Kinh số 10 – Giải Thích Kinh Tứ Niệm Xứ (Phần 1)

(Satipaṭṭhānasuttavaṇṇanā)

 Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Tứ Niệm Xứ

 Xem tiếp phần 2 Giải thích Kinh Tứ Niệm Xứ (P2)   

  1.  Evaṃ me sutanti satipaṭṭhānasuttaṃ. Tattha kurūsu viharatīti kurunāmakā jānapadino rājakumārā, tesaṃ nivāso ekopi janapado ruḷhīsaddena kurūti vuccati, tasmiṃ kurūsu janapade. Aṭṭhakathācariyā panāhu – mandhātukāle tīsu dīpesu manussā jambudīpo nāma buddhapaccekabuddhamahāsāvakacakkavattipabhutīnaṃ uttamapurisānaṃ uppattibhūmi uttamadīpo atiramaṇīyoti sutvā raññā mandhātucakkavattinā cakkaratanaṃ purakkhatvā cattāro dīpe anusaṃyāyantena saddhiṃ āgamaṃsu. Tato rājā pariṇāyakaratanaṃ pucchi –
    Kinh Thiết Lập Niệm mở đầu bằng lời ‘Tôi đã nghe như vầy…’. Ở đây, ‘cư trú tại xứ Kuru’ tức là một vùng nông thôn là nơi Hoàng tử đang cư trú, ngôi làng mà vị ấy đang sống gọi là Kuru, dân làng gọi là Kurū bởi rūḷhīsadda [được xuất phát từ gốc] (Thế Tôn đã cư trú tại xứ Kuru). Nhưng các nhà chú giải đã thuật lại rằng vào triều đại của đức vua Mandhātu[1] thì nhân loại trong 3 cõi Diêm-phù đã nghe (tin đồn) rằng ở đó được gọi là Jambūdīpa (Nam Thiệm Bộ Châu) là vùng đất sản sinh ra những bậc vĩ nhân (uttamapurisa) khởi đầu từ Đức Phật Gotama, Phật Độc Giác và Chuyển Luân Thánh Vương, là vùng đất vô cùng màu mỡ và phong phú vì thế mới cùng nhau đi đến với đức vua Mandhātu dùng xe báu dẫn đầu, sau đó (vị ấy) đã du hành cả 4 cõi Diêm-phù. Kể từ đó (sau khi đã đi hết 4 cõi Diêm-phù) đức vua hỏi viên quan đại thần (pariṇāyakaratana[2]] rằng:

‘Atthi nu kho manussalokato ramaṇīyataraṃ ṭhāna’’nti?

‘‘Kasmā deva evaṃ bhaṇasi?

‘‘Kiṃ na passasi candimasūriyānaṃ ānubhāvaṃ?

‘‘Nanu etesaṃ ṭhānaṃ ito ramaṇīyatara’’nti?

Còn có nơi nào tráng lệ và sung túc hơn ở cõi nhân loại nữa chăng? Như vậy, chư Thiên thì thế nào? Vị quan đại thần trả lời, muôn tâu đức vua, xin Ngài hãy khai ơn, đừng chém đầu hạ thần, dưới chân đức vua (vị ấy) tâu rằng, Ngài không nhìn thấy oai lực của mặt trăng và mặt trời sao? Nơi có mặt trăng và mặt trời này là nơi vô cùng tráng lệ và sung túc hơn ở cõi nhân loại.

Rājā cakkaratanaṃ purakkhatvā tattha agamāsi. Cattāro mahārājāno ‘‘mandhātumahārājā āgato’’ti sutvāva ‘‘mahiddhiko mahānubhāvo rājā na sakkā yuddhena paṭibāhitu’’nti sakarajjaṃ niyyātesuṃ. So taṃ gahetvā puna pucchi – ‘‘atthi nu kho ito ramaṇīyataraṃ ṭhāna’’nti. Athassa tāvatiṃsabhavanaṃ kathayiṃsu – ‘‘tāvatiṃsabhavanaṃ, deva, ramaṇīyataraṃ, tattha sakkassa devarañño ime cattāro mahārājāno paricārakā dovārikabhūmiyaṃ tiṭṭhanti. Sakko devarājā mahiddhiko mahānubhāvo. Tassimāni pana upabhogaṭṭhānāni, yojanasahassubbedho vejayantapāsādo, pañcayojanasatubbedhā sudhammā devasabhā, diyaḍḍhayojanasatiko vejayantaratho, tathā erāvaṇo hatthī, dibbarukkhasahassapaṭimaṇḍitaṃ nandanavanaṃ cittalatāvanaṃ phārusakavanaṃ missakavanaṃ . Yojanasatubbedho pāricchattako koviḷāro, tassa heṭṭhā saṭṭhiyojanāyāmā paṇṇāsayojanavitthatā pañcadasayojanubbedhā jayasumanapupphavaṇṇā paṇḍukambalasilā, yassā mudutāya sakkassa nisīdato upaḍḍhakāyo anupavisatī’’ti.

Đức vua Mandhātu dùng xe báu dẫn đầu ngự đến cõi Tứ đại thiên vương. Tứ đại thiên vương biết được đức vua Mandhātu đã ngự đến, đã suy nghĩ rằng ‘đức vua bậc đại thần lực, đại uy lực’ (Ngài đã đến), chúng tôi không thể nào chống cự lại được (oai lực của Ngài) bằng một trận chiến, đành chấp nhận dâng ngai vàng đến đức vua Mandhātu. Sau khi thọ nhận đức vua Mandhātu lại hỏi tiếp còn có cảnh giới nào khác tráng lệ và sung túc hơn ở đây chăng? Tứ đại thiên vương tâu rằng:– Tâu đức vua, cõi Đao Lợi là nơi vô cùng tráng lệ và sung túc hơn cõi Tứ đại thiên vương này. Ở cõi Tam thập Tam thiên Tứ thiên vương là những người hầu hạ của Vua trời Sakka, (những vị này) sẽ đứng canh gác ở cửa. Vua trời Sakka có đại thần lực, đại oai lực và Ngài có nhiều nơi để tùy nghi sử dụng chẳng hạn như cung điện Vejayantara cao 1000 do-tuần, chánh Pháp đường, phòng hợp chư Thiên cao 50 do-tuần, xe Vejayantara cao 150 do-tuần, voi Erāvaṇo cũng cao 150 do-tuần, vườn Nandanavana, vườn Cittalatāvana, vườn Phārusakavana, vườn Missakavana đều được trang hoàng trang trí với những thân cây trời cả hàng nghìn cây gọi là Pārichattaka (Trú Độ Thọ) cao 100 do-tuần, dưới cây Pārichattaka là ngai vàng Paṇḍukambala (Vô cấu bạch thạch) của Thiên chủ Sakka, có màu giống như màu hoa mồng gà, dài 60 do-tuần, rộng 50 do-tuần, cao 15 do-tuần (ngai vàng) cực kỳ êm ái và mềm mại khi Thiên chủ Sakka an tọa, thân của Ngài sẽ chìm xuống một nửa.

Taṃ sutvā rājā tattha gantukāmo cakkaratanaṃ abbhukkiri . Taṃ ākāse patiṭṭhāsi saddhiṃ caturaṅginiyā senāya. Atha dvinnaṃ devalokānaṃ vemajjhato cakkaratanaṃ otaritvā pathaviyaṃ patiṭṭhāsi saddhiṃ pariṇāyakaratanappamukhāya caturaṅginiyā senāya. Rājā ekakova tāvatiṃsabhavanaṃ agamāsi. Sakko ‘‘mandhātā āgato’’ti sutvāva tassa paccuggamanaṃ katvā – ‘‘svāgataṃ te, mahārāja, sakaṃ te, mahārāja. Anusāsa, mahārājā’’ti vatvā saddhiṃ nāṭakehi rajjaṃ dvebhāge katvā ekaṃ bhāgamadāsi. Rañño tāvatiṃsabhavane patiṭṭhitamattasseva manussabhāvo vigacchi, devabhāvo pāturahosi.

Sau khi nghe lời ấy thì đức vua Mandhātu muốn du hành đến cõi trời Tam thập Tam thiên [tāvatiṃsa] mới ném xe báu (lên hư không). Xe báu đã đứng vững trong hư không cùng với bốn đội quân [caturaṅga-senā]. Khi ấy chiếc xe báu cũng bị rơi xuống giữa 2 thế giới, đứng trên mặt đất cùng với 4 đội quân có quan đại thần làm người dẫn đầu. Đức vua Mandhātu đã đi một mình đến cõi trời Tam thập Tam thiên [tāvatiṃsa]. Thiên chủ Sakka biết rằng ‘Đức vua Mandhātu đã đến’, Ngài ra tiếp đón và cung kính đảnh lễ ‘Tâu đại vương, hãy đến. Tâu đại vương, chào mừng ngài. Tâu đại vương, vật của tôi là thuộc về ngài. Tâu đại vương, xin ngài hãy giáo huấn. Ngài chia giang sơn của mình làm 2 phần cùng với các tiên nữ đang khiêu vũ, rồi dâng đến đức vua Mandhātu một nửa giang sơn của mình. (Sau đó) đức vua Mandhātu trú ngụ thọ hưởng dục lạc tại cõi Tam thập Tam thiên, kiếp sống nhân loại đã biến mất được thay thế bằng kiếp sống của chư Thiên.

Tassa kira sakkena saddhiṃ paṇḍukambalasilāyaṃ nisinnassa akkhinimisamattena nānattaṃ paññāyati. Taṃ asallakkhentā devā sakkassa ca tassa ca nānatte muyhanti. So tattha dibbasampattiṃ anubhavamāno yāva chattiṃsa sakkā uppajjitvā cutā, tāva rajjaṃ kāretvā atittoyeva kāmehi tato cavitvā attano uyyāne patiṭṭhito vātātapena phuṭṭhagatto kālamakāsi.

Được biết rằng Ngài đã ngồi trên bảo tọa Paṇḍukambala [Vô cấu bạch thạch] cùng với thiên chủ Sakka, chính vì quên nháy mắt ra hiệu mới xuất hiện sự khác biệt. Lúc không chú ý quan sát đến Ngài thì đoàn tùy tùng cũng đã quên đi sự khác biệt giữa Ngài và thiên chủ Sakka. Khi đức Vua Mandhātu thọ hưởng khoái lạc tại cõi trời Tam thập Tam thiên, Ngài làm vua cõi trời xuyên suốt 36 đời thiên chủ Sakka băng hà, nhưng Ngài vẫn không cảm thấy thỏa mãn trong ngũ dục (chính vì tham ái sanh khởi mãnh liệt làm cho tuổi thọ của Ngài bị suy giảm), chính vì tham ái ấy mà Ngài từ giã cõi trời và đã rơi xuống cõi người tại vườn thượng uyển (vì có thân sắc là người nhân loại nên đức vua Mandhātu không thể băng hà tại cõi trời), do tiếp xúc với gió và nắng nên Ngài đã băng hà.

Cakkaratane pana pathaviyaṃ patiṭṭhite pariṇāyakaratanaṃ suvaṇṇapaṭṭe mandhātuupāhanaṃ likhāpetvā idaṃ mandhāturajjanti rajjamanusāsi. Tepi tīhi dīpehi āgatamanussā puna gantuṃ asakkontā pariṇāyakaratanaṃ upasaṅkamitvā ‘‘deva mayaṃ rañño ānubhāvena āgatā, idāni gantuṃ na sakkoma, vasanaṭṭhānaṃ no dehī’’ti yāciṃsu. So tesaṃ ekekaṃ janapadamadāsi. Tattha pubbavidehato āgatamanussehi āvasitapadeso tāyeva purimasaññāya videharaṭṭhanti nāmaṃ labhi. Aparagoyānato āgatamanussehi āvasitapadeso aparantajanapadoti nāmaṃ labhi. Uttarakuruto āgatamanussehi āvasitapadeso kururaṭṭhanti nāmaṃ labhīti . Bahuke pana gāmanigamādayo upādāya bahuvacanena voharīyati. Tena vuttaṃ ‘‘kurūsu viharatī’’ti.

Khi xe báu đang nằm trên mặt đất thì quan đại thần dùng tấm vải màu vàng kim quấn kim thân của đức vua Mandhātu, rồi trao lại vương quốc, và nói rằng ‘đây là vương quốc của đức vua Mandhātu’. Người nhân loại đến từ 3 cõi Diêm-phù không thể đi được nữa nên cùng tụ họp đến tìm quan đại thần rồi cầu xin ‘cầu xin Ngài, chúng hạ thần đến nhờ oai đức của đức vua, bây giờ chúng hạ thần không thể đi, kính xin ngài vì lòng bi mẫn cho chúng hạ thần chỗ trú ngụ.’ Quan đại thân đã trao tặng cho mỗi người mỗi nơi vì lợi ích của mỗi người. Ở đây, nơi sống cư ngụ đối với người dân đến từ Đông thắng thần châu (Pubbavideha) được gọi là Videharaṭṭha [theo tên gọi cũ là Đông thắng thần châu]. Nơi sống cư ngụ đối với người dân đến từ Tây ngưu hóa châu (Āparagoyāna) thì nơi đó được gọi là Aparantajanapada (người dân ở miền Tây Ấn Độ). Nơi sống cư ngụ đối với người dân đến từ Bắc cưu lưu châu (Uttarakuru) được gọi là Kururaṭṭha (người dân ở miền Bắc Ấn Độ). Lại nữa, tất cả mọi người gọi nơi đó là cách số nhiều (bahuvacana) vì đề cập đến nhiều làng xã và thị trấn, chính vì vậy mà trưởng lão Ananda mới nói rằng: ‘cư trú tại xứ kuru (số nhiều)’.

Kammāsadhammaṃnāma kurūnaṃ nigamoti. Kammāsadhammanti ettha keci dha-kārassa da-kārena atthaṃ vaṇṇayanti. Kammāso ettha damitoti kammāsadammo. Kammāsoti kammāsapādo porisādo vuccati. Tassa kira pāde khāṇukena viddhaṭṭhāne vaṇo ruhanto cittadārusadiso hutvā ruhi, tasmā kammāsapādoti paññāyittha . So ca tasmiṃ okāse damito porisādabhāvato paṭisedhito. Kena? Mahāsattena. Katarasmiṃ jātaketi? Mahāsutasomajātaketi eke. Ime pana therā jayaddisajātaketi vadanti. Tadā hi mahāsattena kammāsapādo damito. Yathāha –

‘‘Putto yadā homi jayaddisassa, Pañcālaraṭṭhādhipatissa atrajo;

Cajitvāna pāṇaṃ pitaraṃ pamocayiṃ, Kammāsapādampi cahaṃ pasādayi’’nti.

Kammāsadhammaṃ trong cụm từ ‘khu đô thị của người dân xứ Kuru gọi là Kammāsadhammaṃ’, một vài vị A-xà-lê giải thích ý nghĩa từ phụ âm ‘dha’ thành phụ âm ‘da’. Khu đô thị Kammāsadhammo bởi chịu thuần hóa của người có bàn chân đốm . Đức vua Porisāda, vị có đốm ở bàn chân nên họ gọi là Kammāsa. Kể rằng vết sẹo ở chân đức vua bị một gốc cây nhọn đâm vào (khi vết thương này đã lành) để lại một vết sẹo giống như một miếng gỗ có thớ mịn (cittadārusadiso), vì vậy mà chân đức vua có đốm và cơ hội đó Ngài đã giáo hóa, ngăn chặn bản chất ăn thịt người của vua Porisāda. Ai giáo huấn? Bậc Đại nhân. Trong Bổn sanh Jātaka gì? – Một vị trưởng lão nhóm khác (dẫn chứng) trong Bổn sanh Mahāsutasoma, nhưng vị trưởng lão nhóm này lại nói rằng trong Bổn sanh Jayaddisa. Thật vậy bậc Đại nhân đã giáo hóa đức vua Porisāda, người có bàn chân đốm. Như Ngài đã nói:

Khi còn là con trai (hoàng tử Alīnasatta) của đức vua Jayaddisa, người trị vị xứ Pañcāla đã hy sinh mạng sống (của chính mình) để cứu lấy mạng sống của phụ vương (đức vua Jayaddhisa). Ta đã khiến cho đức vua Porisāda, người có đốm ở bàn chân phát sinh đức tin trong sạch.

Keci pana dha-kāreneva atthaṃ vaṇṇayanti. Kururaṭṭhavāsīnaṃ kira kuruvattadhammo tasmiṃ kammāso jāto, tasmā taṃ ṭhānaṃ kammāso ettha dhammo jātoti kammāsadhammanti vuccati. Tattha niviṭṭhanigamassāpi etadeva nāmaṃ. Bhummavacanena kasmā na vuttanti? Avasanokāsato. Bhagavato kira tasmiṃ nigame vasanokāso koci vihāro nāhosi. Nigamato pana apakkamma aññatarasmiṃ udakasampanne ramaṇīye bhūmibhāge mahāvanasaṇḍo ahosi. Tattha bhagavā vihāsi. Taṃ nigamaṃ gocaragāmaṃ katvā, tasmā evamettha attho veditabbo ‘‘kurūsu viharati kammāsadhammaṃ nāma kurūnaṃ nigamo, taṃ gocaragāmaṃ katvā’’ti.

Nhưng một vài nhà chú giải giải thích rằng chỉ có một phụ âm ‘dha’. Như đã trình bày thì người dân thị trấn kuru có phong tục tập quán (kuruvattadhammo) nhưng lại bị một vết nhơ trong phong tục tập quán ấy, chính vì bị vết nhơ ấy nên mới bị gọi là kammāsadhamma bởi vì phong tục phát sanh một vết nhơ. Lời này là tên gọi của người dân xứ Kuru đang sinh sống. Do nhân nào Ngài không nói rằng từ ‘Kammasadhamma’ này chia theo định sở cách (sattamīvibhatti). – Vì đức Thế Tôn không có cơ hội trú ngụ ở đây. Biết rằng không có tịnh xá nào đủ duyên khiến Thế Tôn cư ngụ ở xứ sở này, nhưng cách xa khu dân đó có một khu rừng rậm, hoàn toàn đầy đủ nước là nơi đẹp đẽ. Ngài đã cư trú ở khu rừng rậm ấy, và chọn thị trấn ấy làm nơi để Ngài đi khất thực. Do đó trong trường hợp này nên hiểu ý nghĩa như vầy rằng: “Đức Thế Tôn trú ở xứ sở của những người Kuru; có một thị trấn của những người Kuru tên là Kammāsadhamma, và đã chọn thị trấn ấy để làm nơi để đi khất thực. “

  1. Ekāyano ayaṃ, bhikkhave, maggo Kasmā bhagavā idaṃ suttamabhāsi? Kururaṭṭhavāsīnaṃ gambhīradesanāpaṭiggahaṇasamatthatāya. Kururaṭṭhavāsino kira bhikkhū bhikkhuniyo upāsakā upāsikāyo utupaccayādisampannattā tassa raṭṭhassa sappāyautupaccayasevanena niccaṃ kallasarīrā kallacittā ca honti. Te cittasarīrakallatāya anuggahitapaññābalā gambhīrakathaṃ pariggahetuṃ samatthā honti. Tena tesaṃ bhagavā imaṃ gambhīradesanāpaṭiggahaṇasamatthataṃ sampassanto ekavīsatiyā ṭhānesu kammaṭṭhānaṃ arahatte pakkhipitvā idaṃ gambhīratthaṃ satipaṭṭhānasuttaṃ abhāsi. Yathā hi puriso suvaṇṇacaṅkoṭakaṃ labhitvā tattha nānāpupphāni pakkhipeyya, suvaṇṇamañjūsaṃ vā pana labhitvā sattaratanāni pakkhipeyya, evaṃ bhagavā kururaṭṭhavāsiparisaṃ labhitvā gambhīradesanaṃ desesi. Tenevettha aññānipi gambhīratthāni dīghanikāye mahānidānaṃ mahāsatipaṭṭhānaṃ imasmiṃ majjhimanikāye sāropamaṃ rukkhūpamaṃ raṭṭhapālaṃ māgaṇḍiyaṃ āneñjasappāyanti aññānipi suttāni desesi.

 ‘Này các tỳ khưu, đây là con đường độc đạo’ Do nhân nào mà Thế Tôn lại thuyết bài kinh này ở xứ Kuru? – Bởi vì người dân xứ Kuru có thể tiếp thu bài pháp này một cách sâu sắc. Tỳ khưu Tăng, Tỳ khưu ni, cận sự nam và cận sự nữ ở xứ Kuru luôn có thân và tâm phù hợp (mạnh khỏe tráng kiện), với điều kiện thời tiết phù hợp, bởi vì xứ sở đó có điều kiện thời tiết thích hợp. Những người đó sức mạnh của trí tuệ thích hợp cho thân và tâm, trợ giúp cho họ có thể tiếp thâu lời giảng (Phật ngôn) thấu đáo. Do đó, Thế Tôn nhìn thấy được rằng những hạng người đó có thể tiếp thu bài pháp này một cách thấu đáo, cho nên Ngài mới thuyết bài Kinh Thiết Lập Niệm có ý nghĩa sâu xa này với các đề mục thiền định trong 21 ṭhāna [vị trí] đạt đến A-ra-hán. Tựa như một người được một rương vàng, chứa đựng nhiều loài hoa trong đó hoặc được một cái rương vàng cất giữ 7 viên ngọc quý báu (trong đó) như thế nào thì đức Thế Tôn cũng tương tự như thế ấy khi Ngài có được hội chúng ở xứ Kuru, Ngài đã thuyết giảng thời pháp sâu xa (đến họ). Chính vì nguyên ấy trong xứ sở Kuru này, Thế Tôn đã thuyết giảng các bài kinh [sutta] có ý nghĩa sâu sắc như Kinh Đại Duyên [Mahānidāna], Đại Kinh Thiết Lập Niệm [Mahāsatipaṭṭhāna] trong Trường Bộ Kinh và Sāropama, Rukkhūpama, Raṭṭhapāla, Māgaṇḍiya, Āneñjasappāya trong Trung Bộ Kinh.

Apica tasmiṃ janapade catasso parisā pakatiyāva satipaṭṭhānabhāvanānuyogamanuyuttā viharanti, antamaso dāsakammakaraparijanāpi satipaṭṭhānappaṭisaṃyuttameva kathaṃ kathenti. Udakatitthasuttakantanaṭṭhānādīsupi niratthakakathā nāma na pavattati. Sace kāci itthī ‘‘amma tvaṃ kataraṃ satipaṭṭhānabhāvanaṃ manasikarosī’’ti pucchitā ‘‘na kiñcī’’ti vadati. Taṃ garahanti ‘‘dhiratthu tava jīvitaṃ, jīvamānāpi tvaṃ matasadisā’’ti. Atha naṃ ‘‘mā dāni puna evamakāsī’’ti ovaditvā aññataraṃ satipaṭṭhānaṃ uggaṇhāpenti. Yā pana ‘‘ahaṃ asukaṃ satipaṭṭhānaṃ manasikaromī’’ti vadati. Tassā ‘‘sādhu sādhū’’ti sādhukāraṃ datvā ‘‘tava jīvitaṃ sujīvitaṃ, tvaṃ nāma manussattaṃ pattā, tavatthāya sammāsambuddho uppanno’’tiādīhi pasaṃsanti. Na kevalañcettha manussajātiyāyeva satipaṭṭhānamanasikārayuttā, te nissāya viharantā tiracchānagatāpi.

