khi buông bỏ thọ hành, cho đến giây phút viên tịch Niết Bàn — (mỗi một sự kiện) đều làm cả mười nghìn thế giới đều rung chuyển chấn động mạnh. Ngươi xuất gia trong Giáo Pháp của bậc Đạo Sư có hình thức như vậy lại trở thành kẻ lười biếng thích hợp hay chăng?”
Jātiyāpi – ‘‘tvaṃ idāni na lāmakajātiko, asambhinnāya mahāsammatapaveṇiyā āgato, ukkākarājavaṃse jātosi, suddhodhanamahārājassa mahāmāyādeviyā ca nattā, rāhulabhaddassa kaniṭṭho, tayā nāma evarūpena jinaputtena hutvā na yuttaṃ kusītena viharitu’’nti evaṃ jātimahattaṃ paccavekkhatopi uppajjati. ‘‘Sāriputtamoggallānā ceva asīti ca mahāsāvakā vīriyeneva lokuttaradhammaṃ paṭivijjhiṃsu, tvaṃ etesaṃ sabrahmacārīnaṃ maggaṃ paṭipajjissasi na paṭipajjissasī’’ti evaṃ sabrahmacārimahattaṃ paccavekkhatopi uppajjati. Kucchiṃ pūretvā ṭhitaajagarasadise vissaṭṭhakāyikacetasikavīriye kusītapuggale parivajjantassāpi, āraddhavīriye pahitatte puggale sevantassāpi, ṭhānanisajjādīsu vīriyuppādanatthaṃ ninnapoṇapabbhāracittassāpi uppajjati. Evaṃ uppannassa panassa arahattamaggena bhāvanāpāripūrī hotīti pajānāti.
Tinh tấn giác chi sanh khởi đối với hành giả quán xét đến sự cao quý của dòng dõi như vầy— “Bây giờ trong dòng dõi này ngươi xuất thân từ dòng dõi của vua Mahāsammata thượng đẳng không bị trộn lẫn huyết thống khác, được sinh ra trong dòng tộc của Vua Ukkāka, Đại vương Suddhodana và Hoàng hậu Mahāmāyā là nội tổ của ta, là ngươi là em trai của hoàng tử Rāhula thiện lành, người được gọi là con trai của bậc Chiến thắng có hình thức như vậy, sống với sự lười biếng thật không thích hợp. Tinh tấn giác chi sanh khởi đối với hành giả quán xét đến tính chất có bạn đồng Phạm hạnh là vĩ đại như vầy: “Trưởng lão Sāriputta, trưởng lão Mahāmoggallāna và tám mươi đại đệ tử đã thấu triệt Pháp Siêu Thế hoàn toàn nhờ sự tinh tấn. người sẽ đi theo con đường của những bạn đồng Phạm hạnh ấy hay sẽ không hành theo.” Tinh tấn giác chi khởi lên khi hành giả tránh xa kẻ biếng nhác, những người đã từ bỏ sự tinh tấn của thân và tâm, những người như vậy giống như con trăn nằm bất động sau khi ăn no bụng. Thân cận với những người có sự ra sức tinh tấn; và những người có tâm hướng đến, xu hướng, khuynh hướng nhằm mục đích làm cho tinh tấn khởi lên trong các oai nghi như đứng, ngồi, v.v. Vị ấy biết rõ rằng: Tinh tấn giác chi đã sanh khởi với biểu hiện như vậy được sự phát triển trọn vẹn bởi Đạo A-ra-hán.
Pītisambojjhaṅgassa – ‘‘atthi, bhikkhave, pītisambojjhaṅgaṭṭhānīyā dhammā, tattha yonisomanasikārabahulīkāro, ayamāhāro anuppannassa vā pītisambojjhaṅgassa uppādāya, uppannassa vā pītisambojjhaṅgassa bhiyyobhāvāya vepullāya bhāvanāya pāripūriyā saṃvattatī’’ti (saṃ. ni. 5.232) evaṃ uppādo hoti. Tattha pītiyeva pītisambojjhaṅgaṭṭhānīyā dhammā nāma, tassa uppādakamanasikāro yonisomanasikāro nāma.
Hỷ giác chi sanh khởi theo phương thức như vầy: “Có, này các tỳ khưu, các pháp trú xứ cho hỷ giác chi, ở đây tác ý đúng đường lối được thực hiện nhiều lần, điều này là thức ăn khiến cho hỷ giác chi chưa sanh khởi được sanh khởi, hoặc hỷ giác chi đã sanh khởi được vận hành đưa đến sự tăng trưởng, sự phát triển, sự tu tập và làm cho trọn vẹn”. (saṃ. ni. 5.232); Ở đây, chính hỷ được gọi là pháp trú xứ cho hỷ giác chi trong Chánh văn Pāḷī ấy. Tác ý làm cho hỷ sanh khởi gọi là “tác ý đúng đường lối”.
Apica ekādasa dhammā pītisambojjhaṅgassa uppādāya saṃvattanti buddhānussati dhammasaṅghasīlacāgadevatānussati upasamānussati lūkhapuggalaparivajjanatā siniddhapuggalasevanatā pasādanīyasuttantapaccavekkhaṇatā tadadhimuttatāti.
Và thêm nữa mười một pháp vận hành đưa đến sự sanh khởi của hỷ giác chi gồm— (1) tùy niệm ân đức Phật; (2) tùy niệm ân đức Pháp; (3) tùy niệm ân đức Tăng; (4) tùy niệm giới; (5) tùy niệm thí; (6) tùy niệm ân đức chư Thiên; (7) tùy niệm ân đức Niết Bàn; (8) tránh xa kẻ thô lỗ; (9) thân cận người thanh tịnh; (10) suy xét những bài Kinh truyền cảm hứng cho tâm trong sạch; (11) hướng tâm đến hỷ giác chi ấy.
