Kinh Giáo thọ Thi-ca-la-việt

(siṅgālasutta)

Như vậy tôi nghe.

  1. Một thời Thế Tôn sống ở Rājagaha [1] (Vương Xá thành), tại Veluvana [2] (Trúc Lâm), Kalandakanivāpa  [3] (chỗ tìm ăn của loài sóc). Lúc bấy giờ, Siṅgālaka (Thi-ca-la-việt), gia chủ tử[4], dậy sớm, ra khỏi thành Vương Xá, với áo thấm nước, với tóc thấm nước, chấp tay đảnh lễ các phương hướng, hướng Ðông, hướng Nam, hướng Tây, hướng Bắc, hướng Hạ, hướng Thượng.

    1. Rồi Thế Tôn buổi sáng đắp y, cầm y bát vào thành Vương Xá khất thực. Thế Tôn thấy Siṅgālaka, gia chủ tử, dậy sớm, ra khỏi thành Vương Xá, với áo thấm nước, với tóc thấm nước, chấp tay đảnh lễ các phương hướng, hướng Ðông, hướng Nam, hướng Tây, hướng Bắc, hướng Hạ, hướng Thượng. Thấy vậy Ngài nói với Siṅgālaka, gia chủ tử:

    – Này Gia chủ tử, vì sao Ngươi dậy sớm, ra khỏi thành Vương Xá, với áo thấm ướt, với tóc thấm ướt chấp tay đảnh lễ các phương hướng, hướng Ðông… hướng Thượng?

    – Bạch Thế Tôn, thân phụ con [5] khi gần chết có dặn con: “Này con thân yêu, hãy đảnh lễ các phương hướng”. Bạch Thế Tôn, con kính tín, cung kính, tôn trọng, đảnh lễ lời nói của thân phụ con, buổi sáng dậy sớm, ra khỏi thành Vương Xá, với áo thấm ướt, với tóc thấm ướt, chấp tay đảnh lễ các phương hướng, hướng Ðông… hướng Thượng.

    – Này Gia chủ tử, trong luật pháp của bậc Thánh, lễ bái sáu phương không phải như vậy.

    – Bạch Thế Tôn, trong luật pháp của bậc Thánh, thế nào là lễ bái sáu phương? Bạch Thế Tôn, trong luật pháp của bậc Thánh, đảnh lễ sáu phương phải như thế nào? Lành thay! Thế Tôn hãy giảng pháp ấy cho con!

    – Này Gia chủ tử, hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ giảng.

    – Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

    Siṅgālaka, gia chủ tử vâng lời Thế Tôn. Thế Tôn giảng như sau:

    1. – Này Gia chủ tử, đối với vị Thánh đệ tử, bốn nghiệp phiền não được diệt trừ, không làm ác nghiệp theo bốn lý do, không theo sáu nguyên nhân để phung phí tài sản. Vị này, nhờ từ bỏ mười bốn ác pháp, trở thành vị che chở sáu phương; vị này đã thực hành để chiến thắng hai đời, vị này đã chiến thắng đời này và đời sau. Sau khi thân hoại mạng chung, vị này sanh ở thiện thú, Thiên giới.

    Thế nào là bốn nghiệp phiền não [6] đã được diệt trừ? Này Gia chủ tử, đó là nghiệp phiền não sát sanh, nghiệp phiền não trộm cắp, nghiệp phiền não tà dâm, nghiệp phiền não nói láo. Bốn nghiệp phiền não này đã được trừ diệt.

    Thế Tôn thuyết giảng như vậy.

    1. Thiện thệ thuyết giảng xong, bậc Ðạo Sư lại giảng thêm:

    Sát sanh và trộm cắp,
    Nói láo, lấy vợ người,
    Kẻ trí không tán thán,
    Những hạnh nghiệp như vậy.

