ADORNMENT (SỰ TRANG NGHIÊM)

ADORNMENT (SỰ TRANG NGHIÊM). Tiếng Phạn là vyūhaalaṅkāra có nghĩa là “sự trang hoàng lộng lẫy” hoặc “đồ được trang trí tinh xảo”. Để chính xác hơn, trong những bối cảnh tôn giáo, chúng chỉ sự trang hoàng cho những ngôi đền hay Cõi Phật bằng vàng, bạc và các loại đá quý khác nhau, hoa sen và những loại hoa khác, cờ, biểu ngữ và hoa trang trí của hình ảnh Đức Phật, hay sự trang hoàng của thân thể và phẩm giá với lọng, trang phục, vương miện, chuỗi hạt ngọc, hay sự trang hoàng hình tượng của những thực hành tôn giáo của các Bồ-tát và những công đức đạt được từ kết quả của sự thành tựu những thực hành này. Nhìn chung, vyūha có nghĩa là sự trang nghiêm của đồ vật, và alaṅkāra là sự trang nghiêm của thực hành và công đức. Miêu tả sự trang nghiêm của Cõi Phật khi Đức Phật thuyết Pháp, Ta-p’in-panojo-ching đã liên hệ cách mà tại thời điểm đó toàn bộ thế giới chuyển thành một bông hoa báu trên đó là những biểu ngữ lụa và lọng được giăng lên như thế nào và nơi mọi cây cối với hương thơm ngọt ngào và những cây hoa được tô điểm. Để chuyển dịch cho phần này, (Đại Phẩm Bát Nhã Kinh), 10, giải thích như sau: “Với bốn giai đoạn Thiền, khả năng thay đổi thế giới thành mười bốn hình thức khác nhau, Đức Phật có thể trang nghiêm tất cả các loài cây có hoa và có hương thơm cũng như toàn bộ bề mặt trái đất và có thể làm hài hoà và đem đến những điều tốt lành cho các sinh vật sống ở đó. Ngài trang hoàng thế giới để thuyết giảng Bát-nhã Ba-la-mật-đa và cũng để nghênh đón vô số các Bậc Bồ-tát của thế giới trong mường phương và những vị ở các thế giới khác nhau tới để gặp mặt nhau. Khi thỉnh mời một vị khách danh dự, người đàn ông sẽ trang hoàng ngôi nhà của mình, một vị Vua trang hoàng vùng đất của mình, một cakravarti-rāja bốn đại lục và một brahma-rāja vũ trụ vĩ đại của vị là một trăm triệu thế giới. Đức Phật là giáo chủ của các thế giới nhiều vô lượng như cát sông Hằng trong mười phương. Ngài tiếp nhận các vị Bồ-tát từ thế giới vô lượng và đối tượng của những thế giới khác. Khi nhìn vào sự trang nghiêm được Đức Phật thực hiện, trong lòng họ sẽ phát sinh cảm giác của sự thanh tịnh và hoan hỷ với những người nhìn họ và vì thế cuối cùng sẽ dẫn dắt họ tới sự giác ngộ tối thượng. Đây là một ví dụ của sự trang nghiêm trong Cõi Phật, và ở đây chúng ta có thể thấy ý nghĩa của những sự trang nghiêm này.

Có vô số Kinh điển và A-tì-đạt-ma-câu-xá luận (abhi-dharmakósa) mang tên có chứa từ vyūha (莊嚴) trong đó. Ví dụ như: Sukkāvati-vyūha, 大 乘 無 量 壽 莊 嚴 經 và 文 殊 師 利 菩 薩 佛 剎 功德 莊 嚴 經 trong đó sự trang hoàng của Cõi Tịnh Độ được miêu tả rõ nét; Ganda-vyūha, 莊 嚴 菩 提 心 經, 大 莊 嚴 法門 và 大 乗 莊 嚴 經 論 chủ yếu là bài Pháp về giới nguyện Bồ-tát và “cánh cửa của công đức”; 大 乗 百 福 莊 嚴 經 liên quan tới sự trang hoàng trang sức của Chư Phật với ba hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp; 過 去 莊 嚴 劫千 佛 名 經 chỉ ra cách một nghìn vị Phật xuất hiện trên thế giới và tô điểm cho thời đại. Cũng có bản 方 廣 大 莊 嚴 經 liên quan tới tiểu sử của Đức Phật và bộ 大 莊 嚴 論 經 kể lại những truyền thuyết, truyện ngụ ngôn, Kinh Bổn Sinh.