Và hơn nữa, bốn hội chúng trong xứ sở Kuru ai cũng sống thường xuyên hành trì bốn sự thiết lập niệm một cách bình thường. Ngay cả những người nô lệ và những người lao động cũng chỉ nói về những câu chuyện liên quan đến bốn sự thiết lập niệm. Thậm chí ở tại bến nước hay ở nơi quay chỉ, cũng không nói đến những chuyện vô ích. Nếu như một phụ nữ nào đó bị hỏi rằng: “Này cô, cô đang tác ý thực hành sự thiết lập niệm nào? Cô ấy nói rằng: “không thực hành gì cả”, người dân Kuru sẽ chê trách cô ta rằng: “Cuộc sống của cô thật đáng chê trách, dầu cô còn sống cũng như người đã chết rồi!” Khi ấy, sau khi nhắc nhở cho cô rằng “kể từ đây đừng làm như vậy nữa” rồi cho cô ta học một trong bốn sự thiết lập niệm. Nhưng nếu người nữ nào nói rằng: “Tôi tác ý thực hành sự thiết lập niệm đó,” đã ban lời khen ngợi rằng: “Tốt lành thay! Tốt lành thay!” đến nàng, họ tán thán rằng: “Kiếp sống của nàng thật là cao quý biết dường nào! Cô xứng danh đạt đến bản thể loài người. Bậc Chánh đẳng Chánh giác đã xuất hiện (trên thế gian) vì lợi ích thật sự cho cô.” Trong câu này không chỉ riêng người dân Kuru được sanh ra làm người gắn liền với tác ý sự thiết lập niệm, mà cả loài bàn sanh cũng sống nương nhờ người dân Kuru (tác ý thực hành sự thiết lập niệm tương tự).

Tatridaṃ vatthu – eko kira naṭako suvapotakaṃ gahetvā sikkhāpento vicarati. So bhikkhunupassayaṃ upanissāya vasitvā gamanakāle suvapotakaṃ pamussitvā gato. Taṃ sāmaṇeriyo gahetvā paṭijaggiṃsu. Buddharakkhitotissa nāmaṃ akaṃsu. Taṃ ekadivasaṃ purato nisinnaṃ disvā mahātherī āha – ‘‘buddharakkhitā’’ti?

Kiṃ ayyeti.

Atthi koci tava manasikāroti?

Natthi ayyeti.

Āvuso , pabbajitānaṃ santike vasantena nāma vissaṭṭhaattabhāvena bhavituṃ na vaṭṭati, kocideva manasikāro icchitabbo, tvaṃ pana aññaṃ na sakkhissasi ‘‘aṭṭhi aṭṭhī’’ti sajjhāyaṃ karohīti. So theriyā ovāde ṭhatvā ‘‘aṭṭhi aṭṭhī’’ti sajjhāyanto carati.

Ở đấy có câu chuyện như sau – Kể rằng một vũ công đã bắt được một con chim vẹt và dạy nó nói tiếng người (bản thân đi biểu diễn múa ở những nơi khác). Vũ công đó sống nương nhờ chỗ cư ngụ của một vị tỳ khưu ni, lúc đi đến những nơi khác đã hoàn toàn quên mất con chim vẹt. Các sa-di ni đã bắt nó nuôi và đặt tên là Buddharakkhita. Vào một ngày nọ, ni trưởng thấy nó đậu ở trước mặt mới gọi nó là Buddharakkhita.

– Con chim vẹt đáp rằng: “Có chuyện gì, thưa mẹ?”

– “Con có tác ý thực hành (đề mục) gì không?”

– “Dạ không, thưa mẹ.”

– “Con sống trong trú xứ của các bậc xuất gia, sống buông thả bản thân thì thật không thích hợp, mà nên ước muốn tác ý đến một (đề mục) nào đó, tuy nhiên con không cần chú ý đến điều gì khác, hãy ghi nhớ rằng “Xương, xương” là đủ. Con chim vẹt ấy đã vững trú vào lời giáo huấn của ni trưởng chỉ ghi nhớ rằng “xương, xương” (và) đi.

Taṃ ekadivasaṃ pātova toraṇagge nisīditvā bālātapaṃ tapamānaṃ eko sakuṇo nakhapañjarena aggahesi. So ‘‘kiri kirī’’ti saddamakāsi. Sāmaṇeriyo sutvā ‘‘ayye buddharakkhito sakuṇena gahito, mocema na’’nti leḍḍuādīni gahetvā anubandhitvā mocesuṃ. Taṃ ānetvā purato ṭhapitaṃ therī āha – ‘‘Buddharakkhita, sakuṇena gahitakāle kiṃ cintesī’’ti? Na ayye aññaṃ cintesiṃ, ‘‘aṭṭhipuñjova aṭṭhipuñjaṃ gahetvā gacchati, katarasmimpi ṭhāne vippakirissatī’’ti evaṃ ayye aṭṭhipuñjameva cintesinti. Sādhu sādhu, buddharakkhita, anāgate bhavakkhayassa te paccayo bhavissatīti. Evaṃ tattha tiracchānagatāpi satipaṭṭhānamanasikārayuttā, tasmā nesaṃ bhagavā satipaṭṭhānabuddhimeva janento idaṃ suttaṃ abhāsi.

Một ngày nọ, con chim vẹt đậu trên đỉnh cửa để sưởi nắng. Một con diều hâu chộp lấy nó bằng móng vuốt. Con chim vẹt cất lên tiếng kêu “kiri, kiri”. Các sa-di ni sau khi nghe cũng la lên: “Các chị ơi, con vẹt Buddharakkhita bị diều hâu chộp bắt đi rồi, chúng ta hãy cứu nó,” đã nhặt lấy những cục đất, v.v, và đuổi theo diều hâu cho đến khi diều hâu thả (con vẹt) ra. Các sa-di ni đã đưa nó đến đặt trước mặt vị ni trưởng hỏi rằng: “Này Buddharakkhita trong lúc bị diều hâu chộp bắt đi con nghĩ điều gì?” – “Thưa mẹ, con không nghĩ đến bất cứ điều gì cả mà con chỉ nghĩ đến bộ xương (rằng) chính bộ xương đã đưa bộ xương đi, vương vãi khắp nơi dù ở bất cứ nơi đâu.” – ni trưởng đã ban lời tán thán rằng “Lành thay! Lành thay! Buddharakkhita, điều đó sẽ trở thành duyên để chấm dứt kiếp sống (loài bàn sanh) của con trong thời vị lai.” Như vậy, ngay cả loài bàn sanh trong xứ Kuru ấy cũng (thường xuyên) gắn bó với tác ý (thực hành) sự thiết lập niệm. Vì thế, đức Thế Tôn đã biết đến sự phát triển và lan truyền của bốn sự thiết lập niệm đối với người dân xứ Kuru ấy nên đã thuyết giảng bài Kinh này.

Tattha ekāyanoti ekamaggo. Maggassa hi – Bahūni nāmāni.

‘‘Maggo pantho patho pajjo, añjasaṃ vaṭumāyanaṃ;

Nāvā uttarasetū ca, kullo ca bhisisaṅkamo’’ti. (cūḷani. 101) –

Ở đây, Độc đạo: con đường chỉ có một lối đi duy nhất, bởi vì con đường có rất nhiều là:

“Đạo lộ, đường lộ, con đường, con lộ, lộ trình, lối đi,

Đường đi, chiếc thuyền (đường thủy), cầu vượt, chiếc bè, chiếc phao, ngõ đi qua. (cūḷani. 101) –

Svāyaṃ idha ayananāmena vutto. Tasmā ekāyano ayaṃ, bhikkhave, maggoti ettha ekamaggo ayaṃ, bhikkhave, maggo, na dvedhāpathabhūtoti evamattho daṭṭhabbo. Atha vā ekena ayitabboti ekāyano. Ekenāti gaṇasaṅgaṇikaṃ pahāya vūpakaṭṭhena pavivittacittena. Ayitabboti paṭipajjitabbo. Ayanti vā etenāti ayano, saṃsārato nibbānaṃ gacchantīti attho. Ekassa ayano ekāyano, ekassāti seṭṭhassa. Sabbasattānaṃ seṭṭho ca bhagavā, tasmā bhagavatoti vuttaṃ hoti. Kiñcāpi hi tena aññepi ayanti, evaṃ santepi bhagavatova so ayano tena uppāditattā. Yathāha ‘‘so hi, brāhmaṇa, bhagavā anuppannassa maggassa uppādetā’’tiādi (ma. ni. 3.79). Ayatīti vā ayano, gacchati pavattatīti attho. Ekasmiṃ ayanoti ekāyano, imasmiññeva dhammavinaye pavattati, na aññatthāti vuttaṃ hoti. Yathāha – ‘‘imasmiṃ kho, subhadda, dhammavinaye ariyo aṭṭhaṅgiko maggo upalabbhatī’’ti (dī. ni. 2.214). Desanābhedoyeva heso, atthato pana ekova. Apica ekaṃ ayatīti ekāyano. Pubbabhāge nānāmukhabhāvanānayappavattopi aparabhāge ekaṃ nibbānameva gacchatīti vuttaṃ hoti. Yathāha brahmā sahampati –

Ekāyanaṃ jātikhayantadassī, Maggaṃ pajānāti hitānukampī;

Etena maggena tariṃsu pubbe, Tarissanti ye ca taranti oghanti. (saṃ. ni. 5.409);

Ở đây, con đường này đây ngài nói với tên gọi là ‘con đường’. Vì thế, ‘này các tỳ khưu, con đường này là con đường độc đạo’ ở đây nên hiểu ý nghĩa như vầy này các tỳ khưu con đường này là con đường độc đạo, không phải là con đường hai ngã rẽ.’ Hoặc hơn nữa, ‘độc đạo’ là con đường cần phải đi một mình. ‘Độc nhất’ tức là người đã lìa bỏ việc giao thiệp với đám đông, với (thân) sống tách biệt, với tâm sống viễn ly. Nên đi là nên đi trên con đường, hoặc ‘con đường’ với ý nghĩa là phương tiện đi, có nghĩa là từ vòng sanh tử luân hồi đi đến Niết Bàn. Độc đạo là con đường của hạng người ưu việt. Ưu việt: là của hạng người tối thượng nhất trong tất cả chúng sanh, và đức Thế Tôn ấy là tối thượng hơn tất cả chúng sanh. Vì thế, điều này đã được nói rằng ‘là con đường của đức Thế Tôn.’ Thật vậy, cả những chúng sanh khác mặc dù đi theo con đường đó, tuy nhiên con đường đó cũng là con đường của chính đức Thế Tôn, bởi vì là con đường đã được ngài làm cho hiện khởi. Giống như đã nói (trong bài Kinh Gopaka Moggallāna) ‘Này Bà-la-môn, bởi vì đức Thế Tôn ấy là người làm hiện khởi đạo lộ chưa được hiện khởi,’ (ma. ni. 3.79). Hoặc đường để đi gọi là con đường, có nghĩa là đi, vận hành. Con đường duy nhất trong Pháp và Luật gọi là độc đạo, điều này được nói rằng: con đường vận hành trong chính Pháp và Luật này, không vận hành trong Tôn giáo khác. Giống như đã nói (trong bài Kinh Mahāparinibbāna) – ‘Này Subhadda, Thánh đạo có 8 chi phần chỉ tìm được trong Pháp và Luật này(dī. ni. 2.214). Hai ý nghĩa này chỉ khác nhau về cách diễn đạt, nhưng ý nghĩa thì như nhau. Và hơn nữa, con đường để đi một lần gọi là ‘độc đạo’. Điều này được nói rằng: con đường mặc dù được vận hành thông qua nhiều phương pháp hành thiền khác nhau ở giai đoạn ban đầu, nhưng cuối cùng cũng đưa đến cùng một nơi là Niết Bàn. Giống như Phạm thiên Sahampati đã nói (trong Tương Ưng Bộ – Đại Phẩm) rằng:

“Vị nhìn thấy sự tiêu hoại và chấm dứt của sanh, có lòng thương tưởng đến điều lợi ích, nhận biết con đường độc đạo. Trong thời quá khứ các vị đã vượt qua, (trong thời vị lai) các vị sẽ vượt qua, và (trong thời hiện tại) các vị đang vượt qua dòng lũ bằng con đường này. (saṃ. ni. 5.409);

Keci pana ‘‘na pāraṃ diguṇaṃ yantī’’ti gāthānayena yasmā ekavāraṃ nibbānaṃ gacchati. Tasmā ‘‘ekāyano’’ti vadanti, taṃ na yujjati. Imassa hi atthassa sakiṃ ayanoti iminā byañjanena bhavitabbaṃ. Yadi pana ekaṃ ayanamassa ekā gati pavattīti evamatthaṃ yojetvā vucceyya, byañjanaṃ yujjeyya, attho pana ubhayathāpi na yujjati. Kasmā? Idha pubbabhāgamaggassa adhippetattā. Kāyādicatuārammaṇappavatto hi pubbabhāgasatipaṭṭhānamaggo idha adhippeto, na lokuttaro. So ca anekavārampi ayati, anekañcassa ayanaṃ hoti.

Những một số vị nói theo phương thức của kệ ngôn rằng: “Mọi người không đi đến bờ hai lần”, vì lý do đó, con người đi đến Niết Bàn một lần duy nhất, cho nên đạo lộ ấy mới gọi là ‘con đường đi một lần’, lời này không đúng. Bởi vì ý nghĩa này cần phải có văn tự như vầy ‘sakiṃ ayano – con đường đi một lần.’ Nhưng nếu liên kết ý nghĩa có thể nói như vầy rằng sự đi một lần, tức là sự di chuyển một lần của đạo ấy đang vận hành thì văn tự có thể đúng, tuy nhiên ý nghĩa không đúng cả hai cách. Tại sao? Bởi vì ở đây ngài chỉ muốn lấy đến Đạo ở phần ban đầu. Thật vậy, ở đây ngài chỉ muốn đề cập đến sự thiết lập niệm là con đường ban đầu (mà) vận hành theo bốn đối tượng có Thân, v.v., không phải Đạo Siêu Thế, và Đạo ở phần ban đầu ấy đi nhiều lần, cả sự đi của Đạo ấy cũng không phải chỉ có một lần.

Pubbepi ca imasmiṃ pade mahātherānaṃ sākacchā ahosiyeva. Tipiṭakacūḷanāgatthero ‘‘pubbabhāgasatipaṭṭhānamaggo’’ti āha. Ācariyo panassa tipiṭakacūḷasumatthero ‘‘missakamaggo’’ti āha. Pubbabhāgo bhanteti. Missako āvusoti. Ācariye punappunaṃ bhaṇante appaṭibāhitvā tuṇhī ahosi. Pañhaṃ avinicchinitvāva uṭṭhahiṃsu. Athācariyatthero nhānakoṭṭhakaṃ gacchanto ‘‘mayā missakamaggo kathito, cūḷanāgo pubbabhāgoti ādāya voharati , ko nu kho ettha nicchayo’’ti suttantaṃ ādito paṭṭhāya parivattento ‘‘yo hi koci, bhikkhave, ime cattāro satipaṭṭhāne evaṃ bhāveyya satta vassānī’’ti imasmiṃ ṭhāne sallakkhesi, lokuttaramaggo uppajjitvā satta vassāni tiṭṭhamāno nāma natthi, mayā vutto missakamaggo na labbhati, cūḷanāgena diṭṭho pubbabhāgamaggova labbhatīti ñatvā aṭṭhamiyaṃ dhammassavane saṅghuṭṭhe agamāsi.

Liên quan đến ‘con đường độc đạo’ này trước kia các vị đại trưởng lão đã từng có cuộc đàm luận. Trưởng lão Cūḷanāga bậc thông thuộc Tipiṭaka đã nói: sự thiết lập niệm là con đường ban đầu. (Ý ngài muốn nói rằng sự thiết lập niệm là Đạo Hiệp Thế, Hiệp thế ở đây cần phải hiểu là con đường thuộc về thế gian hay còn nằm trong Tam giới). Còn Trưởng lão Cūḷasuma bậc thông thuộc Tipiṭaka là thầy của Trưởng lão Cūḷanāga lại nói: Con đường hỗn hợp. (Ý ngài muốn nói là Đạo Hiệp Thế và Đạo Siêu Thế). (Học trò) ‘Bạch ngài, sự thiết lập niệm là con đường ban đầu.’ – (Vị thầy) ‘Này con, đó là con đường hỗn hợp. Nhưng khi vị thầy nói lặp đi lặp lại, người học trò đã không phản đối lại (chính lời nói ấy) đành giữ im lặng. Sau khi không thể giải quyết được vấn đề cà thầy và trò đều đã đứng dậy. Sau đó, trưởng lão là vị thầy trên đường đi tới phòng tắm đã nghĩ rằng: ‘Ta nói rằng ‘con đường hỗn hợp,’ còn Cūḷanāga giữ lập trường nói rằng: ‘con đường là phần ban đầu, vậy thì vấn đề này nên giải quyết thế nào? Trong khi đọc lại bài Kinh từ đầu thì xác định được điểm này: ‘Này các tỳ khưu, bất cứ người nào tu tập bốn sự thiết lập niệm này như vậy trong bảy năm.’ Ngài biết rằng (tâm) Đạo Siêu Thế đã sanh khởi, vững trú đến bảy năm là không có, (đạo hỗn hợp) mà ta đã nói là không tồn tại (bởi vì tâm đạo chỉ kéo dài một sát-na và tâm đó không bao giờ sanh trở lại). Còn ‘con đường là phần ban đầu’ được thấy bởi Cūḷanāga là có tồn tại, khi vị ấy tuyên bố việc lắng nghe pháp vào ngày mồng tám của mỗi nửa tháng thì trưởng lão Cūḷasuma cũng đi đến giảng đường.

Porāṇakattherā kira piyadhammassavanā honti. Saddaṃ sutvāva ‘‘ahaṃ paṭhamaṃ, ahaṃ paṭhama’’nti ekappahāreneva osaranti. Tasmiñca divase cūḷanāgattherassa vāro. Tena dhammāsane nisīditvā vījaniṃ gahetvā pubbagāthāsu vuttāsu therassa āsanapiṭṭhiyaṃ ṭhitassa etadahosi ‘‘raho nisīditvā na vakkhāmī’’ti. Porāṇakattherā hi anusūyakā honti, na attano rucimeva ucchubhāraṃ viya evaṃ ukkhipitvā vicaranti, kāraṇameva gaṇhanti, akāraṇaṃ vissajjenti. Tasmā thero ‘‘āvuso cūḷanāgā’’ti āha. So ācariyassa viya saddoti dhammaṃ ṭhapetvā ‘‘kiṃ bhante’’ti āha. Āvuso cūḷanāga mayā vutto missakamaggo na labbhati, tayā vutto pubbabhāgasatipaṭṭhānamaggova labbhatīti. Thero cintesi ‘‘amhākaṃ ācariyo sabbapariyattiko tepiṭako sutabuddho, evarūpassapi nāma bhikkhuno ayaṃ pañho āluḷeti, anāgate mama bhātikā imaṃ pañhaṃ āluḷessantīti suttaṃ gahetvā imaṃ pañhaṃ niccalaṃ karissāmī’’ti paṭisambhidāmaggato ‘‘ekāyanamaggo vuccati pubbabhāgasatipaṭṭhānamaggo –

Nghe ràng các vị trưởng lão thời xưa là những vị yêu thích việc nghe Pháp, khi nghe tiếng thông báo đều đồng loạt thốt lên rằng: ‘tôi trước, tôi trước’. Và ngày hôm đó đến phiên trưởng lão Cūḷanāga, sau khi ngồi lên Pháp tọa ngài đã cầm lấy cây quạt rồi độc lên câu kệ mở đầu thì trưởng lão là vị thầy đứng ở phía sau Pháp tọa đã suy nghĩ rằng – “sau khi ngồi ở chỗ khuất ta sẽ không nói gì’. Bời vì các vị trưởng lão thời xưa không có lòng đố kỵ, không đưa chính sở thích của bản thân ra làm gánh nặng như vác cây mía, chỉ giữ lấy điều hợp lý, trừ bỏ điều không hợp lý. Vì thế, trưởng lão Cūḷasuma đã gọi: “Này hiền giả Cūḷanāga.” Nghe được giọng giống như giọng của thầy mình gọi nên đã ngưng thuyết Pháp (và) vội trả lời: ‘Bạch thầy! có chuyện gì vậy?’ – ‘Này hiền giả Cūḷanāga, điều ta đã nói về con đường hỗn hợp là không đúng, còn điều mà con đã nói sự thiết lập niệm là con đường ban đầu thì đúng. Trưởng lão Cūḷanāga nghĩ rằng – ‘Thầy của ta là bậc thông thuộc toàn bộ Pháp học, là bậc uyên thâm Tam Tạng, vị tỳ khưu có hình thức như vậy vẫn còn nhầm lẫn trong vấn đề này, trong tương lai các vị Pháp sư sẽ còn nhầm lẫn về vấn đề này, (vì thế) ta sẽ lấy bài Kinh làm cơ sở để giải quyết vấn đề này, không để nhầm lẫn về sau nữa,” trong Vô Ngại Giải Đạo “sự thiết lập niệm là con đường ban đầu gọi là con đường độc đạo”. Ngài đã dẫn chứng (Pháp Cú – Tiếu Bộ) để biểu thị –

‘‘Maggānaṭṭhaṅgiko seṭṭho, saccānaṃ caturo padā;

Virāgo seṭṭho dhammānaṃ, dvipadānañca cakkhumā.

Eseva maggo natthañño, dassanassa visuddhiyā;

Etañhi tumhe paṭipajjatha, mārasenappamaddanaṃ;

Etañhi tumhe paṭipannā, dukkhassantaṃ karissathā’’ti. (dha. pa. 273-275) –

Suttaṃ āharitvā ṭhapesi.

Trong số các đạo lộ thì đạo lộ có Tám Chi Phần là thù thắng nhất. Trong số các chân lý thì chân lý Tứ Thánh Đế là thù thắng nhất; Trong số các Pháp thì không luyến ái là thù thắng nhất. Và trong số các loài hai chân, bậc Hữu Nhãn (đức Như Lai) là thù thắng nhất.

Chỉ có đạo lộ này, không có đạo lộ nào khác đưa đến sự thanh tịnh của nhận thức; Vì thế, các vị hãy thực hành đạo lộ này, (chính đạo lộ ấy) có sự tiêu diệt các đạo binh của Ma Vương. Bởi vì khi đã thực hành đạo lộ này, các ngươi sẽ làm chấm dứt khổ đau” (dha. pa. 273-275). –

Maggoti kenaṭṭhena maggo? Nibbānagamanaṭṭhena nibbānatthikehi magganiyaṭṭhena ca. Sattānaṃ visuddhiyāti rāgādīhi malehi abhijjhāvisamalobhādīhi ca upakkilesehi kiliṭṭhacittānaṃ sattānaṃ visuddhatthāya. Tathā hi imināva maggena ito satasahassakappādhikānaṃ catunnaṃ asaṅkhyeyyānaṃ upari ekasmiññeva kappe nibbatte taṇhaṅkaramedhaṅkarasaraṇaṅkaradīpaṅkaranāmake buddhe ādiṃ katvā sakyamunipariyosānā aneke sammāsambuddhā anekasatā paccekabuddhā gaṇanapathaṃ vītivattā ariyasāvakā cāti ime sattā sabbe cittamalaṃ pavāhetvā paramavisuddhiṃ pattā. Rūpamalavasena pana saṃkilesavodānapaññattiyeva natthi. Tathā hi –

Đạo lộ gọi là con đường với ý nghĩa như thế nào? Với ý nghĩa đi đến Niết Bàn, và với ý nghĩa người ao ước Niết Bàn có thể tầm cầu. Đưa đến sự thanh tịnh cho tất cả chúng sanh: vì lợi ích đối với sự thanh tịnh của tất cả chúng sanh có tâm bị ô uế do bị nhơ nhớp bởi luyến ái, v.v. và bị uế nhiễm bởi tham đắm và tà tham, v.v. Thật vậy, những chúng sanh này là trong vô số bậc Chánh đẳng Chánh giác từ thời đức Phật Taṇhaṅkara, đức Phật Medhaṅkara, đức Phật Saraṇaṅkara và đức Phật Dīpaṅkara, cả 4 vị viên tịch Niết Bàn trong cùng một kiếp, bắt đầu từ bốn a-tăng-kỳ và một trăm ngàn kiếp, từ kiếp này cho đến kiếp đức Phật Sakyamunī là cuối cùng, hàng trăm vị Phật Độc Giác, chư Thánh Thinh văn vượt qua cách thức tính đếm đã thả trôi mọi cấu uế của tâm, đã đạt đến sự thanh tịnh cao thượng do thực hành đạo lộ này. Hơn nữa, việc quy định về sự ô nhiễm và sự trong sạch về phương diện sắc là không có. Thật vậy –

Rūpena saṃkiliṭṭhena, saṃkilissanti māṇavā;

Rūpe suddhe visujjhanti, anakkhātaṃ mahesinā.