Buddhaguṇe anussarantassāpi hi yāva upacārā sakalasarīraṃ pharamāno pītisambojjhaṅgo uppajjati. Dhammasaṅghaguṇe anussarantassāpi, dīgharattaṃ akhaṇḍaṃ katvā rakkhitaṃ catupārisuddhisīlaṃ paccavekkhantassāpi, gihino dasasīlapañcasīlaṃ paccavekkhantassāpi, dubbhikkhabhayādīsu paṇītaṃ bhojanaṃ sabrahmacārīnaṃ datvā ‘‘evaṃ nāma adamhā’’ti cāgaṃ paccavekkhantassāpi, gihinopi evarūpe kāle sīlavantānaṃ dinnadānaṃ paccavekkhantassāpi, yehi guṇehi samannāgatā devatā devattaṃ pattā, tathārūpānaṃ guṇānaṃ attani atthitaṃ paccavekkhantassāpi, ‘‘samāpattiyā vikkhambhitā kilesā saṭṭhipi, sattatipi vassāni na samudācarantī’’ti paccavekkhantassāpi, cetiyadassanabodhidassanatheradassanesu asakkaccakiriyāya saṃsūcitalūkhabhāve buddhādīsu pasādasinehābhāvena gadrabhapiṭṭhe rajasadise lūkhapuggale parivajjantassāpi, buddhādīsu pasādabahule muducitte siniddhapuggale sevantassāpi, ratanattayaguṇaparidīpake pasādanīye suttante paccavekkhantassāpi, ṭhānanisajjādīsu pītiuppādanatthaṃ ninnapoṇapabbhāracittassāpi uppajjati. Evaṃ uppannassa panassa arahattamaggena bhāvanāpāripūrī hotīti pajānāti.
Thât vậy, hành giả tu tập hỷ giác chi khi tùy niệm ân đức Phật, hỷ giác chi lan tỏa khắp châu thân cận định sanh khởi; Tương tự, khi hành giả tùy niệm ân đức của Pháp và Tăng, hỷ giác chi cũng được phát sinh; Hành giả quán xét về bốn thanh tịnh giới đã được thọ trì lâu dài không bị gián đoạn, hỷ giác chi được sanh khởi; và ngay cả người cư sĩ khi suy xét về năm giới hay mười giới; Trong lúc khan hiếm vật thực, v.v, tôi đã dâng các món ăn ngon đến các vị đồng Phạm hạnh, hành giả quán xét về sự dứt bỏ rằng– “tôi đã dâng các món ăn như vậy”; cũng như người cư sĩ suy xét về việc bố thí vật phẩm đến các vị có giới hạnh trong lúc như vậy; Chư thiên được thành tựu với các đức hạnh nào để đạt được bản thể chư thiên, hành giả quán xét đến các đức hạnh như thế ấy cũng có nơi tự thân; hành giả quán xét rằng– thậm chí những phiền não được áp chế không bộc phát dù với thiền chứng suốt sáu mươi năm, thậm chí bảy mươi năm; hoặc tránh xa những kẻ thô lỗ bởi không thể hiện sự tôn kính khi nhìn thấy Bảo tháp, nhìn thấy cây Bồ-đề hoặc nhìn thấy các trưởng lão, bởi họ không có niềm tin và sự yêu quý đối với đức Phật, v.v, giống như bụi trên lưng con la. Ngược lại, thân cận với người thanh tịnh, có tâm mềm mại và có lòng tin sâu sắc vào đức Phật v.v. Suy xét về những bài Kinh trình bày về ân đức Tam Bảo là nền tảng của sự tôn kính; hoặc có tâm hướng về, nghiêng theo đưa đến sự sanh khởi của hỷ trong các oai nghi như đứng, ngồi v.v, hỷ giác chi được sanh khởi. Hành giả biết rõ rằng– hỷ giác chi đã sanh khởi với các biểu hiện như vậy, được tăng trưởng trọn vẹn bởi Đạo A-ra-hán.
Passaddhisambojjhaṅgassa ‘‘atthi, bhikkhave, kāyapassaddhi cittapassaddhi, tattha yonisomanasikārabahulīkāro, ayamāhāro anuppannassa vā passaddhisambojjhaṅgassa uppādāya, uppannassa vā passaddhisambojjhaṅgassa bhiyyobhāvāya vepullāya bhāvanāya pāripūriyā saṃvattatī’’ti evaṃ uppādo hoti.
Sự sanh khởi của an tịnh giác chi như vầy: “Có, này các tỳ khưu, tịnh thân và tịnh tâm. Ở đây, tác ý đúng đường lối được thực hiện nhiều lần, thời chính điều này là thức ăn khiến cho an tịnh giác chi chưa sanh khởi được sanh khởi, hay an tịnh giác chi đã sanh khởi được vận hành đưa đến sự tăng trưởng, sự phát triển, sự tu tập và làm cho trọn vẹn.”
Apica satta dhammā passaddhisambojjhaṅgassa uppādāya saṃvattanti paṇītabhojanasevanatā utusukhasevanatā iriyāpathasukhasevanatā majjhattapayogatā sāraddhakāyapuggalaparivajjanatā passaddhakāyapuggalasevanatā tadadhimuttatāti.
Và thêm nữa, bảy pháp được vận hành đưa đến sự sanh khởi của an tịnh giác chi gồm– (1) thọ dụng những loại thực phẩm mềm dễ tiêu hoá; (2) tiếp xúc với khí hậu dễ chịu; (3) thực hiện các oai nghi thích hợp; (4) thực hành sự quân bình; (5) tránh xa những người có thân tâm bất ổn; (6) thân cận những người có thân tâm an tịnh; (7) hướng tâm theo an tịnh giác chi.