Các khía cạnh của sự trang nghiêm. (1) sự trang nghiêm những đồ vật cụ thể. – Trong bộ của mình, Ngài Thế Thân (Vasubandhu) đã chỉ dạy 29 loại công đức trang hoàng được thành tựu ở Cõi Tịnh Độ của Đức Phật A-di-đà, trong đó bao gồm bảy loại của đất Phật, tám loại của Chư Phật và bốn loại cho các Bậc Bồ-tát.

Mười bảy loại trang hoàng cho Cõi Phật là những loại công đức sau: (1) công đức của sự thanh tịnh, không bị ô nhiễm bởi các ham muốn thế gian và vượt qua thế giới bất tịnh và xấu xa, (2) công đức của số lượng, đó là sự bao la của Cõi Phật, (3) của chất lượng, là nguồn gốc của đất Phật từ trí tuệ và công đức của Chư Phật, (4) công đức của hình dạng, Cõi Phật chứa đấy ánh sáng thanh tịnh, (5) của sự đa dạng, Cõi Phật có chứa vô số những báu vật quý hiếm, (6) của màu sắc tinh xảo, ánh sáng ở đó tuyệt vời và vượt qua mọi sự so sánh, (7) chức năng của các căn, nhờ đó tất cả sáu căn được trải nghiệm niềm vui sướng vượt trội, (8) công đức của ba lần trang hoàng của nước, đất và bầu trời, (9) của hai lớp quần áo và hoa đính đá quý, (10) công đức của anh sáng mà xua tan mọi tăm tối và vô minh, (11), của một âm thanh tuyệt vời mà có thể nghe thấy từ mười phương, dẫn dắt chúng sinh tới sự giác ngộ, (12) công đức của Bậc cai trị là Đức Phật A Di Đà, Ngài là Vua của Giáo Pháp, gia hộ cho các chúng sinh sống, (13), công đức của mối quan hệ với các chúng sinh sống trên Cõi Tịnh Độ, những người được sinh ra từ bông hoa của sự giác ngộ tối thượng của Chư Phật, (14) công đức của việc thọ nhận sự hỷ lạc và hương vị của Giáo Pháp Đại Thừa và sự định tâm của Thiền Tông Phật Giáo (ch’an:dhyāna), (15) công đức của việc được tự do mãi mãi khỏi mọi khổ đau thể chất và tinh thần, (16), công đức của việc bước vào cánh cửa của Chánh Pháp mà giúp chuyển hoá toàn bộ chúng sinh sống thành các Bồ-tát Đại Thừa, và (17) công đức của việc thành tựu mọi ước nguyện.

Tám loại của sự trang hoàng cho Đức Phật là công đức của toà hoa thể hiện phẩm giá và đức hạnh của Ngài, ba lần công đức của Ngài, nhờ đó Ngài giác ngộ chúng sinh bằng thân, khẩu và ý của Ngài, công đức của Ngài nhờ đó thánh chúng tắm trong biển trí tuệ của Ngài, công đức tạo nên Đức Phật A-di-đà, Bậc tối cao và đáng kính nhất, công đức mà nhờ đó Ngài được tất cả mọi người tôn kính như một vị Giáo chủ và công đức mà nhờ đó tất cả những ai liên hệ với sự che chở của Đức Phật đều trải nghiệm được sự thành tựu công đức tối thượng của mình.

