ANANTAMUKHA-PARĪŚODHANA-NIRDEŚA-PARIVARTA-NĀMA-MAHĀYĀNA-SŪTRA
ANANTAMUKHA-PARĪŚODHANA-NIRDEŚA-PARIVARTA-NĀMA-MAHĀYĀNA-SŪTRA, hay Anantamukha-viniśodhana-nirdeśa, phần thứ hai của Đại-bảo-tích-kinh (Mahāratnakūṭa Sūtra), còn tồn tại trong bản chuyển dịch tiếng Trung Quốc và tiếng Tạng.
Đại-bảo-tích-kinh (Ta-pao-chi-ching Taishō, số 310; Nanjio, số 23) trong 120 bó không phải là một bản Kinh độc lập mà là một tập hợp biên soạn của bốn mươi chín bài Kinh. Bodhiruci đã tập hợp hai mươi ba bản dịch trước kia của tác phẩm từ những bản văn tiếng Phạn; ông đã chuyển dịch lại mười lăm bản Kinh mà không có bản chuyển dịch chính xác của những tác phẩm tiếng Phạn và ông chuyển dịch mười một bản Kinh cho lần đầu tiên. Do đó, ông đã soạn thảo bản Ta-pao-chi-ching trong 120 bó, bao gồm bốn mươi chín phần (Kinh) cùng bảy mươi bảy chương. Bản chuyển dịch tiếng Tạng của tác phẩm này có bốn mươi chín phần theo như bản văn Trung Quốc. Một vài phần (Kinh) của bản chuyển dịch tiếng Tạng được cho là có nguồn gốc từ bản tiếng Trung Quốc. Trong bốn chín bản Kinh, năm bản còn tồn tại trong tiếng Phạn, như, bản Kinh số năm, số mười tám, số bốn ba, số bốn bốn và bốn sáu (Ryūjō Yamada, Bông-Buttenno Sholunken, tức là ‘trong bản văn Phật giáo còn tồn tại ở phiên bản tiếng Phạn’, trang 96).
Bản Anantamukha-pariśodhana-nirdeśa-parivarta được chuyển dịch sang tiếng Trung Quốc bởi Bodhiruci trong lần đầu tiên. Tiêu đề tiếng Trung Quốc là Wu-pien-chuang-yen-hui. Bản Kinh bao gồm ba chương: ‘về chân ngôn cao nhất’, ‘về chân ngôn để đạt được sự bảo hộ’ và ‘chân ngôn thanh tịnh’.
Đức Phật chỉ dạy Bồ-tát Anantavyūha tại Kalandaka-nivāsa ở La-việt-thành rằng các bậc Bồ-tát mà muốn đạt được vô lượng thiện hạnh thì nên biết được những lời dạy bí truyền của Đức Phật. Sau đó, Ngài giải thích về sự thanh tịnh và bình đẳng, về thực tại tuyệt đối, ý nghĩa của các câu chân ngôn, mười sức mạnh, bốn loại vô uý và hơn thế nữa. Và Đức Phật cũng chỉ dạy về rất nhiều các câu chân ngôn.
Tiêu đề tiếng Tạng của phần này là Sgo-mthah-yas-pa rnam-par sbyoṅ-ba bstan-paḥi leḥu shes-bya-ba theg-pa chen-poḥi mdo (TM. Số 46), được chuyển dịch bởi Surendrabodhi và Dpal-brtsegs Rakṣita.
K. TMR.