Paṇītañhi siniddhaṃ sappāyabhojanaṃ bhuñjantassāpi, sītuṇhesu utūsu ṭhānādīsu iriyāpathesu sappāyaṃ utuṃ ca iriyāpathaṃ ca sevantassāpi passaddhi uppajjati. Yo pana mahāpurisajātiko sabbautuiriyāpathakkhamova hoti, na taṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ. Yassa sabhāgavisabhāgatā atthi, tasseva visabhāge utuiriyāpathe vajjetvā sabhāge sevantassāpi uppajjati. Majjhattapayogo vuccati attano ca parassa ca kammassakatāpaccavekkhaṇā, iminā majjhattapayogena uppajjati. Yo leḍḍudaṇḍādīhi paraṃ viheṭhayamānova vicarati. Evarūpaṃ sāraddhakāyaṃ puggalaṃ parivajjantassāpi, saṃyatapādapāṇiṃ passaddhakāyaṃ puggalaṃ sevantassāpi, ṭhānanisajjādīsu passaddhiuppādanatthāya ninnapoṇapabbhāracittassāpi uppajjati. Evaṃ uppannassa panassa arahattamaggena bhāvanāpāripūrī hotīti pajānāti.
Thật vậy, hành giả tu tập khinh an giác chi khi thọ dụng vật thực phù hợp, mềm và ngon; khi hành giả tiếp xúc khí hậu thích hợp, dù là mùa đông hay mùa hè, hoặc thực hiện các oai nghi thoải mái đứng hay ngồi v.v. thì an tịnh giác chi sanh khởi. Tuy nhiên, điều này không đề cập đến các vị có tướng trạng của bậc đại nhân, những người vốn có khả năng chịu đựng mọi thời tiết và tư thế. Khi có thời tiết và oai nghi thích hợp và không thích hợp, sau khi tránh xa những điều kiện không thuận lợi, tiếp xúc với điều kiện phù hợp sẽ làm cho khinh an giác chi được sanh khởi. Khi hành giả quán xét về nghiệp sở hữu của bản thân và của người khác, điều này được gọi là thực hành sự quân bình, nhờ đó an tịnh giác chi được sanh khởi. Hơn nữa, an tịnh giác chi cũng sanh khởi ở những người tránh xa các cá nhân có thân tâm bất ổn gây tổn thương đối với người khác như ném đá, hay dùng gậy gộc; Ngược lại, an tịnh giác chi cũng sanh khởi ở những ai thường thân cận với các vị có thân tâm an tịnh, kiểm soát được hành động của tay chân và giữ được sự bình ổn trong tâm trí. Và có tâm hướng về, nghiêng theo nhằm mục đích làm cho sanh khởi an tịnh giác chi trong các oai nghi như đứng, ngồi, v.v. an tịnh giác chi được sanh khởi. Hành giả biết rõ rằng an tịnh giác chi đã sanh khởi với những biểu hiện như vậy, được phát triển trọn vẹn bởi Đạo A-ra-hán.
Samādhisambojjhaṅgassa – ‘‘atthi, bhikkhave, samathanimittaṃ abyagganimittaṃ, tattha yonisomanasikārabahulīkāro, ayamāhāro anuppannassa vā samādhisambojjhaṅgassa uppādāya, uppannassa vā samādhisambojjhaṅgassa bhiyyobhāvāya vepullāya bhāvanāya pāripūriyā saṃvattatī’’ti (saṃ. ni. 5.232) evaṃ uppādo hoti. Tattha samathova samathanimittaṃ, avikkhepaṭṭhena ca abyagganimittanti.
Sự sanh khởi của định giác chi như vầy: “Có, này các tỳ khưu, chỉ tịnh tướng và bất loạn tướng. Ở đây, tác ý đúng đường lối được thực hiện nhiều lần, thời chính điều này là thức ăn khiến cho định giác chi chưa sanh khởi được sanh khởi, hay định giác chi đã sanh được được vận hành đưa đến sự tăng trưởng, sự phát triển, sự tu tập và làm cho trọn vẹn”. (saṃ. ni. 5.232); Ở đây, chỉ tinh tướng cũng chính là định, và bất loạn tướng với ý nghĩa bất phóng dật.
Apica ekādasa dhammā samādhisambojjhaṅgassa uppādāya saṃvattanti vatthuvisadakiriyatā indriyasamattapaṭipādanatā nimittakusalatā samaye cittassa paggahaṇatā samaye cittassa niggahaṇatā samaye sampahaṃsanatā samaye ajjhupekkhanatā asamāhitapuggalaparivajjanatā samāhitapuggalasevanatā jhānavimokkhapaccavekkhaṇatā tadadhimuttatāti. Tattha vatthuvisadakiriyatā ca indriyasamattapaṭipādanatā ca vuttanayeneva veditabbā.
Và lại nữa, mười một pháp được vận hành đưa đến sự sanh khởi của định giác chi gồm— (1) làm cho thân thể và chỗ ở được sạch sẽ, (2) điều chỉnh các giác quan luôn cân bằng, (3) khéo léo trong các tướng, (4) hỗ trợ tâm vào lúc cần hỗ trợ; (5) chế ngự tâm vào lúc cần chế ngự, (6) làm tâm vui sướng hợp thời, (7) tâm quân bình hợp thời, (8) tránh xa những người có tâm không định tĩnh , (9) kết giao với những bậc có tâm định tĩnh, (10) quán xét về thiền và sự giải thoát và (11) hướng tâm đến định giác chi. Trong mười một pháp ấy, việc làm cho thân thể và chỗ ở được sạch sẽ, và điều chỉnh các giác quan luôn cân bằng nên hiểu theo cách đã trình bày.