Cittena saṃkiliṭṭhena, saṃkilissanti māṇavā;

Citte suddhe visujjhanti, iti vuttaṃ mahesinā.

Yathāha ‘‘cittasaṃkilesā, bhikkhave, sattā saṃkilissanti, cittavodānā visujjhantī’’ti (saṃ. ni. 3.100). Tañca cittavodānaṃ iminā satipaṭṭhānamaggena hoti. Tenāha ‘‘sattānaṃ visuddhiyā’’ti.

“Khi sắc bị ô nhiễm, chúng sanh bị ô nhiễm. Khi sắc trong sạch, chúng sanh trong sạch, điều này không được nói bởi bậc Đại Ẩn Sĩ. Khi tâm bị ô nhiễm, chúng sanh bị ô nhiễm. Khi tâm trong sạch, chúng sanh trong sạch, bậc Đại Ẩn Sĩ đã nói như thế.”

Như đã nói (trong Tương Ưng – Khandhavāravagga) – “Này các tỳ khưu, tất cả chúng sanh ô nhiễm do tâm bị cấu uế, thanh tịnh do tâm trong sạch’. saṃ. ni. 3.100. Và sự thanh tịnh của tâm có được do con đường là sự thiết lập niệm này. Vì lý do ấy, đức Thế Tôn đã nói rằng: ‘Đưa đến sự thanh tịnh cho tất cả chúng sanh’.

Sokaparidevānaṃ samatikkamāyāti sokassa ca paridevassa ca samatikkamāya, pahānāyāti attho. Ayañhi maggo bhāvito santatimahāmattādīnaṃ viya sokasamatikkamāya, paṭācārādīnaṃ viya ca paridevasamatikkamāya ca saṃvattati. Tenāha ‘‘sokaparidevānaṃ samatikkamāyā’’ti. Kiñcāpi hi santatimahāmatto –

‘‘Yaṃ pubbe taṃ visodhehi, pacchā te māhu kiñcanaṃ;

Majjhe ce no gahessasi, upasanto carissasī’’ti. (su. ni. 955);

Imaṃ gāthaṃ sutvā saha paṭisambhidāhi arahattaṃ patto.

Đưa đến sự vượt qua hẳn sầu muộn và bi lụy: đưa đến sự vượt qua hẳn sầu muộn và bi lụy, có nghĩa là đưa đến sự dứt bỏ, bởi vì con đường này được tu tập đưa đến sự vượt qua hẳn sầu muộn giống như sự sầu muộn của quan đại thần Santati v.v., và vượt khỏi bi lụy, giống như Paṭācārā, v.v. Do vậy, đức Thế Tôn mới nói rằng ‘Đưa đến sự vượt qua hẳn sầu muộn và bi lụy’. Thật vậy, quan đại thần Santati sau khi nghe kệ ngôn này –

Điều gì trước đây (quá khứ), ngươi hãy làm cho khô héo điều ấy. Chớ có bất cứ điều gì sanh khởi đến ngươi sau này (vị lai). Nếu ngươi không nắm lấy ở khoảng giữa (hiện tại), ngươi sẽ sống được an tịnh. (su. ni. 945);

Vị ấy đã đạt đến quả vị A-ra-hán cùng với các Tuệ Phân Tích.

Paṭācārā –

‘‘Na santi puttā tāṇāya, na pitā nāpi bandhavā;

Antakenādhipannassa, natthi ñātīsu tāṇatā’’ti. (dha. pa. 288);

Imaṃ gāthaṃ sutvā sotāpattiphale patiṭṭhitā. Yasmā pana kāyavedanācittadhammesu kañci dhammaṃ anāmasitvā bhāvanā nāma natthi, tasmā tepi imināva maggena sokaparideve samatikkantāti veditabbā.

Paṭācārā –

Không phải những người con đem lại sự bảo vệ, không phải người cha mà cũng không phải các quyến thuộc. Đối với người đã bị cái chết chế ngự thì không có sự bảo vệ ở các thân quyến. (dha. pa. 288);

Sau khi nghe kệ ngôn này thì Paṭācārā đã an trú trong quả vị Nhập Lưu. Hơn nữa, tu tập không chạm đến bất kỳ pháp nào trong Thân, Thọ, Tâm và Pháp là không có. Do đó, nên biết rằng (quan đại thần Santati và Paṭācārā) vượt qua hẳn sự sầu muộn và bi luỵ bằng chính con đường này.

Dukkhadomanassānaṃ atthaṅgamāyāti kāyikadukkhassa ca cetasikadomanassassa cāti imesaṃ dvinnaṃ atthaṅgamāya, nirodhāyāti attho. Ayañhi maggo bhāvito tissattherādīnaṃ viya dukkhassa, sakkādīnaṃ viya ca domanassassa atthaṅgamāya saṃvattati.

Đưa đến sự biến mất của khổ và ưu: Có nghĩa là đưa đến sự diệt tận, đưa đến sự biến mất cả 2 điều này là khổ thuộc thân và ưu thuộc tâm. Bởi vì, người tu tập con đường này sẽ đưa đến sự biến mất của khổ như trưởng lão Tissa v.v, và sự biến mất của ưu như Vua trời Sakka v.v.

Câu chuyện về Khổ của trưởng lão Tissa

Tatrāyaṃ atthadīpanā – sāvatthiyaṃ kira tisso nāma kuṭumbikaputto cattālīsa hiraññakoṭiyo pahāya pabbajitvā agāmake araññe viharati. Tassa kaniṭṭhabhātubhariyā ‘‘gacchatha naṃ jīvitā voropethā’’ti pañcasate core pesesi. Te gantvā theraṃ parivāretvā nisīdiṃsu. Thero āha ‘‘kasmā āgatattha upāsakā’’ti? Taṃ jīvitā voropessāmāti. Pāṭibhogaṃ me upāsakā gahetvā ajjekarattiṃ jīvitaṃ dethāti. Ko te, samaṇa, imasmiṃ ṭhāne pāṭibhogo bhavissatīti? Thero mahantaṃ pāsāṇaṃ gahetvā dve ūruṭṭhīni bhinditvā ‘‘vaṭṭati upāsakā pāṭibhogo’’ti āha. Te apakkamitvā caṅkamanasīse aggiṃ katvā nipajjiṃsu. Therassa vedanaṃ vikkhambhetvā sīlaṃ paccavekkhato parisuddhaṃ sīlaṃ nissāya pītipāmojjaṃ uppajji . Tato anukkamena vipassanaṃ vaḍḍhento tiyāmarattiṃ samaṇadhammaṃ katvā aruṇuggamane arahattaṃ patto imaṃ udānaṃ udānesi –

Sự giảng giải ý nghĩa về hai câu chuyện ấy như sau – Nghe rằng trong thành Sāvatthī, con trai của Kuṭumbika tên là Tissa đã dứt ra bốn mươi koṭi đồng tiền vàng để xuất gia, sống ở trong rừng, không phải ở trong làng. Vợ của em trai ngài đã phái năm trăm tên cướp đi (và) ra lệnh rằng: ‘Hãy đi, đoạt lấy mạng sống của người đó’. Bọn họ đã đến và ngồi xung quanh trưởng lão. – Trưởng lão bèn hỏi – “Các thiện nam đến đây để làm gì?’ – ‘Chúng tôi đến đây để đoạt lấy mạng sống của ngài’. – Các thiên nam xin hãy bảo đảm cho tôi, sau khi bắt lấy hãy cho tôi sống thêm một đêm nữa. – Này Sa-môn, ai sẽ bảo lãnh cho ngài trong tình huống như thế này? – Trưởng lão sau khi lấy một hòn đá lớn đã đập gãy xương cả hai chân, rồi nói rằng: ‘Này các thiện nam, sự bảo lãnh này có đủ không?’ – Bọn cướp vẫn không tránh đi, mà nhóm lửa nằm ngủ gần chỗ đi kinh hành. Trưởng lão sau khi chế ngự được cảm thọ đã quan sát về giới hạnh y cứ vào giới thanh tịnh khởi lên hỷ và hân hoan. Giai đoạn tiếp theo ngài phát triển Minh sát thực hành Sa-môn Pháp suốt đêm trong canh thứ ba khi bình minh vừa ló dạng ngài đã đạt được phẩm vị A-ra-hán, và đã thốt lên lời cảm hứng (rằng):

‘‘Ubho pādāni bhinditvā, saññapessāmi vo ahaṃ;

Aṭṭiyāmi harāyāmi, sarāgamaraṇaṃ ahaṃ.

Evāhaṃ cintayitvāna, yathābhūtaṃ vipassisaṃ;

Sampatte aruṇuggamhi, arahattamapāpuṇi’’nti.

“Tôi đã đập gãy cả hai chân, để thực hiện lời hứa với các ngươi. Tôi cảm thấy khó chịu, tôi cảm thấy hổ thẹn với cái chết vẫn còn có luyến ái. Khi tôi suy tư như vậy, tôi đã thấy rõ theo đúng theo thực thể, đến khi bình minh vừa ló dạng tôi đã chứng đắc quả vị A-ra-hán.”

 

Câu chuyện về khổ của ba mươi vị tỳ khưu

Aparepi tiṃsa bhikkhū bhagavato santike kammaṭṭhānaṃ gahetvā araññavihāre vassaṃ upagantvā ‘‘āvuso, tiyāmarattiṃ samaṇadhammova kātabbo, na aññamaññassa santikaṃ āgantabba’’nti vatvā vihariṃsu. Tesaṃ samaṇadhammaṃ katvā paccūsasamaye pacalāyantānaṃ eko byaggho āgantvā ekekaṃ bhikkhuṃ gahetvā gacchati. Na koci ‘‘maṃ byaggho gaṇhī’’ti vācampi nicchāresi. Evaṃ pañcasu dasasu bhikkhūsu khāditesu uposathadivase ‘‘itare, āvuso, kuhi’’nti pucchitvā ñatvā ca ‘‘idāni gahitena, gahitomhīti vattabba’’nti vatvā vihariṃsu.

Nhóm ba mươi vị tỳ khưu khác sau khi học đề mục thiền định trong sự hiện diện của đức Thế Tôn đã sống an cư mùa mưa ở ngôi tịnh xá trong rừng, đã thỏa thuận với nhau rằng: ‘Này các hiền giả, chúng ta cần phải thực hành Sa-môn Pháp suốt đêm trọn đủ 3 canh và không nên đi đến trú xứ của nhau,’ rồi mỗi vị an trú một nơi. Khi các vị thực hành Sa-môn Pháp, vào lúc hừng sáng rơi vào trạng thái ngủ thất thì bị một con hổ đã đến vồ lấy lần lượt từng vị tỳ khưu mang đi ăn thịt, nhưng không có bất kỳ một vị nào thốt lên dầu chỉ một lời rằng: “con hổ đã vồ lấy tôi.” Như vậy các vị tỳ khưu bị hổ ăn thịt hết mười lăm vị đến ngày Uposatha mới hỏi rằng: “này hiền giả, những vị còn lại đâu rồi?’sau khi biết chuyện đã nói với nhau rằng: “Kể từ bây giờ, khi bị hổ vồ cần phải kêu lên ‘tôi đã bị hổ vồ’ rồi tiếp tục an trú.

Atha aññataraṃ daharabhikkhuṃ purimanayeneva byaggho gaṇhi. So ‘‘byaggho, bhante’’ti āha. Bhikkhū kattaradaṇḍe ca ukkāyo ca gahetvā mocessāmāti anubandhiṃsu. Byaggho bhikkhūnaṃ agatiṃ chinnataṭaṭṭhānaṃ āruyha taṃ bhikkhuṃ pādaṅguṭṭhakato paṭṭhāya khādituṃ ārabhi. Itarepi ‘‘idāni , sappurisa, amhehi kattabbaṃ natthi, bhikkhūnaṃ viseso nāma evarūpe ṭhāne paññāyatī’’ti āhaṃsu. So byagghamukhe nipannova taṃ vedanaṃ vikkhambhetvā vipassanaṃ vaḍḍhento yāva gopphakā khāditasamaye sotāpanno hutvā, yāva jaṇṇukā khāditasamaye sakadāgāmī, yāva nābhiyā khāditasamaye anāgāmī hutvā, hadayarūpe akhāditeyeva saha paṭisambhidāhi arahattaṃ patvā imaṃ udānaṃ udānesi –

Sau đó con hổ đã vồ lấy một vị tỳ khưu trẻ theo chính cách thức trước. – Vị ấy đã kêu lên ‘con hổ thưa ngài’. Các vị tỳ khưu đã cầm gậy và đuốc đuổi theo với ý định khiến cho nó thả vị tỳ khưu trẻ ra. Con hổ chạy lên núi đá con đường mà các vị tỳ khưu không thể đi được (và) bắt đầu ăn thịt vị tỳ khưu ấy từ dưới ngón chân. Những vị còn lại nói rằng: ‘Bậc chân nhân, bây giờ phận sự mà chúng ta cần phải làm không có, trạng thái cao quý của các vị tỳ khưu xuất hiện trong trường hợp có hình thức như vậy.” Vị tỳ khưu trẻ ấy ngay trong lúc đang nằm trong miệng hổ, sau khi chế ngự cảm thọ đau đớn (vị ấy) đã phát triển Minh sát trong lúc con hổ ăn đến mắt cá chân (vị ấy đã chứng đắc) quả vị Nhập Lưu, trong lúc con hổ ăn đến đầu gối (vị ấy đã chứng đắc) quả vị Nhất Lai, trong lúc con hổ ăn đến bụng (vị ấy đã chứng đắc) quả vị Bất Lai, trong lúc con hổ ăn vẫn chưa đến trái tim vị ấy đã chứng đắc quả vị A-ra-hán cùng với các tuệ phân tích, và đã thốt lên lời cảm hứng (rằng):

‘‘Sīlavā vatasampanno, paññavā susamāhito;

Muhuttaṃ pamādamanvāya, byagghenoruddhamānaso.

Pañjarasmiṃ gahetvāna, silāya uparīkato;

Kāmaṃ khādatu maṃ byaggho, bhakkho kāyo amittānaṃ;

Paṭiladdhe kammaṭṭhāne, maraṇaṃ hehiti bhaddaka’’nti.

Ta có giới, đầy đủ tánh hạnh, có tuệ, khéo được định tĩnh. Do một chút xao lãng, có tâm không nghĩ ác đối với con hổ, nó đã vồ lấy trong nanh vuốt, rồi đưa lên đặt trên tảng đá;

Dù cho con hổ ăn thịt tôi, thân (không có tâm của tôi) làm thức ăn cho nó. Khi tôi đã thành tựu nghiệp xứ, đó sẽ là cái chết hoàn hảo.”

Sự Đau Khổ Của Trưởng Lão Pītamalla

Aparopi pītamallatthero nāma gihikāle tīsu rajjesu paṭākaṃ gahetvā tambapaṇṇidīpaṃ āgamma rājānaṃ disvā raññā katānuggaho ekadivasaṃ kilañjakāpaṇasāladvārena gacchanto ‘‘rūpaṃ, bhikkhave, na tumhākaṃ, taṃ pajahatha, taṃ vo pahīnaṃ dīgharattaṃ hitāya sukhāya bhavissatī’’ti (saṃ. ni. 3.33-34) natumhākavaggaṃ sutvā cintesi ‘‘neva kira rūpaṃ attano, na vedanā’’ti. So taṃyeva aṅkusaṃ katvā nikkhamitvā mahāvihāraṃ gantvā pabbajjaṃ yācitvā pabbajito upasampanno dvemātikā paguṇaṃ katvā tiṃsa bhikkhū gahetvā gabalavāliyaaṅgaṇaṃ gantvā samaṇadhammamakāsi. Pādesu avahantesu jaṇṇukehi caṅkamati. Tamenaṃ rattiṃ eko migaluddako migoti maññamāno sattiyā pahari. Satti vinivijjhitvā gatā. So taṃ sattiṃ harāpetvā pahāramukhāni tiṇavaṭṭiyā pūrāpetvā pāsāṇapiṭṭhiyaṃ attānaṃ nisīdāpetvā okāsaṃ kāretvā vipassanaṃ vaḍḍhetvā saha paṭisambhidāhi arahattaṃ patvā ukkāsitasaddena āgatānaṃ bhikkhūnaṃ byākaritvā imaṃ udānaṃ udānesi –

Một vị tỳ khưu khác là trưởng lão Pītamalla khi còn là cư sĩ,  đã cầm lấy ngọn cờ đi đến hòn đảo Tambapaṇṇī qua ba triều đại, vào yết kiến đức vua, và nhận được sự hỗ trợ của đức vua. Một ngày nọ, trong khi đi ngang qua giảng đường Kilañjakāpaṇa sau khi nghe đoạn Kinh ‘Không Phải Của Các Ông’ (trong Tương Ưng Uẩn, phẩm Khandhavāra) rằng: “Này các tỳ khưu, sắc không phải của các ông; hãy từ bỏ chúng. Sắc mà các ông đã từ bỏ, (sự từ bỏ ấy) sẽ đem lại an lạc và hạnh phúc lâu dài cho các ông,” saṃ. ni. 3.33-34; đã khởi lên suy nghĩ rằng: ‘Quả thực, không những sắc không phải của ta mà thọ cũng không phải của ta.’ Vị ấy đã lấy đoạn Kinh đó làm chủ đề, sau khi rời khởi (tư gia) đã đi đến ngôi Đại Tự xin xuất gia (và) tu lên bậc trên. Sau khi tinh thông hai Mātikā ngài đã đưa ba mươi vị tỳ khưu đến Điện Thờ Gavaravāliya thực hành Sa-môn Pháp. Khi đôi chân của ngài sưng tấy (không thể đi nổi nữa) thì ngài đi kinh hành bằng hai đầu gối. Vào đêm hôm ấy, một người thợ săn đã nhầm ngài với một con nai nên mới phóng ngọn lao đi. Ngọn lao đã đâm trúng (và) xuyên qua ngài, ngài cho người thợ săn rút mũi lao ra, lấy một nắm cỏ để đậy vết thương lại và dìu ngài ngồi xuống bề mặt tảng đá, đã cho hắn thực hiện cơ hội, ngài đã phát triển Minh sát, và đã đạt đến quả vị A-ra-hán cùng với các tuệ phân tích, ngài ra hiệu cho các tỳ khưu đến bằng tiếng tằng hắng và đã thốt lên lời cảm hứng này rằng:

‘‘Bhāsitaṃ buddhaseṭṭhassa, sabbalokaggavādino;

Na tumhākamidaṃ rūpaṃ, taṃ jaheyyātha bhikkhavo.

Aniccā vata saṅkhārā, uppādavayadhammino;

Uppajjitvā nirujjhanti, tesaṃ vūpasamo sukho’’ti.

“Lời nói của đức Phật tối thượng, vị thuyết giảng Pháp cao thượng cho tất của chúng sanh, ngài thuyết rằng: Này các tỳ khưu, sắc này không phải của các ông, các ông hãy từ bỏ chúng.

Quả thật, các pháp hữu vi là vô thường, có tánh sanh diệt, chúng sanh lên rồi hoại diệt, sự tĩnh lặng của pháp hữu vi là Niết Bàn an lạc.”

Atha naṃ bhikkhū āhaṃsu ‘‘sace, bhante, sammāsambuddho arogo abhavissā, addhā te muddhamatthake hatthaṃ pasāretvā sīsaṃ parāmaseyyā’’ti. Ettāvatā ayaṃ maggo tissattherādīnaṃ viya dukkhassa atthaṅgamāya saṃvattati.

Khi ấy, các vị tỳ khưu đã nói với ngài rằng: “Bạch ngài, nếu bậc Chánh đẳng Chánh Giác không bệnh, chắc chắn ngài sẽ duỗi cánh tay (vượt qua đại dương) để chạm vào đầu của ngài (tán thán sự tinh tấn của ngài)’. Chỉ bấy nhiêu, con đường này (chính là đạo lộ) đưa đến sự đoạn tận khổ đau của tất cả chúng sanh, giống như tích truyện của trưởng lão Tissa v.v.

Thọ ưu (Khổ Tâm) của Vua trời Sakka

Sakko pana devānamindo attano pañcavidhapubbanimittaṃ disvā maraṇabhayasantajjito domanassajāto bhagavantaṃ upasaṅkamitvā pañhaṃ pucchi. So upekkhāpañhavissajjanāvasāne asītisahassāhi devatāhi saddhiṃ sotāpattiphale patiṭṭhāsi. Sā cassa upapatti puna pākatikāva ahosi.

Hơn nữa, Vua trời Sakka sau khi nhìn thấy năm điềm báo trước của mình, bị đe dọa bởi sự sợ hãi cái chết đã khởi lên sự buồn phiền, sau khi đến gặp đức Thế Tôn để hỏi các câu hỏi. Vị ấy đã an trú vào Nhập Lưu Quả cùng với tám ngàn vị Thiên nhân do sức mạnh của việc giải thích về thọ xả. Và ngài đã sanh trở lại trạng thái như trước.

Thọ ưu của Thiên tử Subrahma

Subrahmāpi devaputto accharāsahassaparivāro saggasampattiṃ anubhoti, tattha pañcasatā accharāyo rukkhato pupphāni ocinantiyo cavitvā niraye upapannā. So ‘‘kiṃ imā cirāyantī’’ti upadhārento tāsaṃ niraye nibbattabhāvaṃ disvā ‘‘kittakaṃ nu kho mama āyū’’ti upaparikkhanto attanopi āyuparikkhayaṃ viditvā tattheva niraye nibbattanabhāvaṃ disvā bhīto ativiya domanassajāto hutvā ‘‘imaṃ me domanassaṃ satthā vinayissati na añño’’ti avasesā pañcasatā accharāyo gahetvā bhagavantaṃ upasaṅkamitvā pañhaṃ pucchi –

Thiên tử Subrahma trong lúc suy nghĩ rằng: “Tại sao các Tiên nữ này lại chậm trễ” sau khi biết được bản thể các nàng đã sanh vào địa ngục, mới trở lại suy xét tự thân rằng: “tuổi thọ của ta còn bao nhiêu nữa?’ đã biết được tuổi thọ của mình cũng sắp cạn kiệt, và sau khi nhìn thấy bản thể cũng sẽ sanh vào chính địa ngục ấy thì vô cùng kinh sợ đã khởi lên sự buồn phiền, nghĩ rằng ‘Không ai khác ngoài bậc Đạo Sư sẽ xua tan sự buồn phiền này của ta”, rồi đưa năm trăm Tiên nữ còn lại đến yết kiến đức Thế Tôn để hỏi câu hỏi (rằng):

 ‘‘Niccaṃ utrastamidaṃ cittaṃ, niccaṃ ubbiggidaṃ mano;

Anuppannesu kicchesu, atho uppatitesu ca;

Sace atthi anutrastaṃ, taṃ me akkhāhi pucchito’’ti. (saṃ. ni. 1.98);

Tato naṃ bhagavā āha –

‘‘Nāññatra bojjhā tapasā, nāññatrindriyasaṃvarā;

Nāññatra sabbanissaggā, sotthiṃ passāmi pāṇina’’nti. (saṃ. ni. 1.98);

So desanāpariyosāne pañcahi accharāsatehi saddhiṃ sotāpattiphale patiṭṭhāya taṃ sampattiṃ thāvaraṃ katvā devalokameva agamāsīti . Evamayaṃ maggo bhāvito sakkādīnaṃ viya domanassassa atthaṅgamāya saṃvattatīti veditabbo.