Bốn loại trang hoàng của các Bậc Bồ-tát là: (1) Bồ-tát, những Bậc trợ giúp cho Chư Phật trong các hoạt động giác ngộ của Ngài, các Ngài tới mọi thế giới của khắp mười phương, (2) các Ngài có năng lực để tổ chức một lễ tưởng niệm để tôn vinh Chư Phật trong một sự thiền định, (3) các Ngài không có tâm phân biệt trong việc tán thán và sùng mộ Chư Phật, (4) các Ngài tới các địa điểm có ba ngôi báu (Phật, Pháp, và Tăng) và các Ngài bảo tồn nơi đó. Một điều rõ ràng
rằng toàn bộ hai mươi chín công đức của sự trang nghiêm này đã được thành tựu nhờ nguyện lực của Đức Phật A-di-đà.

Để làm sáng tỏ ý nghĩa của Cõi Tịnh Độ, bộ Đại Thừa Nghĩa Chương, 19, tóm lược sự trang nghiêm trong Cõi Tịnh Độ bằng ba hạng mục về con người, luật và sự vật. Đầu tiên, sự trang nghiêm về con người có nghĩa là những nhân cách xuất xắc như những các Bậc Bồ-tát ngự trong Cõi Tịnh Độ. Thứ hai, sự trang nghiêm về luật lệ có nghĩa là Cõi Tịnh Độ được xây dựng với “cánh của Giáo Pháp” của Chư Phật. Ba, sự trang nghiêm của đồ vật có nghĩa là mọi thứ được trang trí bởi năng lực siêu nhiên như các vật báu và ánh sáng.

(2) Sự trang hoàng bởi công đức thực hành – những nội dung của sự trang nghiêm của những thực hành Bồ-tát hay những công đức của “cánh cửa giáo Pháp” thường được đề cập đến trong Kinh điển. Bản Đại Ai Kinh, 2, và bản Đại Phương Đẳng Đại Tập Kinh, 1, có nhắc đến sự trang nghiêm của bốn đề mục, viz., giới luật (không phá vỡ giới luật), định (có ý chí kiên định), trí tuệ (với tâm không bị xáo trộn bởi bất cứ điều gì), và dhāraṇī (ghi nhớ mọi thứ nghe được). Trong bản Hoa Nghiêm Kinh mà liên quan tới sự trang nghiêm của các lời thệ nguyện và các thực hành lặp lại của các Bậc Bồ-tát có đưa ra mười loại của sự trang nghiêm. Chúng là (1) sự trang nghiêm dưới hình thức màu sắc, xuất hiện trong màu sắc và hình dạng theo nhu cầu ngẫu nhiên trong hoạt động khai mở, (2) sự trang nghiêm ngôn từ cho việc loại bỏ sự nghi ngờ trong tâm thức của con người, (3) sự trang nghiêm của ý định tinh thần để vun bồi cho tâm toàn thiện trong thiền định, (4) sự trang nghiêm đền thờ để tiêu diệt mọi mong cầu thế gian, (5) sự trang nghiêm ánh sáng của dòng ánh sáng khắp mười phương, (6) sự trang nghiêm thân tộc để tập hợp tất cả mọi người đem lại niềm hỷ lạc cho họ, (7) sự trang nghiêm năng lực siêu nhiên để tạo ra sự xuất hiện theo mong muốn, (8) sự trang nghiêm Phật Pháp để khai sáng những kẻ ác, (9) Sự trang nghiêm của Niết Bàn để hoá hiện bản thân trong mười hướng; và (10) Sự trang nghiêm Giáo Pháp để ban những bài thuyết Pháp phù hợp với thời gian và thính chúng. Bản Hoa Nghiêm Kinh cổ xưa, 10, đưa ra phiên bản khác của 10 loại trang nghiêm. Chúng là (1) sự trang nghiêm đại từ thông qua sự cứu độ và bảo vệ vạn vật, (2) trang nghiêm đại bi thông qua việc chịu đựng mọi khổ đau, (3)sự trang nghiêm đại nguyện nhờ thực hành tất cả các lời nguyện, (4) sự trang hoàng của việc hồi hướng công đức, thông qua sự trang nghiêm của tất cả công đức Chư Phật, (6) sự trang hoàng pāram-tā thông qua việc cứu rỗi tất cả sinh vật sống, (7) sự trang nghiêm trí tuệ thông qua việc tiêu diệt mọi mong cầu và sự phiền não thế gian, (8) sự trang nghiêm phương tiện thiện xảo (upāya) thông qua việc tạo ra mọi thiện hạnh, (9) sự trang hoàng của tâm tĩnh lặng để tránh xa những Giáo lý ngoại đạo, (10) sự trang nghiêm xác quyết thông qua việc tránh xa những nghi ngờ về chánh Pháp. Bản Hoa Nghiêm Kinh cổ xưa, 38, đưa ra 10 loại của sự trang nghiêm bao gồm sự trang nghiêm năng lực và sự trang hoàng không sợ hãi và bản Hoa Nghiêm Kinh cổ xưa, 40, cũng đưa ra phiên bản của nó gồm mười loại