Nimittakusalatā nāma kasiṇanimittassa uggahaṇakusalatā. Samaye cittassa paggahaṇatāti yasmiṃ samaye atisithilavīriyatādīhi līnaṃ cittaṃ hoti, tasmiṃ samaye dhammavicayavīriyasambojjhaṅgasamuṭṭhāpanena tassa paggahaṇaṃ. Samaye cittassa niggahaṇatāti yasmiṃ samaye accāraddhavīriyatādīhi uddhataṃ cittaṃ hoti, tasmiṃ samaye passaddhisamādhiupekkhāsambojjhaṅgasamuṭṭhāpanena tassa niggahaṇaṃ. Samaye sampahaṃsanatāti yasmiṃ samaye cittaṃ paññāpayogamandatāya vā upasamasukhānadhigamena vā nirassādaṃ hoti, tasmiṃ samaye aṭṭhasaṃvegavatthupaccavekkhaṇena saṃvejeti. Aṭṭha saṃvegavatthūni nāma jātijarābyādhimaraṇāni cattāri, apāyadukkhaṃ pañcamaṃ, atīte vaṭṭamūlakaṃ dukkhaṃ, anāgate vaṭṭamūlakaṃ dukkhaṃ, paccuppanne āhārapariyeṭṭhimūlakaṃ dukkhanti. Ratanattayaguṇānussaraṇena ca pasādaṃ janeti. Ayaṃ vuccati ‘‘samaye sampahaṃsanatā’’ti.
Thiện xảo trong việc học tập các tướng của biến xứ làm đối tượng gọi là khéo léo trong các tướng. Vào lúc nào tâm thụ động do có sự tinh tấn yếu ớt v.v, vào lúc đó bằng việc thiết lập trạch pháp giác chi, tinh tấn giác chi và hỷ giác chi gọi là hỗ trợ tâm vào lúc cần hỗ trợ. Ngược lại, khi nào tâm phóng dật do tinh cần tinh tấn quá mức v.v, khi ấy sự chế ngự tâm với việc thiết lập an tịnh giác giác chi, định giác chi và xả giác chi gọi là chế ngự tâm vào lúc tâm cần chế ngự. Vào lúc nào tâm không hài lòng do trí tuệ và sự tinh tấn yếu kém, hoặc do không đạt được hạnh phúc phát sanh từ sự yên tĩnh, vào lúc đó hành giả cần kích động tâm bằng cách suy xét tám yếu tố gây xúc động mạnh. Tám yếu tố gây xúc động mạnh – có bốn là khổ do sanh ra, khổ do già, khổ do bệnh, khổ do chấm dứt mạng sống, khổ do sanh vào các khổ cảnh là thứ năm, khổ ở vị lai có luân hồi làm gốc, khổ ở quá khứ có luân hồi làm gốc, và khổ ở hiện tại có luân hoài làm gốc (thêm 3 khổ này thành tám). Ngoài ra, hành giả nên làm sanh khởi niềm tin với việc tùy niệm ân đức Tam Bảo, điều này được gọi là làm cho tâm vui sướng hợp thời.
Samaye ajjhupekkhanatā nāma yasmiṃ samaye sammāpaṭipattiṃ āgamma alīnaṃ anuddhataṃ anirassādaṃ ārammaṇe samappavattaṃ samathavīthipaṭipannaṃ cittaṃ hoti, tadāssa paggahaniggahasampahaṃsanesu na byāpāraṃ āpajjati sārathi viya samappavattesu. Assesu. Ayaṃ vuccati ‘‘samaye ajjhupekkhanatā’’ti. Asamāhitapuggalaparivajjanatā nāma upacāraṃ vā appanaṃ vā appattānaṃ vikkhittacittānaṃ puggalānaṃ ārakā parivajjanaṃ. Samāhitapuggalasevanatā nāma upacārena vā appanāya vā samāhitacittānaṃ sevanā bhajanā payirupāsanā. Tadadhimuttatā nāma ṭhānanisajjādīsu samādhiuppādanatthaṃyeva ninnapoṇapabbhāracittatā. Evañhi paṭipajjato esa uppajjati. Evaṃ uppannassa panassa arahattamaggena bhāvanāpāripūrī hotīti pajānāti.
Tâm quân bình hợp thời là— vào lúc nào tâm đạt đến sự thực hành đúng đắn, không lui sụt, không phóng dật, vui thích, vận hành đều đặn trong đối tượng, diễn tiến trong lộ trình thiền định; vào lúc đó không cần phải nỗ lực trợ giúp, chế ngự hay làm cho tâm thêm vui vẻ, cũng giống như người xa phu không cần cố gắng thêm khi ngựa đã chạy đều. Đây được gọi là – “tâm quân bình hợp thời”. Tránh xa, không tiếp xúc với những người có tâm tán loạn, không đạt được cận định hoặc an chỉ định gọi là tránh xa những người có tâm không định tĩnh. Ngược lại, thân cận, cộng sự và giao lưu với những người có tâm định tĩnh nhờ cận định và an chỉ định gọi là thân cận với những người có tâm định tĩnh. Trạng thái người có tâm hướng đến, nghiêng theo nhằm mục đích làm sanh khởi định trong các oai nghi như đứng, ngồi, v.v, gọi là hướng tâm đến định giác chi. Bởi vì, khi hành giả thực hành như vậy định giác chi đó được sanh khởi. Hành giả biết rõ rằng – định giác chi đã sanh khởi với các biểu hiện như vậy được tu tập trọn vẹn bởi Đạo A-ra-hán.
