AMULET
AMULET, một cái tên được đặt cho một vật thể được cho là có sức mạnh siêu nhiên để bảo vệ con người khỏi những rắc rối và tai họa. Bùa hộ mệnh được sử dụng bởi những người theo đạo Phật, đặc biệt là ở Trung Quốc và Nhật Bản. Giáo lý ban đầu của Đức Phật không thừa nhận niềm tin vào bùa hộ mệnh, vì vậy người ta cho rằng niềm tin như vậy đã được chấp nhận trong Phật giáo trong khi điều chỉnh để phù hợp với phong tục tập quán của các vùng nơi nó được truyền bá. Vì vậy, ở Trung Quốc, Phật giáo đã chấp nhận bùa hộ mệnh của các tín ngưỡng phổ biến của Trung Quốc dựa trên Đạo giáo, nơi nó được Shugen-dō (Giáo phái khổ hạnh trên núi) áp dụng hiện nay, như một sự pha trộn giữa Thần đạo và Phật giáo.
Trong nhiều kinh điển của Phật giáo Đại thừa, việc tôn thờ tượng Phật và kinh điển được cho là góp thành tựu ba la mật và ngăn ngừa bệnh tật và tai họa. Đặc biệt trong các kinh điển của Phật giáo bí truyền, người ta nhắc đi nhắc lại rằng tai họa có thể được loại bỏ và mang lại may mắn thông qua việc tụng kinh hoặc thực hành mật tông. Tuy nhiên, trong trường hợp này, mục chính là hành động thờ phượng và đức tin tôn giáo, và không có sự nhấn mạnh nào được đặt lên kinh điển hoặc hình ảnh Phật giáo hoặc sức mạnh siêu nhiên của chúng. Chẳng hạn, người ta tìm thấy trong Bát Nhã Tâm Kinh có đoạn: “Nếu người ta sao chép những đoạn trong kinh điển, cung kính thờ phượng và thắp hương, thì tất cả những sự hung ác, thù hận, tai họa và bệnh tật sẽ tự biến mất”. Người ta cũng thấy có quan niệm rằng nếu một người đọc thuộc lòng và viết ra kinh điển, và đeo một bản sao của kinh trên tóc hoặc quần áo của mình, sẽ giúp xua đuổi mọi điều xấu”.
Tuy nhiên, ở Trung Quốc và Nhật Bản niềm tin có chút khác biệt với những điều trên trong việc thờ kính tượng Phật, kinh điển hoặc những vật phẩm thiêng liêng khác. Người Trung Quốc và Nhật Bản cho rằng bùa chú chỉ cần là một mẩu giấy nhỏ, miếng ván hoặc gỗ nhỏ có khắc những ký tự, hình ảnh hoặc biểu tượng được khắc hoặc vẽ lên và mỗi loại bùa sẽ mang một mục đích sử dụng khác nhau. Chúng chủ yếu dựa trên niềm tin của Đạo giáo, được sử dụng như một yếu tố trong các nghi lễ tôn giáo và các hướng dẫn nghiêm ngặt đã được quy định cho việc sử dụng chúng. Một đặc điểm khác
của những bùa hộ mệnh này là chúng không chỉ gắn liền với đạo Phật mà còn được sử dụng độc lập. Ngày nay, bùa hộ mệnh đã đảm nhận sức mạnh của riêng chúng đối với các việc công đức, ngoài sự thực hành tôn giáo liên quan đến chúng, trong hầu hết các trường hợp đã mất đi ý nghĩa của chúng.
- Bùa chú Phật giáo ở Trung Quốc.
- Bùa chú gắn liền với Đạo giáo.
Hầu hết các tôn giáo cổ đại chắc chắn có liên quan đến niềm tin vào các vật phẩm sở hữu sức mạnh siêu nhiên nào đó, và xu hướng này đặc biệt đúng trong các tôn giáo Trung Quốc. Khi người Trung Quốc cổ đại thừa nhận thần thánh trong tất cả các hiện tượng tự nhiên và thực hành các tôn giáo đa thần, thì việc đồng bóng và bói toán ra đời là điều tự nhiên. Do đó, những nghề nghiệp hoặc tôn giáo giúp tránh khỏi điều ác đã được phát triển, trong đó nổi bật nhất là nghề chữa bệnh và sự phù phép, lý tưởng sống của người Trung Quốc là giàu có và trường thọ. Thực tế này được thể hiện trong những câu chuyện cổ của Trung Quốc về phương thuốc trường sinh bất tử. Cũng có niềm tin vào nước và gương. Nước được coi là có khả năng tẩy rửa bình chứa và xua đuổi ma quỷ và bệnh tật, và người ta tìm thấy ở nhiều nơi trên đất liền những vùng nước thiêng hoặc suối thiêng được cho là có khả năng chữa bệnh hoặc xua đuổi tà ác. Người ta tin rằng những chiếc gương có sức mạnh siêu nhiên trong sự phản chiếu của chúng, và những người tu khổ hạnh của Đạo giáo khi vào núi luôn mang theo một chiếc gương. Cuốn sách thiêng liêng của Đạo giáo Pao-p’u-tze giải thích lý do về điều này.
Trong số những người Trung Quốc nói chung, cũng có một niềm tin vào cành đào. Một cuốn sách cổ được viết vào thế kỷ thứ 4 hoặc thứ 3 TCN, Ch’un-ts’iu-tso-chuan, kể về một cành cây đào được dựng lên để xua đuổi hơi thở tà ác, và ở Trang Tử, viết cùng thời điểm đó có đoạn: “Treo cành đào trước cửa, rắc tro dưới đó, yêu ma cũng không dám vào, trẻ con cũng không sợ”.
Trong Đạo giáo vào khoảng thế kỷ thứ 4, đã xuất hiện một sự phân loại coi lý thuyết ‘vô vi’ của Lão Tử là tầng lớp thượng lưu, lý thuyết về các ẩn sĩ Đạo giáo có sức mạnh siêu nhiên và sử dụng bùa hộ mệnh để tránh tai họa và hơi thở ác như hạng hạ lưu. Giáo phái Wu-to-mi-tso và Ta-ping-tso, được
ủng hộ bởi Chang-ling, người đã đóng góp nhiều cho việc thiết lập Đạo giáo như một tôn giáo, đã khiến tôn giáo này trở nên phổ biến thông qua việc sử dụng những bùa hộ mệnh này và các phương thức chữa bệnh. Sau đó, Đạo giáo đã xuất bản rất nhiều sách về bùa chú, và khuyên mọi người sử dụng chúng để chữa bệnh.
Trong số mười hai phần của các kinh điển Đạo giáo được sắp xếp lại sau này để bắt chước Tam Tạng Kinh điển Phật giáo, phần thứ 2 là về bùa chú, phần thứ tư là về lưu hành các bản sao hình ảnh của Wu-ti, đối tượng thờ cúng chính trong Đạo giáo, và phần thứ 9 về các phương thuốc và hướng dẫn dùng thuốc, mỗi phần đều có nét liên quan đến bùa hộ mệnh. Trong số các văn bản Đạo giáo này, được biên soạn thành Tam tạng của Đạo giáo, kinh T’ai-shang-tung-yüan-shen-chou, được biên soạn vào thế kỷ thứ 3, thứ 4 và thứ 5, nhấn mạnh vào việc cứu độ con người thông qua việc sử dụng bùa hộ mệnh và phép thuật, và trong cuốn sách linh thiêng chính về phép thuật của Đạo giáo, Pao-p’u-tze của Kê-hung, người đã đóng góp nhiều cho việc thành lập Đạo giáo vào thế kỷ thứ 3, đã mô tả về bùa hộ mệnh, phép thuật và hướng dẫn sử dụng chúng và nhiều văn bản liên quan đến bùa hộ mệnh cổ xưa được trích dẫn.