“Tâm này luôn sợ hãi, ý này luôn hoảng sợ. Với những phận sự chưa sanh, và những phận sự đã sanh. Nếu như có pháp không sợ hãi, xin đức Thế Tôn hãy giải đáp điều đó (sự không sợ hãi và không hoảng sợ) cho con.”(saṃ. ni. 1.98);

Sau đó, đức Thế Tôn đã giải đáp câu hỏi đó cho Thiên tử như sau:

Không ngoài sự hiểu biết và sự nhiệt tâm, không ngoài sự hộ trì các giác quan; Không ngoài sự buông bỏ tất cả, ta thấy các pháp ấy, đưa đến sự an toàn cho tất cả chúng sanh. (saṃ. ni. 1.98);

Khi bài thuyết giảng chấm dứt Thiên tử Subrahma đã an trú vào Nhập Lưu Quả cùng với năm trăm Tiên nữ, đã thiết lập bền vững sự thành tựu ấy, rồi quay trở về thế giới chư Thiên. Như vậy, bậc hiền trí nên biết răng: con đường này được tu tập vận hành đưa đến sự biến mất của ưu giống như ưu phiền của Vua trời Sakka.

Ñāyassa adhigamāyāti ñāyo vuccati ariyo aṭṭhaṅgiko maggo, tassa adhigamāya, pattiyāti vuttaṃ hoti. Ayañhi pubbabhāge lokiyo satipaṭṭhānamaggo bhāvito lokuttarassa maggassa adhigamāya saṃvattati. Tenāha ‘‘ñāyassa adhigamāyā’’ti. Nibbānassa sacchikiriyāyāti taṇhāvānavirahitattā nibbānanti laddhanāmassa amatassa sacchikiriyāya, attapaccakkhatāyāti vuttaṃ hoti. Ayañhi maggo bhāvito anupubbena nibbānasacchikiriyaṃ sādheti. Tenāha ‘‘nibbānassa sacchikiriyāyā’’ti.

Đưa đến việc đạt được phương pháp: Thánh đạo có tám chi phần được gọi là phương pháp, đưa đến việc đạt được pháp ấy, ngài giải thích rằng: đưa đến chứng đắc. Bởi vì đạo lộ là sự thiết lập niệm thuộc Hiệp Thế ban đầu này đã được tu tập vận hành đưa đến việc đạt được của Đạo Siêu Thế. Vì thế, đức Thế Tôn mới thuyết rằng: “Đưa đến việc đạt được phương pháp”. Đưa đến việc chứng ngộ Niết Bàn: Ngài giải thích rằng: tự mình nhận thức rõ ràng, đưa đến việc chứng ngộ Bất Tử được gọi là Niết Bàn bởi trạng thái thoát khỏi tham ái trói buộc. Thật vậy, con đường này được tu tập làm cho việc chứng ngộ Niết Bàn hoàn thành theo tuần tự. Do đó, Thế Tôn mới thuyết rằng ‘Đưa đến việc chứng ngộ Niết Bàn’.

Tattha kiñcāpi ‘‘sattānaṃ visuddhiyā’’ti vutte sokasamatikkamādīni atthato siddhāneva honti, ṭhapetvā pana sāsanayuttikovide aññesaṃ na pākaṭāni, na ca bhagavā paṭhamaṃ sāsanayuttikovidaṃ janaṃ katvā pacchā dhammaṃ deseti. Tena teneva pana suttena taṃ taṃ atthaṃ ñāpeti. Tasmā idha yaṃ yaṃ atthaṃ ekāyanamaggo sādheti, taṃ taṃ pākaṭaṃ katvā dassento ‘‘sokaparidevānaṃ samatikkamāyā’’tiādimāha. Yasmā vā yā sattānaṃ visuddhi ekāyanamaggena saṃvattati, sā sokaparidevānaṃ samatikkamena hoti, sokaparidevānaṃ samatikkamo dukkhadomanassānaṃ atthaṅgamena, dukkhadomanassānaṃ atthaṅgamo ñāyassādhigamena, ñāyassādhigamo nibbānassa sacchikiriyāya. Tasmā imampi kamaṃ dassento ‘‘sattānaṃ visuddhiyā’’ti vatvā ‘‘sokaparidevānaṃ samatikkamāyā’’tiādimāha.

Trong bài Kinh ấy, mặc dù khi đức Thế Tôn thuyết rằng: ‘đưa đến sự thanh tịnh cho các chúng sinh,’ thì sự vượt khỏi sầu muộn và bi lụy v.v, cũng đã hoàn tất về ý nghĩa, tuy nhiên trừ vị thông minh biết điều phù hợp của lời dạy thì không hiện rõ ở những người khác, và đức Thế Tôn đã không làm cho những người thông minh biết điều phù hợp của lời dạy trước mà thuyết giảng Giáo Pháp sau. Vả lại, đức Thế Tôn làm cho hiểu được ý nghĩa đó theo chính phương hướng ấy. Vì thế, ở đây con đường độc đạo thành tựu với ý nghĩa nào, thì ngài thuyết giảng ý nghĩa ấy cho hiện rõ nên mới nói rằng: “Đưa đến sự vượt khỏi sầu muộn và bi lụy”. Hoặc, sự thanh tịnh của các chúng sanh vận hành bởi con đường độc đạo, sự thanh tịnh ấy có được do sự vượt khỏi sầu muộn và bi lụy. Sầu muộn và bi lụy có được do sự biến mất của khổ và ưu; sự biến mất của khổ và ưu có được do việc đạt được phương pháp, việc đạt được phương pháp có được do việc chứng ngộ Niết Bàn. Do đó, trong khi thuyết giảng tuần tự việc này, ngài mới thuyết rằng: ‘Đưa đến sự thanh tịnh của các chúng sanh’, rồi thuyết tiếp: ‘Đưa đến sự vượt khỏi sầu muộn và bi luỵ”.

Apica vaṇṇabhaṇanametaṃ ekāyanamaggassa. Yatheva hi bhagavā ‘‘dhammaṃ vo, bhikkhave, desessāmi ādikalyāṇaṃ majjhekalyāṇaṃ pariyosānakalyāṇaṃ sātthaṃ sabyañjanaṃ kevalaparipuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ pakāsessāmi, yadidaṃ chachakkānī’’ti (ma. ni. 3.420) chachakkadesanāya aṭṭhahi padehi vaṇṇaṃ abhāsi, yathā ca ariyavaṃsadesanāya ‘‘cattārome, bhikkhave, ariyavaṃsā aggaññā rattaññā vaṃsaññā porāṇā asaṃkiṇṇā asaṃkiṇṇapubbā na saṃkīyanti, na saṃkīyissanti, appaṭikuṭṭhā samaṇehi brāhmaṇehi viññūhī’’ti (a. ni. 4.28) navahi padehi vaṇṇaṃ abhāsi, evaṃ imassapi ekāyanamaggassa sattānaṃ visuddhiyātiādīhi sattahi padehi vaṇṇaṃ abhāsi.

Nói cách khác, ‘sự thanh tịnh của tất cả chúng sanh’ v.v. đây là lời nói ca ngợi về ‘con đường độc đạo’. Cũng giống như đức Thế Tôn đã nói ca ngợi với tám câu bằng bài Kinh Chachakka như sau: ‘Này các tỳ khưu, ta sẽ thuyết pháp toàn hảo ở đoạn đầu, toàn hảo ở đoạn giữa, và toàn hảo ở đoạn cuối, giảng giải về Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn và đầy đủ, cùng với sự thành tựu về ý nghĩa, và cả thành tựu về văn tự’, là pháp có 6 nhóm, mỗi nhóm có 6 câu cùng tất cả các ông’. (ma. ni. 3.420); Và giống như nói ca ngợi với chín câu (trong Ariyavaṃsa) như sau: ‘Này các Tỳ khưu, bốn truyền thống bậc thánh được biết là cao cả, được biết lâu đời, được biết là dòng dõi Thánh nhân, truyền thống cổ sơ, quá khứ đã không bị lẫn lộn, không từng bị lẫn lộn, ở hiện tại không bị lẫn lộn, ở vị lại sẽ không bị lẫn lộn, không bị các Sa-môn, Bà-la-môn có trí khiển trách (a. ni. 4.28); tương tự như thế ấy đức Thế Tôn đã nói lời ca ngợi ‘con đường độc đạo’ với bảy câu rằng: ‘Đưa đến sự thanh tịnh của các chúng sanh, v.v.

Kasmā iti ce? Tesaṃ bhikkhūnaṃ ussāhajananatthaṃ. Vaṇṇabhāsanañhi sutvā te bhikkhū ‘‘ayaṃ kira maggo hadayasantāpabhūtaṃ sokaṃ, vācāvippalāpabhūtaṃ paridevaṃ, kāyikaasātabhūtaṃ dukkhaṃ, cetasikaasātabhūtaṃ domanassanti cattāro upaddave hanati, visuddhiṃ ñāyaṃ nibbānanti tayo visese āvahatī’’ti ussāhajātā imaṃ dhammadesanaṃ uggahetabbaṃ pariyāpuṇitabbaṃ dhāretabbaṃ vācetabbaṃ, imañca maggaṃ bhāvetabbaṃ maññissanti. Iti tesaṃ bhikkhūnaṃ ussāhajananatthaṃ vaṇṇaṃ abhāsi, kambalavāṇijādayo kambalādīnaṃ vaṇṇaṃ viya.

Nếu hỏi rằng tại sao? – Để khởi lên sự nhiệt tâm cho các vị tỳ khưu ấy. Bởi vì các vị ấy sau khi nghe lời ca ngợi đã khởi lên sự nhiệt tâm: “Nghe rằng con đường này sát hại bốn sự bất hạnh – sầu muộn có tính chất thiêu đốt trái tim, bi lụy có tính chất than van khóc lóc bằng lời nói,khổ có tính chất đau đớn thuộc thân, ưu có tính chất đau đớn thuộc tâm, và mang lại ba ưu điểm đặc biệt: sự thanh tịnh, đưa đến việc đạt được phương pháp và Niết Bàn,” do vậy đã khởi lên sự nhiệt tâm nghĩ rằng: bài thuyết Pháp này cần phải được học tập, cần phải được ghi nhớ, cần phải được thuộc nằm lòng, cần phải được chỉ dạy và con đường này cần phải được tu tập.’ Đức Thế Tôn ca ngợi ‘con đường độc đạo’ để cho các vị tỳ khưu khởi lên sự nhiệt tâm với ý nghĩa như được giảng giải, giống như người lái buôn buôn bán len v.v, thì nói lời ca ngợi về chất lượng len v.v.

Yathā hi satasahassagghanikapaṇḍukambalavāṇijena kambalaṃ gaṇhathāti ugghositepi asukakambaloti na tāva manussā jānanti. Kesakambalavālakambalādayopi hi duggandhā kharasamphassā kambalātveva vuccanti. Yadā pana tena gandhārako rattakambalo sukhumo ujjalo sukhasamphassoti ugghositaṃ hoti, tadā ye pahonti, te gaṇhanti. Ye na pahonti, tepi dassanakāmā honti, evamevaṃ ‘‘ekāyano ayaṃ, bhikkhave, maggo’’ti vuttepi asukamaggoti na tāva pākaṭo hoti. Nānappakārakā hi aniyyānamaggāpi maggātveva vuccanti. ‘‘Sattānaṃ visuddhiyā’’tiādimhi pana vutte ‘‘ayaṃ kira maggo cattāro upaddave hanati, tayo visese āvahatī’’ti ussāhajātā imaṃ dhammadesanaṃ uggahetabbaṃ pariyāpuṇitabbaṃ dhāretabbaṃ vācetabbaṃ, imañca maggaṃ bhāvetabbaṃ maññissantīti vaṇṇaṃ bhāsanto ‘‘sattānaṃ visuddhiyā’’tiādimāha. Yathā ca satasahassagghanikapaṇḍukambalavāṇijopamā, evaṃ rattajambunadasuvaṇṇaudakappasādakamaṇiratanasuvisuddhamuttāratanadhotapavāḷādivāṇijūpamādayopettha āharitabbā.

Còn khi nào họ quảng cáo rằng: vải len màu đỏ được làm từ xứ Gandhāra chất liệu vải mềm mại, sáng, mặc vào dễ chịu thoải mái, khi ấy người nào nếu có (đủ) tiền, người ấy (sẽ) mua. Còn người nào không đủ tiền, người ấy cũng muốn được chiêm ngưỡng; tương tự y như thế, thậm chí đức Thế Tôn thuyết rằng: ‘Này các tỳ khưu, đây là con đường độc đạo’ vẫn không hiện rõ trước rằng: ‘con đường nào’, bởi vì ngay cả con đường không dẫn dắt ra khỏi (khổ đau) có nhiều cách khác nhau cũng đều gọi là con đường. Nhưng khi đức Thế Tôn thuyết rằng ‘đưa đến sự thanh tịnh của các chúng sanh’, các vị tỳ khưu biết rằng: “Quả thật, con đường này sát hại bốn sự bất hạnh, và mang lại ba ưu điểm đặc biệt” đã khởi lên sự nhiệt tâm, suy nghĩ rằng: bài thuyết Pháp này cần phải được học tập, cần phải được ghi nhớ, cần phải được thuộc nằm lòng, cần phải được chỉ dạy và con đường này cần phải được tu tập.’ Cho nên, khi Thế Tôn nói lời ca ngợi (con đường độc đạo) đã thuyết rằng: ‘đưa đến sự thanh tịnh của các chúng sanh’. Và ví như người bán vải len màu vàng có giá trị hàng trăm ngàn đồng tiền vàng để so sánh; tương tự như vậy, nên đưa người bán vàng hồng tinh khiết của xứ Jambunada, vàng ròng, ngọc mānī tịnh thuỷ, ngọc trai trong suốt, vải lông thú, và ngọc san hô tinh khiết v.v.  đến để so sánh.

Yadidanti nipāto, ye imeti ayamassa attho. Cattāroti gaṇanaparicchedo, tena na tato heṭṭhā na uddhanti satipaṭṭhānaparicchedaṃ dīpeti. Satipaṭṭhānāti tayo satipaṭṭhānā satigocaropi, tidhā paṭipannesu sāvakesu satthuno paṭighānunayavītivattatāpi, satipi. ‘‘Catunnaṃ , bhikkhave, satipaṭṭhānānaṃ samudayañca atthaṅgamañca desessāmi, taṃ suṇātha…pe…. Ko ca, bhikkhave, kāyassa samudayo? Āhārasamudayā kāyasamudayo’’tiādīsu (saṃ. ni. 3.408) hi satigocaro satipaṭṭhānanti vuccati. Tathā ‘‘kāyo paṭṭhānaṃ, no sati. Sati paṭṭhānañceva sati cā’’tiādīsupi (paṭi. ma. 3.35). Tassattho – patiṭṭhāti asminti paṭṭhānaṃ. Kā patiṭṭhāti? Sati. Satiyā paṭṭhānaṃ satipaṭṭhānaṃ. Padhānaṭṭhānanti vā paṭṭhānaṃ. Satiyā paṭṭhānaṃ satipaṭṭhānaṃ, hatthiṭṭhānaassaṭṭhānādīni viya.

Yadidaṃ là một phân từ, có nghĩa là những cái này nào. Bốn (sự thiết lập niệm) xác định số lượng. Với số lượng ấy đức Thế Tôn đã chỉ ra sự giới hạn số lượng của sự thiết lập niệm không ít hơn (bốn) mà cũng không nhiều hơn (bốn). Sự thiết lập niệm: Ba sự thiết lập niệm là đối tượng của niệm, hoặc điều mà bậc Đạo Sư vượt qua sự bất bình và hoan hỷ đối với các đệ tử, vị thực hành ba điều cũng có, hoặc niệm cũng có. Thật vậy, đối tượng của niệm gọi là sự thiết lập niệm như sau: ‘Này chư Tỳ khưu, ta sẽ thuyết giảng sự sanh khởi và sự diệt tận của bốn sự thiết lập niệm, các ông hãy lắng nghe -nt- Này các tỳ khưu, do cái gì có sự sanh khởi của thân? Do sự sanh khởi của vật thực có sự sanh khởi của thân’. (saṃ. ni. 5.408); Một điều nữa, gọi là sự thiết lập niệm như sau: ‘Thân là sự thiết lập không phải là niệm, niệm vừa là sự thiết lập vừa là niệm’. (paṭi. ma. 3.35); Lời ấy có ý nghĩa như thế – sự thiết lập là nơi an trú. Cái gì an trú? Niệm. Nơi an trú của niệm gọi là sự thiết lập niệm. Hoặc là, sự an trú làm trưởng gọi là sự thiết lập. Sự an trú của niệm gọi là sự thiết lập niệm cũng giống như chỗ đứng của voi, hay chỗ đứng của ngựa.

‘‘Tayo satipaṭṭhānā, yadariyo sevati, yadariyo sevamāno satthā gaṇamanusāsitumarahatī’’ti (ma. ni. 3.311) etthāpi tidhā paṭipannesu sāvakesu satthuno paṭighānunayavītivattatā ‘‘satipaṭṭhāna’’nti vuttā. Tassattho – paṭṭhapetabbato paṭṭhānaṃ, pavattayitabbatoti attho. Kena paṭṭhapetabbatoti? Satiyā. Satiyā paṭṭhānaṃ satipaṭṭhānanti. ‘‘Cattāro satipaṭṭhānā bhāvitā bahulīkatā satta bojjhaṅge paripūrentī’’tiādīsu (saṃ. ni. 5.989) pana satiyeva ‘‘satipaṭṭhāna’’nti vuccati. Tassattho – patiṭṭhātīti paṭṭhānaṃ, upaṭṭhāti okkantitvā pakkhanditvā pavattatīti attho. Satiyeva paṭṭhānaṃ satipaṭṭhānaṃ. Atha vā saraṇaṭṭhena sati, upaṭṭhānaṭṭhena paṭṭhānaṃ. Iti sati ca sā paṭṭhānañcātipi satipaṭṭhānaṃ. Idamidha adhippetaṃ.

Ở đây, việc mà bậc Đạo Sư vượt qua sự bất bình và sự hoan hỷ đối với các vị đệ tử, vị thực hành 3 loại gọi là sự thiết lập niệm như trong Phật ngôn sau: “Có ba sự thiết lập niệm mà một bậc Thánh cần phải thực hành, và có thực hành (sự thiết lập niệm) ấy, bậc Thánh mới xứng là bậc Ðạo Sư giảng dạy cho Hội Chúng.’(ma. ni. 3.311); Lời này có ý nghĩa “sự an trú” vì nên được thiết lập, giải thích rằng: nên được tiến hành. Nên được thiết lập với cái gì? Với niệm. Sự an trú niệm là sự thiết lập niệm. Hơn nữa, chính niệm ấy được gọi là “sự thiết lập niệm” như sau: ‘Bốn sự thiết lập niệm được tu tập, được làm cho sung mãn khiến cho bảy giác chi được tròn đủ’ (ma. ni. 3.147); Lời ấy có ý nghĩa như sau – (pháp nào) an trú khắp, có nghĩa là đi vào an trú, là đã chìm sâu, đã tiến vào, đã đi tới, (pháp ấy) gọi là sự thiết lập. Chính niệm ấy gọi là sự thiết lập niệm. Hoặc hơn nữa, niệm với ý nghĩa là sự ghi nhớ, sự thiết lập với ý nghĩa là đi vào thiết lập. Như vậy, niệm và đi vào thiết lập (với lý do đó) gọi là sự thiết lập niệm. Ở đây, đức Thế Tôn muốn đề cập đến sự thiết lập niệm này.

Yadi evaṃ, kasmā ‘‘satipaṭṭhānā’’ti bahuvacanaṃ? Satibahuttā. Ārammaṇabhedena hi bahukā etā satiyo. Atha maggoti kasmā ekavacanaṃ? Maggaṭṭhena ekattā. Catassopi hi etā satiyo maggaṭṭhena ekattaṃ gacchanti. Vuttañhetaṃ ‘‘maggoti kenaṭṭhena maggo? Nibbānagamanaṭṭhena, nibbānatthikehi magganīyaṭṭhena cā’’ti. Catassopi cetā aparabhāge kāyādīsu ārammaṇesu kiccaṃ sādhayamānā nibbānaṃ gacchanti. Ādito paṭṭhāya ca nibbānatthikehi maggīyanti, tasmā catassopi eko maggoti vuccanti . Evañca sati vacanānusandhinā sānusandhikāva desanā hoti, ‘‘mārasenappamaddanaṃ vo, bhikkhave, maggaṃ desessāmi, taṃ suṇātha…pe… katamo ca, bhikkhave, mārasenappamaddano maggo? Yadidaṃ sattabojjhaṅgā’’tiādīsu (saṃ. ni. 5.224) viya hi yathā mārasenappamaddanoti ca sattabojjhaṅgāti ca atthato ekaṃ, byañjanamevettha nānaṃ. Evaṃ ekāyanamaggoti ca cattāro satipaṭṭhānāti ca atthato ekaṃ, byañjanamevettha nānaṃ. Tasmā maggaṭṭhena ekattā ekavacanaṃ, ārammaṇabhedena satibahuttā bahuvacanaṃ veditabbaṃ.

Nếu vậy tại sao ‘sự thiết lập niệm’ là cách số nhiều? Bởi vì cần có nhiều niệm. Bởi vì, các niệm ấy có nhiều do sự khác biệt về đối tượng. Như vậy, tại sao ‘con đường’ cũng có nhiều nhưng lại là cách số ít. Bởi vì chỉ có một con đường duy nhất với ý nghĩa đạo lộ. Thật vậy, các niệm ấy dầu có ‘bốn’ nhưng cũng đi đến một con đường duy nhất với ý nghĩa đạo lộ. Như đã nói ‘con đường gọi là đạo lộ với ý nghĩa gì?’ Với ý nghĩa đi đến Niết Bàn, và với ý nghĩa người ao ước Niết Bàn có thể tầm cầu. Cả bốn niệm ấy hoàn thành phận sự trong các đối tượng có thân. v.v, đến Niết Bàn sau đó, và những người ao ước Niết Bàn cần phải thực hành từ ban đầu, vì thế, cả bốn niệm được gọi là con đường duy nhất. Và như vậy, bài thuyết cùng với sự liên kết có lời nói được nói với sự liên kết ‘niệm’ giống như: ‘Này các tỳ khưu, ta sẽ thuyết giảng con đường để tiêu diệt các đạo binh của Ma Vương, các ông hãy lắng nghe -nt- Này các tỳ khưu con đường để tiêu diệt các đạo binh của Ma Vương là gì? Tức là thất giác chi. (saṃ. ni. 5.224); Con đường tiêu diệt đạo quân Ma Vương và thất giác chi với ý nghĩa là một, chỉ khác nhau về văn tự. Cũng tương tự như thế “con đường độc đạo” và “bốn sự thiết lập niệm” với ý nghĩa cũng là một, chỉ khác nhau về văn tự. Vì thế, nên biết rằng ‘con đường’ là cách số ít, bởi vì là con đường duy nhất với ý nghĩa là đạo lộ; là cách số nhiều bởi vì có nhiều niệm do sự khác biệt về đối tượng.