Upekkhāsambojjhaṅgassa – ‘‘atthi, bhikkhave, upekkhāsambojjhaṅgaṭṭhānīyā dhammā, tattha yonisomanasikārabahulīkāro, ayamāhāro anuppannassa vā upekkhāsambojjhaṅgassa uppādāya, uppannassa vā upekkhāsambojjhaṅgassa bhiyyobhāvāya vepullāya bhāvanāya pāripūriyā saṃvattatī’’ti (saṃ. ni. 5.232) evaṃ uppādo hoti. Tattha upekkhāyeva upekkhāsambojjhaṅgaṭṭhānīyā dhammā nāma.
Sự sanh khởi của xả giác chi như vầy: “Có, này các tỳ khưu, có các pháp trú xứ cho xả giác chi. Ở đây, tác ý đúng đường lối được thực hiện thường xuyên, thời chính cái này là thức ăn khiến cho xả giác chi chưa sanh khởi được sanh khởi, hoặc xả giác chi đã sanh khởi được vận hành đưa đến sự tăng trưởng, sự phát triển, sự tu tập và làm cho trọn vẹn”. (saṃ. ni. 5.232); Ở đây, chính xả gọi là các pháp trú xứ cho xả giác chi.
Apica pañca dhammā upekkhāsambojjhaṅgassa uppādāya saṃvattanti sattamajjhattatā saṅkhāramajjhattatā sattasaṅkhārakelāyanapuggalaparivajjanatā sattasaṅkhāramajjhattapuggalasevanatā tadadhimuttatāti.
Và thêm nữa, năm pháp vận hành đưa đến sự sanh khởi của xả giác chi— (1) giữ tâm trung dung đối với người, (2) giữ tâm trung dung đối với đời, (3) tránh xa những người nặng lòng với người, với đời, (4) thân cận với những người có tâm trung dung đối với người, với đời và (5) tâm hướng đến xả giác chi.
Tattha dvīhākārehi sattamajjhattataṃ samuṭṭhāpeti – ‘‘tvaṃ attano kammena āgantvā attano kammena gamissasi, esopi attano kammena āgantvā attano kammena gamissati, tvaṃ kaṃ kelāyasī’’ti evaṃ kammassakatāpaccavekkhaṇena ca, ‘‘paramatthato sattoyeva natthi, so tvaṃ kaṃ kelāyasī’’ti evaṃ nissattapaccavekkhaṇena ca. Dvīhevākārehi saṅkhāramajjhattataṃ samuṭṭhāpeti – ‘‘idaṃ cīvaraṃ anupubbena vaṇṇavikāraṃ ceva jiṇṇabhāvaṃ ca upagantvā pādapuñchanacoḷakaṃ hutvā yaṭṭhikoṭiyā chaḍḍanīyaṃ bhavissati, sace panassa sāmiko bhaveyya, nāssa evaṃ vinassituṃ dadeyyā’’ti evaṃ asāmikabhāvaṃ paccavekkhaṇena, ‘‘anaddhaniyaṃ idaṃ tāvakālika’’nti evaṃ tāvakālikatāpaccavekkhaṇena ca. Yathā ca cīvare, evaṃ pattādīsupi yojanā kātabbā.
Trong năm pháp ấy, hành giả tu tập xả giác chi phải giữ tâm trung dung đối với người qua hai biểu hiện như vầy: (a) Suy xét về sở hữu nghiệp như vầy: “ta đã đến với nghiệp của mình và sẽ đi với nghiệp của mình; tương tự họ cũng đã đến với nghiệp của họ và cũng sẽ đi với nghiệp của chính họ, vậy thì ta bám víu vào điều gì? (b) Suy xét về bản thể phi chúng sanh như vầy: “Theo Pháp Chân Đế thì không có chúng sanh nào, vậy thì ta còn dính mắc điều gì?” giữ tâm trung đung đối với đời qua hai biểu hiện như vầy: (a) Suy xét rằng vô chủ sở hữu như vầy: “Tấm y này sẽ đi đến tính chất phai màu, cũ kỹ, trở thành miếng giẻ lau chân, và cuối cùng sẽ bị vứt bỏ bằng đầu cây gậy. Nếu như tấm y này có chủ sở hữu thực sự, người ấy sẽ không để nó bị hư hỏng như thế; (b) Suy xét về tính chất tạm bợ như vầy: “Cái này không bền lâu, có tính chất tạm thời.” Và trong y phục (suy xét) thế nào, luôn cả với bình bát cũng nên thực hiện suy xét tương tự thế ấy.
Sattasaṅkhārakelāyanapuggalaparivajjanatāti ettha yo puggalo gihi vā attano puttadhītādike, pabbajito vā attano antevāsikasamānupajjhāyakādike mamāyati, sahattheneva nesaṃ kesacchedanasūcikammacīvaradhovanarajanapattapacanādīni karoti, muhuttampi apassanto ‘‘asuko sāmaṇero kuhiṃ, asuko daharo kuhi’’nti bhantamigo viya ito cito ca āloketi , aññena kesacchedanādīnaṃ atthāya ‘‘muhuttaṃ tāva asukaṃ pesethā’’ti yācīyamānopi ‘‘amhepi taṃ attano kammaṃ na kārema, tumhe taṃ gahetvā kilamessathā’’ti na deti. Ayaṃ sattakelāyano nāma. Yo pana pattacīvarathālakakattarayaṭṭhiādīni mamāyati, aññassa hatthena parāmasitumpi na deti, tāvakālikaṃ yācito ‘‘mayampi idaṃ mamāyantā na paribhuñjāma, tumhākaṃ kiṃ dassāmā’’ti vadati. Ayaṃ saṅkhārakelāyano nāma. Yo pana tesu dvīsupi vatthūsu majjhatto udāsino. Ayaṃ sattasaṅkhāramajjhatto nāma. Iti ayaṃ upekkhāsambojjhaṅgo evarūpaṃ sattasaṅkhārakelāyanaṃ puggalaṃ ārakā parivajjantassāpi, sattasaṅkhāramajjhattapuggalaṃ sevantassāpi, ṭhānanisajjādīsu taduppādanatthaṃ ninnapoṇapabbhāracittassāpi uppajjati. Evaṃ uppannassa panassa arahattamaggena bhāvanāpāripūrī hotīti pajānāti.