Bên cạnh những giải thích chi tiết về các dạng bùa hộ mệnh, còn có đề cập đến, cùng với hướng dẫn dùng thuốc thông qua các bài tập tôn giáo, bùa hộ mệnh và nước thiêng được sử dụng để kéo dài tuổi thọ và điều trị bệnh tật cũng như hướng dẫn sử dụng chúng. Dường như đã có gần 50 loại bùa hộ mệnh lớn hơn cũng như nhỏ hơn, được đặt cho nhiều tên khác nhau. Trên đó có viết những câu thần chú bằng những ký tự biến thể do Lão Tử dạy, quá khó để người bình thường có thể hiểu hoặc thậm chí không thể giải thích được, để những người sở hữu những tấm bùa hộ mệnh này có thể nhận được những ân huệ thần thánh nhờ công đức của họ.
- Bùa chú Phật giáo.
Mặc dù các văn bản Phật giáo ở Ấn Độ, đặc biệt là các văn bản Phật giáo bí truyền, đề cập đến các công thức chú thuật và các thực hành tôn giáo có sức mạnh bảo vệ con người, nhưng dường như có rất ít trường hợp sức mạnh siêu nhiên này được thể hiện dưới dạng một mảnh giấy hoặc đá. Mặc dù hình ảnh của Đức Phật, Bồ tát và nhiều chư Thiên, cũng như kinh điển và kim cang được cho là có năng lực xua đuổi ma quỷ và tai họa cản trở việc thành tựu giác ngộ, nhưng điều
chính yếu không phải là bản thân các đối tượng, mà là hành động của sự thờ kính và tin tưởng, và dường như không gì đáng tin bằng việc tin rằng nếu một người nuốt bất kỳ âm tiết nào trong năm thần chú linh thiêng, cụ thể là, oṃ, baṃ, haṃ, raṃ và khaṃ, như đã nêu trong San-chung-si -ti-kuei, sẽ không gặp phải nguy cơ bệnh tật. Theo Me-ling-chih-tien-ching nói rằng nếu một người sao chép những đoạn chú từ Kinh Bát Nhã và kính cẩn đốt hương cúng dường, thì mọi sợ hãi, thú dữ và tai họa sẽ biến mất. Các kinh điển khác nói về các loại bùa hộ mệnh khác nhau và hướng dẫn cách sử dụng chúng đều do người Trung Quốc phát minh hoặc do họ thêm vào bằng tiếng Trung Quốc.
Trong khi Đạo giáo phát triển thành một tổ chức tôn giáo do sự giao thoa và truyền bá với Phật giáo, thì đến lượt Phật giáo lại bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi Đạo giáo, đặc biệt là trong việc áp dụng tục thờ cúng tổ tiên và sử dụng bùa chú. Chúng ta tìm thấy một ví dụ về việc sử dụng bùa hộ mệnh của Phật giáo trong Pháp Vân Chu Lâm (Fa-yün-chu-lin) được viết vào thời nhà Đường nói rằng bằng cách trì tụng câu thần chú tiêu diệt tội lỗi và mang lại hạnh phúc như đã nêu trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa, một người có thể thoát khỏi khỏi bệnh tật, điều ác và tai họa. Wei-tsi-chin- kang-chin-pai-lien-fa-ching, được cho là do Ajitasena dịch vào cùng thời kỳ và nổi tiếng là một cuốn sách về các loại bùa và hướng sử dụng bùa hộ mệnh của Phật giáo, mô tả về 46 loại bùa chú, phân thành 19 nhóm và được vẽ hoặc khắc trên mảnh gỗ, vải hoặc giấy (việc sử dụng mực đỏ được nhấn mạnh trong hầu hết các trường hợp), phải được nuốt hoặc ném vào lửa hoặc nước, đồng thời phải bắt ấn và đọc thần chú tương ứng theo nghi thức. Những ân điển mà mọi người mong đợi là thành tựu trí tuệ Phật giáo, không còn phiền não và đạt được sự minh mẫn và học tập, khỏi bệnh tật, trường thọ, tài sản, ngăn ngừa thiệt hại do hỏa hoạn, lũ lụt hoặc mưa gió. Ví dụ, một người nuốt một tờ giấy trên đó viết tên của người mà chúng sinh muốn có, thứ mong muốn sẽ được gửi cho họ. Để kéo dài tuổi thọ, người ta phải vẽ 7 sơ đồ bằng mực đỏ trên 1000 tờ giấy và nuốt tất cả chúng mà không bị ai nhìn thấy.
Một con rồng bằng đồng mạ vàng được ném xuống biển được cho là có tác dụng làm giảm nước biển, và một viên đá tinh khiết có ghi công thức ma thuật được ném xuống dòng nước chảy xiết được cho là có khả năng làm ngưng dòng chảy. Việc những ký tự viết trên những tấm bùa này thuộc cùng loại với
những âm tiết biến thể của Đạo giáo cũng chứng tỏ rằng bùa chú trong kinh Phật là vay mượn của Đạo giáo.
Bên cạnh những tấm bùa Phật giáo vốn là mô phỏng của những tấm bùa của Đạo giáo, còn tồn tại những tấm bùa hộ mệnh chứa đựng các yếu tố thực hành mạn đà la của mật tông. Trong Man-shu-shih-li-ju-i-ching và A-tu-pe chu-chou-ching do I-hang biên soạn, có giải thích về nghi thức tín ngưỡng được thực hiện trên bàn thờ, một nghi thức kết hợp của mạn đà la với các yếu tố Trung Quốc. Những bức tranh, được chỉ ra trong những bản kinh này, về ‘bùa hộ mệnh của trời’ và ‘bùa hộ mệnh của trái nhân gian’ được sử dụng để hoàn thành nghi thức này, khác với bùa hộ mệnh của Đạo gia, đã được đề cập trước đó, và trên bùa vẽ những hình ảnh của Đạo giáo. Các vị thần cũng như tên của Đức Phật, Bồ tát và chư thiên được sử dụng cho các mục đích như ngăn ngừa chết đuối và sinh nở thuận tiện, điều này vô tình lại biểu lộ những nét điển hình của người Trung Quốc.
