ABHIDHARMA-DĪPA

ABHIDHARMADĪPA. Bản thảo Abhidharma-dīpa  (Thắng Pháp Đăng Luận) bằng lá cọ được ngài Rahul Sankrityayana phát hiện ở Tây Tạng vào năm 1937.  Ngài đã mang theo những bức ảnh của MS. này, được lưu giữ tại Viện nghiên cứu KP Jayaswal, Patna[1].

MS. là không đầy đủ.  Trang cuối cùng được đánh số 150.  Trong số này, chỉ có 62 trang đến được tay của chúng ta.  MS. chứa hai tác phẩm, cụ thể là, Abhidharma-dīpa có vần luật (ở đây được gọi là Dīpa) và một chú giải bằng văn xuôi được gọi là Vibhāsā-prabhā-Vṛtti (ở đây được gọi là Vṛtti).

Bản kārikā (bản tụng), cụ thể là Dīpa, bám sát cả về nội dung lẫn cách trình bày của bản đối chiếu của nó, Abhidharmakośa (Thắng Pháp-câu-xá) (ở đây được gọi là Kośa) của ngài Thế Thân.  Tám Adhyāya của Dīpa tương ứng với 8 Kósasthana của Kośa.  Số lượng các kārikā được tìm thấy trong Dīpa hiện còn là 597.  Trong số này, một số lượng lớn (khoảng 300) kārikā tương ứng, gần như là một đối một và đôi khi là từ đối từ, với các kārikā của Kośa.  Vṛtti, chú giải Dīpa, cũng được viết ít nhiều theo khuôn mẫu của Abhidharmakośa-Bhāṣya (Thắng Pháp-câu-xá Luận thích) (ở đây được gọi là Bhāṣya) của ngài Thế Thân.  Rõ ràng là từ những đoạn được trích dẫn dưới đây rằng chú giải này được viết chỉ để trình bày quan điểm Vaibhāṣika (Tỳ-bà-sa Bộ) chính thống, gặp phải những lời chỉ trích nhằm vào nó đến từ Kósakāra trong Bhāṣya của ông.   Mặc dù việc chỉ trích nó, Vṛtti, trong hầu hết các phần, là sự bắt chước của Bhāṣya.  Nó mượn khoảng 50 đoạn lớn từ Bhāṣya và trình bày chủ đề bằng những từ ít nhiều giống hệt nhau.  Ở phần cuối của Kośa, ngài Thế Thân tuyên bố rằng ông đã sáng tác nó phù hợp với tông Kāsmīra-Vaibhāsika[2]. Nhưng Bhāṣya của ông tiết lộ rằng sự hội nhập thực sự của ông là với Kinh lượng bộ. Ông thường dùng trạng từ kila để bày tỏ sự bất đồng với quan điểm Vaibhāṣika.  Về hầu hết các điểm gây tranh cãi giữa hai bộ phái, ông công khai ủng hộ quan điểm Kinh lượng bộ.  Bằng phong cách mạnh mẽ đặc trưng của mình,  ngài Thế Thân đã xem xét một cách phê phán dravyavāda của những vị Vaibhāṣika, buộc tội họ là những người giảng giải theo nghĩa đen, chế giễu chủ nghĩa giáo lý của họ và so sánh họ với

 

những tông phái ngoại đạo như Sāṅkhya và Vaiśeṣika. Yaśomitra nhận xét một cách công bằng rằng Ngài Thế Thân thuộc tông Kinh lượng bộ[3].

Từ ‘Life of Vasubandhu [4]’ của tác giả Paramārtha, chúng ta biết rằng ngài Chúng Hiền, một vị Vaibhāṣika cùng thời, đã viết hai chú giải về Kośa, có tên là Nyāyānusāra (Thuận Chánh Lý Luận) và Samaya-pradīpikā (Tạng Hiển Tông Luận), nhằm trình bày quan điểm Vaibhāṣika chính thống và chỉnh sửa Kośakāra về thành kiến Kinh lượng bộ của ông.  Những tác phẩm này chỉ có sẵn ở bản dịch tiếng Hán của chúng. Không có tác phẩm nào khác viết chống lại Kośakāra được truyền đạt đến chúng ta.  Do đó, việc phát hiện ra Dīpa (cùng với Vṛtti của nó) có giá trị to lớn với tư cách là tác phẩm bản gốc duy nhất còn sót lại của tông Vaibhāṣika chính thống. Là một mô phỏng của Kośa (và Bhāṣya), nó không bổ sung gì nhiều cho chủ đề liên quan đến Thắng Pháp của tông Nhất thiết hữu bộ, nhưng những đề cập đến Kośakāra của nó đã làm sáng tỏ rất nhiều về những điểm tranh luận giữa Kinh lượng bộ và Vaibhāṣika, và một số khía cạnh gây tranh cãi về cuộc đời của Kośakāra Thế Thân.