Tránh xa những người nặng lòng với người, với đời: Ở đây, hạng người nào là gia chủ bị dính mắc vào con trai, con gái, v.v, là ‘của tôi’, hoặc người xuất gia yêu mến các học trò và người cùng chung vị giáo thọ là của tôi v.v., làm đủ mọi công việc như cắt tóc, may vá, giặt nhuộm quần áo, rửa bát, v.v, của mọi người với chính đôi tay của mình không nhìn thấy dầu chỉ trong chốc lát liền lo lắng, hỏi rằng – “Vị sa-di kia đi đâu rồi? Còn vị tỳ khưu trẻ kia đi đâu?” nhìn tới nhìn lui giống như con nai gặp hoảng loạn. Ngay cả khi người khác nài xin rằng: “xin hãy cho vị tỳ khưu trẻ hoặc vị sa-di kia đến để giúp một số việc như cạo tóc, v.v. một lát thôi,” nhưng vi ấy cũng không đồng ý, và nói rằng: “Nếu các ông đưa họ đi, họ sẽ trở nên mệt mỏi. Vậy chúng tôi không thực hiện công việc của mình sao?” đây gọi là nặng lòng với người. Còn người nào dính mắc vào bình bát, y phục, túi đựng bình bát, và cây gậy v.v., nghĩ rằng là của tôi, đến nỗi người khác dùng tay chạm vào cũng không cho, và khi được hỏi mượn thì liền từ chối và nói rằng: “Chúng tôi cần sử dụng những món đồ, chúng tôi còn chưa sử dụng, làm sao chúng tôi có thể cho các ngài được? đây được gọi là là nặng lòng với đời. Còn người nào giữ tâm trung dung, ở chính giữa với cả 2 yếu tố trên thì đây gọi là trung dung đối với người và với đời. Cũng vậy, xả giác chi này sanh khởi nơi những người tránh xa với các cá nhân nặng lòng với người và với đời; Ngược lại, thân cận, cộng sự, kết giao với những vị có tâm trung dung đối với người và với đời; Đồng thời, người có tâm hướng đến, nghiêng về vận hành làm cho sanh khởi xả giác chi trong các oai nghi như đứng, ngồi, v.v. Xả giác chi được sanh khởi. Hành giả biết rõ rằng– Xả giác chi đã sanh khởi với biểu hiện như vậy, được tu tập trọn vẹn bởi Đạo A-la-hán.
Iti ajjhattaṃ vāti evaṃ attano vā satta sambojjhaṅge pariggaṇhitvā, parassa vā, kālena vā attano, kālena vā parassa bojjhaṅge pariggaṇhitvā dhammesu dhammānupassī viharati. Samudayavayā panettha bojjhaṅgānaṃ nibbattinirodhavasena veditabbā. Ito paraṃ vuttanayameva. Kevalañhi idha bojjhaṅgapariggāhikā sati dukkhasaccanti evaṃ yojanaṃ katvā bojjhaṅgapariggāhakassa bhikkhuno niyyānamukhaṃ veditabbaṃ. Sesaṃ tādisamevāti.
Như vậy … thuộc nội phần: Vị ấy sống có sự quan sát pháp trên các pháp do xác định bảy giác chi của tự thân, hoặc của người khác, hoặc xác định bảy giác chi của mình hợp thời, hoặc của người khác hợp thời. Còn đối với sự sanh khởi và sự hoại diệt trong phần giác chi này nên biết rằng do tác động của sự sanh và diệt của các giác chi. Những từ khác tương tự như đã trình bày. Ở phần này điểm khác biệt duy nhất là cần được phối hợp ý nghĩa như sau– niệm xác định các giác chi làm đối tượng là Khổ Đế, nên biết rằng đây là con đường dẫn dắt ra khỏi khổ đau của vị tỳ khưu xác định các giác chi làm đối tượng. Những từ còn tương tự.
Phần giác chi được kết thúc
Giải thích phần Tứ Đế
- Evaṃ sattabojjhaṅgavasena dhammānupassanaṃ vibhajitvā idāni catusaccavasena vibhajituṃ puna caparantiādimāha. Tattha idaṃ dukkhanti yathābhūtaṃ pajānātīti ṭhapetvā taṇhaṃ tebhūmake dhamme ‘‘idaṃ dukkha’’nti yathāsabhāvato pajānāti, tasseva kho pana dukkhassa janikaṃ samuṭṭhāpikaṃ purimataṇhaṃ ‘‘ayaṃ dukkhasamudayo’’ti, ubhinnaṃ appavattiṃ nibbānaṃ ‘‘ayaṃ dukkhanirodho’’ti, dukkhaparijānanaṃ samudayapajahanaṃ nirodhasacchikaraṇaṃ ariyamaggaṃ ‘‘ayaṃ dukkhanirodhagāminī paṭipadā’’ti yathāsabhāvato pajānātīti attho. Avasesā ariyasaccakathā visuddhimagge vitthāritāyeva.