Lý do thuyết sự thiết lập niệm thành bốn

Kasmā pana bhagavatā cattārova satipaṭṭhānā vuttā anūnā anadhikāti? Veneyyahitattā . Taṇhācaritadiṭṭhicaritasamathayānikavipassanāyānikesu hi mandatikkhavasena dvedhā dvedhā pavattesu veneyyesu mandassa taṇhācaritassa oḷārikaṃ kāyānupassanāsatipaṭṭhānaṃ visuddhimaggo, tikkhassa sukhumaṃ vedanānupassanaṃ satipaṭṭhānaṃ. Diṭṭhicaritassāpi mandassa nātippabhedagataṃ cittānupassanāsatipaṭṭhānaṃ visuddhimaggo, tikkhassa atippabhedagataṃ dhammānupassanāsatipaṭṭhānaṃ. Samathayānikassa ca mandassa akicchena adhigantabbanimittaṃ paṭhamaṃ satipaṭṭhānaṃ visuddhimaggo, tikkhassa oḷārikārammaṇe asaṇṭhahanato dutiyaṃ. Vipassanāyānikassapi mandassa nātippabhedagatārammaṇaṃ tatiyaṃ, tikkhassa atippabhedagatārammaṇaṃ catutthaṃ. Iti cattārova vuttā anūnā anadhikāti.

Bởi vì đối với những chúng sanh có tánh tham ái, chúng sanh có tánh tà kiến, hành giả lấy Chỉ tịnh làm phương tiện, và hành giả lấy Minh sát làm phương tiện được diễn tiến mỗi nhóm thành hai do tác động tuệ yếu và tuệ mạnh. Sự thiết lập niệm để quan sát thân có đối tượng thô là đạo lộ thanh tịnh đối với chúng sanh có thể lãnh hội được Giáo lý có tánh tham ái, có tuệ yếu; sự thiết lập niệm để quan sát thọ có đối tượng vi tế là đạo lộ thanh tịnh đối với chúng sanh có thể lãnh hội được Giáo lý có tánh tham ái, có tuệ mạnh. Sự thiết lập niệm để quan sát tâm có đối tượng không phân tách chi tiết là đạo lộ thanh tịnh đối với chúng sanh có thể lãnh hội được Giáo lý có tánh tà kiến, có tuệ yếu; Sự thiết lập niệm để quan sát Pháp có đối tượng được phân tách chi tiết là đạo lộ thanh tịnh đối với chúng sanh có thể lãnh hội được Giáo lý có tánh tà kiến, có tuệ mạnh. Và sự thiết lập niệm thứ nhất có hình tướng có thể chứng đắc không khó khăn là đạo lộ thanh tịnh của hành giả lấy Chỉ tịnh làm phương tiện, có tuệ yếu (độn căn); Sự thiết lập niệm thứ hai là đạo lộ thanh tịnh của hành giả lấy Chỉ tịnh làm phương tiện, có tuệ mạnh (lợi căn), bởi vì không an trú trong đối tượng thô. Sự thiết lập niệm thứ ba có đối tượng không phân tách chi tiết là đạo lộ thanh tịnh của hành giả lấy Minh sát làm phương tiện, có trí tuệ yếu (độn căn); sự thiết lập niệm thứ tư có các đối tượng được phân tách chi tiết là đạo lộ thanh tịnh của hành giả lấy Minh sát làm phương tiện, có tuệ mạnh (lợi căn). Như vậy cả bốn sự thiết lập niệm được nói đến không hơn không kém, như đã giảng giải.

Subhasukhaniccaattabhāvavipallāsapahānatthaṃ vā. Kāyo hi asubho, tattha ca subhavipallāsavipallatthā sattā, tesaṃ tattha asubhabhāvadassanena tassa vipallāsassa pahānatthaṃ paṭhamaṃ satipaṭṭhānaṃ vuttaṃ. Sukhaṃ niccaṃ attāti gahitesupi ca vedanādīsu vedanā dukkhā, cittaṃ aniccaṃ, dhammā anattā, tesu ca sukhaniccaattavipallāsavipallatthā sattā, tesaṃ tattha dukkhādibhāvadassanena tesaṃ vipallāsānaṃ pahānatthaṃ sesāni tīṇi vuttānīti evaṃ subhasukhaniccaattabhāvavipallāsapahānatthaṃ vā cattārova vuttā anūnā anadhikāti veditabbā. Na kevalañca vipallāsapahānatthameva, atha kho caturoghayogāsavaganthaupādānaagatipahānatthampi catubbidhāhārapariññatthañca cattārova vuttāti veditabbā. Ayaṃ tāva pakaraṇanayo.

Hoặc thuyết sự thiết lập niệm có bốn nhằm mục đích dứt bỏ sự lầm tưởng về sự thanh tịnh, lạc, thường hằng và bản ngã. Thật vậy, thân là bất tịnh, nhưng các chúng sanh lầm tưởng là thanh tịnh trong thân ấy. Để chỉ ra tính chất bất tịnh cho các chúng sanh (ngài) đã thuyết sự thiết lập niệm thứ nhất nhằm mục đích dứt bỏ sự lầm tưởng ấy. Và trong thọ v.v. mà chúng sanh đã nắm lấy cho là lạc, là thường hằng, và là bản ngã; (cũng theo cách đó) thọ cũng là khổ, tâm là vô thường, các pháp là vô ngã, nhưng chúng sanh lầm tưởng cho là lạc, là thường hằng, là bản ngã. Nhưng các chúng sanh vẫn lầm tưởng là lạc, thừng hằng, v.v, trong thọ, tâm và pháp đó. Để chỉ ra tính chất khổ, v.v, trong thọ, tâm, pháp ấy cho các chúng sanh (ngài) mới thuyết ba sự thiết lập niệm còn lại nhằm mục đích dứt bỏ các sự lầm tưởng ấy. Vì thế, nên biết rằng (ngài) thuyết bốn sự thiết lập niệm không hơn không kém cũng nhằm mục đích dứt bỏ sự lầm tưởng về sự thanh tịnh, lạc, thường hằng và bản ngã như đã trình bày. Và không chỉ vì mục đích dứt bỏ sự lầm tưởng mà nên biết rằng thuyết cả bốn sự thiết lập niệm cũng nhằm mục đích dứt bỏ bốn dòng lũ, bốn sự gắn bó, bốn lậu hoặc, bốn sự trói buộc, bốn sự chấp thủ, bốn sự thiên vị và nhằm mục đích biết toàn diện bốn món vật thực. Nên hiểu phương pháp từ Kinh điển Pāḷī trước.

Aṭṭhakathāyaṃ pana saraṇavasena ceva ekattasamosaraṇavasena ca ekameva satipaṭṭhānaṃ ārammaṇavasena cattāroti etadeva vuttaṃ. Yathā hi catudvāre nagare pācīnato āgacchantā pācīnadisāya uṭṭhānakaṃ bhaṇḍaṃ gahetvā pācīnadvārena nagarameva pavisanti, dakkhiṇato pacchimato uttarato āgacchantā uttaradisāya uṭṭhānakaṃ bhaṇḍaṃ gahetvā uttaradvārena nagarameva pavisanti, evaṃsampadamidaṃ veditabbaṃ. Nagaraṃ viya hi nibbānamahānagaraṃ . Dvāraṃ viya aṭṭhaṅgiko lokuttaramaggo. Pācīnadisādayo viya kāyādayo.

Hơn nữa, theo Aṭṭhakathā ngài nói rằng: sự thiết lập niệm chỉ có một do tác động sự ghi nhớ và do tác động sự họp chung lại thành một có bốn do tác động của đối tượng. Ví như một thành phố có bốn cổng thành, người đang đi đến từ hướng Đông đã mang theo hàng hóa từ hướng Đông, đi vào thành phố qua cổng thành hướng Đông; Tương tự, đối với những ai qua cổng thành hướng Nam, hướng Tây và hướng Bắc. Người đang đi đến từ hướng Bắc đã mang theo hàng hóa từ hướng Bắc đi qua cổng thành hướng Bắc để vào thành phố; như vậy – ví nên biết dụ so sánh này cũng như thế. Thật vậy, thành phố lớn Niết Bàn giống như thành phố. Đạo Siêu Thế có Tám Chi Đạo giống như 4 cổng thành. Sự thiết lập niệm có Thân, v.v, giống như các phương hướng có phương Đông v.v.

Yathā pācīnato āgacchantā pācīnadisāya uṭṭhānakaṃ bhaṇḍaṃ gahetvā pācīnadvārena nagarameva pavisanti, evaṃ kāyānupassanāmukhena āgacchantā cuddasavidhena kāyānupassanaṃ bhāvetvā kāyānupassanābhāvanānubhāvanibbattena ariyamaggena ekaṃ nibbānameva osaranti.

Giống như người đang đi đến từ cổng thành hướng Đông đã mang theo hàng hóa từ phương Đông thông qua cổng thành phía Đông để vào thành phố; Như vậy hành giả thực hành bằng lối vào quan sát thân đã tu tập việc quan sát thân với mười bốn phần để tiến vào một nơi chính là Niết Bàn bằng Thánh Đạo được khởi lên nhờ vào sức mạnh của việc quan sát thân.

Yathā dakkhiṇato āgacchantā dakkhiṇadisāya uṭṭhānakaṃ bhaṇḍaṃ gahetvā dakkhiṇadvārena nagarameva pavisanti, evaṃ vedanānupassanāmukhena āgacchantā navavidhena vedanānupassanaṃ bhāvetvā vedanānupassanābhāvanānubhāvanibbattena ariyamaggena ekaṃ nibbānameva osaranti.

Giống như người đang đi từ hướng Nam mang theo hàng hóa từ phương Nam thông qua cổng thành phía Nam  đề vào thành phố. Như vậy, hành giả thực hành bằng lối vào quan sát thọ đã tu tập việc quan sát thọ với chín phần để tiến vào một nơi chính là Niết Bàn bằng Thánh Đạo được khởi lên nhờ vào sức mạnh của việc quan sát thọ.

Yathā pacchimato āgacchantā pacchimadisāya uṭṭhānakaṃ bhaṇḍaṃ gahetvā pacchimadvārena nagarameva pavisanti, evaṃ cittānupassanāmukhena āgacchantā soḷasavidhena cittānupassanaṃ bhāvetvā cittānupassanābhāvanānubhāvanibbattena ariyamaggena ekaṃ nibbānameva osaranti.

Giống như người đang đi từ hướng Tây đã mang theo hàng hóa từ phương Tây thông qua cổng thành phía Tây để đi vào thành phố. Như vậy, hành giả thực hành bằng lối vào quan sát tâm đã tu tập việc quan sát tâm với mười sáu phần để tiến vào một nơi chính là Niết Bàn bằng Thánh Đạo được khởi lên nhờ vào sức mạnh của việc quan sát tâm.

Yathā uttarato āgacchantā uttaradisāya uṭṭhānakaṃ bhaṇḍaṃ gahetvā uttaradvārena nagarameva pavisanti, evaṃ dhammānupassanāmukhena āgacchantā pañcavidhena dhammānupassanaṃ bhāvetvā dhammānupassanābhāvanānubhāvanibbattena ariyamaggena ekaṃ nibbānameva osaranti. Evaṃ saraṇavasena ceva ekattasamosaraṇavasena ca ekameva satipaṭṭhānaṃ ārammaṇavasena cattārova vuttāti veditabbā.

Giống như người đang đi từ hướng Bắc đã mang theo hàng hóa từ phương bắc thông qua cổng thành phía Bắc để đi vào thành phố. Như vậy, hành giả bằng lối vào quan sát pháp đã tu tập quan sát pháp với năm phần để tiến vào một nơi chính là Niết Bàn bằng Thánh Đạo được khởi lên nhờ vào sức mạnh của việc quan sát pháp. Nên biết rằng ngài thuyết sự thiết lập niệm chỉ có một do tác động của sự ghi nhớ và do tác động sự họp chung lại một nơi, và có bốn do tác động của đối tượng như đã trình bày.

 

Ý Nghĩa Của Tỳ khưu [Bhikkhu]

Katamecattāroti kathetukamyatā pucchā. Idhāti imasmiṃ sāsane. Bhikkhaveti dhammapaṭiggāhakapuggalālapanametaṃ. Bhikkhūti paṭipattisampādakapuggalanidassanametaṃ. Aññepi ca devamanussā paṭipattiṃ sampādentiyeva, seṭṭhattā pana paṭipattiyā bhikkhubhāvadassanato ca, ‘‘bhikkhū’’ti āha. Bhagavato hi anusāsaniṃ sampaṭicchantesu bhikkhu seṭṭho, sabbappakārāya anusāsaniyā bhājanabhāvato, tasmā seṭṭhattā ‘‘bhikkhū’’ti āha. Tasmiṃ gahite pana sesā gahitāva honti rājagamanādīsu rājaggahaṇena sesaparisā viya. Yo ca imaṃ paṭipattiṃ paṭipajjati, so bhikkhu nāma hotīti paṭipattiyā bhikkhubhāvadassanatopi ‘‘bhikkhū’’ti āha. Paṭipannako hi devo vā hotu manusso vā, ‘‘bhikkhū’’ti saṅkhaṃ gacchatiyeva. Yathāha –

Có bốn là những gì? Là câu hỏi tự hỏi tự trả lời. Trong Pháp và Luật này: Trong Giáo Pháp này. Này các tỳ khưu đây là từ để gọi những cá nhân tiếp nhận Pháp. Các tỳ khưu: đây là từ để chỉ hạng người thành tựu với lối thực hành. Chư thiên và nhân loại cả những nhóm khác cũng duy trì việc thực hành đưa đến sự thành tựu. Hơn nữa, ngài đã nói là ‘tỳ khưu’ bởi tính chất người cao thượng và bởi chỉ ra bản thể vị tỳ khưu với việc thực hành. Bởi vì trong số các cá nhân tiếp nhận lời dạy của đức Thế Tôn thì tỳ khưu là cao cả, bởi vì như thể vật đựng chứa đựng những lời dạy ở nhiều khía cạnh khác nhau. Vì thế, ngài đã nói rằng ‘tỳ khưu’ bởi tính chất người cao cả. Hơn nữa, khi nắm lấy ‘tỳ khưu’, thì những người còn lại (Chư thiên và nhân loại) cũng được nắm lấy cả thảy, giống như trong việc ngự giá của đức vua, v.v, các quan cận thần còn lại cũng được bao hàm trong từ ‘hoàng gia’. Và người nào thực hành theo lối thực hành này, người ấy đều được gọi là tỳ khưu, vì lý do đó đức Thế Tôn đã nói là ‘tỳ khưu’ cũng chính vì chỉ ra bản thể tỳ khưu với việc thực hành. Thật vậy, người thực hành là Chư thiên hay là nhân loại thì cũng đều được gọi là ‘tỳ khưu’ cả thảy. Như đã được nói đến rằng –

Đến những người dầu đã được trang sức, nếu thường xuyên thực hành pháp, được trầm tĩnh, đã được rèn luyện, chắc chắn, thực hành Phạm hạnh, [vị ấy] đã buông bỏ sự hành hạ đối với tất cả chúng sanh, vị ấy là Bà-la-môn, vị ấy là Sa-môn, vị ấy là Tỳ khưu. (dha. pa. 142);

 

Giải thích về thân

Kāyeti rūpakāye. Rūpakāyo hi idha aṅgapaccaṅgānaṃ kesādīnañca dhammānaṃ samūhaṭṭhena hatthikāyarathakāyādayo viya kāyoti adhippeto. Yathā ca samūhaṭṭhena, evaṃ kucchitānaṃ āyaṭṭhena. Kucchitānañhi paramajegucchānaṃ so āyotipi kāyo. Āyoti uppattideso. Tatrāyaṃ vacanattho, āyanti tatoti āyo. Ke āyanti? Kucchitā kesādayo. Iti kucchitānaṃ āyoti kāyo. Kāyānupassīti kāyamanupassanasīlo, kāyaṃ vā anupassamāno.

Trong thân la trong sắc thân. Thật vậy, sắc thân ở đây muốn đề cập đến ‘thân’ với ý nghĩa sự tập hợp các chi phần lớn nhỏ và các pháp như tóc, v.v, giống như thân voi và thân xe, v.v. Tương tự với ý nghĩa là sự tập hợp (của các chi phần lớn nhỏ), với ý nghĩa là nơi đến của những thứ đáng nhờm gớm cũng như vậy. Bởi vì thân này là nơi đến của những thứ đáng nhờm gớm, là những thứ vô cùng kinh tởm. Chính vì lý do ấy nên gọi là ‘thân’. Nơi đến là nơi sanh ra. Ở đấy, đây là ý nghĩa của lời nói: các thực tính đến từ thân ấy, nguyên nhân ấy thân ấy được gọi là nơi đến. Cái gì đến? Những thứ đáng nhờm gớm có tóc, v.v. Nơi đến bởi vì là chỗ đến của những thứ đáng nhờm gớm là như vậy. Sự quan sát thân: hành giả thường có sự quan sát trên thân hoặc thường có sự quan sát nơi thân.

‘‘Kāye’’ti ca vatvāpi puna ‘‘kāyānupassī’’ti dutiyaṃ kāyaggahaṇaṃ asammissato vavatthānaghanavinibbhogādidassanatthaṃ katanti veditabbaṃ. Tena na kāye vedanānupassī vā, cittadhammānupassī vā, atha kho kāyānupassīyevāti kāyasaṅkhāte vatthusmiṃ kāyānupassanākārasseva dassanena asammissato vavatthānaṃ dassitaṃ hoti. Tathā na kāye aṅgapaccaṅgavimuttaekadhammānupassī, nāpi kesalomādivinimuttaitthipurisānupassī. Yopi cettha kesalomādiko bhūtupādāyasamūhasaṅkhāto kāyo , tatthapi na bhūtupādāyavinimuttaekadhammānupassī, atha kho rathasambhārānupassako viya aṅgapaccaṅgasamūhānupassī, nagarāvayavānupassako viya kesalomādisamūhānupassī, kadalikkhandhapattavaṭṭivinibbhujanako viya rittamuṭṭhiviniveṭhako viya ca bhūtupādāyasamūhānupassīyevāti nānappakārato samūhavaseneva kāyasaṅkhātassa vatthuno dassanena ghanavinibbhogo dassito hoti. Na hettha yathāvuttasamūhavinimutto kāyo vā itthī vā puriso vā añño vā koci dhammo dissati , yathāvuttadhammasamūhamatteyeva pana tathā tathā sattā micchābhinivesaṃ karonti. Tenāhu porāṇā – 

Đức Thế Tôn mặc dù nói rằng ‘trong thân’ những (bậc trí giả) nên biết rằng ngài sử dụng từ  ‘thân’ lần thứ 2 ‘có sự quan sát thân’ thêm lần nữa; nhằm chỉ ra sự xác định và sự chia chẽ một khối, v.v, không để bị lẫn lộn. Vị tỳ khưu không phải quan sát thọ trên thân, mà cũng không phải quan sát tâm trên thân, hay quan sát pháp trên thân. Thật chất thì vị tỳ khưu chỉ có sự quan sát thân trên thân mà thôi, là thuyết giảng sự xác định không để bị lẫn lộn do việc nhìn thấy các biểu hiện có sự quan sát thân ở các đối tượng được coi là thân. Vì vị tỳ khưu không phải quan sát một pháp nào đó vượt ra ngoài các chi phần lớn nhỏ trong thân, và cũng không quan sát là người nữ, hoặc là người nam ngoại trừ tóc, lông, v.v. Và ở đây, thân nào được xem là sự gom họp lại của sắc tứ đạisắc y sinh có tóc, lông, v.v. Không phải quan sát một pháp vượt ra ngoài sắc tứ đạisắc y sinh, mà thực tế quan sát sự gom họp lại các chi phần lớn nhỏ trong chính thân ấy giống như quan sát các bộ phận của xe; quan sát sự tập hợp lại của tóc, lông, v.v, giống như quan sát các phần lớn nhỏ của thành phố; quan sát sự tập hợp lại của sắc tứ đại sắc ý đại sinh giống như bóc tách thân cây chuối từ cây chuối, và giống như mở bàn tay không ra, là thuyết giảng sự chia chẽ một khối bằng sự chỉ ra các đối tượng được coi là thân với chính sự gom họp lại từ nhiều cách thức khác nhau. Sự thật thì thân hoặc người nữ, hay người nam hoặc bất cứ pháp nào khác mà vượt ra khỏi sự gom họp lại như đã nói không xuất hiện trên thân ấy. Nhưng các chúng sanh cố chấp sai lệch như thế này thế kia trong thân vốn dĩ là nơi gom họp lại của các pháp như đã nói. Vì vậy các bậc trưởng thượng đã nói rằng –

‘‘Yaṃ passati na taṃ diṭṭhaṃ, yaṃ diṭṭhaṃ taṃ na passati;

Apassaṃ bajjhate mūḷho, bajjhamāno na muccatī’’ti.

“Cái nào mà (vị ấy) đang thấy, cái đó không phải là cái mà (vị ấy) đã thấy. Cái nào mà (vị ấy) đã thấy; cái đó không phải là cái mà (vị ấy) đang thấy. Khi không thấy (theo đúng thực thế) mới bị mê muội khi bị bao trùm thì không thể giải thoát.’ –

Ghanavinibbhogādidassanatthanti vuttaṃ, ādisaddena cettha ayampi attho veditabbo. Ayañhi etasmiṃ kāye kāyānupassīyeva, na añña dhammānupassīti vuttaṃ hoti. Yathā anudakabhūtāyapi marīciyā udakānupassino honti, na evaṃ aniccadukkhānattaasubhabhūteyeva imasmiṃ kāye niccasukhaattasubhabhāvānupassī, atha kho kāyānupassī aniccadukkhānattaasubhākārasamūhānupassīyevāti vuttaṃ hoti. Atha vā yvāyaṃ parato ‘‘idha, bhikkhave, bhikkhu araññagato vā…pe… so satova assasatī’’tiādinā nayena assāsapassāsādicuṇṇikajātaaṭṭhikapariyosāno kāyo vutto, yo ca ‘‘idhekacco pathavīkāyaṃ aniccato anupassati, āpokāyaṃ tejokāyaṃ vāyokāyaṃ kesakāyaṃ lomakāyaṃ chavikāyaṃ cammakāyaṃ maṃsakāyaṃ rudhirakāyaṃ nhārukāyaṃ aṭṭhikāyaṃ aṭṭhimiñjakāya’’nti (paṭi. ma. 3.35) paṭisambhidāyaṃ kāyo vutto, tassa sabbassa imasmiññeva kāye anupassanato kāye kāyānupassīti evampi attho veditabbo.