Ngoài ra còn có một số bùa hộ mệnh liên quan đến chiêm tinh học, và có nhiều cuốn sách đề cập đến việc thờ cúng Đại Hùng, được Phật giáo tiếp nhận từ Đạo giáo. Trong Chi-yao-sing-chen-pieh-hsing-fa có kể rằng, để tránh những điều xui xẻo vào ngày tương ứng với bất kỳ chòm sao nào, người ta nên vẽ bức tranh của yêu tinh đại diện cho ngày cụ thể đó và thực hành các nghi thức tôn giáo theo quy định. Loại bùa hộ mệnh này trong Phật giáo được tìm thấy ở Vô Minh Luận (Wu-ming-lun) của Lung-shu dưới tên bùa hộ mệnh của 12 vị thần và 7 vị Phật, đối tượng thờ cúng khác nhau tùy theo mục đích: muốn cho gia đình hòa hợp nên viết những chữ bùa trên vải lụa bằng mực đỏ và thờ cúng Ākāśagarbha (bồ tát Hư Không Tạng); hoặc người cầu nguyện cho dễ sinh thì viết những chữ bùa trên mảnh vải lụa, rộng và dài 20 cm, và thờ thần dīvaka. Một số bùa hộ mệnh được gọi bằng cái tên là một thủ ấn của Phật giáo Mật tông (Vajracitra-mudrā và Buddha-bhūmi-mudrā chẳng hạn) và được khắc hoặc viết trên các mảnh giấy, vải hoặc vỏ cây đào và mục đích sử dụng chúng là để xua đuổi côn trùng độc và rắn cũng như các tai họa khác như đã được đề cập. Bùa hộ mệnh của Đạo giáo – Phật giáo cho đến nay được đề cập dường như đã được Shugendō (Giáo phái khổ hạnh trên núi) ở Nhật Bản kế thừa, vì những chiếc bùa hộ mệnh của tín ngưỡng phổ biến ở Nhật Bản hầu hết giống với chúng về hình thức và chất lượng.
- Phân loại và mục đích sử dụng bùa chú
Ngoài những bùa hộ mệnh được đề cập trong các văn bản tôn giáo, còn tồn tại vô số bùa hộ mệnh được người dân nói chung tin tưởng và lưu truyền. Chúng vô cùng đa dạng về hình thức và chủng loại, tùy thuộc vào thời gian và địa điểm. Do đó, chỉ những loại đã nổi tiếng từ lâu mới được mô tả như dưới đây.
(1) Bùa hộ mệnh thể hiện bản chất thần thánh và các hiện tượng tự nhiên. Loại bùa hộ mệnh nổi tiếng nhất thời cổ đại là Wu-yüeh-chen-hsing-t’u, trên đó có vẽ hình năm vị thần được cho là cư ngụ tại năm ngọn núi linh thiêng lớn (Ta’i-shan, Hang-shan, Hao-shan-Heng-shan và Sung-shan – tức Thái Sơn, Hoa Sơn, Hành Sơn, Hằng Sơn và Tung Sơn). Bùa hộ mệnh này dùng để cầu an tứ phương, tín đồ Đạo giáo khi ở trên núi phải luôn đeo nó bên người. Bùa hộ mệnh này cũng cần thiết để khống chế ba sức mạnh được tượng trưng là côn trùng, theo Đạo giáo, cư trú bên trong cơ thể con người và vào ngày Keng-chan xuất hiện một lần trong 60 ngày, báo cáo về những việc làm tốt và xấu của con người với Thượng Đế, người mà dựa theo những báo cáo này để kéo dài hoặc rút ngắn tuổi thọ của con người. Bùa hộ mệnh này được cho là cũng có hiệu quả với các mục đích khác.
Như bùa hộ mệnh chiêm tinh, đã được đề cập trước đây, là một tấm bùa hộ mệnh bằng giấy, trên đó có vẽ hình ảnh của đối tượng đại diện cho một ngày dương lịch cụ thể; và những người trên 21 tuổi, được cho là chịu ảnh hưởng của một trong chín ngôi sao sáng, đã sử dụng những tấm bùa hộ mệnh trên đó có vẽ hình Con gấu lớn (Đại hùng) hoặc viết tên ngôi sao chiếu mệnh họ, để họ có thể được bảo vệ từ những ngôi sao xấu.
Trên bùa hộ mệnh của ông táo, vị thần bếp được tổ chức cúng kính vào dịp cuối năm, được vẽ trên một cuốn lịch, bản thân nó cũng được coi là bùa hộ mệnh trong một thời gian dài.
(2) Bùa hộ mệnh, trên đó có vẽ hình chư Phật, được cho là có khả năng ngăn chặn tai họa. Đạo giáo có nhiều vị thần như Tam Hoàng (ba vị thần của Đạo giáo) hoặc Ngũ Đế (tức Ngũ Phương Thượng Đế, năm vị thần trên Thiên đình trong Đạo giáo) được cho là hóa thân của Tien-ti (Thiên Đế) và những hình ảnh của những vị thần này được coi là bùa hộ mệnh. Thời gian sau, nhiều vị thần khác xuất hiện, và bức hình của Shen-nung (thần nông) được các y sĩ và nông dân sử dụng như một tấm bùa hộ mệnh; trong khi tượng Bích Chi Phật
được thợ đá sử dụng. Những hình ảnh này đã được in ra và thờ kính vào ngày đầu năm mới. Hình ảnh của Lão Tử và những người khác cũng được thần thánh hóa.
Ngoài ra còn có những tấm bùa trên đó được viết các ký tự hsi (hỷ), kuei (quý), fu (phúc) và tsai (tài), tương ứng đại diện cho các vị thần của Đông, Nam, Tây và Bắc, những người chắc chắn sẽ tham gia vào lễ mừng năm mới. Bùa hộ mệnh của vị thần canh cổng thường được dán trên cổng hoặc cửa ra vào như một bùa chống ma quỷ. Các vị thần được vẽ trên những tấm bùa thuộc loại này là những anh hùng được thần thánh hóa, trong đó Shên-tu và Yü-lui, những người xuất hiện liên quan đến việc thờ kính các cành đào, từng là những vị thần chiến tranh trong truyền thống, nhưng ngày nay là Chên-chung được thần thánh hóa và Ching-tu phổ biến hơn. Hai anh hùng này được phong thần theo truyền thuyết rằng họ đã cứu một hoàng đế nhà Đường khỏi sự tra tấn do linh hồn của vị vua rồng đã chết gây ra. Trong hạng mục này, Chung-ku-ei là anh hùng được phong thần nổi tiếng nhất và ông ấy cũng rất nổi tiếng ở Nhật Bản. Là bùa chống ma quỷ, hình ảnh các vị thần chiến tranh có kích thước lớn được dán ở cổng lâu đài, cổng đền thờ, và bùa nhỏ hơn được dán ở cổng nhà vào ngày đầu năm mới, và đặc biệt là trong phòng hộ sinh – những tấm bùa này không bao giờ bị quên. Loại bùa hộ mệnh này cũng được cho là có hiệu quả trong trường hợp sinh nở khó khăn: phần hình ảnh được vẽ bên trái của tấm bùa sẽ bị đốt cháy và tro của nó được đưa cho người phụ nữ đang nằm trên giường sinh và người này hòa với nước rồi uống để giảm bớt sự đau đớn lúc sinh nở.
Trong Phật giáo, hình ảnh của chư Phật, bồ tát và chư thiên cũng được tin là sẽ bảo hộ các ngôi chùa và các tín đồ, và theo ghi chép, hình ảnh của 18 vị thần canh giữ các ngôi chùa được treo trên các bức tường của các ngôi chùa, theo như ghi chép trong Chi-fu-ching.