Sau khi phân tích việc quan sát pháp do tác động Thất Giác Chi. Bây giờ, để phân tích về Tứ Đế, ngài đã nói rằng: “còn có điều khác nữa…” Ở đây, vị ấy biết rõ: “Đây là Khổ” đúng theo thực thể: Vị ấy biết rõ đúng theo thực tính pháp vận hành trong ba cõi, ngoại trừ Tham ái rằng – ‘Đây là Khổ’. Vị ấy biết rõ đúng theo thực tính Tham ái tồn tại trước khiến cho chính Khổ ấy sanh khởi rằng: “Đây là nhân sanh khổ”. Vị ấy biết rõ đúng theo thực tính Niết Bàn, sự không vận hành của cả hai (Khổ và nhân sanh khổ) rằng: “Đây là sự diệt tận Khổ”. Vị ấy biết rõ đúng theo thực tính Thánh Đạo là nhân biết toàn diện Khổ, dứt bỏ nhân sanh Khổ, tác chứng sự diệt tận rằng: ‘Đây là lối thực hành đưa đến sự diệt tận Khổ’. Phần các Đế còn lại, ngoại trừ phần giải thích về đoạn liên quan đến sự sinh ra, v.v., đã được trình bày chi tiết trong bộ Thanh Tịnh Đạo.
Iti ajjhattaṃ vāti evaṃ attano vā cattāri saccāni pariggaṇhitvā, parassa vā, kālena vā attano, kālena vā parassa cattāri saccāni pariggaṇhitvā dhammesu dhammānupassī viharati. Samudayavayā panettha catunnaṃ saccānaṃ yathāsambhavato uppattinivattivasena veditabbā. Ito paraṃ vuttanayameva. Kevalañhi idha catusaccapariggāhikā sati dukkhasaccanti evaṃ yojanaṃ katvā saccapariggāhakassa bhikkhuno niyyānamukhaṃ veditabbaṃ. Sesaṃ tādisamevāti.
Như vậy …. thuộc nội phần: Vị ấy sống có sự quan sát pháp trên các pháp do xác định Tứ Thánh Đế của tự thân, hoặc của người khác, hoặc xác định Tứ Thánh Đế của chính mình hợp thời, hoặc của người khác hợp thời. Còn đối với sự sanh khởi và sự hoại diệt trong bốn thánh đế này nên biết do tác động của sự sanh và diệt của Tứ Thánh Đế theo đúng pháp thực tính. Các từ còn lại tương tự. Ở phần này điểm khác biệt duy nhất là cần được phối hợp ý nghĩa như sau– niệm xác định Tứ Thánh Đế làm đối tượng là Khổ đế, nên biết rằng đây là con đường dẫn dắt ra khỏi khổ đau của vị tỳ khưu xác định Tứ Thánh Đế làm đối tượng. Những từ còn tương tự.
Phần Tứ Đế được kết thúc
Ettāvatā ānāpānaṃ catuiriyāpathaṃ catusampajaññaṃ dvattiṃsākāraṃ catudhātuvavatthānaṃ navasivathikā vedanānupassanā cittānupassanā nīvaraṇapariggaho khandhapariggaho āyatanapariggaho bojjhaṅgapariggaho saccapariggahoti ekavīsati kammaṭṭhānāni vuttāni. Tesu ānāpānaṃ dvattiṃsākāro navasivathikāti ekādasa appanākammaṭṭhānāni honti. Dīghabhāṇakamahāsīvatthero pana ‘‘navasivathikā ādīnavānupassanāvasena vuttā’’ti āha. Tasmā tassa matena dveyeva appanākammaṭṭhānāni, sesāni upacārakammaṭṭhānāni. Kiṃ panetesu sabbesu abhiniveso jāyatīti? Na jāyati. Iriyāpathasampajaññanīvaraṇabojjhaṅgesu hi abhiniveso na jāyati, sesesu jāyatīti. Mahāsīvatthero panāha – ‘‘etesupi abhiniveso jāyati, ayañhi atthi nu kho me cattāro iriyāpathā, udāhu natthi, atthi nu kho me catusampajaññaṃ, udāhu natthi, atthi nu kho me pañcanīvaraṇā, udāhu natthi, atthi nu kho me sattabojjhaṅgā, udāhu natthīti evaṃ pariggaṇhāti, tasmā sabbattha abhiniveso jāyatī’’ti.
Chỉ bấy nhiêu mà Đức Thế Tôn thuyết giảng hai mươi mốt nghiệp xứ gồm phần niệm hơi thở, bốn oai nghi, bốn sự nhận biết rõ, ba mươi hai thể trược, đề mục phân biệt tướng của tứ đại, quan sát chín khía cạnh bất tịnh của tử thi, việc quan sát thọ, việc quan sát tâm, việc xác định pháp ngăn che, việc xác định năm uẩn, việc xác định xứ, việc xác định giác chi, việc xác định bốn đế.Trong số hai mươi mốt đề mục thiền định ấy, thì mười một đề mục thiền định là— niệm hơi thở, ba mươi hai thể trược, quan sát chín khía cạnh bất tịnh của tử thi thuộc đề mục thiền định đưa đến an chỉ định. Nhưng trưởng lão, vị biên soạn bộ Dīghanikāya nói rằng: “Đức Thế Tôn nói rằng quan sát chín khía cạnh bất tịnh của tử thi do tác động việc quán xét về tai hại”. Do đó, theo quan điểm của ngài, chỉ có niệm hơi thở và ba mươi hai thể trược là đề mục thiền định đưa đến an chỉ định, còn lại là đề mục thiền định đưa đến cận định. Sự cố chấp có khởi lên trong tất cả các đề mục thiền định hay không? — Không phải là không sanh khởi. Sự cố chấp không khởi lên trong các oai nghi, sự nhận biết rõ, các pháp ngăn che và các giác chi; nhưng khởi lên trong các đề mục thiền định còn lại. Tuy nhiên, theo Đại trưởng lão Mahāsiva, sự cố chấp cũng sanh khởi trong cả những đối tượng thiền định nói trên, vì hành giả xác định như vầy— “Bốn oai nghi có hiện hữu nơi ta hay không?; Bốn sự nhận biết rõ có hiện hữu nơi ta hay không?; Năm pháp ngăn che có hiện hữu nơi ta hay không?; Bảy giác chi có hiện hữu nơi ta hay không?” Do đó, sự cố chấp khởi lên trong tất cả các đề mục thiền định.