Ngài nói lời này để chỉ ra sự chia chẽ một khối, v.v, và ở đây với từ bắt đầu, v.v, trong từ này nên biết ý nghĩa như sau: Bởi vì, vị tỳ khưu này chỉ có sự quan sát thân trên thân, ngài giải thích rằng: không phải quan sát pháp nào khác. Giống như mọi người nhìn thấy nước trong ảo ảnh, thậm chí ở nơi không có nước, tương tự như thế, (vị tỳ khưu) không có sự quan sát trạng thái vô thường, khổ não, vô ngã, bất tịnh trên thân này; rồi cho rằng thân này có trạng thái thường hằng, an lạc, vô ngã, thanh tịnh; khi ấy, quan sát thân ngài giải thích rằng chỉ quan sát sự gom họp lại của các biểu hiện là vô thường, khổ não, vô ngã và bất tịnh. Hoặc hơn nữa, thân này đây đã được nói trước đó có hơi thở vào, hơi thở ra, v.v, có xương cốt trở thành tro bụi là kết cuộc theo cách thức sau: “Ở đây, này các tỳ khưu, vị tỳ khưu đi đến khu rừng, …nt…  Trú niệm, vị ấy thở vào;” Và thân nào đã được Trưởng lão Sārīputtanói đến trong Phân Tích Đạo rằng: ‘Ở đây, một số vị tỳ khưu quan sát thân (được cấu thành bởi nguyên tố) đất, thân (được cấu thành bởi nguyên tố) nước, thân (được cấu thành bởi nguyên tố) lửa, thân (được cấu thành bởi nguyên tố) gió, thân (được cấu thành bởi) tóc, thân (được cấu thành bởi) lông, thân (được cấu thành bởi) da ngoài, thân (được cấu thành bởi) da trong, thân (được cấu thành bởi) thịt, thân (được cấu thành bởi) máu, thân (được cấu thành bởi) gân, thân (được cấu thành bởi) xương, thân (được cấu thành bởi) tủy xương là vô thường.” (paṭi. ma. 3.35); bậc trí nên nên biết ý nghĩa của thân ấy toàn bộ là như vầy rằng: vị tỳ khưu có sự quan sát thân trên thân bằng cách quan sát chín thân này.

Atha vā kāye ahanti vā mamanti vā evaṃ gahetabbassa yassa kassaci ananupassanato tassa tasseva pana kesālomādikassa nānādhammasamūhassa anupassanato kāye kesādidhammasamūhasaṅkhātakāyānupassīti evamattho daṭṭhabbo. Apica ‘‘imasmiṃ kāye aniccato anupassati, no niccato’’tiādinā nayena paṭisambhidāyaṃ āgatanayassa sabbasseva aniccalakkhaṇādino ākārasamūhasaṅkhātassa kāyassānupassanatopi ‘‘kāye kāyānupassī’’ti evampi attho daṭṭhabbo.

Hoặc hơn nữa, nên hiểu ý nghĩa này như vầy rằng: sự quan sát thân được xem là sự gom họp lại của các sắc pháp như tóc, v.v, trên thân, bởi không quan sát thấy bất kỳ một phần nào có thể được xem là ‘ta’ là ‘của ta’ trên thân, nhưng sự quan sát chín thân ấy chỉ thấy là nơi gom họp lại của các pháp khác biệt như tóc, lông v.v. Tuy nhiên, nên hiểu ý nghĩa như vầy rằng: “Có sự quan sát thân trên thân” ngay cả sự quan sát thân được gọi là nơi gom họp lại các biểu hiện có trạng thái vô thường, v.v. toàn bộ có cách thức được đề cập trong Phân Tích Đạo theo thứ tự Pāḷī như sau: ‘Có sự quan sát trên thân này là vô thường, không phải là thường, v.v.

Tathā hi ayaṃ kāye kāyānupassanāpaṭipadaṃ paṭipanno bhikkhu imaṃ kāyaṃ aniccānupassanādīnaṃ sattannaṃ anupassanānaṃ vasena aniccato anupassati, no niccato. Dukkhato anupassati, no sukhato. Anattato anupassati, no attato. Nibbindati, no nandati. Virajjati, no rajjati. Nirodheti, no samudeti. Paṭinissajjati, no ādiyati. So taṃ aniccato anupassanto niccasaññaṃ pajahati, dukkhato anupassanto sukhasaññaṃ pajahati, anattato anupassanto attasaññaṃ pajahati, nibbindanto nandiṃ pajahati, virajjanto rāgaṃ pajahati, nirodhento samudayaṃ pajahati, paṭinissajjanto ādānaṃ pajahatīti veditabbo.

Thật vậy, vị tỳ khưu thực hành bằng sự thực hành về sự quan sát thân trên thân này quan sát thân này do tác động của bảy sự quan sát như sự quan sát về vô thường, v.v. quan sát là vô thường, không phải là thường còn; quan sát là khổ não, không phải là an lạc; quan sát là vô ngã, không phải là ngã; nhàm chán, không vui thích; lìa tham ái, không tham ái; làm cho diệt tận, không làm cho sanh khởi; từ bỏ, không nắm giữ. Trong khi quan sát là vô thường, (vị ấy) dứt bỏ sự nghĩ tưởng về thường; trong khi quan sát là khổ não, (vị ấy) dứt bỏ sự nghĩ tưởng về lạc; trong khi quan sát là vô ngã, (vị ấy) dứt bỏ sự nghĩ tưởng về ngã; trong khi nhàm chán, (vị ấy) dứt bỏ sự vui thích; trong khi lìa tham ái, (vị ấy) dứt bỏ tham ái; trong khi làm cho diệt tận, (vị ấy) dứt bỏ nguồn sanh khởi; trong khi từ bỏ, (vị ấy) dứt bỏ sự nắm giữ. Nên biết lời giải thích như đã trình bày.

Viharatīti iriyati. Ātāpīti tīsu bhavesu kilese ātāpetīti ātāpo, vīriyassetaṃ nāmaṃ. Ātāpo assa atthīti ātāpī. Sampajānoti sampajaññasaṅkhātena ñāṇena samannāgato. Satimāti kāyapariggāhikāya satiyā samannāgato. Ayaṃ pana yasmā satiyā ārammaṇaṃ pariggahetvā paññāya anupassati, na hi sativirahitassa anupassanā nāma atthi. Tenevāha ‘‘satiñca khvāhaṃ, bhikkhave, sabbatthikaṃ vadāmī’’ti (saṃ. ni. 5.234). Tasmā ettha ‘‘kāye kāyānupassī viharatī’’ti ettāvatā kāyānupassanāsatipaṭṭhānakammaṭṭhānaṃ vuttaṃ hoti. Atha vā yasmā anātāpino antosaṅkhepo antarāyakaro hoti, asampajāno upāyapariggahe anupāyaparivajjane ca sammuyhati, muṭṭhassati upāyāpariccāge anupāyāpariggahe ca asamattho hoti, tenassa taṃ kammaṭṭhānaṃ na sampajjati, tasmā yesaṃ dhammānaṃ ānubhāvena taṃ sampajjati. Tesaṃ dassanatthaṃ ‘‘ātāpī sampajāno satimāti idaṃ vutta’’nti veditabbaṃ.

Sống: sinh hoạt. Có nhiệt tâm có ý nghĩa rằng thực tính nào thiêu đốt các phiền não trong 3 cõi thì thức tính ấy gọi là nhiệt tâm, đây là tên gọi của sự tinh tấn. Sự nhiệt tâm của vị ấy tồn tại thì (vị ấy) gọi là có nhiệt tâm. Có sự nhận biết rõ: vị có sự hội đủ với trí được xem là có sự nhận biết rõ. Có niệm: gắn liền với niệm để kiểm soát thân. Hơn nữa, vị tỳ khưu này xác định đối tượng bằng niệm, có sự quan sát bằng tuệ, bởi vì thông thường tuệ quan sát của người xa lìa niệm là không có. Chính vì thế đức Thế Tôn đã nói rằng: ‘Này các tỳ khưu, ta nói rằng niệm quả là có nhiều lợi ích về mọi mặt.” (saṃ. ni. 5.234); Cho nên, ở đây mới nói rằng ‘an trú có sự quan sát thân trên thân’, chỉ bấy nhiêu đó đức Thế Tôn đã thuyết về sự thiết lập niệm về quan sát thân. Hoặc hơn nữa, sự chán nản ở nội tâm gây nguy hại đến người không có sự nhiệt tâm, người không có sự nhận biết rõ (sẽ) quên lãng việc xác định các đường lối và trong việc loại bỏ những thứ không phải đường lối; người có niệm bị quên lãng là không có khả năng trong việc xác định các đường lối và trong việc từ bỏ những thứ không phải đường lối; Với nguyên nhân đó, nghiệp xứ ấy của vị ấy không thành tựu. Vì thế, nghiệp xứ ấy thành tựu nhờ năng lực của các Pháp nào, để thuyết giảng các Pháp ấy nên biết rằng đức Thế Tôn điều này; “có nhiệt tâm, có sự nhận thức rõ, có niệm”.

Iti kāyānupassanāsatipaṭṭhānaṃ sampayogaṅgañcassa dassetvā idāni pahānaṅgaṃ dassetuṃ vineyya loke abhijjhādomanassanti vuttaṃ. Tattha vineyyāti tadaṅgavinayena vā vikkhambhanavinayena vā vinayitvā. Loketi tasmiṃyeva kāye. Kāyo hi idha lujjanapalujjanaṭṭhena lokoti adhippeto. Yasmā panassa na kāyamatteyeva abhijjhādomanassaṃ pahīyati, vedanādīsupi pahīyatiyeva, tasmā ‘‘pañcapi upādānakkhandhā loko’’ti vibhaṅge (vibha. 362) vuttaṃ. Lokasaṅkhātattā vā tesaṃ dhammānaṃ atthuddhāranayenetaṃ vuttaṃ. Yaṃ panāha ‘‘tattha katamo loko? Sveva kāyo loko’’ti. Ayamevettha attho, tasmiṃ loke abhijjhādomanassaṃ vineyyāti evaṃ sambandho daṭṭhabbo. Yasmā panettha abhijjhāgahaṇena kāmacchando , domanassaggahaṇena byāpādo saṅgahaṃ gacchati, tasmā nīvaraṇapariyāpannabalavadhammadvayadassanena nīvaraṇappahānaṃ vuttaṃ hotīti veditabbaṃ.

Sau khi thuyết giảng sự thiết lập niệm về quan sát thân và các yếu tố phối hợp là như thế, bây giờ để thuyết giảng yếu tố của sự dứt bỏ mới thuyết rằng ‘sau khi đã loại trừ tham đắm và ưu phiền ở thế gian’. Trong số những từ ấy, sau khi đã loại trừ: sau khi đã loại trừ với việc loại trừ do thay thế hoặc với việc loại trừ do chế ngự. Ở thế gian: trong chính thân này. Bởi vì, thân trong trường hợp này có ý đề cập đến thế gian với ý nghĩa bị tan rã và bị phân hủy. Như vậy, tham đắm và ưu phiền không chỉ được các hành giả dứt bỏ ở đối tượng trên thân, mà ngay cả thọ v.v, cũng được dứt bỏ. Vì thế, ngài đã nói trong Bộ Phân Tích rằng: ‘sự chấp thủ trong năm uẩn gọi là thế gian’. Hoặc, lời này được nói theo cách thức giảng giải ý nghĩa vì các Pháp ấy được xem là thế gian. Còn lời nào ngài nói rằng – ‘Thế gian là như thế nào? Thế gian cũng hính là thân”. Ở đây, điều này chính là ý nghĩa. Nên biết rằng sự liên hệ ý nghĩa như vầy rằng ‘sau khi đã loại trừ tham đắm và ưu phiền ở thế gian ấy.’ Hơn nữa,  ở đây ước muốn trong các dục được kết hợp với từ tham đắm, sân độc được kết hợp với ưu phiền, do đó nên biết rằng: việc dứt bỏ các pháp ngăn che với việc thuyết giảng Pháp đôi có sức mạnh hệ thuộc pháp ngăn che.

Visesena cettha abhijjhāvinayena kāyasampattimūlakassa anurodhassa, domanassavinayena pana kāyavipattimūlakassa virodhassa, abhijjhāvinayena ca kāye abhiratiyā, domanassavinayena kāyabhāvanāya anabhiratiyā, abhijjhāvinayena kāye abhūtānaṃ subhasukhabhāvādīnaṃ pakkhepassa, domanassavinayena ca kāye bhūtānaṃ asubhāsukhabhāvādīnaṃ apanayanassa ca pahānaṃ vuttaṃ. Tena yogāvacarassa yogānubhāvo yogasamatthatā ca dīpitā hoti. Yogānubhāvo hi esa, yadidaṃ anurodhavirodhavippamutto aratiratisaho abhūtapakkhepabhūtāpanayanavirahito ca hoti. Anurodhavirodhavippamutto cesa aratiratisaho abhūtaṃ apakkhipanto bhūtañca anapanento yogasamattho hotīti.

Và đặc biệt, trong bài kinh này nói đến việc dứt bỏ sự thỏa thích có sự hoàn hảo của thân là gốc rễ bằng sự loại trừ tham đắm, còn (việc dứt bỏ) sự bất mãn có sự hoàn hảo của thân là gốc rễ bằng sự loại trừ ưu phiền, và (việc dứt bỏ) sự vui thích ở thân bằng sự loại trừ tham đắm, (việc dứt bỏ) sự không vui thích trong việc tu tập quan sát thân bằng sự loại trừ ưu phiền, (việc dứt bỏ) của người đặt tính chất thanh tịnh và an lạc, v.v. không thật trong thân bằng sự loại trừ tham đắm, (việc dứt bỏ) việc đem ra khỏi tính chất bất tịnh và không an lạc, v.v, có thật trong thân bằng sự loại trừ ưu phiền. Với lời dạy ấy ngài đã nêu rõ sức mạnh của sự nỗ lực và bản thể có khả năng trong việc thực hành sự nỗ lực của hành giả. Thật vậy, sự mạnh của sự nỗ lực ấy, tức là làm cho thoát khỏi sự thỏa thích và sự bất mãn, là người đã chế ngự được sự ưa thích và không ưa thích, chế ngự sự thích thú và sự không thích thú, và loại bỏ đặt những thứ không thật vào và đưa những thứ có thật ra. Cũng hành giả ấy là vị đã được thoát khỏi sự thỏa thích và sự bất mãn, là vị đã chế ngự sự thích thú và sự không thích thú, không đặt những thứ không thật vào và cũng không đem những thứ có thật ra, (vị ấy) được gọi là vị có khả năng trong việc thực hành sự nỗ lực.

Aparo nayo ‘‘kāye kāyānupassī’’ti ettha anupassanāya kammaṭṭhānaṃ vuttaṃ. ‘‘Viharatī’’ti ettha vuttavihārena kammaṭṭhānikassa kāyapariharaṇaṃ. ‘‘Ātāpī’’tiādīsu ātāpena sammappadhānaṃ, satisampajaññena sabbatthikakammaṭṭhānaṃ, kammaṭṭhānapariharaṇūpāyo vā, satiyā vā kāyānupassanāvasena paṭiladdhasamatho, sampajaññena vipassanā, abhijjhādomanassavinayena bhāvanāphalaṃ vuttanti veditabbaṃ.

Còn điều khác nữa, ở đây thuyết đến nghiệp xứ với sự quan sát như sau ‘có sự quan sát thân trên thân’ này. Sự chăm sóc bản thân của hành giả thực hành nghiệp xứ với sự an trú pháp đã được nói ở đây rằng ‘an trú.’ Hơn nữa, có nhiệt tâm, v.v. nên biết rằng thuyết về chánh tinh tấn với sự nhiệt tâm, thuyết về nghiệp xứ mang lại lợi ích về mọi mặt hoặc sự chăm nom nghiệp xứ bằng niệm và sự nhận biết rõ; hoặc thuyết về Chỉ tịnh đã đạt được do mãnh lực quan sát thân bằng niệm; thuyết về Minh sát bằng sự nhận biết rõ; thuyết về sức mạnh của sự tu tập bằng việc loại bỏ tham lam và phiền muộn.

Vibhaṅge pana ‘‘anupassī’’ti tattha katamā anupassanā? Yā paññā pajānanā…pe… sammādiṭṭhi. Ayaṃ vuccati anupassanā. Imāya anupassanāya upeto hoti samupeto upāgato samupāgato upapanno sampanno samannāgato. Tena vuccati anupassīti.

Con trong Bộ Phân Tích, ‘có sự quan sát’ ở đây “việc quan sát là như thế nào?” Tuệ là sự nhận biết, kiến thức, …nt… chánh kiến. Điều này gọi là việc quan sát. Vị đã tiến đến, đã tiến gần, đã tiến vào, đã tiến sát, đã đạt đến, đã đầy đủ, đã thành tựu bằng sự quan sát này, với lý do đó vị ấy gọi là có sự quan sát.

Viharatīti iriyati vattati pāleti yapeti yāpeti carati viharati. Tena vuccati viharatīti.

An trú: sinh hoạt, vận hành, bảo hộ, hộ trì, bảo dưỡng, thực hành, trú ngụ, với lý do ấy gọi là an trú.

Ātāpīti tattha katamo ātāpo? Yo cetasiko vīriyārambho…pe… sammāvāyāmo. Ayaṃ vuccati ātāpo. Iminā ātāpena upeto hoti…pe… samannāgato. Tena vuccati ātāpīti.

Ở đây, có nhiệt tâm, thế nào là có nhiệt tâm? Là pháp thuộc về tâm, là sự ra sức tinh tấn, …nt… chánh tinh tấn, đây gọi là có sự nhiệt tâm. Người đã tiến đến, …nt… đã thành tựu sự nhiệt tâm này, với lý do đó người ấy gọi là có sự nhiệt tâm.

Sampajānoti tattha katamaṃ sampajaññaṃ? Yā paññā pajānanā…pe… sammādiṭṭhi. Idaṃ vuccati sampajaññaṃ. Iminā sampajaññena upeto hoti…pe… samannāgato. Tena vuccati sampajānoti.

 Ở đây, có sự nhận biết rõ, thế nào là có sự nhận biết rõ? Tuệ là sự nhận biết, …nt… chánh kiến. Đây gọi là có sự nhận biết rõ. Người đã tiến đến, …nt… đã thành tựu với sự nhận biết rõ này, với lý do đó người ấy gọi là có sự nhận biết rõ.

Satimāti tattha katamā sati? Yā sati anussati…pe… sammāsati. Ayaṃ vuccati sati. Imāya satiyā upeto hoti…pe… samannāgato. Tena vuccati satimāti.

Ở đây, có niệm, thế nào là niệm? Niệm là sự tùy niệm, …nt… chánh niệm; điều này được gọi là niệm. Người đã tiến đến, …nt… đã thành tựu niệm này, với lý do đó người ấy gọi là có niệm.

Vineyya loke abhijjhādomanassanti tattha katamo loko? Sveva kāyo loko, pañcapi upādānakkhandhā loko. Ayaṃ vuccati loko. Tattha katamā abhijjhā? Yo rāgo sārāgo anunayo anurodho nandī nandīrāgo cittassa sārāgo, ayaṃ vuccati abhijjhā. Tattha katamaṃ domanassaṃ? Yaṃ cetasikaṃ asātaṃ, cetasikaṃ dukkhaṃ, cetosamphassajaṃ asātaṃ…pe… dukkhā vedanā. Idaṃ vuccati domanassaṃ. Iti ayañca abhijjhā idañca domanassaṃ imamhi loke vinītā honti paṭivinītā santā vūpasantā samitā vūpasamitā atthaṅgatā abbhatthaṅgatā appitā byappitā sositā visositā byantīkatā, tena vuccati vineyya loke abhijjhādomanassanti (vibha. 356); evametesaṃ padānamattho vutto. Tena saha ayaṃ aṭṭhakathānayo yathā saṃsandati, evaṃ veditabbo. Ayaṃ tāva kāyānupassanāsatipaṭṭhānuddesassa atthavaṇṇanā.

Đã loại bỏ tham đắm và ưu phiền ở thế gian: trong câu đó thế gian là như thế nào? chính thân ấy là thế gian, thế gian chính là năm thủ uẩn, đây gọi là thế gian. Ở đây, thế nào là tham đắm? Sự luyến ái, luyến ái mãnh liệt, sự say đắm, sự chiều chuộng, niềm vui, niềm vui và luyến ái, sự luyến ái mãnh liệt của tâm, đây gọi là tham đắm. Ở đây, thế nào là nỗi ưu phiền? là sự không khoan khoái thuộc về tâm, nỗi khổ sở thuộc về tâm, là sự không khoan khoái, khổ sở sanh lên do ý xúc đã được nhận biết, là cảm thọ không khoan khoái, khổ sở sanh lên do ý xúc, đây gọi là nỗi ưu phiền. Như vậy, cái này là tham đắm, và đây là nỗi ưu phiền ở thế gian này đã được các hành giả loại bỏ, đã được tẩy trừ, an tịnh, đã được vắng lặng, đã được lắng dịu, đã đi đến sự dập tắt, đã đi đến sự tiêu tan, đã được khô cạn, đã được khô héo, đã được làm cho chấm dứt. Do đó, được gọi là đã loại bỏ tham đắm và ưu phiền ở thế gian. (vibha. 356); Ý nghĩa của những câu ấy đã được nói như vậy, phương thức được đề cập trong Chú Giải này cũng với Pāḷī trong bộ Phân Tích ấy qua việc so sánh chúng, bậc trí nên hiểu như vậy. Sự giải thích ý nghĩa của phần nhập đề sự thiết lập niệm trên việc quan sát thân chỉ bấy nhiêu.

