ALAGIYAVANNA

ALAGIYAVANNA, một nhà thơ thành công ở Tích Lan vào cuối thế kỷ 16.  Ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống học rộng và nhiều mối quan hệ, cha của ông là Dharmadhvaja của Hisvālla, người am tường về tôn giáo và phục vụ cho vua Rājasiṃha I của Sītāvaka.  Người con trai (Alagiyavanna) cũng trở thành một thi sĩ hoàng cung, là một trong những tên tuổi được người Sinhalese nhớ đến nhiều nhất. Ông lấy bút danh Mukavāṭi (Mukaveṭṭi hoặc Mohoṭṭāla). Là tác giả của các bài thơ Subhāṣitaya, Kusadākava (1610 sau công nguyên), Sāvul-sandēśayaDahamsoñḍakava.

Bài thơ đầu tiên của ông, Subhāṣitaya (nghĩa là Lời khéo nói) bao gồm những câu nói dùng làm kim chỉ nam trong sự giao thiệp thế gian. Tuy nhiên, một số chứa đựng những chân lý của Giáo pháp Phật giáo. Mặc dù giống hoàn toàn nguyên bản, những câu nói này lại được quần chúng yêu thích và được

 

TẤM XXIX

AK-TEREK : Tượng Phật từ địa điểm cổ đại này ở Khotan. (Từ: M. Aurel Stein, Ruins of Desert Cathay, I, Pl. 78.)

Bản quyền: Cục Khảo cổ học, Ấn Độ.

ĀḶAVAKA lên đường chống lại Đức Phật nhưng sau đó bị nhiếp phục. Pa-nen từ Nāgārjunakoṇḍa.

Bản quyền: Cục Khảo cổ học, Ấn Độ.

AMARĀ làm những kẻ âm mưu chống lại người chồng Mahosadha của cô phải thất bại (Chuyện tiền thân số 546).  Pa-nen từ Nāgārjunakoṇḍa

 

TẤM XXX.

Bản quyền: Khảo sát Khảo cổ Ceylon.

ĀḶĀHAṆA PARIVEṆA, Polonnaruva : Tu viện (Laṅkātilaka) và bảo tháp (Kiri Vehera) của quần thể.

Bản quyền: Khảo sát Khảo cổ Ceylon.

BẢO THÁP AMBATTHALA, ngày nay là Mihintalē.

 

mọi Phật tử Sinhala đọc tụng.  Kusadākava là câu chuyện tiền thân của Bồ-tát là vua Kusa.  Một vị vua ở thế kỷ 13 được cho là đã viết một bài thơ bằng tiếng Sinhala, với tựa đề Kavsiḷumiṇa, về chủ đề tương tự.  Cũng có những phiên bản tiếng Tây Tạng và tiếng Nepal.  Bài thơ của Alagiyavanna lồng ghép nhiều câu nói khôn ngoan của dân tộc ông và ít nhiều có chủ đề về nghiệp làm bài học. Sāvul-sandēśaya thuộc loại thơ ‘sứ giả chim’ được ưa chuộng cùng bài Mēghadūta (sứ giả mây) của thi sĩ Kālidāsa người Ấn Độ.  Vị vua mà nhà thơ của chúng ta phục vụ đã tham gia vào các cuộc chiến tranh với người Bồ Đào Nha và có lẽ vì lý do này; Alagiyavanna đã sai sứ giả của mình (một con chim đực) truyền tải một cách ẩn dụ bài thơ – lời cầu nguyện đến thần Sumana của Saparapura, mong thần phù hộ cho nhà vua cùng quân đội của ông. Dahamsoñḍakava (một số người coi đó là tác phẩm của cha ông) kể lại một câu chuyện tiền thân của Bồ tát, nhưng không thể tìm được câu chuyện này trong tuyển tập chuyện tiền thân đã biết.  Tuy nhiên, đây là câu chuyện đầu tiên trong Rasavāhinī (q.v.), tuyển tập các câu chuyện bằng tiếng Pali xen kẽ với các trích dẫn bằng thơ được viết vào thế kỷ thứ 13 bởi trưởng lão Vedeha người Tích Lan. Bài thơ của Alagiyavanna được viết theo lời thỉnh mời của Mukaveṭṭi Samaradivākara, người được đồng nhất với người anh hùng của bài thơ ca tụng Vikramasiṃha Adikāram Varṇanāva, trong đó ông lấy các bút danh là Senānāyaka, Vikramasiṃha, Disāvē (quan huyện) của tỉnh Sabaragamuva, Mudali và Baṇḍāra. Bài thơ bộc lộ lòng súng kính tôn giáo mãnh liệt của nhà thơ.  Cũng như tài văn thơ bay bổng của ông.