(3) Các chữ cái trong kinh điển, phép thần thông, chủng âm và các ký tự đặc biệt khác, được cho là có sức mạnh siêu nhiên. Bùa chú của các văn bản tôn giáo chủ yếu thuộc loại này. Các bùa hộ mệnh của Đạo giáo sử dụng các ký tự được thánh hóa và được biến đổi bằng cách có thêm năm biểu tượng mượn từ các ký tự chính thức được sử dụng trong triều đại nhà Hán, chi-chi-ju-lü-lin (cấp cấp như luật lệnh), nghĩa là ‘Lập tức thi hành lệnh’.
(4) Thực vật và động vật được sử dụng làm bùa hộ mệnh vì đặc tính của chúng. Cây đào, được sử dụng làm bùa hộ mệnh vì đặc tính kỳ diệu của nó, được cho là hoạt động hiệu quả nhất khi sử dụng một trong những cành mọc ở phía nam hoặc phía đông của cây. Bùa hộ mệnh này được trộn lẫn với các
loại bùa khác, phù chú được sử dụng cho bùa hộ mệnh Phật giáo hoặc Đạo giáo chắc chắn phải được chạm khắc trên một khối gỗ đào để có hiệu quả cao hơn. Để xua đuổi cơn sốt, người ta dùng một cành đào đập vào giường, và hầu như bệnh tật nào cũng khỏi nếu chỉ cần dùng cành đó xoa vào đầu và mặt người bệnh, và nước nóng có cánh hoa đào trong đó sẽ chữa khỏi ngay cho đứa trẻ bị co giật. Bùa hộ mệnh hình mũi tên làm bằng gỗ đào treo cổ hoặc trước cửa có tác dụng xua đuổi dịch bệnh, ma quỷ. Bùa hộ mệnh bằng gỗ đào ngày nay có chiều rộng khoảng 20 cm và chiều dài của nó tùy thuộc vào chiều cao của cột cổng mà nó được gắn vào. Những tấm bùa này được làm bằng ván và đặt ở mỗi cổng trong hai cổng thành từng cặp, trên đó vẽ theo thứ tự từ trên xuống dưới các hình rồng, hổ, quan đại thần, tướng quân, cây đào và cây liễu, cùng những chiếc bình cắm ba mũi tên, mỗi mũi tên ghép với nhau. Những bức vẽ này được cho là sự kết hợp của nhiều loại bùa hộ mệnh khác nhau, và một số bùa gỗ đào được làm bằng giấy hoặc thêu lụa.
Cùng với cây đào, người ta tin rằng cây liễu có sức mạnh siêu nhiên, và có một phong tục cổ xưa là dựng một cành liễu trước cổng. Cây liễu, gắn liền với bồ tát Quán Thế Âm vì trong những bức tranh, người ta cho rằng ngài nhúng cành liễu vào nước và vẩy lên hư không để xua đuổi ma quỷ và linh hồn xấu xa. Một người theo Đạo giáo đã tạc một bức tượng Phật nhỏ trên một khối liễu, tượng trưng cho một linh hồn, để giữ sự giao thoa giữa sự sống và cái chết. Ngoài ra còn tồn tại một phương thức hành trì Phật giáo, trong đó người ta sẽ đổ nước thơm lên người bệnh để trừ khử bệnh tật và xua đuổi những loại tà ma khác.
Lá ngải cứu hoặc ngải tây, lá irit, lá namdin hoặc lá cây nhựa ruồi cũng được dùng làm bùa treo ở cổng, có thể vì hình thức, khả năng chữa bệnh hoặc vị đắng của chúng. Trong số các con vật được vẽ trên bùa hộ mệnh, hổ, rồng, bò và sư tử xuất hiện thường xuyên nhất.
Bên cạnh những bùa hộ mệnh được đề cập cho đến nay, còn có những đồ vật được làm thành bùa hộ mệnh với khả năng chữa bệnh, những chữ cái biểu đạt trạng thái tốt lành và do đó, được coi là có khả năng xua đuổi vận rủi, những thứ khiến những người bước vào sợ hãi khi vào cổng, những từ ngữ mang ý nghĩa ngăn ngừa sự tà ác, hay những vật phẩm thiêng liêng được coi là có sức mạnh gián tiếp để xua đuổi vận rủi. Cũng có thể thấy ở Ch’un-lien, loại bùa làm bằng bìa
hoặc giấy với những lời may mắn được viết trên đó và treo ở cổng vào ngày đầu năm mới hoặc trên các tờ giấy giấy màu đỏ trên đó viết những lời chúc may mắn để người ta tùy ý dán vào những nơi mình thích.
- So.
III. Bùa chú ở Nhật Bản.
Các khái niệm và phẩm chất của bùa hộ mệnh ở Nhật Bản rất khác nhau về chất liệu, kiểu dáng, cách sử dụng và mục đích. Việc thờ cúng bùa hộ mệnh (tức là viết các hình ảnh khác nhau, chủng âm và thần chú của chư phật, bồ tát, chư thiên, v.v., trên thẻ và luôn mang chúng theo để nhận được sức mạnh thần bí từ các vị thần này) không phải là đặc thù của Nhật Bản, vì nó cũng được tìm thấy ở nhiều quốc gia Phật giáo khác, chẳng hạn như Ấn Độ và Trung Quốc.
Giáo lý của Đức Phật Vairocana (Phật Đại Nhật), đặc biệt là trong Phật giáo bí truyền Ấn Độ, là hệ thống nhất cả về triết học lẫn tôn giáo của nó, và người ta giải thích rằng sức mạnh thần bí của nó bắt nguồn từ đức Phật Vairocana và năng lực của những người có đức tin nơi Ngài.
Trong tín ngưỡng dân gian Ấn Độ, việc thờ cúng bùa hộ mệnh có liên quan đến việc sùng kính các vị thần Vệ đà toàn năng, và được tìm thấy từ rất sớm. Những bùa hộ mệnh này được làm từ nhiều loại vật liệu khác nhau. Các vật liệu tự nhiên như gỗ, đá, nước, vải, chỉ, giấy, muối, v.v., được sử dụng chủ yếu. Phong cách của họ có liên quan đến nhiều thứ, tính cách và địa điểm. Tục thờ bùa của tín ngưỡng dân gian Ấn Độ cũng ảnh hưởng đến tín đồ Phật giáo Đại thừa. Một bộ kinh đại thừa của thời kỳ đầu, Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa, khuyến khích các tín đồ có tên là ‘Vị vua vĩ đại của trí tuệ kỳ diệu, đó là biểu hiện của bộ kinh này, được viết trên giấy và được cất giữ trong nhà. Trong thời gian sau đó, Kinh Abhiṣeka (Quán Đảnh) xuất hiện, trong đó bao gồm định nghĩa, phân loại và cách sử dụng sức mạnh ma thuật và bùa chú được giải thích đầy đủ chi tiết. Nhiều vị thần trong tín ngưỡng dân gian Ấn Độ cũng xuất hiện trong đó. Trong thời đại của Phật giáo bí truyền, nhiều kinh điển đề cập đến ma thuật lần lượt xuất hiện, và cách thức sử dụng cũng như việc thờ cúng các loại bùa hộ mệnh của các vị thần khác nhau được giải thích trong đó.