Vedanāsu… citte… dhammesu dhammānupassī viharati…pe… vineyya loke abhijjhādomanassanti ettha pana vedanānupassīti evamādīsu vedanādīnaṃ puna vacane payojanaṃ kāyānupassanāyaṃ vuttanayeneva veditabbaṃ. Vedanāsu vedanānupassī, citte cittānupassī, dhammesu dhammānupassīti ettha pana vedanāti tisso vedanā, tā ca lokiyā eva. Cittampi lokiyaṃ, tathā dhammā. Tesaṃ vibhāgo niddesavāre pākaṭo bhavissati. Kevalaṃ panidha yathā vedanā anupassitabbā, tathā anupassanto vedanāsu vedanānupassīti veditabbo. Esa nayo cittadhammesupi. Kathañca vedanā anupassitabbāti? Sukhā tāva vedanā dukkhato, dukkhā sallato, adukkhamasukhā aniccato. Yathāha –

Bây giờ, sẽ lý giải câu: ‘(ở đây vị tỳ khưu) sống có sự quan sát thọ ở các thọ – sống có sự quan sát ở tâm ở tâm – sống có sự quan sát pháp ở các pháp …nt… sau khi đã loại trừ tham đắm và ưu phiền ở thế gian’. Hơn nữa, lợi ích về câu nói ở thọ, v.v. được bắt đầu như vầy rằng: “có sự quan sát thọ ở các thọ” nên biết theo cách thức đã được nói trong phần việc quan sát thân (Ở đây vị tỳ khưu) sống có sự quan sát thọ ở các thọ – sống có sự quan sát ở tâm ở tâm – sống có sự quan sát pháp ở các pháp này, lý giải như sau: thọ gồm ba thọ, và ba thọ ấy chỉ là Hiệp Thế. Ngay cả tâm cũng là Hiệp Thế, và các pháp cũng thế. Việc phân tích thọ-tâm-pháp sẽ xuất hiện trong phần giảng giải. Nhưng riêng ở đây, thọ cần được quan sát như thế nào, khi quan sát ba thọ cũng như thế ấy nên biết rằng: “có sự quan sát thọ ở các thọ”. Luôn cả việc quan sát tâm và việc quan sát pháp cũng áp dụng cách thức này. Và thọ cần được quan sát như thế nào? Trước tiên, thọ lạc cần được quan sát là khổ, khổ là mũi tên, không khổ không lạc là vô thường. Như đã nói–

‘‘Yo sukhaṃ dukkhato adda, dukkhamaddakkhi sallato;

Adukkhamasukhaṃ santaṃ, adakkhi naṃ aniccato;

Sa ve sammaddaso bhikkhu, upasanto carissatī’’ti. (saṃ. ni. 4.253);

Vị tỳ khưu nào thấy sự an lạc là sự đau khổ, thấy sự đau khổ là mũi tên; thấy sự phi khổ phi lạc tồn tại, thật sự đã thấy (thọ đó) là vô thường; Vị tỳ khưu đó là người có chánh kiến, sẽ đi đến tịch tịnh. (saṃ. ni. 4.253);

Sabbā eva cetā dukkhātipi anupassitabbā. Vuttañhetaṃ ‘‘yaṃkiñci vedayitaṃ, sabbaṃ taṃ dukkhasminti vadāmī’’ti (saṃ. ni. 4.259). Sukhadukkhatopi ca anupassitabbā. Yathāha ‘‘sukhā vedanā ṭhitisukhā vipariṇāmadukkhā’’ti (ma. ni. 1.464) sabbaṃ vitthāretabbaṃ. Apica aniccādisattānupassanāvasenapi anupassitabbā. Sesaṃ niddesavāreyeva pākaṭaṃ bhavissati. Cittadhammesupi cittaṃ tāva ārammaṇādhipatisahajātabhūmikammavipākakiriyādinānattabhedānaṃ aniccādisattānupassanānaṃ niddesavāre āgatasarāgādibhedānañca vasena anupassitabbaṃ. Dhammā salakkhaṇasāmaññalakkhaṇānaṃ suññatadhammassa aniccādisattānupassanānaṃ niddesavāre āgatasantāsantādibhedānañca vasena anupassitabbā. Sesaṃ vuttanayameva. Kāmañcettha yassa kāyasaṅkhāte loke abhijjhādomanassaṃ pahīnaṃ, tassa vedanādilokesupi taṃ pahīnameva. Nānāpuggalavasena pana nānācittakkhaṇikasatipaṭṭhānabhāvanāvasena ca sabbattha vuttaṃ. Yato vā ekattha pahīnaṃ sesesupi pahīnaṃ hoti. Tenevassa tattha pahānadassanatthampi evaṃ vuttanti veditabbanti.

Tất cả thọ này cần được quan sát là khổ. Bởi vì điều này đã được đức Thế Tôn nói rằng: ‘Bất cứ điều gì đã được cảm thọ, ta nói rằng toàn bộ điều đó đều là khổ’. (saṃ. ni. 4.259); Và cần được quan sát thọ là thọ lạc, là thọ khổ. Như (tỳ khưu Dhammadinna) đã nói: ‘Hiền giả Visakhā, đối với lạc thọ, cái gì trú là lạc, cái gì biến hoại là khổ’. (ma. ni. 1.464); Nên được giải thích chi tiết toàn bộ. Tuy nhiên, cần được quan sát do nhờ năng lực của bảy sự quan sát có sự quan sát về vô thường, v.v.Điều còn lại sẽ xuất hiện trong phần giảng giải. Trước hết, trong số tâm và pháp, thì tâm cần được quan sát do nhờ mãnh lực của các loại tâm khác nhau có đối tượng, chủ đạo, đồng sanh, cõi, nghiệp, quả, và duy tác, v.v, và do nhờ mãnh lực của các loại tâm có tâm hữu ái, v.v, đều được trình bày trong phần giảng giải của sự quan sát có sự quan sát về vô thường, v.v. Các pháp cần được quan sát do nhờ năng lực của trạng thái riêng và trạng thái chung, của giáo lý không tánh, và do nhờ năng lực của các thể loại Pháp chẳng hạn như Pháp có sự an tịnh đã đến trong phần giảng giải của bảy sự quan sát có sự quan sát về vô thường, v.v. Các từ còn lại có cách thức như đã trình bày. Vị nào đã dứt bỏ tham đắm và ưu phiền ở thế gian được xem là thân trong sự thiết lập niệm ở việc quan sát thân này, thì vì ấy cũng đã dứt bỏ tham đắm và ưu phiền ở thế gian là thọ, v.v, đó. Tuy nhiên, đức Thế Tôn vẫn thuyết sự dứt bỏ tham ái và ưu phiền trong tất cả sự thiết lập niệm về phương diện khác biệt của các cá nhân và về năng lực tu tập sự thiết lập niệm vận hành trong sự khác biệt của mỗi sát-na tâm. Hoặc, bởi vì tham đắm và ưu phiền đã được dứt bỏ trong sự thiết lập niệm thứ nhất thì cũng đã được dứt bỏ trong cả ba sự thiết lập niệm còn lại. Do đó, nên biết rằng sự dứt bỏ tham đắm và ưu phiền này được thuyết giảng như vậy nhằm mục đích chỉ ra sự dứt bỏ trong các sự thiết lập niệm của vị tỳ khưu ấy.

Giải thích về phần nhập đề được kết thúc

 

Giảng giải việc quan sát thân – phần hơi thở vào và hơi thả ra

  1. Idāni seyyathāpi nāma cheko vilīvakārako thūlakilañjasaṇhakilañjacaṅkoṭakapeḷāpuṭādīni upakaraṇāni kattukāmo ekaṃ mahāveṇuṃ labhitvā catudhā bhinditvā tato ekekaṃ veṇukhaṇḍaṃ gahetvā phāletvā taṃ taṃ upakaraṇaṃ kareyya, evameva bhagavā satipaṭṭhānadesanāya sattānaṃ anekappakāraṃ visesādhigamaṃ kattukāmo ekameva sammāsatiṃ ‘‘cattāro satipaṭṭhānā. Katame cattāro? Idha, bhikkhave, bhikkhu kāye kāyānupassī viharatī’’tiādinā nayena ārammaṇavasena catudhā bhinditvā tato ekekaṃ satipaṭṭhānaṃ gahetvā vibhajanto ‘‘kathañca bhikkhave’’tiādinā nayena niddesavāraṃ vattumāraddho.
  2. Người thợ đan lát khéo léo, mong muốn làm ra những đồ dùng như chiếu tre sợi thô, chiếu tre sợi mịn, hộp tráp nhỏ, rương và sọt, v.v, sau khi có được một cây tre lớn đã chẻ ra thành làm 4 thanh, lấy mỗi thanh ra vót (tạo thành lát) và (đem lát đó ra) đan thành những đồ dùng cần thiết như thế nào; Đức Thế Tôn cũng tương tự y như vậy, lúc bấy giờ, đức Thế Tôn có ý định làm cho tất cả chúng sanh chứng ngộ sự chứng đắc đặc biệt thông qua việc thuyết giảng sự thiết lập niệm, phân tích một chánh niệm thành bốn phần do tác động về đối tượng theo cách thức sau: “Bốn sự thiết lập niệm, bốn (sự thiết lập niệm) là những gì? Ở đây, này các tỳ khưu, vị tỳ khưu sống có sự quan sát thân trên thân,’ sau khi nắm lấy mỗi một sự thiết lập niệm từ 4 sự thiết lập niệm như vậy, khi phân tích về thân mới bắt đầu giảng giải theo cách thức sau: “Và này các tỳ khưu, vị tỳ khưu…là thế nào?”

Tattha kathañcātiādi vitthāretukamyatā pucchā. Ayaṃ panettha saṅkhepattho – bhikkhave, kena ca pakārena bhikkhu kāye kāyānupassī viharatīti? Esa nayo sabbapucchāvāresu. Idha, bhikkhave, bhikkhūti, bhikkhave, imasmiṃ sāsane bhikkhu. Ayañhettha idha-saddo sabbappakārakāyānupassanānibbattakassa puggalassa sannissayabhūtasāsanaparidīpano aññasāsanassa tathābhāvapaṭisedhano ca. Vuttañhetaṃ ‘‘idheva, bhikkhave, samaṇo…pe… suññā parappavādā samaṇebhi aññehī’’ti (ma. ni. 1.139). Tena vuttaṃ ‘‘imasmiṃ sāsane bhikkhū’’ti.

Ở đây, ‘và như thế nào’ v.v. là câu hỏi nhằm mục đích giải thích chi tiết. Vậy thì ở đây ý nghĩa vắn tắt này như sau: “Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu sống có sự quan sát thân trên thân bằng phương pháp thế nào?” Trong tất cả các câu hỏi đều áp dụng cách thức này. Ở đây, này các tỳ khưu, vị tỳ khưu: này các tỳ khưu, vị tỳ khưu trong Giáo Pháp này. Tư ‘ở đây’ trong lời này là phương tiện để biểu thị Giáo Pháp, vốn là nơi nương nhờ tốt đẹp của những hạng người thực hành sự thiết lập niệm trên việc quan sát thân ở mọi phương diện được sanh khởi, và đồng thời cũng là phương tiện để phủ nhận bản thể không thật của những Giáo phái khác. Bởi vì việc này đã được đức Thế Tôn nói rằng: ‘Này các tỳ khưu chỉ trong giáo pháp này có Sa-môn thứ nhất…nt…. các Giáo phái khác trống rỗng, không có Sa-môn.’ (ma. ni. 1.139); Do đó, đức Thế Tôn đã nói rằng: ‘Vị tỳ khưu trong Giáo Pháp này’.

‘‘Araññagato vā…pe… suññāgāragato vā’’ti idamassa satipaṭṭhānabhāvanānurūpasenāsanapariggahaparidīpanaṃ. Imassa hi bhikkhuno dīgharattaṃ rūpādīsu ārammaṇesu anuvisaṭaṃ cittaṃ kammaṭṭhānavīthiṃ otarituṃ na icchati, kūṭagoṇayuttaratho viya uppathameva dhāvati, tasmā seyyathāpi nāma gopo kūṭadhenuyā sabbaṃ khīraṃ pivitvā vaḍḍhitaṃ kūṭavacchaṃ dametukāmo dhenuto apanetvā ekamante mahantaṃ thambhaṃ nikhaṇitvā tattha yottena bandheyya. Athassa so vaccho ito cito ca vipphanditvā palāyituṃ asakkonto tameva thambhaṃ upanisīdeyya vā upanipajjeyya vā, evameva imināpi bhikkhunā dīgharattaṃ rūpārammaṇādirasapānavaḍḍhitaṃ duṭṭhacittaṃ dametukāmena rūpādiārammaṇato apanetvā araññaṃ vā rukkhamūlaṃ vā suññāgāraṃ vā pavesetvā tattha satipaṭṭhānārammaṇatthambhe satiyottena bandhitabbaṃ. Evamassa taṃ cittaṃ ito cito ca vipphanditvāpi pubbe āciṇṇārammaṇaṃ alabhamānaṃ satiyottaṃ chinditvā palāyituṃ asakkontaṃ tamevārammaṇaṃ upacārappanāvasena upanisīdati ceva upanipajjati ca. Tenāhu porāṇā –

(Ở đây, này các tỳ khưu,) vị tỳ khưu đi đến khu rừng, hoặc đi đến gốc cây, hoặc đi đến ngôi nhà trống: biểu thị việc xác định trú xứ thích hợp cho việc tu tập sự thiết lập niệm của vị tỳ khưu ấy. Bởi tâm của vị ấy từ lâu đã bị tản mác nơi các đối tượng như sắc, v.v, không mong muốn nhập vào lộ trình nghiệp xứ, luôn có xu hướng đi chệch khỏi con đường đã định, giống như chiếc xe bò được kéo bởi những con bò chưa thuần hóa. Do vậy, giống như người nuôi bò muốn thuần hóa một con bê khó thuần vốn bú sữa từ con bò mẹ không thuần cho đến khi trưởng thành, người ấy cần phải tách nó ra khỏi con bò mẹ, rồi đóng một cây cột lớn, buộc con bê vào cây cột đó bằng một sợi dây thừng. Khi ấy dù con bê có vùng vẫy chạy đi hướng này hay hướng khác, khi không thể thoát được, nó cũng ngồi hoặc nằm yên sát vào chính cây cột ấy; Tương tự y như vậy, vị tỳ khưu tu tập sự thiết lập niệm này với ý định điều phục tâm xấu xa đã được nuôi dưỡng lâu dài bởi sự say đắm trong các đối tượng có sắc, cần tách ra khỏi đối tượng chẳng hạn như đối tượng sắc, v.v, đã đi vào rừng hoặc đi đến gốc cây, hoặc đi đến ngôi nhà trống rồi dùng sợi dây là niệm, buộc vào cây cột là đối tượng của sự thiết lập niệm ấy. Tâm của vị ấy dầu có vùng vẫy mạnh theo hướng này hay hướng kia, nhưng khi không tìm được những đối tượng quen thuộc, tâm sẽ không thể cắt đứt sợi dây là niệm để chạy trốn, cũng sẽ gắn bó chặt chẽ trên chính đối tượng ấy nhờ vào năng lực của cận hành định (upacāra-samādhi) và an chỉ định (appanā-samādhi). Do đó, các bậc trưởng thượng đã nói rằng:

‘‘Yathā thambhe nibandheyya, vacchaṃ damaṃ naro idha;

Bandheyyevaṃ sakaṃ cittaṃ, satiyārammaṇe daḷha’’nti.

Evamassa taṃ senāsanaṃ bhāvanānurūpaṃ hoti. Tena vuttaṃ ‘‘idamassa satipaṭṭhānabhāvanānurūpasenāsanapariggahaparidīpana’’nti.

“Cũng như người nuôi bò muốn thuần hóa con bê cần phải cột nó vào cột trụ, ở đây cũng tương tự như vậy; một người cần phải buộc chặt tâm của mình vào đối tượng bằng niệm. Vin.A. ii 12; D.A. ii 353; M.A. i 252;

Trú xứ đó là trú xứ thích hợp cho việc tu tập sự thiết lập niệm của vị tỳ khưu như thế. Vì vậy tôi mới nói rằng: “Lời này là phương tiện để biểu thị sự xác định trú xứ phù hợp đối với việc tu tập sự thiết lập niệm của vị tỳ khưu.

Apica yasmā idaṃ kāyānupassanāya muddhabhūtaṃ sabbabuddhapaccekabuddhasāvakānaṃ visesādhigamadiṭṭhadhammasukhavihārapadaṭṭhānaṃ ānāpānassatikammaṭṭhānaṃ itthipurisahatthiassādisaddasamākulaṃ gāmantaṃ apariccajitvā na sukaraṃ sampādetuṃ, saddakaṇḍakattā jhānassa. Agāmake pana araññe sukaraṃ yogāvacarena idaṃ kammaṭṭhānaṃ pariggahetvā ānāpānacatutthajjhānaṃ nibbattetvā tadeva jhānaṃ pādakaṃ katvā saṅkhāre sammasitvā aggaphalaṃ arahattaṃ pāpuṇituṃ, tasmāssa anurūpasenāsanaṃ dassento bhagavā, ‘‘araññagato vā’’tiādimāha.

Hơn nữa, bởi vì đề mục niệm hơi thở vốn dĩ là đỉnh cao trong việc quan sát thân, là nền tảng đưa đến việc chứng đắc cao quý và là sự sống an lạc ở hiện tại của chư Phật, chư Phật Độc Giác, chư Thinh Văn, điều này không dễ dàng thành tựu nếu không rời bỏ các thôn làng đầy tiếng ồn từ người nữ, người nam, voi, ngựa, v.v.,  bởi vì âm thanh là cái gai gây cản trở cho thiền. Nhưng hành giả sau khi xác định đề mục thiền định này, làm cho bậc thiền thứ tư có niệm hơi thở làm đối tượng khởi lên, làm cho chính bậc thiền đó trở thành nền tảng, quan sát các hành và đã đạt đến quả vị A-ra-hán, là quả vị tối thắng. Điều này sẽ thực hiện dễ dàng, nhưng chỉ trong rừng, nơi không có thôn làng. Do đó, đức Thế Tôn trong khi giảng giảng về trú xứ thích hợp đối với hành giả mới nói rằng: “Đi đến khu rừng hoặc, v.v.”

Vatthuvijjācariyo viya hi bhagavā. So yathā vatthuvijjācariyo nagarabhūmiṃ passitvā suṭṭhu upaparikkhitvā ‘‘ettha nagaraṃ māpethā’’ti upadisati, sotthinā ca nagare niṭṭhite rājakulato mahāsakkāraṃ labhati, evameva yogāvacarassa anurūpasenāsanaṃ upaparikkhitvā ‘‘ettha kammaṭṭhānamanuyuñjitabba’’nti upadisati, tato tattha kammaṭṭhānamanuyuñjantena yoginā anukkamena arahatte patte ‘‘sammāsambuddho vata so bhagavā’’ti mahantaṃ sakkāraṃ labhati.

Vì đức Thế Tôn được ví như một bậc thầy thông thạo về địa thế. Vị thầy thông thạo về địa thế sau khi nhìn thấy vùng đất thích hợp để xây dựng thành phố, đã cân nhắc kỹ lưỡng rồi đưa ra chỉ thị rằng: ‘các người hãy xây dựng thành phố ở đây’, và khi thành phố được xây xong một cách tốt đẹp (vị ấy) nhận được vinh dự lớn lao từ dòng dõi hoàng tộc; Cũng tương tự như thế ấy, đức Phật sau khi quan sát kỹ lưỡng trú xứ thích hợp cho hành giả, rồi chỉ dẫn rằng: “Trú xứ này hành giả nên thường xuyên thực hành đề mục thiền định.” Khi hành giả với sự gắn bó thường xuyên thực hành đề mục thiền định ở trú xứ ấy đã đạt đến quả vị A-ra-hán theo tuần tự, và ngài nhận được sự tôn kính trọng thể: ‘Đức Thế Tôn quả thật là bậc Chánh đẳng Chánh Giác’.

Ayaṃ pana bhikkhu dīpisadisoti vuccati. Yathā hi mahādīpirājā araññe tiṇagahanaṃ vā vanagahanaṃ vā pabbatagahanaṃ vā nissāya nilīyitvā vanamahiṃsagokaṇṇasūkarādayo mige gaṇhāti, evameva ayaṃ araññādīsu kammaṭṭhānaṃ anuyuñjanto bhikkhu yathākkamena cattāro magge ceva cattāri ariyaphalāni ca gaṇhāti. Tenāhu porāṇā –

Lại nữa, vị tỳ khưu này được ví như con báo. Cũng giống như vua báo to lớn sống ẩn núp sau những bụi cây rậm, hay sau những dãy ngọn núi trong rừng chờ bắt những con thú rừng như trâu rừng, bò rừng, lợn rừng, v.v., để ăn thịt; tương tự như thế ấy, vị tỳ khưu với sự gắn bó mật thiết tu tập nghiệp xứ ở trong rừng v.v, lần lượt nắm lấy bốn Thánh Đạo và bốn Thánh Quả. Đó là lý do tại sao bậc trưởng thượng nói rằng:

‘‘Yathāpi dīpiko nāma, nilīyitvā gaṇhatī mige;

Tathevāyaṃ buddhaputto, yuttayogo vipassako;

Araññaṃ pavisitvāna, gaṇhāti phalamuttama’’nti.

“Cũng giống như con báo sống ẩn núp chờ bắt những con thú rừng. Cũng tương tự như thế ấy con trai của đức Phật, vị có sự gắn bó mật thiết, vị thực hành Minh sát; đã đi vào khu rừng, rồi nắm lấy quả vị tối thượng;

Tenassa parakkamajavayoggabhūmiṃ araññasenāsanaṃ dassento bhagavā ‘‘araññagato vā’’tiādimāha. Ito paraṃ imasmiṃ tāva ānāpānapabbe yaṃ vattabbaṃ siyā, taṃ visuddhimagge vuttameva.

Do đó, đức Thế Tôn khi thuyết giảng về trú xứ ở rừng là nơi thích hợp để thúc đẩy sự nhiệt tâm của hành giả ấy nên ngài mới nói rằng: ‘Đi đến khu rừng…’ Kể từ đây, trước hết trong phần niệm hơi thở này, những điều gì cần nói, những điều đó đã được nói trong tác phẩm Thanh Tịnh Đạo.

Tassa pana imesaṃ ‘‘dīghaṃ vā assasanto dīghaṃ assasāmīti pajānāti…pe… passambhayaṃ kāyasaṅkhāraṃ passasissāmīti sikkhatī’’ti evaṃ vuttānaṃ assāsapassāsānaṃ vasena sikkhato assāsapassāsanimitte cattāri jhānāni uppajjanti. So jhānā vuṭṭhahitvā assāsapassāse vā pariggaṇhāti jhānaṅgāni vā. Tattha assāsapassāsakammiko ‘‘ime assāsapassāsā kiṃ nissitā, vatthuṃ nissitā, vatthu nāma karajakāyo, karajakāyo nāma cattāri mahābhūtāni upādārūpañcā’’ti evaṃ rūpaṃ pariggaṇhāti, tato tadārammaṇe phassapañcamake nāmanti evaṃ nāmarūpaṃ pariggahetvā tassa paccayaṃ pariyesanto avijjādipaṭiccasamuppādaṃ disvā ‘‘paccayapaccayuppannadhammamattamevetaṃ, añño satto vā puggalo vā natthī’’ti vitiṇṇakaṅkho sappaccayanāmarūpe tilakkhaṇaṃ āropetvā vipassanaṃ vaḍḍhento anukkamena arahattaṃ pāpuṇāti. Idaṃ ekassa bhikkhuno yāva arahattā niyyānamukhaṃ.

Hành giả ấy học tập với sức mạnh của hởi thờ vào và hơi thở ra mà Thế Tôn đã thuyết giảng như sau: ‘Trong khi thở vào dài, vị ấy biết rõ: ‘Tôi thở vào dài,’ …nt… ‘Làm cho an tịnh sự tạo tác của thân, tôi sẽ thở ra’ vị ấy thực tập.’ bốn tầng thiền khởi lên do ấn tướng của hơi thở vào và hơi thở ra. Vị ấy sau khi xuất thiền (tiếp tục) tập trung hơi thở vào và hơi thở ra hoặc các chi thiền. Việc tập trung hơi thở vào và hơi thở ra ấy, vị tỳ khưu gắn bó vào đề mục thiền hơi thở vào và hơi thở ra xác định sắc như vầy rằng: “hơi thở vào và hơi thở ra này nương vào đâu (sanh khởi)? ‘Nương vào sắc vật (sanh khởi), sắc thân gọi là sắc vật, 4 sắc đại hiển và 24 sắc y đại sinh gọi là sắc thân’”. Tiếp đó, xác định danh pháp có xúc là yếu tố thứ năm có sắc ấy làm đối tượng. Sau khi xác định về danh sắc như vậy, (vị ấy) tìm kiếm duyên trợ của danh sắc ấy thấy Giáo Lý Duyên Khởi có vô minh, v.v, đã vượt khỏi sự nghi hoặc rằng: “Đây chỉ là duyên trợ và pháp phát sinh tùy thuộc vào các duyên trợ, không có chúng sinh hoặc cá nhân nào khác (từ hơi thở vào và hơi thở ra)’, gán vào 3 đặc tánh trong danh sắc với duyên trợ để thực hành Minh sát (vị ấy) đạt được quả vị A-ra-hán theo tuần tự. Đây là con đường dẫn dắt ra khỏi khổ đau cho đến quả vị A-ra-hán của một vị tỳ khưu.

