ANURĀRĀMA

ANURĀRĀMA, tên hai tự viện lịch sử của Tích Lan. Tự viện thường được đề cập hơn trong tập Đại Sử được xây dựng bởi vua Vasabha (67-111 A.C.) gần thành Mahāgāma hay Tissamahārāma ngày nay, nằm về phía Bắc của cổ thành quan trọng này ở phía Nam hòn đảo. Vua giao việc trông nom tự viên cho làng Heḷigāma. Những chiếc xuồng gạo (xem BHATTANĀVĀ) làm bằng đồng được đặt tại đây để dân chúng cúng dường cho các tỳ-kheo của tự viện Anurārāma. Tăng xá (uposathāgāra) được xây dựng bởi vua Vohārika Tissa vào thế kỷ thứ 3. Khoảng giữa thế kỷ thứ 7, nhà cai trị xứ Rohaṇa, vua Dappula, đã sửa chữa pāsāda (điện) của Anurārāma. Anuru-maha-pā (Anurā-mahā- pāsāda) được nhắc đến trong một bức bích họa (số 170, vào khoảng thế kỷ thứ 8-9 A.C.) được tìm thấy trên phần được giữ gìn của bức tường cổ trát vữa trong phòng trưng bày đá Sīgiriya (C. W. Nicholas, JCRAS. New Series, VI, Số đặc biệt, trang 66; S. Paranavitana, Sīgiri Graffiti, II, 104 f.).

Tự viên Anurārāma còn lại được đề cập (Mhv. lxi, 101) là từng thuộc quận Kāsikhaṇḍa vào thế kỷ thứ 6 A.C. Ghi chép đầu tiên về tự viện này nói đến việc trùng tu của vua Mahānāga với tòa nhà đổ nát trong đó; nhưng các kiến trúc trước đó thì không có ghi chép lịch sử nào. Quận Kāsikhaṇḍa có lẽ nằm trong vùng Kāsikeṭṭa (Kāsikoṭe) ngày nay, cách làng Ambanpola hai dặm về phía Bắc. Nhưng không có tàn tích được biết đến (C. W. Nicholas, op. cit., p. 66).

  1. T. D.