trang hoàng của Chư Bồ-tát. Bản Đại Phương Đẳng Đại Tập Kinh, 17, đưa ra hai mươi loại trang hoàng của đại nguyện như sau: đi trên một chiếc thuyền lớn, Chư Bồ-tát thực hành sự trang nghiêm của đại nguyện để cứu độ tất cả những người chưa được cứu độ. Dứt bỏ được những tư tưởng xấu ác và không phù hợp, các Bồ-tát thực hành sự trang nghiêm đại nguyện khiến cho chúng sinh hiểu rõ chân lý. Sống an bình trong trạng thái không sợ hãi, Chư Bồ-tát hành sự trang nghiêm đại nguyện nhằm giúp chúng sinh đạt được sự an bình trong tâm thức. Chư Bồ-tát hành sự trang nghiêm đại nguyện dẫn dắt chúng sinh đạt tới Niết-bàn để giúp họ loại bỏ được những gánh nặng của năm sự tăm tối. Tinh tấn trong mọi lúc, Chư Bồ-tát hành sự trang nghiêm đại nguyện phục vụ chúng sinh để họ có thể sống trong sự an lạc. Không bao giờ mệt mỏi và buồn chán, Chư Bồ-tát thực hành sự trang nghiêm đại nguyện để đạt được và duy trì sự vô tận trong cuộc sống và cái chết. Tôn thờ và sùng kính trong sự hiện diện của các Ngài, Chư Bồ-tát thực hành sự trang nghiêm đại nguyện để làm hài lòng Chư Phật. Các Bồ-tát hành sự trang nghiêm đại nguyện để thọ nhận và bảo tồn mọi Giáo Pháp Chư Phật để Tam Bảo tiếp tục tồn tại. An trụ trong thiền định (dhyāna), các Bồ-tát hành sự trang nghiêm đại nguyện để ghi nhớ mọi Giáo lý mà các Ngài đã được nghe. Sở hữu trí tuệ của khẩu, Chư Bồ-tát thực hành sự trang nghiêm đại nguyện để làm hài lòng mọi chúng sinh bằng thiện Pháp của mình. Để thành tựu thân tướng đẹp đẽ, Chư Bồ-tát hành sự trang nghiêm đại nguyện để tập hợp thực phẩm nhằm tích lũy vô lượng công đức. Để thiết lập các Pháp hành, Chư Bồ-tát hành sự trang nghiêm đại nguyện để làm hài lòng các Bậc trí tuệ. Để đạt tới trạng thái dhyāna (thiền định), vimukti (giải thoát) và samādhi (định), Chư Bồ-tát hành sự trang nghiêm đại nguyện để ngăn chặn tâm tán loạn. Với sáu loại thần thông, Chư Bồ-tát hành sự trang nghiêm đại nguyện để đạt được sự buông bỏ thân thể và cuộc đời trong trạng thái tĩnh lặng. Đắc Pháp vô ngã, Chư Bồ-tát thực hành sự trang nghiêm đại nguyện với ước nguyện phát ra tiếng gầm sư tử vô uý. Mong muốn hiểu được rằng mọi sự tồn tại đều không là gì cả mà chỉ là ảo ảnh, những giấc mơ và những chiếc bóng, Chư Bồ-tát thực hành sự trang nghiêm đại nguyện để đạt tới mọi thế giới. Nhờ năng lực hộ trì và thành tựu các giới luật thanh tịnh, Chư Bồ-tát thực hành sự trang nghiêm đại nguyện để tô điểm và thắp sáng một cách long trọng khắp trên thế giới. Thành tựu Lục độ ba la mật, Chư Bồ-tát thực hành sự trang nghiêm đại nguyện để thành tựu mười năng lực của Như Lai. Để thực hành theo tuân theo các lý thuyết, Chư Bồ-tát thực hành sự trang nghiêm đại nguyện để chứng đắc bốn vô uý. Thoát khỏi những học thuyết không thích hợp như luật địa Bồ-tát, Chư Bồ-tát thực hành sự trang nghiêm đại nguyện để đạt được mười tám đặc tính riêng biệt của Đức Phật. Cũng tồn tại một học thuyết mà phân loại sự trang hoàng, một học thuyết của hai lần trang nghiêm của trí tuệ và công đức, được liên hệ trong Đại Niết Bàn Kinh (Mahāpari-nirvāna Sūtra) (27), và học thuyết về ba lần trang n của sự giác ngộ tôn giáo, thực hành tôn giáo và tài sản tôn giáo mà xuất hiện trong bản Đại Pháp Cự Đà-la-ni Kinh, 4, và cũng là học thuyết về bốn lần trang hoàng của thân, khẩu, Cõi Phật và tầng lớp (sinh) được đề cập trong bản Ta-fang-têng-ta-chi-ching, 9.