- Yo hi koci, bhikkhaveti yo hi koci bhikkhu vā bhikkhunī vā upāsako vā upāsikā vā. Evaṃ bhāveyyāti ādito paṭṭhāya vuttena bhāvanānukkamena bhāveyya. Pāṭikaṅkhanti paṭikaṅkhitabbaṃ, avassaṃ bhāvīti attho. Aññāti arahattaṃ. Sati vā upādiseseti upādānasese vā sati aparikkhīṇe. Anāgāmitāti anāgāmibhāvo.
Này các tỳ khưu, bất cứ người nào: bất cứ ai dù là tỳ khưu, tỳ khưu ni, cận sự nam, hay cận sự nữ; Tu tập bốn sự thiết lập niệm này như vậy: cần phải thực hành theo trình tự tu tập thiền định đã được trình bày ngay từ đầu. Được chờ đợi: đáng được mong chờ, đáng được ước muốn, trạng thái chắc chắn. Trí giải thoát: phẩm vị A-ra-hán; Hoặc nếu còn dư sót: hoặc nếu vẫn còn dư sót (còn dư y quả uẩn) vẫn chưa hoàn toàn cạn kiệt (phiền não, v.v.,). Phẩm vị Bất Lai: Bản thể bậc thánh Bất Lai.
Evaṃ sattannaṃ vassānaṃ vasena sāsanassa niyyānikabhāvaṃ dassetvā puna tato appatarepi kāle dassento ‘‘tiṭṭhantu, bhikkhave’’tiādimāha. Sabbampi cetaṃ majjhimasseva neyyapuggalassa vasena vuttaṃ. Tikkhapaññaṃ pana sandhāya – ‘‘pāto anusiṭṭho sāyaṃ visesaṃ adhigamissati, sāyaṃ anusiṭṭho pāto visesaṃ adhigamissatī’’ti (ma. ni. 2.345) vuttaṃ.
Sau khi thuyết giảng pháp dẫn dắt hành giả ra khỏi khổ đau trong thời gian bảy năm như vậy, khi muốn chỉ ra thời gian thực hành ngắn hơn nữa ngài mới nói rằng— “Này các tỳ khưu, hãy bỏ qua, v.v,.” và tất cả những lời nói ấy đức Thế Tôn nói dành cho hạng người có thể lãnh hội được giáo lý quân bình. Còn để cập đến đến những hạng người có tuệ sắc bén ngài nói rằng: “Những hạng người tiếp nhận lời dạy vào buổi sáng sẽ chứng đắc ân đức cao thượng vào buổi chiều; tiếp nhận lời dạy vào buổi chiều cũng sẽ chứng đắc ân đức cao thượng vào buổi sáng.” (ma. ni. 2.345);
Iti bhagavā ‘‘evaṃniyyānikaṃ, bhikkhave, mama sāsana’’nti dassetvā ekavīsatiyāpi ṭhānesu arahattanikūṭena desitaṃ desanaṃ niyyātento ‘‘ekāyano ayaṃ, bhikkhave, maggo…pe… iti yaṃ taṃ vuttaṃ, idametaṃ paṭicca vutta’’nti āha. Sesaṃ uttānatthamevāti.
Đức Thế Tôn sau khi thuyết rằng: “Này các tỳ khưu, giáo pháp của Ta dẫn dắt người thực hành thoát khỏi mọi khổ đau” là như vậy, khi thuyết giảng bài pháp với đỉnh cao là bản thể A-ra-hán kết thúc ở hai mươi mốt trường hợp, mới nói rằng— “Này các tỳ khưu, đây là con đường độc đạo đưa đến sự thanh tịnh cho các chúng sinh, đưa đến sự vượt qua hẳn sầu và bi, đưa đến sự biến mất của khổ và ưu, đưa đến việc đạt được phương pháp, đưa đến việc chứng ngộ Niết Bàn, tức là ‘bốn sự thiết lập niệm,’ điều được nói là như thế, và điều này được nói liên quan đến điều ấy.” Những lời còn lại đều mang ý nghĩa đơn giản.
Giải Thích Kinh Thiết Lập Niệm – được kết thúc
Bài Kinh Số 10
Xem phần 1 Giải thích Kinh Tứ Niệm Xứ (P1)
[1] Ba hạng chúng sanh khác nhau sẵn sàng để giải thoát trong trường hợp đó bao gồm:
a.1 Rūpasammūḷhā: người bị tối tăm, mê mờ về sắc [rūpa].
a.2 Arūpasammūḷhā: người bị tối tăm, mê mờ về danh [nāma].
a.3 Ubhayasammūḷhā: người bị tối tăm, mê mờ về cả danh [nāma] và sắc [rūpa].
b.1 Tikkhindriyā: người có quyền mạnh mẽ, nhạy bén, đã được huấn luyện làm cho tăng trưởng.
b.2 Majjhimindriyā: người có quyền trung bình, không trì trệ cũng không nhạy bén.
b.3 Mudindriyā: người có quyền trì trệ, không sử dụng nhiều, không được huấn luyện, không được làm cho nhiều, đã không được tăng trưởng thêm, không đủ, thiếu.
c.1 Saṃkhittarucī: người ưa thích phương pháp vắn tắt.
c.2 Majjhimarucī: người ưa thích phương pháp quân bình, không vắn tắt cũng không chi tiết.
c.3 Viṭṭhārarucī: người ưa thích phương pháp chi tiết.