Có một bài thơ khác được một số người cho là của Alagiyavanna. Đây là Kustantīnu-haṭana, một bài thơ ca tụng vị tướng người Bồ Đào Nha Constantine de Sa de Noroñha, nhân dịp ông đánh thắng quân nổi dậy Sinhala được lịch sử biết đến qua lễ rửa tội Công giáo La Mã có tên là Antonio – Barreto. Vì điều này, mà một số nhà văn gọi Alagiyavanna là một tín đồ Cơ đốc.  Tuy nhiên, quyền tác giả vẫn còn gây tranh cãi, việc đổi đạo của nhà thơ không được quyết định từ tác phẩm này.  Tuy nhiên, các nhà văn Tích Lan trong thời điểm bị Bồ Đào Nha cai trị tuyên bố rằng ông là một tín đồ Cơ đốc được tuyên xưng vào năm 1616 sau công nguyên.  Ông là một trong 3 tín đồ Cơ đốc người Sinhala, họ tuyên bố, là thuộc bộ tứ người Sinhala đã hỗ trợ biên soạn Tombo (đăng ký các vùng đất) của Hai Kōralē và đồng thời phục vụ tại Supplementary Tombo bổ sung trong pháo đài của Bồ Đào Nha, nền tảng tồn tại như nền tảng của Sabaragamuva Maha Saman Dēvālē trong Ratnapura.  Tuyên bố về sự đổi đạo của Alagiyavanna dựa

 

trên cơ sở vững chắc hơn trong trường hợp này. Khi đó ông đã khá cao tuổi, vì người Bồ Đào Nha gọi ông là Dom Jeronimo Alagiyavanna Old Mohoṭṭāla.  Đối với người Bồ Đào Nha, người bản địa thường phải chấp nhận đức tin của những người bảo trợ của họ thay vì các tín ngưỡng khác.  Ngược lại, truyền thống cho rằng ông qua đời với tư cách là một Phật tử.  Supplementary Tombo được hoàn thành vào ngày 12 tháng 6 năm 1622 sau công nguyên, đây là thời điểm cuối cùng về cuộc đời của Alagiyavanna mà chúng ta được biết đến.

Alagiyavanna cũng được cho là tác giả của Nītisāraya, Maha Haṭana, Paraṅgi Haṭana, Muniguṇa Ratnamālaya, Dussīlavata và Sṛṅgāraya, phần lớn không được công bố.

Vị trí chắc chắn của ông nằm ở chỗ ông sáng tác thơ vào thời điểm đất nước hết sức biến động và gian khổ. Việc học ở mức thấp nhất có thể.  Rājasiṃha I quan tâm đến việc phòng thủ hoặc chinh phục và thực sự đã từ bỏ Phật giáo để theo Ấn giáo Śaivite và phá hủy toàn bộ thư viện kinh sách Phật giáo. Vì vậy, Alagiyavanna, bằng các công trình cao quý của mình, đã giữ được ngọn lửa nhiệt thành cho các tín đồ Phật giáo vào thời điểm đất nước trải qua nạn tai chưa từng có.

D. T. D