Những bùa hộ mệnh Phật giáo này đã kế thừa năng suất dồi dào của tín ngưỡng dân gian Vệ đà và phát triển chúng hơn nữa, do đó số lượng sản xuất ra ngoài sức tưởng tượng.
Bùa hộ mệnh của Nhật Bản được chia thành hai dòng chính khác nhau về nguồn gốc. Một bắt nguồn từ tín ngưỡng dân gian Nhật Bản hay Thần đạo, trước khi Phật giáo được chấp nhận ở Nhật Bản, và hai là dòng Phật giáo. Tuy nhiên, dòng bùa hộ mệnh Phật giáo bị ảnh hưởng bởi nhiều loại tín ngưỡng bản địa khác nhau để tạo thành các phong cách khác nhau, chẳng hạn như phong cách Ấn Độ, phong cách Trung Á và phong cách Thần đạo. Những phong cách khác nhau này dần dần phát triển trong quá trình phát triển của Phật giáo từ Ấn Độ sang Nhật Bản.
Bùa hộ mệnh của Nhật Bản ngày nay chủ yếu đến từ sự pha trộn giữa Thần đạo và Phật giáo, được gọi là Shu-gen-dō hoặc ‘đạo luật’. Như vậy lịch sử của bùa hộ mệnh Nhật Bản như sau: chúng có nguồn gốc từ tín ngưỡng dân gian cổ xưa của Nhật Bản, kế đến là bùa hộ mệnh Phật giáo, là kết quả của sự ảnh hưởng của Phật giáo Shingon thời trung cổ hoặc Phật giáo Mật thừa Nhật Bản. Tiếp theo vào thời Muromachi xuất hiện bùa Shu-gen-dō với sự phát triển của hình thức tôn giáo này và chúng chiếm ưu thế cho đến ngày nay.
Bùa Thần đạo cổ đại sẽ không được thảo luận ở đây, vì chúng hoàn toàn không liên quan đến Phật giáo. Chỉ những bùa hộ mệnh thời trung cổ liên quan đến Phật giáo sẽ được giải thích ở đây.
Nền tảng Phật giáo của những bùa hộ mệnh này bắt nguồn từ triết lý bí truyền của các giáo phái Shingon (hay Mật Tông) và Tendai (Thiên Thai Tông). Ban đầu; tín đồ của những giáo phái này đã cố gắng đạt được Phật quả của Vairocana bằng cách chọn một vị Phật cụ thể và thực hành với niềm tin tuyệt đối với vị Phật này. Nói cách khác, phương pháp đức tin này được gọi là Sen-butsu hay ‘lựa chọn chư Phật’.
Trong pháp bí truyền Nhật Bản, tức là Shingon và Tendai, thuật bùa chú được thực hiện thành một buổi lễ. Trong buổi lễ điểm đạo của những giáo phái này, người xin tung một bông hoa lên mạn đà la, tức là hiện đồ các đức Phật của Mật tông, bông hoa rơi xuống chỗ vị Phật nào thì tín đồ sẽ chọn vị ấy làm vị Phật của mình. Đây được gọi là To-ke-toku-butsu hay chọn một vị Phật bằng cách ném hoa. Ý tưởng về vị Phật được tôn kính nhất này tạo thành cơ sở cho Mamori-honzon hay khái niệm về một vị Tôn Phật, người sẽ bảo hộ đệ tử của mình bằng bùa và chú. Nền tảng tư tưởng này được thêm vào một khái niệm của Thần đạo gọi là Ujigami, tức là các vị thần dân gian, các vị thần của thị tộc, và thuyết vận mệnh Âm Dương hay thuyết nhị nguyên âm dương và chiêm tinh học Phật giáo, ở Trung Quốc và Trung Á. Những điều này đã khiến học thuyết trở nên rất phức tạp.
Các phương pháp tôn thờ những đồ vật và bùa hộ mệnh này khác nhau. Có thể đặt trong điện thờ như tượng thờ thông thường trong chùa, hoặc làm thành hình nhỏ và đựng trong túi nhỏ. Ngoài ra, chúng có thể được vẽ hoặc in trên giấy. Nhiều phương pháp khác cũng được sử dụng. Nhiều loại vật liệu được sử dụng, bao gồm tất cả các loại kim loại, gỗ và giấy. Mục đích quan trọng nhất mà họ muốn đạt được là tránh khỏi tai họa và đạt được nhiều loại hạnh phúc. Tùy vào mục đích mà sẽ sử dụng những loại vật liệu tương ứng. Nó cũng bị ảnh hưởng bởi việc được mang trên người, hay được cất giữ ở một nơi nào đó, hoặc được dán trên tường nhà hoặc trong đồ nội thất.
Giấy được sử dụng nhiều nhất, để tiện cho việc cầm nắm và bảo quản. Trong một số trường hợp, bùa in được bao phủ bởi một loại giấy chắc chắn gọi là nori-ire.
Những chiếc bùa hộ mệnh này có nhiều kích cỡ, từ vài centimet cho đến gần bằng kích thước của một người đàn ông, tương đương với kích thước của những bức tượng Phật thường thấy trong chùa. Những chiếc bùa hộ mệnh nhỏ như được mang trong ví được gọi là kinchaku. Chúng được làm bằng gỗ khá rẻ, chẳng hạn như gỗ cây thông liễu và gỗ sồi. Những tấm gỗ dùng cho homa thì khá lớn. Gỗ zelkova và gỗ hồng được sử dụng để làm tượng Phật.
Bên cạnh những tấm gỗ và hình ảnh này, nhiều loại mẩu vật tượng trưng làm bằng gỗ cũng được sử dụng, chẳng hạn như những viên lục giác do Somin mang đến. Bùa hộ mệnh làm từ tre cũng có thể được tìm thấy ở nhiều đền thờ.
Ngoài ra còn có hai loại bùa kim loại. Một là bùa hộ mệnh được mang trong ví hoặc đeo trên cổ; còn lại là một hình ảnh nhỏ được đặt trong một điện thờ. Bùa kim loại được sử dụng rất nhiều, chẳng hạn như vàng, bạc, đồng, đồng thau và các hợp kim khác. Mạ kim loại cũng được sử dụng; những chiếc bùa hộ mệnh bằng kim loại này khác nhau về kiểu dáng, một số có hình bầu dục, số khác hình tròn hoặc hình vuông. Trong một số trường hợp, tên của các vị Phật hoặc các dấu hiệu tượng trưng (bīja) của các Ngài được viết bằng sơn hoặc có khuôn. Một số bùa hộ mệnh bằng kim loại này được làm thành phù điêu hoặc phù điêu hoặc đóng dấu bằng cách cắt. Hầu hết các hình ảnh được chạm khắc đều rất nhỏ. Gần đây những hình ảnh nhỏ này đã được làm bằng đồng thau và mạ đồng.
