AJJUNA (1), tên của hai vị Phật quá khứ.  Cả hai đều được mô tả theo cùng một thuật ngữ trong Apadāna và dường như giống hệt nhau chỉ khác về thời kỳ mà hai vị sinh sống.

Theo Apadāna (Số 385) Đức Phật Ajjuna sống cách đây 91 kappa (kiếp) và khi Ngài đang cư ngụ ở Hy Mã Lạp Sơn, trưởng lão Panasaphaladāyaka đã cúng dường Ngài một trái jak to bằng cái bình, trên một chiếc đĩa lá.

Đức Phật Ajjuna còn lại được đề cập trong Apadāna (Số 504) – nói rằng 94 kappa về trước, trưởng lão Ajelaphaladāyaka đã cúng dường trái ajela theo cách tương tự cho Đức Phật Ajjuna khi Ngài đang cư ngụ ở Hy Mã Lạp Sơn.

 

AJJUNA (2), một trưởng lão A-la-hán và là tác giả của bài kệ số 88 trong Trưởng lão tăng kệ.  Ngài là con trai của một trưởng khố ở Xá-vệ.  Khi còn trẻ, ngài kết giao với Nigaṇṭhas (Ni-kiền-tử) và khi còn rất trẻ, ngài đã gia nhập đạo tràng của họ, để tìm cầu sự chứng ngộ.  Nhưng không thỏa mãn.  Một lần, khi được chứng kiến các cặp đôi thần thông của Đức Phật, ngài đã phát khởi tín tâm và xin xuất gia.  Khai mở tuệ giác, chẳng bao lâu ngài đắc quả A-la-hán (ThagA. I, trang 195-7).

Những tiền kiếp của ngài được thuật lại trong cả Theragāthā Aṭṭhakathā, và trong Apadāna dưới tên Sālapupphadāyaka (Ap. I, Số 139).  Vào thời Đức Phật Tỳ-bà-thy, ngài sinh làm con sư tử và hài lòng với Đức Phật – đang ngồi dưới gốc cây trong rừng, ngài đã cúng dường Đức Phật một cành hoa sāla đang nở rộ. (Trong Apadānaṭthakathā, là Đức Phật Thy-khí chứ không phải Đức Phật Tỳ-bà-thy.)  Nhờ kết quả của thiện nghiệp này, sau đó ngài không còn sinh vào ác đạo và tái sinh giữa chư thiên và loài người. Ngài 3 lần sinh làm chuyển luân vương (cakkavatti) tên là Virocana.


AJJUNA (3), vua của xứ Kekakās và là một cung thủ thiện xạ.  Một lần, ông chọc tức nhà hiền triết Gô-ta-ma và bị tiêu diệt mặc dù có thân hình to lớn và hàng nghìn cánh tay (J. V, 267).  Theo Chuyện tiền thân Sarabhaṅga (J. V, 135, 143 4; DA. I, 266), ông bị ném thẳng vào địa ngục vì tội giết thánh hiền Aūgīrasa. Cả hai tên, Aṅgīrasa và Gô-ta-ma, dường như đều đề cập đến cùng một người (DPPN. I, 787). Chuyện tiền thân Bhūridatta mô tả mỗi cặp tay trong 1000 cánh tay của ông cầm một cây cung và dâng lễ vật cho các vị thần (J. VI, 201).  Ông được đồng nhất với Kārtavīrya Arjuna của Kathāsaritsāgara (trsl. c. H Tawney, II, 391, 639) và Uttara-khāṇḍa của Rāmāyaṇa.  Theo nguồn sau này, Arjuna từng chặn dòng sông Narmadā bằng 1000 cánh tay của mình khiến nước tràn vào bờ và chảy theo hướng ngược lại. Rāvaṇa, vua xứ Laṅkā, đang cắm trại bên bờ sông, bực tức vì điều này và gây chiến với ông ta. Nhưng Arjuna đã đánh bại nhà vua trong một trận chiến một-một và bắt ông làm tù binh. Tuy nhiên, sau đó, nhà vua được Arjuna thả tự do theo yêu cầu của Pulastya (Rāmāyaṇa, III, phần xxxvii và xxxviii, trsl. N.N. Dutt).

AJJUNA (4), con trai thứ 7 của Devagabbhā và Upasāgara, và là 1 trong 10 anh em được gọi là Andhakaveṇhudāsaputtā (J. IV, 81; PvA. 93, 111). Xem ANDHAKĀVEṆHU-(DĀSA-) PUTTĀ.