Các khía cạnh khác nhau trong Kinh điển và A-tỳ-đạt-ma-câu-xá Luận (Abhidharmakośas). (1) Sự trang nghiêm của Cõi Tịnh Độ. – Trong tất cả các Cõi của Chư Phật, Cõi Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà xuất hiện phổ biến nhất trong Kinh điển. Để miêu tả cho sự trang nghiêm nguy nga của Cõi Tịnh Độ theo Kinh A Di Đà (Amitābha-vyūha Sūtra), Cõi Tịnh Độ trên nền đất vàng bao quanh bởi bảy lớp lan can được trang trí bằng vàng, bạc, ngọc bích, pha lê, bảy lớp lưới được trang trí bằng châu báu, và bảy hàng cây. Có một cái hồ bảy báu chứa đầy nước của tám loại công đức, phía dưới đáy phủ cát vàng và những bông hoa sen nở trong hồ tinh tế và thơm ngát. Hồ được bao quanh bởi các bậc thang làm bằng bốn món quý báu, và trên bờ sông là các tòa nhà tráng lệ, được phủ bởi bảy loại châu báu và đá quý. Âm nhạc thiên đường được phát ra khắp mọi lúc và những cơn mưa hoa từ thiên đường rơi xuống sáu lần hàng ngày, nơi đây, các cư dân du hành tới các Cõi khác để tổ chức lễ kỷ niệm tôn danh Chư Phật. Những con thiên nga, công và kalavinka (một loài chim của Cõi Tịnh Độ) được tạo ra bởi Đức Phật A-di-đà, kể lại bằng giọng du dương của chúng về các quy luật của ngũ căn (indriya), ngũ lực, bảy yếu tố Giác ngộ và Bát Chánh Đạo, trong khi làn gió lay động và làm những cái cây được trang trí bằng đá quý và những tấm lưới rung lên, chúng phát ra những âm thanh tinh tế hài hoà trong một bản hoà tấu của một trăm và một nghìn âm thanh tiếng nhạc. Tinh thần hành thiền về Phật, Pháp và Tăng tự dâng trào trong tâm thính chúng. Đức Phật A-di-đà thuyết Pháp tại đó và ánh sáng vô tận của Ngài tràn ngập khắp vùng đất của mười phương. Đức Phật và những người cư ngụ tại Cõi Tịnh Độ sống vô tận. Đức Phật A-di-đà có nhiều đệ tử với trí tuệ vô lượng, vô số những Bậc Thanh văn, những Bậc đã đạt được quả vị A-la-hán và nhiều không kể xiết số lượng các vị Bồ-tát. Theo như trong Kinh điển, tất cả những Bậc được đản sinh tại đó đều trong trạng thái Bất Lai (anāgāmi), và có rất nhiều Bậc đã đạt được trạng thái bổ sung công đức của Đức Phật.