Những mảnh vải nhỏ, chủ yếu là vải cotton, thường được dùng để làm bùa hộ mệnh. Đôi khi thổ cẩm vàng đẹp được sử dụng để bọc bùa hộ mệnh bằng kim loại, gỗ hoặc giấy. Một chiếc thắt lưng đặc biệt do hàng nghìn phụ nữ thêu lên được gọi là sen-nin-bari và được cho là có thể bảo vệ người lính khỏi làn đạn của kẻ thù. Lớn nhất trong số này là một bộ quần áo màu trắng theo phong cách Nhật Bản thông thường. Những bộ quần áo màu trắng này được mặc bởi những người hành hương ở khu vực Shikoku. Trước kia, những ngôi chùa đã được đóng dấu lên quần áo của những người viếng chùa. Kiểu dáng của bùa hộ mệnh và bùa chú khác nhau tùy theo chất liệu và dựa trên mục đích sử dụng. Bùa hộ mệnh được mang trên người hoặc đặt ở một nơi nào đó.
Hầu hết các o-mamori của Nhật Bản (nghĩa đen là ‘bảo vệ an toàn’) thuộc loại bùa hộ mệnh cá nhân. Mặt khác, bùa được thờ trong bàn thờ hoặc dán trên đồ nội thất thường được gọi là o-huda (nghĩa đen là ‘bùa thẻ’). Những người tin vào giá trị của bùa hộ mệnh cho rằng hiệu quả cao nhất có thể đạt được bằng cách nuốt trực tiếp lá bùa hoặc tro của nó sau khi đốt. Tất nhiên, loại bùa đó phải được làm bằng giấy.
Hada-mamory (có nghĩa là ‘bùa hộ mệnh trên da’) luôn được đeo trên người, cũng có vô số kiểu dáng khác nhau. Một số bùa đeo trên vai giống như một chiếc túi đeo vai và được gọi là kake-mamori (‘bùa treo’). Phần lớn chúng được làm từ gỗ hoặc kim loại, nhưng chúng cũng có thể được làm bằng giấy được bao phủ bởi một chiếc túi gấm vàng. Sen-nin-bari được đề cập ở trên cũng là một loại hada-mamori. Ude-mamori (‘bùa quanh cánh tay’) được quấn quanh cánh tay giống như chuỗi tràng hạt.
Đối với bùa hộ mệnh và bùa chú không mang trên người, đầu tiên là kado-mamori được dán hoặc đóng đinh trên các ngôi nhà. Không có vị trí nhất định cho chúng trong nhà, và do đó, hiên nhà, cửa ra vào và cổng được sử dụng phổ biến nhất. Những bùa hộ mệnh này được đặt trên mọi loại lối vào như cửa bếp, cửa sổ, giếng trời và đôi khi cả trên cửa nhà vệ sinh. Chúng nhằm bảo vệ lối vào khỏi những linh hồn xấu xa của cõi âm. Trong phòng, chúng có thể được cất giữ trong bàn thờ hoặc trong điện thờ, như hình ảnh thường thấy trong chùa.
Một số bùa hộ mệnh được dán trên cột nhà bếp, và một số trong số chúng, ví dụ, kumade của các đền thờ Thần đạo, được treo trên xà nhà. Ngoài ra, một số được đặt dưới đệm, và được gọi là shiki-mamori (có nghĩa là ‘bùa hộ mệnh dưới đệm’).
Ban đầu, những chiếc bùa hộ mệnh được cho là ban cho sức mạnh thần bí của chư Phật và bồ tát vĩ đại trên một số chất liệu như gỗ, giấy và kim loại để bảo vệ người đeo khỏi thiên tai, thông qua việc tuân thủ một số nghi lễ cần thiết cho mục đích này.
Không thể phủ nhận rằng trong khái niệm này là ý tưởng mana (sức mạnh siêu nhiên) của các tôn giáo nguyên thủy. Tất nhiên, các vị sư Phật giáo tặng những tấm bùa hộ mệnh này cho những người theo họ, và các văn bản mô tả những tấm bùa hộ mệnh này không mang ý nghĩa cao siêu như những khái niệm nguyên thủy. Nhưng những người sử dụng thì cho rằng nó mang ý nghĩa như mana. Do đó, mục đích đầu tiên của bùa hộ mệnh là bảo vệ khỏi thiên tai nhờ sức mạnh của một số vị thần hộ mệnh. Đây có thể được gọi là lợi ích tiêu cực của bùa hộ mệnh. Trong tiếng Nhật, những tấm bùa như vậy được gọi là go-fu hoặc o-mamori, và cả hai từ này đều có nghĩa là ‘bảo vệ’. Lợi ích tích cực của họ là đem lại một số hạnh phúc mà người ta tha thiết mong muốn, chẳng hạn như làm ăn phát đạt, tình duyên êm đẹp, sinh con đẹp đẽ, may mắn, rất nhiều nguyện vọng mà con người muốn có được thông qua bùa chú. Nhưng tư tưởng chủ đạo của bùa và chú cũng giống như chủ nghĩa tôn sùng và chủ nghĩa nam giới như đã đề cập ở trên.
Ở Nhật Bản, nhiều bùa hộ mệnh được cho là có khả năng bảo vệ chống lại thiên tai như hỏa hoạn, lũ lụt và động đất. Những bùa hộ mệnh đặc biệt này hầu như đều được làm bởi các tu sĩ của giáo phái Shu-gen-dō.
Kế đến, là những loại bùa giúp bảo hộ những tai họa do con người, chim chóc và dã thú gây ra. Những thảm họa thiên tai cũng được bao gồm trong phần này. Tác hại do chim và thú gây ra chủ yếu liên quan đến nông nghiệp. Ngoài những loài này còn có các loại động vật khác như cáo, chồn, lửng, được cho là có thể gieo bùa mê lên loài người.
Truyền thuyết và thần thoại liên quan đến bùa hộ mệnh thường xuyên xuất hiện trong văn học Nhật Bản cổ đại. Trong Kibitsu-no-kama (hay ‘Cái ấm của Kibitsu’) của tác giả Udena-Akinari (1734-1809), chẳng hạn, một người chồng đã dán bùa hộ mệnh trên tất cả các lối vào nhà của mình để ngăn chặn sự báo thù của người vợ quá cố.
Trong Kwasi-dan bo-tan-dō-rō (truyện ma về chiếc đèn lồng hoa mẫu đơn) của San-yū-tei Yen-chō (1839-1900), chuyển thể từ nguyên tác Trung Quốc Mu-tan teng-chih , một samurai trẻ tuổi là anh hùng của câu chuyện này đã dán bùa hộ mệnh trên mọi lối vào nhà của mình và mang theo hình ảnh của Đức Phật để tránh bị ma ám. Nhưng kế hoạch của anh ta đã bị phát hiện bởi những con ma và bùa hộ mệnh cùng ảnh Phật đã bị chúng đánh cắp.
Một câu chuyện khác kể về một người đàn ông muốn ngăn chặn lời nguyền của ma quỷ bằng cách viết các ký tự kinh điển lên da của mình. Đây là câu chuyện nổi tiếng của Hōichi không tai, Mimi-nashi-hōichi, của Lafcadio Hearn (1850-1904). Nhạc sĩ mù Hōichi được người thầy cũ của mình viết các chữ Bát Nhã Ba La Mật Đa trên người, nhưng đôi tai của ông lại bị bỏ quên nên bị ma đánh cắp tai. Câu chuyện này đã minh họa thuyết định mệnh làm cơ sở cho khái niệm bùa hộ mệnh.
S.K.
- Bùa chú Tây Tạng.
