ALPĀKṢARA-PRAJÑA-PĀRAMITĀ

ALPĀKṢARA-PRAJÑA-PĀRAMITĀ (hay Svalpākṣara0), một tác phẩm tiếng Phạn, phiên bản tiếng Hán có tên là Thánh Phật mẫu Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh, tức là Āryabuddhamātṛkālpākṣara-prañāpāramitā Sūtra. Bản gốc không ghi tác giả và thời gian.  Theo thông lệ, một số tu sĩ Phật giáo Đại Thừa ở Ấn Độ đã tự biến đổi một số bài kinh thành các công thức huyền thuật có tựa là Đà-la-ni (dhāraṇī) (chú bảo hộ).  Ví dụ, dạng ngắn nhất của các bài kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa được dùng làm Đà-la-ni, trong đó, Alpākṣara-prañāpāramitā là một ví dụ điển hình (Winternitz, A History of India Literature, II, trang 381).

Trong bài kinh này, Đức Phật thuyết Alpākṣara-prañāpāramitā-dhāraṇīPrañāpāramitā- dhāraṇī tại núi Linh-thứu cho 1250 vị Tỳ-kheo, vô số Bồ-tát, v.v., theo lời thỉnh cầu của Bồ-tát Quán Thế Âm. Và Đức Phật nói, những ai hành trì Đà-la-ni này sẽ chứng được Phật quả (Taishō, Số 258).

Bản gốc tiếng Phạn được dịch sang tiếng Hán (Nanjio, 797) bởi T’ien-hsi-tsai của đời Tống sau này (960-1127 sau công nguyên). Bản dịch này này phù hợp với bản dịch tiếng Tây Tạng của tác phẩm, có tựa là (Ḥphags-pa) Śes-rab-kyi-pha-rol-tu-phyin-pa yi-ge ñuṅ-ṅu shes-bya-ba theg-pa chen-poḥi mdo. Tựa đề tiếng Phạn được khôi phục từ bản dịch tiếng Tây Tạng là Ārya-svalpākṣara- prañāpāramitā-nāma-mahāyāna-sūtra.  Không đề cập đến tên dịch giả dịch bộ luận gốc  tiếng Phạn sang tiếng Tây Tạng (TM. số 22). Trong tuyển tập tiếng Saụskrit, tác phẩm này nằm trong các đại Đà-la-ni.  Người đối thoại với Đức Phật là Bồ-tát Quán Thế Âm.

K. T.