Vṛtti hiện còn chứa 16 đề cập đối nghịch với Kośakāra sau đây:

(1)           Kośakāras tvāha – anuśayānuśayunāt sāsravāḥ. Tad etad abrahma (Fol. 32b).

(2)           Tatra yad uktaṃ Kośakāreṇa –’ kim idaṃ akasaṃ khadyate. sāmagryāṃ hi satyāṃ dṛsṭam ity upacāraḥ pravartate. tatra kaḥ paśyati’ iti. tad atra tena bhadantena sāmagryaṅga-kriyā (paharaṇaṃ?) kriyate. Abhidharma-samrnohāṅka-sthā-nenātmāpy ankito bhavaty ayoga-śūnyatā-prapātābhimukhyatvaṃ pradar-śitam iti (Fol. 35b).

(3)           Kośakṛd ācaṣṭe-na hy atra kiñcit phalaṃutprekshyata iti. taṃ pratīdam phalaṃ ādarśyate (Fol. 37 a).

(4)           Idam idānim Abhidharma-sarvasvaṃ Kośa-kāraka-smṛti-gocarātītam vak tavyrun (Fol. 37b).

(5)           Kośakārādayaḥ punar āhuh -’ svārthopalab-dhāv eva cakshurādināṃ pañcānāṃ ādhi patyam’. tad etad Vaibhāṣikīyam eva kiñcid gṛhītam. nātra kiñcit Kośakārasya svaka-darśanam (Fol. 39a).

(6)           Kośakāras tvāha – sarvasūksmo rūpa-saṃghātaḥ paramāṇur’ iti. tena saṃpghāta – vyatiriktaṃ rūpam anyad vaktavyam (Fol. 43b).

(7)           Tad idam ati – sāhasaṃ vartate yad viruddh-ayor api dvayor dharmayor ekatra citte samavadhānaṃ pratijñāyate. na hy etal loke driṣṭam …. iti Kośakārah ….tad idam andha-vilāsinī-kaṭakṣa-guṇotkīrtaṇa-kalpaṃ codyam ārbhyate (Fol. 45a).


(8)           Siddhā sabhāgatā. Kośakārah punastāṃ Vaiśeṣika-parikalpita-jāti-padārthena samīkurvan vyaktaṃ payasa-vāyasayor varṇa-sādharmyaṃ paśyatīti (Fol. 47a).

(9)           Atra punaḥ Kośakārah pratijānīte-’ sacittikeyaṃ samapattih’ iti . . . . tad etad abauddhīyam (Fol. 47a).

(10) ‘samādhi-balena karmajaṃ      jīvitāvedhaṃ nirvartyāyuh           saṃkārādhishṭhānajam, āyurna vipākaḥ.’ iti Kośakārah. tatra kim uttaram iti ? na tatrāvaśyam uttaraṃ vaktavyam. yasmān naitat Sutre’ vatarati, Vinaye na saṃdṛśyate, dharmatãṃ cha vilomyati. tasmād bãla-vachanavad adhyupekshyam etat …. tasmād Vaitulikaśāstra-praveśa-dvāram ārab-dhaṃ tena bhadantenety adhyupekshyam etat (Fol. 49a).

(11) Tasmāt pūrvokta-lakshaṇa eva bhikṣur na yathāha Kośakārah (Fol. 92b).

(12) ‘Abhidhyādaya eva karma-svabhāvāṅi’ iti Sthiti-bhāgāyah …. Kośakārah – ‘kotra dosah’ . . . . Sāṃkhyīya – darśanam abhyupagataṃ syāt (Fol. 94b).

(13)’Sūkslunaṃ kuśala-dharma-bījam tasminn akuśale cetasy avasthitaṃ yataḥ punaḥ pratyaya-sāmagrī-sannidhāne sati kuśalaṃ chittam utpadyate’ iti Kośakārah. yuktyāgama-virodhāt tan neti Dīpakārah (Fol. 96b).

(14)’Evaṃ tu sādhu yathā Dārṣṭāntikānām’ iti Kośakārah. . . . tad etat Sautrāntikair antargatam Buddha-vacananīti-śravaṇa-kauśīdyam āvir bhāvyate (Fol. 104a).

(15) Tad atra Kośakāraḥ praśnayati-’ ko vighnaḥ’ . . . . tatra vayam prativadmaḥ- . . . .’ durbodhā khaludharmatā’ . . . . (Fol. 111b).

(16) Atra Sarvāsti-vāda-vibhrashṭir Vaituliko nirāha-vayam api trīn svabhāvān parikalpayiṣyāmaḥ. tasmai prativaktavyaṃ-. . . . it etad aparam adhva-saṃmohānkanā-sthanaṃ Kośakārasyeti (Fol. 112a).      

