AKṢOBHYA-TATHĀGATASYA-VYŪHA-NĀMA-MAHĀYĀNA-SŪTRA
AKṢOBHYA-TATHĀGATASYA-VYŪHA-NĀMA-MAHĀYĀNA-SŪTRA hay Ārya-Akṣobhya0, một tác phẩm tiếng Phạn hiện còn trong bản dịch tiếng Hán và tiếng Tây Tạng.
Chih Lou-chia-ch’ên của nhà Đông Hán (25-220 sau công nguyên) đã dịch bài kinh này sang tiếng Hán dưới tựa đề (Phật Thuyết) A Súc Phật Quốc Kinh. Bất Động Như Lai Hội là bản dịch sau này của bài kinh được chuyển ngữ bởi Bodhiruci của nhà Đường, 618-907 sau công nguyên. Những bản dịch này được tìm thấy trong phần Pao-tsi-pu (Ratnakūṭa, Bảo tích) của Ching-tsang (Kinh Tạng) của Tam tạng Phật giáo tiếng Hán. Xem Nanjio, Số 23 (6) và 28: Taishō, Số 310 (6) và 313.
Bản dịch tiếng Tây Tạng của bài kinh này, cụ thể là, (Ḥphags-pa) De-bshin-gśegs-pa mi-ḥkhrugs-paḥi bkod-pa shes-bya-ba theg-pa chen-poḥi mdo, được tìm thấy trong phần Dkon-brtsegs (Ratnakūṭa, Bảo tích) của Kangyur (TM. số 50). Được dịch bởi Jinamitrh, Surendrabodhi và Ye-Ses sde.
Đức Phật thuyết giảng về Phật A-súc-bệ tại Gṛdhrakūṭa theo lời thỉnh cầu của tôn giả Xá-lợi-phất.
Đức Phật ‘đại nhãn’ giảng về 6 ba la mật (pāramitā) ở Diệu Hỷ Quốc (Abhirati). Khi nghe Ngài thuyết pháp, một vị Tỳ-kheo đã phát nhiều lời nguyện, điều đầu tiên là không nổi sân, không chỉ với con người mà còn với mọi chúng sanh khác. Vì vậy, Ngài được gọi là Bồ-tát A-súc-bệ hay ‘vô sân’. Ngài đã thực hành Bồ-tát đạo và chứng được Phật quả. Phật A-súc-bệ hiện đang thuyết pháp cho các đệ tử của Ngài ở Diệu Hỷ Quốc.
Đây là bài kinh cổ nhất hiện còn đề cập đến Tịnh độ, và được coi là tiền lệ của Amitāyurvyūha (Moc. trang 204).
E. H. P.