AMARAKOṢA
AMARAKOṢA, một từ điển các từ đồng nghĩa tiếng Phạn được viết bằng thơ bởi Amarasiṃha, cũng được biết đến như một nhà thơ, người đặt tên cho cuốn từ điển này. Nāmaliṅgā-nuśāsana là tên mà tác giả đã đặt cho nó. Vì không rõ niên đại chính xác, nên các học giả cho rằng nó nằm trong khoảng từ năm 400 đến 600 sau công nguyên (Xem A. Macdonell, A History of Sanskrit Literature, 433; cp. A. Berriedale Keith, A History of Sanskrit Literature, 413 và Weber, History of Indian Literature, 229 ff.)
Tác phẩm này được chia thành 3 phần theo các chủ đề, mỗi phần chứa một số chương – lại được chia lại thành các phẩm, phù hợp với các chủ đề cụ thể mà chúng đề cập. Vì vậy, chúng ta thấy phần đầu tiên được chia thành 10 phẩm, trong đó phẩm đầu tiên là về Thiên đường (svarga-varga), chứa tên của không chỉ của các vị thần như Viṣṇu, Brahmā và Yāma, mà còn có cả tên của các Đức Phật; ví dụ, bà con của chủng tộc mặt trời (arka-bandhu). Phẩm về kịch (nāṭya-varga) chứa nhiều thông tin về âm nhạc. Mặc dù ngắn, nhưng các phẩm về âm phủ (pātāla-varga), đề cập đến các tầng địa ngục (rasātala) và vua rắn (Ananta), và một phẩm về địa ngục (naraka-varga), trích dẫn dòng sông địa ngục (vaitaraṇī) và ngạ quỷ (preta), chứa nhiều thông tin quý giá.
Trong số 10 phẩm ở phần hai, phẩm về con người (manuṣya-varga) chứa đựng một kho thông tin về đàn ông, phụ nữ, sức khỏe, bệnh tật và y phục, ví dụ đưa ra những từ, biểu thị nữ giáo thọ (upādhyāyā), phụ nữ giống đàn ông (potā), phụ nữ kết hôn lần 2 (punarbhū, didhiṣū). Len (rāṅkava) được trích dẫn, bên cạnh vô số các nguyên liệu may mặc khác. Từ chỉ lở loét cũng được tìm thấy (nāḍīvraṇa). 4 phẩm đề cập đến 4 giai cấp: Bà-la-môn (brāhmaṇas), Sát-đế-lợi (kṣatriyas), Phệ-xá (vaisyas) và Thủ-đà-la (śūdras) có giá trị to lớn vì cho chúng ta hiểu hơn về trật tự xã hội và thực hành tôn giáo.
Phần ba bao gồm năm phẩm, đưa ra các phẩm hạnh của con người, phẩm chất của sự vật và một phẩm về nhiều khía cạnh hỗn tạp (saṅkīrṇa-varga); và 2 chương cuối ở dạng phụ lục, đề cập các từ đồng âm kết thúc bằng ka, kha, v.v., và cả các từ không biến cách và giới tính.
Tác phẩm này hiện còn trong bản dịch tiếng Tây Tạng, Ḥchi-ba med-paḥi mdsod (shes-bya-ba), trong phần Sgra-mdo (Śabda-vidyā) của Tengyur. Tác giả là Ḥchi med seṅ-ge (hay Ḥchi-ba med-paḥi seṅ-ge = Amara-siṃha); Kīrticandra và Grags-pa rgyal-mtehan (Kīrtidhvaja của Yar-luṅs) đã dịch tác phẩm này sang tiếng Tây Tạng. Tác phẩm này được xếp vào phần Mdo-bgrel hay chú giải bài kinh trong Cordier (III, trang. 465, Số I; TM. Số 4299). Rainaud nói rằng hiện còn một bản dịch tiếng Hán (Weber, loc. cit.).
Từ điển các từ đồng nghĩa tiếng Pali, Abhidhānappadīpikā, gần giống với tác phẩm này.
S. K. N.