ĀḶĀRA KĀLĀMA
ĀḶĀRA KĀLĀMA là một trong hai vị thầy đầu tiên mà Sa-môn Tất-đạt-đa Gô-ta-ma (sau này là Đức Phật Thích-ca) xin được chỉ giáo sau khi xuất gia. Vị thầy còn lại là Uddaka Rāmaputta. Theo Milinda vấn đạo (Milinda-pañha) (trang 236), Āḷāra Kālāma là thầy thứ 4 của Sa-môn Gô-ta-ma. Trong Chú giải Trưởng lão Ni kệ (Therīgāthā-aṭṭhakathā) (trang 2) có nói rằng ngài đã đến Bhaggava trước khi đến với Āḷāra Kālāma. Trong kinh Thánh cầu (Ariyapariyesanā Sutta), Đức Phật mô tả đầy đủ hành trình Ngài tìm đến Āḷāra Kālāma, học pháp từ ông và có thể lặp lại thuộc lòng. Khi Sa-môn Gô-ta-ma hỏi Āḷāra Kālāma về mức độ thần thông (abhiññā), được dạy trong pháp của ông, mà ông đã chứng đạt được, Āḷāra Kālāma tuyên bố rằng ông đã chứng được vô sở hữu xứ (ākiñcaññāyatana). Sau đó, bằng nỗ lực của chính mình, Sa-môn Gô-ta-ma đã nhanh chóng chứng được mức định tương tự. Āḷāra rất hài lòng và quý kính cậu học trò xuất chúng của mình. Sau đó, Sa-môn Gô-ta-ma tin chắc rằng pháp của đạo sư Āḷāra Kālāma không đưa đến yếm ly (nibbidā), không đưa đến ly dục (virāga), không đưa đến đoạn diệt (nirodha), không đưa đến an định (upasama), không đưa thần thông (abhiññā), không đưa đến giác ngộ (sambodha), cũng không đưa đến giải thoát (nibbāna), nên Ngài đã xin từ biệt thầy mình và đi tìm chân lý (M. I, trang 163-5). Sau 6 năm tu khổ hạnh và thành đạo, Phạm thiên Sahampati đã thỉnh Đức Phật chuyển pháp luân. Sau đó, Đức Phật khởi ý nghĩ rằng trước tiên Ngài nên dạy giáo pháp này cho đạo sư Āḷāra Kālāma. Tuy nhiên, các vị thiên tử (devatā) báo cho Ngài rằng, vị đạo sư đã qua đời vào 7 ngày trước.
Trong Kinh Đại Bát Niết-bàn (D. II, 72), có đề cập Pukkusa-Malla-Putta là một đệ tử của Āḷāra Kālāma. Tại đây, Pukkusa kể cho Đức Phật rằng Āḷāra Kālāma là một vị nhập định thâm sâu. Vì vậy, một lần nọ, khi ông đang nhập định ngoài trời, ông không thấy cũng không nghe thấy 500 cỗ xe đi ngang qua, mặc dù ngài hoàn toàn tỉnh giác và tỉnh táo.
Theo ngài Buddhaghosa, một trong những đệ tử của Āḷāra Kālāma là Bharaṇḍu Kālāma (AA. II, 375), một người cùng thời với Đức Phật Gô-ta-ma. Do đó, Bharaṇḍu Kālāma được gọi là purāṇa-sabrahmacārī của Đức Phật (A. I, 277). Ngài Buddhaghosa cho chúng ta biết thêm rằng Āḷāra là tên riêng được đặt cho ông vì ông cao (dīgha) và da ngăm đen (piṅgala), và Kālāma là tên dòng dõi của ông (gotta : DA. II, 569).
I. K.