AJITAMĀNAVA-PUCCHĀ
AJITAMĀNAVA-PUCCHĀ, câu hỏi đầu tiên trong 16 câu hỏi trong Phẩm Pārāyana của Kinh Tập (vv. 1032-9). Nó ghi lại cuộc gặp gỡ giữa Ajita, đệ tử của Bà-la-môn Bāvarī, và Đức Phật.
Phần trước, Vatthugāthā (phần mở đầu), thuật lại những sự kiện dẫn đến chuyến viếng thăm Đức Phật của Ajita. Sau khi hoàn thành sứ mệnh mà thầy mình giao phó, Ajita tiếp tục hỏi Đức Phật những câu hỏi của bản thân, tạo thành chủ đề của Ajitamāṇava-pucchā.
Đối với câu hỏi của Ajita về những chướng ngại và nguy hiểm của thế gian này, Đức Phật trả lời rằng thế gian này bị
vô minh che phủ, rằng nó không hiển hiện rõ vì tham lam và giải đãi; nó bị nhuốm bẩn bởi ái dục và mối nguy hiểm lớn nhất của nó là từ đau khổ. Để trả lời cho những câu hỏi khác, Đức Phật tuyên bố rằng chính chánh niệm ngăn chặn dòng chảy của tội ác, và trí tuệ kiểm soát dòng chảy của chúng. Thân tâm (nāmarūpa) sẽ chỉ chấm dứt khi thức (viññāṇa) chấm dứt. (Trong phần chú giải, điều này được giải thích là sự tóm tắt của Tứ Diệu Đế: SnA. II, 587; NdA. III, 7.) Khi được Ajita hỏi về cách sống cho người đã tu tập, người chưa tu tập và cho phàm phu, Đức Phật chủ trương đời sống của một vị Tỳ-kheo: một Tỳ-kheo không nên ham thích các khoái lạc, nên có tâm không xao động, và nên am hiểu mọi việc. Một vị Tỳ-kheo nên tự hành xử bằng chánh niệm. Sau cuộc gỡ với Đức Phật, Ajita đã trở thành một Tỳ-kheo.
Trong ấn bản tiếng Thái của Culla Niddesa, Ajitamāṇava-pucchā được gọi là Ajitamāṇavaka-pañhā trong khi trong các ấn bản khác của Culla Niddesa và trong chú giải Niddesa cũng như trong chú giải Kinh Tập, nó được gọi là Kinh Ajita. Ngoài những chú giải này, bài kinh này cũng đã được thảo luận rất nhiều trong Nettippakaraṇa (trang 10-21). Ở những nơi khác, Nettippakaraṇa nói rằng lời giải thích của Đức Phật có bản chất là câu trả lời cho các câu hỏi chứ không phải do chính Ngài chủ động (giải thích) (trang 70-72).
Ajitamāṇava-pucchā đã được trích dẫn trong chương III của Kinh Đại Bát Niết-bàn. Một lời giải thích về bài kệ 1038 của tôn giả Xá-lợi-phất – được Đức Phật chấp thuận, được tìm thấy trong Tương Ưng Bộ Kinh (II, trang 47-50). Atthasālinī cũng trích dẫn bài kệ 1035 tại trang 351.
Pucchā này trong śloka metre. (Xem UCR. IX, 1, Tháng 1 năm 1951, ‘Suttanipāta: Pucchās of Pārāyana Vagga’, trong đó N. A. Jayawickrama đã thực hiện một nghiên cứu về bài kinh này và cũng đã phân tích bằng chứng về ngôn ngữ và ngữ pháp cho thấy tính cổ xưa của bài kinh này.)
Xem thêm PĀRĀYANA VAGGA, AJITA (5).
L. R. G