Những ghi nhận về sự trang hoàng trong Kinh AparimitāyusVô Lượng Thọ Kinh (Sukhāvatīvyūha Sūtra) thậm chí còn chi tiết hơn. Sự trang nghiêm của Cõi Phật được miêu tả trong Wu-liang shên-ching-yu-p’o-t’i-han-yūan-shêng-chieh đã đề cập ở trên, dựa trên sự ghi nhận liên quan tới những bộ Kinh bên trên. Trong những thời kỳ sau này ở Trung Quốc và Nhật Bản, những bức tranh về sự trang nghiêm của Cõi Tịnh Độ, được vẽ theo bản Kinh Āprimitāyus và những bản Kinh khác, cái gọi là “Sự biến hoá của Cõi Tịnh Độ”, được sử dụng như đối tượng của sự tôn kính.

(2) Sự trang nghiêm của địa điểm của sự giác ngộ. – Kinh Hoa Nghiêm (Gaṇḍavyūha Sūtra) thuở ban sơ, miêu tả quang cảnh sự giác ngộ của Đức Phật dưới cội Bồ đề. Đức Phật đạt giác ngộ lần đầu khi Ngài ở Thánh địa ở Magadha. Nơi này biến đổi thành Vajra (kim cương) được trang hoàng với sự tráng lệ thanh tịnh và vô số hoa và châu báu. Bảo Luân (bánh xe báu-ratna-cakra) kỳ diệu hoàn hảo và không tì vết, được sơn bằng vô số những màu sắc tinh tế. Phướn và cờ kết bằng ngọc rạng ngời trong ánh sáng, những bông hoa với hương thơm ngọt ngào phủ khắp mọi nơi, một tấm lưới bằng bảy báu được giăng phía trên chúng, và sự trút xuống của vô vàn châu báu và ngọc quý, những bông hoa rực rỡ, những chiếc là phủ