Ở vùng Mông Cổ, nơi chủ yếu là tín đồ của Lạt ma giáo, có những bùa chú đặc biệt khác với những loại thông thường. Chúng là kết quả của lòng tôn kính sâu sắc của người dân đối với các Lạt ma. Người dân tin rằng họ có thể nhận được sự bảo vệ bằng cách khoác lên người sức mạnh bảo vệ của các Lạt ma được tượng trưng bởi những bức tượng gốm nhỏ gọi là phyog-tsha (cha-tsa) do các Lạt ma làm. Những bức tượng này là các vị Phật, Bồ tát và các vị thần được làm từ chất liệu do các Lạt ma nhìn thấy khi chìm trong định. Nguyên liệu được sử dụng là bột đá quý và nhiều loại hóa chất được pha trộn theo một công thức nhất định. Giá trị của mỗi bức tượng thay đổi tùy theo người thực hiện bức tượng. Ví dụ, sản phẩm của một lạt ma nào đó sẽ được những tín đồ sùng đạo đổi lấy một số ngựa hoặc cừu. Ngoài ra còn có những bùa hộ mệnh khác có in chữ và mạn đà la. Chúng có kích thước 12×1 inch và được gấp lại thành kích thước 3×4 và được quấn bằng sợi bông năm màu thành nhiều lớp bao phủ hoàn toàn tờ giấy và được đeo quanh cổ để bảo vệ thân và tâm của người đeo.
Hơn nữa, có những mảnh vải srun-ndud, dài khoảng 15 inch với một nút thắt cứng ở giữa. Nghĩa đen của srun-mdud là ‘nút thắt bảo vệ’. Những thứ này được trao trực tiếp cho những người đến gặp một vị Lạt ma cấp cao như Đức Đạt Lai Lạt Ma, cũng như các vị Lạt ma khác được coi là Phật sống. Màu đỏ dành cho người tu, chư tăng và màu trắng dành cho Phật tử. Người ta tin rằng người đeo những tấm bùa hộ mệnh này sẽ được bảo vệ khỏi những điều xui xẻo vì sức mạnh bảo vệ của các Lạt ma sẽ được khảm vào chúng. Có thể hữu ích để xem xét sự gia tăng của những suy nghĩ và ý tưởng như vậy. Khi các Lạt Ma đi vào trạng thái định bí mật để nhận được srun-ḥkhor, quá trình này thực hiện bằng cách giữ giới
để định tâm, một mặt thì phải hành trì để hoàn thiện các ba la mật và mặt khác phải thực hiện việc cứu độ chúng sanh. Như vậy, người đệ tử, người được thần lực bảo hộ sẽ được dẫn vào con đường giải thoát khỏi các thế lực của Ma vương, kẻ cám dỗ. Mối quan hệ mật thiết này giữa Lạt ma và các đệ tử của ngài cũng có thể được nhìn thấy trong lời chào có nội dung: “Xin hãy bảo vệ con, để con không bao giờ đi lạc khỏi phạm vi bảo vệ của Ngài”, điều này cho thấy mong muốn của các đệ tử là đạt được sự giác ngộ dưới sự bảo vệ của vị thầy.
- T
- Bùa chú ở Tích Lan.
Bùa hộ mệnh (Phạn ngữ là yantra và theo cách nói thông thường của người Tích Lan là yantare) được sử dụng cho rất nhiều mục đích ở Tích Lan. Ở đây chúng ta chỉ nói đến những loại có liên quan hoặc chịu ảnh hưởng của Phật giáo.
Ngay từ đầu, có thể đề cập rằng việc sử dụng bùa hộ mệnh và bùa chú (yantra-mantra) ở Tích Lan chắc chắn là có từ trước khi Phật giáo có mặt. Vì những điều này được kết nối với niềm tin vào ma quỷ, linh hồn, các vị thần, v.v., nên chúng thuộc lĩnh vực tín ngưỡng dân gian, kết nối với các quan niệm và thực hành theo thuyết vật linh và niềm tin vào sức mạnh huyền bí, các hành tinh, từ ngữ, âm thanh, sơ đồ, v.v. Khi Phật giáo trở thành tôn giáo của dân gian bình thường, lẽ tự nhiên là những tín ngưỡng và phong tục của đất này được mang màu sắc phật giáo và dần dần trở thành một phần tín ngưỡng và thực hành của những người theo đạo Phật. Các khái niệm tiền Phật giáo đã được thông qua, bất cứ khi nào có thể, để phù hợp với Phật giáo.
Một loại bùa hộ mệnh rất phổ biến, hoàn toàn là của Phật giáo như nó được sử dụng ngày nay, là ratnana-yantra được cho là có tác dụng bảo vệ rất mạnh mẽ chống lại mọi ảnh hưởng xấu xa, đặc biệt là các linh hồn xấu ác và các hành tinh. Loại bùa trong Ratana Sutta (Kinh Châu Báu, (Sn.vv. 222-38) được viết theo một cách đặc biệt trên lá đồng (tambakola) hoặc lá cọ (puskola) và được yểm bùa bằng chính bài kinh đó (Bauddha Adahilla của P. Wimaladhamma thera, 1947 , tr.288). Cũng nên nhớ rằng Kinh Ratana này được cho là đã được Đức Phật thuyết giảng tại thành Vesālī (Tỳ Xá Ly), khi thành phố đó bị đe dọa hủy diệt bởi mối nguy hiểm gấp ba lần là dịch bệnh đói kém và ảnh hưởng xấu xa của ma quỷ. Do đó, rõ ràng bài kinh này đã được các Phật tử địa phương lựa chọn như một loại bùa hộ mệnh.
Một loại bùa hộ mệnh quan trọng tương tự được sử dụng phổ biến trong Phật giáo là navaguṇa yantra hay bùa hộ mệnh của chín loại đức hạnh. Chín đức hạnh là của Đức Phật được đặt ra trong bài kệ Ân đức Tam Bảo nổi tiếng của Phật giáo iti’ pi so bhagavā, v.v. Cũng như ratana yantra, navaguṇa yantra cũng hoàn toàn là một bùa hộ mệnh Phật giáo được các Phật tử ở Tích Lan sử dụng theo cách tương tự như ratana-yantra. Trường hợp này cũng tương tự vậy, bài kệ được viết trên lá đồng hoặc lá cọ theo cách tương tự như ratana-yantra. Đây cũng là một loại bùa hộ mệnh rất phổ biến được sử dụng để bảo vệ chống lại mọi ảnh hưởng xấu xa do ma quỷ và các hành tinh mang lại, đặc biệt trong trường hợp trẻ em và cả sâu bệnh, chuột, v.v. (ibid. tr. 286).
