AMITĀRTHA SŪTRA

AMITĀRTHA SŪTRA, một bộ kinh Đại Thừa đã được đưa vào kinh Pháp Hoa (Saddharmapuṇḍarīka) bản tiếng Nhật với tựa đề là Hokkekyō (Taishō, 262). Nó không phải là một phần của bản kinh Pháp Hoa gốc mà sau này tự ý thêm vào như là tác phẩm của một tác giả Trung Quốc, khi ấy tựa đề được dịch từ tiếng Phạn sang tiếng Nhật là Muryōgikyō (ibid. 278). Đây được coi là phần mở đầu cho giáo lý viên mãn của kinh Pháp Hoa’, các tác giả Nhật Bản đã thêm một bộ kinh khác có tựa đề Kwan-Fugengyō, để tạo thành phần kết cho bản kinh chính. Tên tiếng Hán của Amitārtha Sūtra Vô Lượng Nghĩa Kinh, tương truyền rằng bản kinh được dịch bởi ngài Dharmajātayaśas triều đại Tohin (CN 479-502). Có một bản dịch trước đó, nhưng nó đã bị thất lạc vào năm 730 CN (Nanjio, 133).

Không giống như bản kinh chính của Kinh Saddharmapuṇḍarīka, kinh Amitārtha ít nói đến các giáo lý cao tột do Phật Thích Ca thuyết. Nhưng nó đóng một vai trò nổi bật trong các nghi lễ và nghi lễ tôn giáo phổ biến phổ biến trong giới Phật tử Nhật Bản, đặc biệt là phật tử của Thiên Thai tông.

Người ta nói rằng trong một buổi lễ Thiên Thai tông, còn được gọi là Hokke Sanjūko, 28 chương của Kinh Saddharmapuṇḍarīka (Pháp Hoa) được tụng trước kinh Amitārtha và tiếp theo là kinh Kwan Fugengyō, trong tất cả 30 chương, đã được giải thích. Điều này cho thấy rõ ràng rằng hai bộ kinh được thêm vào, cụ thể là Amitārtha Sūtra Kwan Fugengyo, chủ yếu được sử dụng cho mục đích ma thuật, khác với giáo lý Enshunji-Hokko hoặc Enshuji Go hakko, một lễ hội hàng năm vào tháng mười hai, kéo dài 5 ngày, sẽ làm sáng tỏ thêm về nguồn gốc và nội dung nghi lễ của nó, trong đó kinh Amitārtha cũng được tụng đọc (M. W. de Visser, Ancient Buddhism in Japan, phần I và II, trang 270, 342, 677).

W. S. Kt.