đầy cây báu. Với thần thông của mình, Đức Phật đã chuyển hoá nơi đây thành một khoảng bao la rộng lớn, được trang nghiêm bằng sự thanh tịnh, tráng lệ, tràn ngập ánh sáng, các kho tàng vi diệu và các căn lành không thể đo lường được (indriya). Điều đó có nghĩa là nhờ năng lực thần thông, Đức Phật đã biến đổi thế giới thành vùng đất được trang nghiêm với châu báu và trang nghiêm nơi Cõi của sự giác ngộ với những phẩm tính thiện lành vô lượng. Trong Bát Nhã Tâm Kinh (Prajñā Pāramitā Sūtra), đã đề cập đến trước đó, đưa ra mô tả về sự trang hoàng của nơi thuyết Pháp, sự miêu tả tương tự với sự trang nghiêm của Cõi Tịnh Độ.  Trong số những di vật còn sót lại ở Gandhara, có một vài bức hình của Đức Phật đang thuyết Pháp, bao quanh là các Chư Phật và Chư Bồ-tát. Nơi đó có rất nhiều những tòa nhà nhiều tầng và cây cối được trang trí bằng đá quý, và một vị thần đang bay giữ chiếc vương miện nạm đá quý trên đầu Đức Phật, trong khi bốn vị hộ Pháp hoặc đang cầm lọng hoặc cúng dường hoa từ cả hai phía lên chỗ ngồi của Đức Phật. Hình ảnh chạm khắc này cũng thể hiện sự trang nghiêm của nơi Thánh địa. Những ghi nhận về sự trang nghiêm trong Kinh Hoa Nghiêm (Gaṇḍavyūha Sūtra) cũng có một vài điểm chung với những chạm khắc và sơn vẽ về chúng sinh Cõi Trời trên các cột, tường, lan can hoặc trên những lá cờ, lọng trang trí được treo bên cạnh và bên trên những bức hình của Đức Phật trong các ngôi đền (chùa, tự viện, thiền viện v.v, ND).

(3) Sự trang nghiêm của Bảo Tháp. Phong cách của các Bảo Tháp thay đổi theo thời gian và địa điểm nơi chúng được dựng xây. Phong cách và sự trang hoàng trong giai đoạn đầu của Phật Giáo có thể biết đến qua việc xem xét phương pháp cũ được đề cập đến trong Luật Tạng (Vinaya). Theo như  Luật Ma-ha-tăng-kỳ, 33, các lan can đứng ở bốn phía trên nền thấp nhất. Trên đỉnh của nền móng là một cấu trúc hình tròn khác và bên trên nó là hình bát úp ngược. Các cột được dựng ở bốn góc và ngôi chùa được xây dựng mái nhà với một dải bánh xe dài gắn trên nó. Theo như các hướng dẫn được đưa ra để xây dựng một Bảo Tháp trong bản Yū-pu-p’i-nai-yeh-tsa-shih, (Mūlasarvāstivāda- vinayanidāna-mātṛkoddāna) hai lần nền móng căn bản được xây dựng trước tiên, sau đó đến thân của Bảo Tháp, và mái hình bát úp ngược. Chiều cao của Bảo Tháp thì tùy theo lựa chọn. Trên đó được đặt một đỉnh phẳng với chiều cao một, hai hoặc ba thước. Bên trong nó được đặt một thanh có gắn các bánh xe có thể có số lượng từ một đến mười ba và một bình khảm đá quý được đặt ở đó. Cấu trúc này được thấy trong các ngôi chùa cổ ở Bhārhut và Sāñcī. Đánh giá từ những di vật còn sót lại của những Bảo Tháp cổ nhất, mái, phướn và hoa trang trí dường như đã được sử dụng cho sự trang hoàng các Bảo Tháp. 

(4) Những vật dụng sử dụng cho sự trang nghiêm. – Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà-ra-ni (Dhāraṇī Sūtra), 12, đưa ra hơn tám mới vật dụng được sử dụng cho sự trang hoàng. Ở Nhật Bản, đối với sự trang nghiêm bàn thờ trong đền (chùa), nền cho một bức tranh Phật được bao quanh bởi những viền gắn đá quý, bức tranh được đặt trên bệ, và một quầng sáng được gắn ở phía sau, trong khi lọng được treo ở phía trên bức tranh. Và đôi lúc bức tranh chính được đặt bên trong tòa nhà nhiều tầng trang trí bằng đá quý, zuishi hoặc niche.

 

 

Quy tắc chung là đặt năm nhạc cụ trên bàn phía trước và trang hoàng bên trong Chánh điện với phướn và hoa trang trí. Mỗi trường phái sẽ có những phong cách trang trí cho bức tranh chính và Chánh điện khác nhau.

YUKAN OZAWA