Jhānakammikopi ‘‘imāni jhānaṅgāni kiṃ nissitāni, vatthuṃ nissitāni. Vatthu nāma karajakāyoti jhānaṅgāni nāmaṃ, karajakāyo rūpa’’nti nāmarūpaṃ vavatthapetvā tassa paccayaṃ pariyesanto avijjādipaccayākāraṃ disvā ‘‘paccayapaccayuppannadhammamattamevetaṃ, añño satto vā puggalo vā natthī’’ti vitiṇṇakaṅkho sappaccayanāmarūpe tilakkhaṇaṃ āropetvā vipassanaṃ vaḍḍhento anukkamena arahattaṃ pāpuṇāti, idaṃ ekassa bhikkhuno yāva arahattā niyyānamukhaṃ.

Vị tỳ khưu hành thiền xác định danh sắc rằng: ‘Những chi thiền này y cứ vào cái gì? ‘Chúng y cứ vào sắc vật. Sắc vật là sắc thân. Các chi thiền là danh pháp. Sắc nghiệp sanh là sắc pháp,’ trong khi tìm kiếm duyên trợ của danh sắc mới thấy Duyên Khởi có vô minh, v.v, (vị ấy) đã vượt khởi sự nghi hoặc rằng: ‘Đây chỉ là duyên trợ và pháp sanh khởi y cứ vào các duyên trợ, không có chúng sinh hay cá nhân nào khác’, gán ba đặc tánh vào danh sắc với duyên trợ để thực hành Minh sát, đạt được quả vị A-ra-hán theo tuần tự. Đây là con đường dẫn dắt ra khỏi khổ đau cho đến quả vị A-ra-hán của một vị tỳ khưu.

Iti ajjhattaṃ vāti evaṃ attano vā assāsapassāsakāye kāyānupassī viharati. Bahiddhā vāti parassa vā assāsapassāsakāye. Ajjhattabahiddhā vāti kālena attano, kālena parassa assāsapassāsakāye. Etenassa paguṇakammaṭṭhānaṃ aṭṭhapetvā aparāparaṃ sañcaraṇakālo kathito. Ekasmiṃ kāle panidaṃ ubhayaṃ na labbhati.

Như thế, … thuộc nội phần: vị ấy sống quan sát thân trên thân là hơi thở vào và hơi thở ra của mình như vậy. Hoặc ngoại phần: Sống quan sát thân trên thân là hơi thở vào và thở ra của người khác. Hoặc cả nội phần và ngoại phần: quan sát thân trên thân là hơi thở vào và hơi thở ra của mình hợp thời, và quan sát thân trên  thân là hơi thở vào và hơi thở ra của người khác hợp thời. Với lời này đức Thế Tôn nói đến thời điểm vị tỳ khưu ấy không dừng đề mục thiền được thực hiện rành rẽ (cho thân là hơi thở vào và hơi thở ra) chuyển động tới lui. Tuy nhiên, cả hai phận sự này không thể đạt được cùng một lúc.

Samudayadhammānupassī vāti yathā nāma kammārabhastañca gaggaranāḷiñca tajjañca vāyāmaṃ paṭicca vāto aparāparaṃ sañcarati, evaṃ bhikkhuno karajakāyañca nāsāpuṭañca cittañca paṭicca assāsapassāsakāyo aparāparaṃ sañcarati. Kāyādayo dhammā samudayadhammā, te passanto ‘‘samudayadhammānupassī vā kāyasmiṃ viharatī’’ti vuccati. Vayadhammānupassī vāti yathā bhastāya apanītāya gaggaranāḷiyā bhinnāya tajje ca vāyāme asati so vāto nappavattati , evameva kāye bhinne nāsāpuṭe viddhaste citte ca niruddhe assāsapassāsakāyo nāma nappavattatīti kāyādinirodhā assāsapassāsanirodhoti evaṃ passanto ‘‘vayadhammānupassī vā kāyasmiṃ viharatī’’ti vuccati. Samudayavayadhammānupassī vāti kālena samudayaṃ, kālena vayaṃ anupassanto. Atthi kāyoti vā panassāti kāyova atthi, na satto, na puggalo, na itthī, na puriso, na attā, na attaniyaṃ, nāhaṃ, na mama, na koci, na kassacīti evamassa sati paccupaṭṭhitā hoti.

Hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi ở thân: Giống như luồng gió dựa vào buồng nung của thợ rèn, ống thổi, và lực đẩy được tạo ra từ ống thổi đó mới dẫn chuyển tới lui; Tương tự như thế, thân là hơi thở vào và hơi thở ra y cứ sắc thân, khoang mũi và tâm của vị tỳ khưu mới chuyển động ra vào được. Các pháp có thân, v.v, mà có bản tánh được sanh lên, trong khi nhìn thấy chúng được gọi là “hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi ở thân.” Hoặc sống có sự quan sát pháp hoại diệt ở thân: Khi ống bễ bị tháo ra, khi ống thổi bị vỡ, khi lực đẩy được tạo ra từ quạt thổi đó không còn thì luồng gió ấy không thể di chuyển; tương tự y như thế, khi thân hoại diệt, khi khoang mũi bị hỏng, khi tâm đã diệt thì cái gọi là thân tức là hơi thở vào và hơi thở ra cũng không hoạt động nữa.  Trong khi nhìn thấy như vầy rằng ‘hơi thở vào và hơi thở ra diệt’ do thân, v.v, diệt (như thế) ngài gọi là: ‘Hoặc sống có sự quan sát pháp hoại diệt ở thân’. Hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi và hoại diệt ở thân: quan sát sự sanh khởi đúng thời, và sự hoại diệt đúng thời. Hoặc hơn nữa, niệm ‘có thân’: Niệm của vị tỳ khưu ấy được thiết lập như vầy rằng: chỉ có thân này, không phải chúng sanh, không phải cá nhân, không phải đàn bà, không phải đàn ông, không phải tự ngã, không phải ngã sở, không phải ta, không phải của ta, không phải ai cả, không phải của ai cả v.v, và cũng không phải của ai đó, như vậy niệm của vị ấy được thiết lập.

Yāvadevāti payojanaparicchedavavatthāpanametaṃ. Idaṃ vuttaṃ hoti – yā sati paccupaṭṭhitā hoti, sā na aññatthāya. Atha kho yāvadeva ñāṇamattāya aparāparaṃ uttaruttari ñāṇapamāṇatthāya ceva satipamāṇatthāya ca, satisampajaññānaṃ vuḍḍhatthāyāti attho. Anissito ca viharatīti taṇhānissayadiṭṭhinissayānaṃ vasena anissito viharati. Na ca kiñci loke upādiyatīti lokasmiṃ kiñci rūpaṃ vā…pe… viññāṇaṃ vā ‘‘ayaṃ me attā vā attaniyaṃ vā’’ti na gaṇhāti. Evampīti upariatthaṃ upādāya sampiṇḍanattho pikāro. Iminā pana padena bhagavā ānāpānapabbadesanaṃ niyyātetvā dasseti.

Chỉ để: Từ này được dùng để xác định giới hạn của lợi ích. Ở đây được nói là – niệm nào được thiết lập, thì (niệm) ấy không nhằm mục đích gì khác. (mà) thực chất, chỉ đơn thuần vì lợi ích của trí, và chỉ vì lợi ích ước lượng của trí ngày càng tăng trưởng hơn và chỉ vì lợi chỉ lợi ích ước lượng của niệm; có nghĩa là nhằm mục đích cho sự tăng trưởng của niệm và sự nhận biết rõ. Vị ấy sống không nương tựa: (vị ấy) an trú hoàn toàn không lệ thuộc do tác động của sự nương tựa vào tham ái và sự nương tựa vào tà kiến. Không chấp thủ vào bất cứ điều gì ở thế gian: (vị ấy) không nắm lấy bất cứ điều gì ở thế gian là sắc ….nt…. hoặc thức (cho rằng) ‘cái này là ngã, hoặc cái này thuộc về bản ngã’. Từ ‘pi’ trong từ ‘evampi’ được sử dụng với ý nghĩa là dựa trên nội dung phía trước để tổng hợp lại. Hơn nữ, với câu này đức Thế Tôn đã ban bài thuyết giảng pháp phần hơi thở vào và hơi thở ra.

Tattha assāsapassāsapariggāhikā sati dukkhasaccaṃ, tassā samuṭṭhāpikā purimataṇhā samudayasaccaṃ, ubhinnaṃ appavatti nirodhasaccaṃ, dukkhaparijānano samudayapajahano nirodhārammaṇo ariyamaggo maggasaccaṃ. Evaṃ catusaccavasena ussakkitvā nibbutiṃ pāpuṇātīti idamekassa assāsapassāsavasena abhiniviṭṭhassa bhikkhuno yāva arahattā niyyānamukhanti.

Trong phần hơi thở vào và hơi thở ra ấy thì niệm ghi nhận hơi thở vào và hơi thở ra làm đối tượng là Khổ Đế. Tham ái quá khứ làm cho Khổ Đế thiết lập là Tập Đế. Sự không vận hành của cả hai (Khổ Đế và Tập Đế) là Diệt Đế. Thánh đạo biết toàn diện Khổ Đế, dứt bỏ Tập Đế và có Diệt Đế làm đối tượng là Đạo Đế. Như vậy, sau khi nỗ lực do nhờ năng lực Tứ Thánh Đế, vị ấy đi đến sự tịch diệt (Niết Bàn). Đây là con đường dẫn dắt ra khỏi khổ đau cho đến quả vị A-ra-hán của một vị tỳ khưu đã an trú nhờ vào tác động của hơi thở vào và hơi thở ra.

Giải thích phần hơi thở vào và hơi thở ra được kết thúc

 

Giải thích phần oai nghi

  1. Evaṃ assāsapassāsavasena kāyānupassanaṃ vibhajitvā idāni iriyāpathavasena vibhajituṃ puna caparantiādimāha. Tattha kāmaṃ soṇasiṅgālādayopi gacchantā ‘‘gacchāmā’’ti jānanti. Na panetaṃ evarūpaṃ jānanaṃ sandhāya vuttaṃ. Evarūpañhi jānanaṃ sattūpaladdhiṃ na pajahati , attasaññaṃ na ugghāṭeti , kammaṭṭhānaṃ vā satipaṭṭhānabhāvanā vā na hoti. Imassa pana bhikkhuno jānanaṃ sattūpaladdhiṃ pajahati, attasaññaṃ ugghāṭeti, kammaṭṭhānañceva satipaṭṭhānabhāvanā ca hoti. Idañhi ‘‘ko gacchati, kassa gamanaṃ, kiṃ kāraṇā gacchatī’’ti evaṃ sampajānanaṃ sandhāya vuttaṃ. Ṭhānādīsupi eseva nayo.
  2. Sau khi phân tích việc quan sát thân do nhờ hơi thở vào và hơi thở ra, bây giờ để phân tích dựa vào các oai nghi ngài mới nói rằng: Còn điều khác nữa. Trong phần oai nghi ấy ngay cả loài chó nhà, và loài cáo, v.v, trong khi đang đi cũng biết rằng ‘bản thân chúng đang đi’, tuy nhiên đức Thế Tôn không đề cập đến sự hiểu biết có hình thức như vậy. Bởi vì, sự hiểu biết có hình thức như vậy không dứt bỏ được quan niệm về chúng sanh, không diệt trừ được sự suy tưởng về ngã, không là đề mục thiền định hoặc sự tu tập sự thiết lập niệm. Còn sự hiểu biết của vị tỳ khưu này dứt bỏ được quan niệm về chúng sanh, diệt trừ được sự suy tưởng về ngã, và là để mục thiền định và cũng là tu tập sự thiết lập niệm. Và lời được nói đề cập đến sự nhận biết rõ như vầy rằng: “Ai đi? Việc đi của ai? Đi vì lý do gì?” Ngay cả những oai nghi khác có oai nghi đứng, v.v., cũng có cách thức tương tự.

Tattha ko gacchatīti na koci satto vā puggalo vā gacchati. Kassa gamananti na kassaci sattassa vā puggalassa vā gamanaṃ. Kiṃ kāraṇā gacchatīti cittakiriyavāyodhātuvipphārena gacchati. Tasmā esa evaṃ pajānāti ‘‘gacchāmī’’ti cittaṃ uppajjati, taṃ vāyaṃ janeti, vāyo viññattiṃ janeti, cittakiriyavāyodhātuvipphārena sakalakāyassa purato abhinīhāro gamananti vuccati. Ṭhānādīsupi eseva nayo.

Tại đấy, ai đi? không phải chúng sanh hay hạng người nào đi cả. Việc đi của ai? không phải việc đi của chúng sanh hay hạng người nào cả. Đi vì lý do gì? Đi nhờ sự chuyển động của phong giới khởi lên từ tâm tố. Do đó, vị tỳ khưu này biết rõ như vầy – tâm sanh khởi ‘tôi đi’, tâm đó làm khởi lên chất gió, chất gió tạo ra sự chuyển động, sự đưa toàn thân tiến về phía trước nhờ sự chuyển động của phong giới khởi lên từ tâm tố, nên gọi là ‘đi’. Luôn cả oai nghi đứng v.v,  cũng áp dụng cách thức ấy.

Tatrāpi hi ‘‘tiṭṭhāmī’’ti cittaṃ uppajjati, taṃ vāyaṃ janeti, vāyo viññattiṃ janeti, cittakiriyavāyodhātuvipphārena sakalakāyassa koṭito paṭṭhāya ussitabhāvo ṭhānanti vuccati. ‘‘Nisīdāmī’’ti cittaṃ uppajjati, taṃ vāyaṃ janeti, vāyo viññattiṃ janeti, cittakiriyavāyodhātuvipphārena heṭṭhimakāyassa samiñjanaṃ uparimakāyassa ussitabhāvo nisajjāti vuccati. ‘‘Sayāmī’’ti cittaṃ uppajjati, taṃ vāyaṃ janeti, vāyo viññattiṃ janeti, cittakiriyavāyodhātuvipphārena sakalasarīrassa tiriyato pasāraṇaṃ sayananti vuccatīti.

Ngay cả oai nghi đứng ấy v.v, tâm sanh khởi ‘tôi đứng’, tâm đó làm khởi lên chất gió, chất gió tạo ra sự chuyển động, sự giữ thăng bằng của toàn bộ cơ thể từ lòng bàn chân cho đến đỉnh đầu, nhờ sự chuyển động của phong giới khởi lên từ tâm tố, điều này được gọi là ‘đứng’. Tâm sanh khởi ‘tôi ngồi’, tâm đó làm khởi lên chất gió, chất gió tạo ra sự chuyển động, sự gập phần dưới của cơ thể và việc giữ thẳng đứng phần trên của cơ thể do sự chuyển động của phong giới khởi lên từ tâm tố được gọi là ‘ngồi’. Tâm sanh khởi ‘tôi nằm, tâm đó làm khởi lên chất gió, chất gió tạo ra sự chuyển động, Việc duỗi toàn bộ cơ thể theo chiều dài nhờ sự chuyển động của phong giới khởi lên từ tâm tố được gọi là ‘nằm’.

Tassa evaṃ pajānato evaṃ hoti ‘‘satto gacchati satto tiṭṭhatī’’ti vuccati. Atthi pana koci satto gacchanto vā ṭhito vā natthi. Yathā pana ‘‘sakaṭaṃ gacchati sakaṭaṃ tiṭṭhatī’’ti vuccati, na ca kiñci sakaṭaṃ nāma gacchantaṃ vā tiṭṭhantaṃ vā atthi. Cattāro pana goṇe yojetvā chekamhi sārathimhi pājente ‘‘sakaṭaṃ gacchati sakaṭaṃ tiṭṭhatī’’ti vohāramattameva hoti, evameva ajānanaṭṭhena sakaṭaṃ viya kāyo. Goṇā viya cittajavātā. Sārathi viya cittaṃ. Gacchāmi tiṭṭhāmīti citte uppanne vāyodhātu viññattiṃ janayamānā uppajjati, cittakiriyavāyodhātuvipphārena gamanādīni pavattanti. Tato ‘‘satto gacchati, satto tiṭṭhati, ahaṃ gacchāmi, ahaṃ tiṭṭhāmī’’ti vohāramattaṃ hotīti. Tenāha –

Khi vị tỳ khưu biết rõ như vậy có ý nghĩ như vầy, được nói rằng “chúng sanh đang đi, chúng sanh đang đứng”. Nhưng về ý nghĩa thì ‘không có chúng sanh nào đang đi mà cũng không có chúng sanh nào đang đứng’. Cũng như nói rằng: “cỗ xe đang đi, cỗ xe đang dừng”, nhưng thật chất thì không có cỗ xe nào đang đi, mà cũng không có cỗ xe nào đang dừng, chỉ khi người đánh xe thiện xảo buộc bốn con bò vào cỗ xe và điều khiển chúng thì “cỗ xe mới đi, cỗ xe mới dừng” những lời nói ấy chỉ là sự quy ước giả định mà thôi; Tương tự như vậy, thân này giống như cỗ xe với ý nghĩa không có sự nhận thức, chất gió được tạo ra từ tâm tựa như con bò, và tâm tợ như người đánh xe. Khi tâm sanh khởi ‘tôi đi, tôi đứng’, phong giới tạo ra sự chuyển động liền sanh lên, các oai nghi co oai nghi đi được vận hành nhờ sự chuyển động của phong giới khởi lên từ tâm tố, từ đó “chúng sinh đi, chúng sinh đứng, tôi đi, tôi đứng,” những lời ấy chỉ là sự quy ước giả định mà thôi. Do đó, các bậc trưởng thượng đã nói rằng–

‘‘Nāvā mālutavegena, jiyāvegena tejanaṃ;

Yathā yāti tathā kāyo, yāti vātāhato ayaṃ.

Yantaṃ suttavaseneva, cittasuttavasenidaṃ;

Payuttaṃ kāyayantampi, yāti ṭhāti nisīdati.

Ko nāma ettha so satto, yo vinā hetupaccaye;

Attano ānubhāvena, tiṭṭhe vā yadi vā vaje’’ti.

Tasmā evaṃ hetupaccayavaseneva pavattāni gamanādīni sallakkhento esa gacchanto vā gacchāmīti pajānāti, ṭhito vā, nisinno vā, sayāno vā sayānomhīti pajānātīti veditabbo.

​​“Giống như con thuyền lướt đi nhờ lực đẩy của gió, mũi tên bay đi nhờ lực của dây; Cũng tương tự y như thế thân này đi được cũng nhờ vào sức gió bên trong.”

“Như sợi dây điều khiển được buộc vào lưng của con rối, cũng thế tâm được gắn kết với cơ thể. Chính tâm điều khiển mà cơ thể chuyển động, đứng lên, hoặc ngồi xuống.

“Trên thế gian này có chúng sanh nào, loại trừ các điều kiện hỗ trợ mà chúng sanh ấy (có thể) đứng hoặc (có thể) đi nhờ vào sức mạnh của chính mình?”

Do đó, nên biết rằng vị tỳ khưu này xác định các oai nghi có oai nghi đi, v.v, chỉ vận hành do nhờ tác động của nhân duyên như vầy, trong khi đi biết rõ “tôi đi”, hoặc trong khi đứng biết rõ “tôi đứng”, hoặc trong khi ngồi biết rõ “tôi ngồi”, hoặc trong khi nằm biết rõ “tôi đang nằm”.

Yathā yathā vā panassa kāyo paṇihito hoti, tathā tathā naṃ pajānātīti sabbasaṅgāhikavacanametaṃ. Idaṃ vuttaṃ hoti – yena yena vā ākārena tassa kāyo ṭhito hoti, tena tena naṃ pajānāti. Gamanākārena ṭhitaṃ gacchatīti pajānāti. Ṭhānanisajjāsayanākārena ṭhitaṃ sayānoti pajānātīti.

Hoặc thân của vị này được vận hành như thế nào thì biết rõ nó như thế ấy: Đấy là lời nói đã bao hàm tất cả oai nghi. Điều này được nói là – hoặc thân của hành giả duy trì với trạng thái nào (vị ấy) biết rõ thân ấy với biểu hiện ấy. Thân duy trì với trạng thái đi biết rõ ‘tôi đi’, thân duy trì với trạng thái đứng, ngồi, hoặc nằm biết rõ ‘tôi đứng’, ‘tôi ngồi’, hoặc ‘tôi nằm v.v.’

Iti ajjhattaṃ vāti evaṃ attano vā catuiriyāpathapariggaṇhanena kāye kāyānupassī viharati. Bahiddhā vāti parassa vā catuiriyāpathapariggaṇhanena. Ajjhattabahiddhā vāti kālena attano, kālena parassa catuiriyāpathapariggaṇhanena kāye kāyānupassī viharati. Samudayadhammānupassī vātiādīsu pana avijjāsamudayā rūpasamudayotiādinā (paṭi. ma. 1.49) nayena pañcahākārehi rūpakkhandhassa samudayo ca vayo ca nīharitabbo. Tañhi sandhāya idha ‘‘samudayadhammānupassī vā’’tiādi vuttaṃ. Atthi kāyoti vā panassātiādi vuttasadisameva.

Như vậy … thuộc nội phần: vị ấy sống có sự quan sát thân trên thân với sự xác định bốn oai nghi của chính mình. Như vậy … thuộc ngoại phần: Hoặc có sự quan sát bốn oai nghi của người khác. Hoặc thuộc nội phần và ngoại phần: Hoặc vị ấy sống quan sát thân trên thân với sự xác định bốn oai nghi của mình hợp thời, và của người khác hợp thời. Hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi ở thân: sự sanh khởi và sự hoại diệt của sắc uẩn nên đem ra trình bày với năm biểu hiện theo phương pháp sau: ‘Do sự sanh khởi của vô minh có sự sanh khởi của sắc, v.v.’ (paṭi. ma. 1.49); Ở đây, đức Thế Tôn đề cập đến sự sanh và sự diệt ấy, đã nói rằng: ‘Hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi ở thân.’ Hoặc hơn nữa, niệm “có thân”: Có nội dung như đã được trình bày trước đó.

Idha pana catuiriyāpathapariggāhikā sati dukkhasaccaṃ, tassā samuṭṭhāpikā purimataṇhā samudayasaccaṃ , ubhinnaṃ appavatti nirodhasaccaṃ, dukkhaparijānano samudayapajahano nirodhārammaṇo ariyamaggo maggasaccaṃ. Evaṃ catusaccavasena ussakkitvā nibbutiṃ pāpuṇātīti idamekassa catūiriyāpathapariggāhakassa bhikkhuno yāva arahattā niyyānamukhanti.

Trong phần oai nghi này, niệm xác định bốn oai nghi là Khổ Đế. Tham ái quá khứ làm cho niệm xác định bốn oai nghi được thiết lập là Tập Đế. Sự chấm dứt cả hai (Khổ Đế và Tập Đế) là Diệt Đế. Thánh đạo biết toàn diện Khổ Đế, dứt bỏ Tập Đế và có Diệt Đế làm đối tượng là Đạo Đế. Như vậy, hành giả sau khi nỗ lực do nhờ năng lực Tứ Thánh Đế đạt đến sự tịch diệt. Đây là con đường dẫn dắt ra khỏi khổ đau cho đến quả vị A-ra-hán của một vị tỳ khưu xác định bốn oai nghi.

Giải thích phần oai nghi  được kết thúc

 Xem tiếp phần 2 Giải thích Kinh Tứ Niệm Xứ (P2)

[1] Ðức vua Mandhātu là một vị Chuyển Luân Thánh Vương ở thời kỳ tuổi thọ con người 1 a-tăng-kỳ năm, lên ngôi trị vì 4 châu lớn thiên hạ, gồm có 2.000 châu nhỏ, có nhiều thần thông. Ðức vua Mandhātu là tiền thân của Ðức Phật Gotama.

[2] Pariṇāyakaratana: Viên quan đại thần hầu cận của Đức Vua Mandhātu