ABUSIVE LANGUAGE (abhisajjanī vācā)
ABUSIVE LANGUAGE (abhisajjanī vācā) là một kiểu ác ngữ (pharusā vācā). Thuật ngữ cuối cùng này được Đức Phật giải thích cho Cunda: “Bất cứ lời nói nào mang tính thô bạo, làm tổn thương người khác, cay đắng, lăng mạ, khiêu khích và dẫn đến chia rẽ, đều được gọi là ác ngữ” (A. V, 265). Ác ngữ nằm trong nhóm tứ phiền não ngôn, ở một số tài liệu còn được gọi là tứ “phi thánh ngôn” (D. III, 232). Do đó, ác ngữ hoàn toàn trái ngược với lời nói của Như Lai – vốn dịu dàng, dễ nghe, nhã nhặn, làm lay động tâm can, lịch sự, dễ chịu và làm say mê đại chúng” (D. I, 4).
Lời chỉ trích của Bà-la-môn Ambattha là một ví dụ về lăng mạ, ông đã xúc phạm một số người Thích-ca, những người để tiêu khiển cho bản thân trong hội trường, đã không tôn trọng và nhường chỗ ngồi cho ông ấy. Ông phàn nàn với Đức Phật và gọi những người Thích-ca là “thứ lỗ mãng và vô lễ”, “lũ hèn hạ” (D. III, 90-91). Nhưng Đức Phật đã chỉ ra rằng chuyện vụn vặt vậy không đáng để ông ta cảm thấy bị xúc phạm. Ý nghĩa của từ abhisajjati trong bản Kinh này đủ rõ ràng từ ngữ cảnh. Tuy nhiên, ngài Phật Âm nhận thấy cần phải cung cấp một lời giải thích thỏa hiệp nào đó cho việc “nổi sân trước một chuyện vụn vặt như vậy” (hodha-vasena laggati : DA. I, 257), theo nguồn gốc abhi + sañj < abhisaṅga: bám chấp; mặc dù trong bài Kinh Khaggavisāṇa, từ abhisajjanā đứng ngay sau từ vacābhilāpa: lời nói khó chịu và lăng mạ (Sn. 49).
H. G. A. v. Z.