Trong các đề cập trên, số (3) và (4) đề cập đến sự bỏ sót một số chủ đề nhất định của Kośakāra trong Bhāṣya của ông.  Số (2) và (5) đề cập đến một số khía cạnh nhất định của lý thuyết về tâm của Kinh lượng bộ.  Số (6) đề cập đến định nghĩa paramāṇu (vi trần, nguyên tử) của Kośakāra. Số (7) đề cập đến tranh cãi về sự hợp tác của vitarka (tầm) và vicara (tứ) trong một sát na tâm.  Số (8), (9) và (10) đề cập đến một số mục thuộc phạm trù Vaibhāṣika đang được tranh luận sôi nổi có tên là citta-viprayukta-samṣkāra (Tâm bất tương ứng hành pháp). Số (1), (13) và (14) liên quan đến lý thuyết Kinh lượng bộ về chủng tử.  Hai đề cập cuối cùng, Số (15) và (16), đề cập đến giáo lý Vaibhāṣika cơ bản về thực tại của Ba thời, tức là, Nhất thiết hữu bộ. 

 

Có thể lưu ý rằng những đoạn này đều mang tính đối nghịch và nhằm vạch trần quan điểm ‘phi Phật giáo’ của Ngài Thế Thân.  Ông ta không chỉ bị chỉ trích vì sự thiếu hiểu biết về Thắng Pháp và khuynh hướng Kinh lượng bộ của mình, mà còn bị buộc tội vì đã bước vào cổng Đại thừa, chấp nhận Vaitulika Śāstra và đi theo ayogaśūnyatā-vāda. Cuối cùng, ông được gọi là kẻ phản bội Nhất thiết hữu bộ, và là người ủng hộ trisvabhāva-vāda.  Giáo lý này có trong Tri-svabhāvanirdeśa của ngài Thế Thân, một tác phẩm của tông Yogācāra-vijnānavada . Tất cả những đề cập này dường như ám chỉ đến việc Kośakāra Thế Thân chuyển sang Đại thừa[5], câu chuyện về điều này được lưu giữ trong ‘Life of Vasubandhu’ của tác giả Paramārtha.

Tên tác giả của Dīpa không được biết đến. Vṛtti gọi ông là Dipakāra. Nó cũng đề cập đến tác phẩm khác của ông có tên là Tattva-saptati, tác phẩm mà chúng ta không được biết đến.  Nó có thể đã được viết theo kiểu của Paramārtha-saptatikā của ngài Thế Thân. Từ bằng chứng nội bộ, có vẻ như Dīpa cũng như Vṛtti được viết bởi một và cùng một ācārya như trong trường hợp của KośaBhāṣya.  Vṛtti chỉ đề cập đến 7 vị tu sĩ Phật giáo lỗi lạc, cụ thể là, Aśvaghoṣa,  (Ārya) Maitreya, Dharmatrāta, Ghoṣaka, Vasuntra, Buddhadeva và Kumāralāta.  Saṅghabhadra không được đề cập, nhưng một số quan điểm của Dipakāra giống với quan điểm của ông. Do đó, chúng ta có thể quy tác phẩm này cho ngài Chúng Hiền hoặc cho một trong những đệ tử của ông, đặc biệt là Vimalamitra, người được cho là đã ấp ủ mong muốn viết ra những bộ luận như vậy “vì sẽ khiến cho những người uyên bác Jambudvīpa quên cái tên Đại thừa và hủy hoại danh tiếng của ngài Thế Thân” và do đó “bị đọa vào địa ngục sâu nhất[6]”.

P. S. JAINI.



[1] Tôi biết ơn Viện Nghiên Cứu K. P. Jayaswal vì đã giao phó cho tôi công việc chỉnh sửa MS. Này, hiện đã được công bố trong Loạt Tác Phẩm tiếng Phạn-Tây Tạng, Patna.

[2] Kãsmĩra-Vaibhãsika-niti-siddhaḥ prãyo kathito’bhidharmaḥ : Câu-xá. III. 40ab.

[3] Sautrãntika-pãksikastvayam ãcãryo nainam arthaṃ prayacchati: Spuṭarthã Vyākhyā, trang 26.

[4] Bởi J. Takakusu, T’oung Pao, Serie II, Quyển V, 269-96.

[5] Đối với những tranh cãi về điểm này, hãy xem bài viết ‘Về Lý thuyết của Hai tác giả Thế Thân’ của tôi trong BSOAS. l958, xxi/i, trang 43-53.

[6] S. Beal : Ghi chép về Phật giáo của Phương Tây, I, trang 196-197.