AMARĀ (1), vợ của Bồ-tát trong kiếp ngài sinh làm Mahosadha. Cô là con gái của một thương gia (seṭṭhi), người đã rơi vào những ngày xui xẻo. Một ngày nọ, khi đang mang bữa ăn cho cha mình đang cày ruộng, cô gặp Mahosadha, vốn cải trang thành một thợ may để đi tìm một người phù hợp làm vợ.  Họ hỏi chuyện qua lại, Mahosadha đặt nhiều câu hỏi và câu trả lời, cả câu hỏi lẫn câu trả lời đều bằng các câu đố.  Tại nhà của cha cô gái, Mahosadha miệt mài làm công việc của một thợ may, đồng thời nhân cơ hội quan sát hành xử của Amarā.  Mahosadha đã thử nhân cách và tính khí của cô theo nhiều cách khác nhau. Hoàn toàn hài lòng, ngài đưa cô gái đến Mithllā để kết hôn với sự chấp thuận của hoàng hậu Udumbarā. Với những phẩm chất đáng yêu của mình, Amarā đã được tất cả mọi người thương mến, và với trí tuệ của mình, cô đã giúp phu quân mình đánh bại những nỗ lực làm hại chàng của kẻ thù (J. VI, 364-72, 392). Tình tiết kịch tính nhất là cách cô ấy đánh lừa được 4 người đàn ông khôn ngoan (công khai làm hại chồng cô), những người đã đánh cắp 4 tài sản của nhà vua, rồi cố vu oan cho chồng cô (để khiến nhà vua nổi cơn thịnh nộ với chàng) và chiếm được cảm tình của cô (Pl. XXIX, dưới cùng.) Amarā là Bimbā Sundarī trong một tiền kiếp (ibid. 478).       .

Trong Milinda vấn đạo (Milindapañha) (trang 205 ff.), vị vua đề cập đến câu chuyện Amarādevī cưỡng lại những cám dỗ phản bội chồng mình. Vua Milinda hỏi “Nếu câu chuyện đó có thật, liệu Ngài có thể biện minh cho tuyên bố của Đức Phật rằng mọi người nữ trên thế gian này đều làm điều sai trái, tà hạnh, ngay cả với nam nhân què quặt?” Đại đức Nāgasena giải thích rằng Amarādevī không phản bội chồng vì cô không có nơi kín đáo thực sự, không có cơ hội, cũng không có người tán tỉnh phù hợp.  Tuyên bố được cho là của Đức Phật xuất hiện trong chuyện tiền thân Kunāla (J. V, 435). Malalasekara nhận xét rằng tuyên bố đó không thực sự là của Đức Phật.  Nó được vay mượn từ truyền thuyết dân gian Ấn Độ và không phải là tín ngưỡng Phật giáo (DPPN.).

Theo Mahāvastu (II, 83 ff.) Amarā là con gái của một thợ rèn. Cô trả lời các câu hỏi của Mahaṣeadha bằng các câu đố nhưng những câu hỏi và câu trả lời này không hoàn toàn giống với những câu hỏi và câu trả lời trong Chuyện tiền thân Mahā-Ummagga tiếng Pali. Cha của Amarā chỉ đồng ý gả cô cho Mahaṣeadha khi anh chứng tỏ được kỹ năng gia công kim loại của mình bằng cách tạo ra một số cây kim cực nhỏ. DPPN. và CPD đồng nhất câu chuyện trong Mahāvastu với câu chuyện trong Chuyện tiền thân Mahā-Ummagga. Edgerton (BHS.) lại đồng nhất nó với Chuyện tiền thân Sūci (J. III, 281 ff.).  Tuy nhiên, Chuyện tiền thân Sūci không đề cập đến tên của các nhân vật và các câu đố của Amarā không xuất hiện trong đó. Vì những câu chuyện được trình bày của cả Chuyện tiền thân Mahā-UmmaggaChuyện tiền thân Sūci đều giống hệt nhau, nên Edgerton gợi ý rằng tên của anh hùng và nữ anh hùng có thể đã được chuyển từ chuyện tiền thân này sang chuyện tiền thân kia.

C. W.

AMARĀ (2), tên một con sông, được đề cập trong Mahāmāyūrī (253.6) giữa Viśvāmitrā và Tāmarā (BHS.).