Sīvalī yantra là một loại bùa hộ mệnh khác có liên quan đến Phật giáo. Đây là một loại bùa hộ mệnh được đặt theo tên của trưởng lão Sīvalī, vị thánh tăng có tài lộc bậc nhất (labhīnaṃ aggo) của Đức Phật Gautama. Bùa hộ mệnh này khác với hai loại bùa trên ở chỗ nó không dựa trên năng lực đến từ phẩm hạnh hay lời dạy của đức Phật, mà dựa trên niềm tin vào sức mạnh nhân cách của một đệ tử của Ngài. Người ta nói rằng trưởng lão Sīvalī không bao giờ bỏ bữa và ngay cả khi ở giữa rừng rậm, ngài vẫn được các chư thiên cúng dường thức ăn. Quả lành này là do những thiện nghiệp ngài đã làm ở quá khứ. Đó là kết quả của những công đức đã làm trong một kiếp trước và có một Sīvalī Paritta (ibid. pp. 287 ff.), trong đây câu chuyện của ngài được kể lại, ở cuối có một số bài kệ cầu xin sự ban phước của ngài cho người đọc tụng. Điều quan trọng trong toàn bộ khái niệm xoay quanh trưởng lão Sīvalī này là lời thỉnh cầu của ngài cũng như bùa hộ mệnh chủ yếu nhằm mục đích tăng thêm của cải vật chất cho người sử dụng chúng. Sīvalī là người bảo trợ đặc biệt cho các doanh nhân. Quan niệm này đã phát triển tột đỉnh trong rất nhiều gia đình Phật tử có thể nhìn thấy bức tranh của ngài Sīvalī trong tư thế đang dùng bữa, được treo trên bức tường phía trên lối vào chính của ngôi nhà. Ngài luôn được thể hiện trong tư thế đó và do đó rất dễ nhận ra ngài. Ngoài Sīvalī Paritta và tấm bùa hộ mệnh được kết nối, còn có một lời cầu nguyện gọi là Sīvalī dāhāna, nếu được lặp lại thường xuyên, được cho là sẽ mang lại lợi ích vật chất cho người trì tụng. Bùa hộ mệnh Sīvalī này cũng được viết bằng ô vuông trong sơ đồ theo một cách đặc biệt trên lá đồng hoặc lá cọ và được gắn bùa (ibid. tr. 285).
Có một bùa hộ mệnh khác của Phật giáo được cho là sẽ mang lại chiến thắng cho người đeo nó. Nội dung của bùa hộ mệnh
bao gồm ba khổ thơ tiếng Pali, trong đó cầu xin sự bảo vệ của Đức Phật, Pháp và Tăng cho người sở hữu nó. Theo truyền thống, người ta tin rằng vua uṭṭhgāmaṇī, khi lên đường gây chiến với Eḷāra, đã viết ba bài kệ này trước vương miện của mình để đảm bảo chiến thắng. Các bài kệ được lặp lại nội dung, và thay thế Phật ở bài kệ thứ nhất thành Pháp và Tăng ở hai bài kệ còn lại. Bài kệ đầu tiên là:
Buddho tilokasaraṇo – buddho suriyo tamonudo
evaṃ kho saranaṃ khenaṃ – buddho me saranaṃ varaṃ gacchantaṃ saranaṃ buddhaṃ – natthi mayhaṃ bhyaṃ sadā.
Loại bùa này cũng được viết theo phương pháp tương tự như trong các trường hợp trên.
Bài kệ sau đây cũng được sử dụng như một bùa hộ mệnh:
Sabbapāpassa akaraṇaṃ
Kusalassa upasam padā
sacittapariyodapanaṃ
etaṃ buddhānasāsanaṃ
Bài kệ này làm bùa bằng cách viết theo cách tương tự như trên hoặc bằng cách lặp lại nó 1000 lần. Đây cũng được coi là một lá bùa hộ mệnh chống lại tất cả các loại ảnh hưởng xấu. Người ta cũng tin rằng sau khi viết nó lên một chiếc lá cọ và biến thành bùa, nếu được treo trên cây hoặc trên cánh đồng, nó sẽ bảo vệ cây trồng khỏi sâu bệnh.
Một loại bùa hộ mệnh rất phổ biến được các trẻ em theo đạo Phật ở Tích Lan đeo là pañcāyudh hay bùa hộ mệnh của năm vũ khí. Loại bùa này khác với những loại bùa trên ở chỗ không có chữ viết nào cả mà năm vũ khí được chạm nổi trên một miếng bạc hoặc vàng hình tròn hoặc hình bầu dục và được treo vào cổ đứa trẻ. Bất chấp sự phổ biến của nó, nguồn gốc của bùa hộ mệnh gần như bị mất an toàn. Mặc dù người ta thường tin rằng điều này có liên quan đến chuyện Tiền thân pañcāyudha (Số 55) nhưng có vẻ không đáng tin cậy vì vũ khí được đề cập trong câu chuyện không hoàn toàn giống với những thứ được thể hiện trên tấm bùa hộ mệnh, thường là vỏ ốc xà cừ (saṅkha), vũ khí (cakra), chùy (gadā), cung (dhanu) và kiếm (khaḍga). Năm vũ khí này, theo một truyền thống khác, là năm trong số nhiều vũ khí của thần Viṣṇu. Do vì Viṣṇu có nhiều mối liên hệ với Phật giáo phổ biến của Tích Lan, nên rất có thể pañcāyudha đại diện cho những vũ khí này của Viṣṇu và khái niệm về chiếc bùa hộ mệnh này không có mối liên hệ nào với tên gọi đó trong chuyện Tiền thân. Quan điểm này càng được chứng thực bởi thực tế là thay vì pañcāyudha, đôi khi hình tượng của thần Viṣṇu được chạm
nổi trên một chiếc lá làm bằng bạc hoặc vàng và được trẻ em đeo. Cây bồ đề, như được biết đến, là loại cây linh thiêng thất đối với những người theo đạo Phật, và Viṣṇu, vị thần bảo hộ trong Tam thể của Ấn Độ giáo, được cho là vị thần bảo hộ cho Phật giáo ở Tích Lan.
Có một bùa hộ mệnh được cho là mang lại chiến thắng trong các vụ kiện. Nó không phải là một bùa hộ mệnh thuần túy của Phật giáo nhưng trong văn bản ngắn của bùa hộ mệnh, các phước lành của Đức Phật được cầu khẩn. Bùa hộ mệnh được cuộn lại và bỏ vào túi trước khi đi đến phiên tòa (Exorcism And The Art Of Healing In Ceylon, P. Wirz, p. 210).
Một loại bùa hộ mệnh khác dựa trên niềm tin vào hiệu quả của sức mạnh của Đức Phật, Pháp và Tăng và của các vị thần trong bùa hộ mệnh được sử dụng để chữa bệnh cho trẻ em bị tiêu chảy. Trong trường hợp này, những hình vẽ với các đường thẳng và hình tam giác cùng với một số ký tự thần bí được yểm một câu thần chú liên quan đến sự gia trì của Tam Bảo và các vị thần. Được viết trên lá cọ, sau khi làm thành bùa sẽ được đeo vào cổ đứa trẻ (ibid. tr. 216). Có một loại bùa hộ mệnh khác cùng loại được sử dụng để bảo vệ chống lại những ảnh hưởng xấu của hành tinh (ibid. tr. 217)
Tất cả những bùa hộ mệnh này được sử dụng ở Tích Lan đều là những bùa hộ mệnh và chúng luôn được bên trong một chiếc túi đựng bùa làm bằng sáp ong hoặc một số kim loại quý. Xem thêm The Journal Of The Royal Anthropological Institute Of Great Britain And Ireland, Vol. XXXVIII, 1908, trang 148 ff.
A.G. S. K.