    1. Thế nào là không làm ác nghiệp theo bốn lý do? Ác nghiệp làm do tham dục, ác nghiệp làm do sân hận, ác nghiệp làm do ngu si, ác nghiệp làm do sợ hãi. Này Gia chủ tử, vì vị Thánh đệ tử không tham dục, không sân hận, không ngu si, không sợ hãi, nên không làm ác nghiệp theo bốn lý do.

    Thế Tôn thuyết giảng như vậy.

    1. Thiện Thệ thuyết giảng xong, bậc Ðạo Sư lại giảng thêm:

    Ai phản lại Chánh pháp,
    Vì tham, sân, bố, si,
    Thanh danh bị sứt mẻ
    Như mặt trăng đêm khuyết.
    Ai không phản Chánh pháp,
    Vì tham, sân, bố, si,
    Thanh danh được tròn đủ,
    Như mặt trăng đêm đầy.

    1. Thế nào là không theo sáu nguyên nhân phung phí tài sản? Này Gia chủ tử, đam mê các loại rượu là nguyên nhân phung phí tài sản. Du hành đường phố phi thời là nguyên nhân phung phí tài sản. La cà đình đám hí viện là nguyên nhân phung phí tài sản. Ðam mê cờ bạc là nguyên nhân phung phí tài sản. Giao du ác hữu là nguyên nhân phung phí tài sản. Quen thói lười biếng là nguyên nhân phung phí tài sản.
    2. Này Gia chủ tử, đam mê các loại rượu có sáu nguy hiểm: Tài sản hiện tại bị tổn thất, đấu tranh tăng trưởng, bệnh tật dễ xâm nhập, thương tổn danh dự, để lộ âm tàng, và thứ sáu là trí lực tổn hại. Này Gia chủ tử, đam mê các loại rượu có sau nguy hiểm như vậy.
    3. Này Gia chủ tử, du hành đường phố phi thời có sáu nguy hiểm: Tự mình không được che chở hộ trì, vợ con không được che chở hộ trì, tài sản không được che chở hộ trì, bị tình nghi là tác giả các ác sự, nạn nhân các tin đồn thất thiệt, tự rước vào thân nhiều khổ não. Này Gia chủ tử, du hành đường phố phi thời có sáu nguy hiểm như vậy.
    4. Này Gia chủ tử, la cà đình đám hý viện có sáu nguy hiểm: Luôn luôn tìm xem chỗ nào có múa, chỗ nào có ca, chỗ nào có nhạc, chỗ nào có tán tụng, chỗ nào có nhạc tay, chỗ nào có trống. Này Gia chủ tử, la cà đình đám hý viện có sáu nguy hiểm như vậy.
    5. Này Gia chủ tử, đam mê cờ bạc có sáu nguy hiểm: Nếu thắng thì sanh oán thù, nếu thua thì tâm sanh sầu muộn, tài sản hiện tại bị tổn thất, tại hội trường (pháp đình) lời nói không hiệu lực, bằng hữu đồng liêu khinh miệt, vấn đề cưới gả không được tín nhiệm vì người đam mê cờ bạc không xứng để có vợ. Này Gia chủ tử, đam mê cờ bạc có sáu nguy hiểm như vậy.
    6. Này Gia chủ tử, thân cận các ác hữu có sáu nguy hiểm: Những kẻ cờ bạc, loạn hành, nghiện rượu, những kẻ trá ngụy, lường gạt, bạo động là những người bạn, là những thân hữu của người ấy. Này Gia chủ tử, thân cận ác hữu có sáu nguy hiểm như vậy.
    7. Này Gia chủ tử, quen thói lười biếng có sáu nguy hiểm: “quá lạnh”, không làm việc; “quá nóng”, không làm việc; “quá trễ” không làm việc; “quá sớm”, không làm việc; “tôi đói quá”, không làm việc; “tôi quá no”, không làm việc. Trong khi những công việc phải làm lại không làm. Tài sản chưa có không xây dựng lên, tài sản có rồi bị tiêu thất. Này Gia chủ tử, quen thói lười biếng có sáu nguy hiểm như vậy. Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
    8. Thiện Thệ thuyết giảng xong, bậc Ðạo Sư lại giảng thêm:

    Có bạn gọi bạn rượu,
    Có bạn, bạn bằng mồm,
    Bạn lúc thật hữu sự,
    Mới xứng danh bạn bè.
    Ngủ ngày, thông vợ người,
    Ưa đấu tranh, làm hại,
    Thân ác hữu, xan tham,
    Sáu sự não hại người.
    Ác hữu, ác bạn lữ,
    Ác hạnh, hành ác xứ,
    Ðời này cả đời sau,
    Hai đời, người bị hại.
    Cờ bạc và đàn bà,
    Rượu chè, múa và hát
    Ngủ ngày, đi phi thời
    Thân ác hữu, xan tham,
    Sáu sự não hại người.
    Chơi xúc xắc, uống rượu
    Theo đuổi đàn bà người,
    Lẽ sống của người khác,
    Thân cận kẻ hạ tiện,
    Không thân cận bậc trí,
    Người ấy tự héo mòn,
    Như trăng trong mùa khuyết.
    Rượu chè không tiền của,
    Khao khát, tìm tửu điếm,
    Bị chìm trong nợ nần,
    Như chìm trong bồn nước,
    Mau chóng tự hại mình,
    Như kẻ mất gia đình.
    Ai quen thói ngủ ngày,
    Thức trọn suốt đêm trường,
    Luôn luôn say sướt mướt,
    Không thể sống gia đình.
    Ở đây ai hay than:
    Ôi quá lạnh, quá nóng,
    Quá chiều, quá trễ giờ,
    Sẽ bỏ bê công việc.
    Lợi ích, điều tốt lành,
    Bị trôi dạt một bên.
    Ai xem lạnh và nóng,
    Nhẹ nhàng hơn cỏ lau,
    Làm mọi công chuyện mình,
    Hạnh phúc không từ bỏ.

    1. Này Gia chủ từ, có bốn hạng người phải xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn: Người vật gì cũng lấy phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn; người chỉ biết nói giỏi phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn; người khéo nịnh hót phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn; người tiêu pha xa xỉ phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn.
    2. Này Gia chủ tử, có bốn trường hợp người vật gì cũng lấy phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn: Người vật gì cũng lấy, cho ít xin nhiều, vì sợ mà làm, làm vì mưu lợi cho mình. Này Gia chủ tử, như vậy là bốn trường hợp người vật gì cũng lấy phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn.
    3. Này Gia chủ tử, có bốn trường hợp, người chỉ biết nói giỏi phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn: Tỏ lộ thân tình việc đã qua; tỏ lộ thân tình việc chưa đến; mua chuộc cảm tình bằng sáo ngữ; khi có công việc, tự tỏ sự bất lực của mình. Này Gia chủ tử, như vậy là bốn trường hợp, người chỉ biết nói giỏi phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn.
    4. Này Gia chủ tử, có bốn trường hợp, kẻ nịnh hót phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn: Ðồng ý các việc ác; không đồng ý các việc thiện; trước mặt tán thán; sau lưng chỉ trích. Này Gia chủ tử, như vậy là bốn trường hợp kẻ nịnh hót phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn.
    5. Này Gia chủ tử, có bốn trường hợp, người tiêu pha xa xỉ phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn: Là bạn khi mình đam mê các loại rượu; là bạn khi mình du hành đường phố phi thời; là bạn khi mình la cà đình đám hý viện; là bạn khi mình đam mê cờ bạc. Này Gia chủ tử, như vậy có bốn trường hợp, người tiêu pha xa xỉ phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn.

    Thế Tôn thuyết giảng như vậy.

    1. Thiện Thệ thuyết giảng xong, bậc Ðạo Sư lại giảng thêm:

    Người bạn gì cũng lấy,
    Người bạn chỉ nói giỏi,
    Người nói lời nịnh hót,
    Người tiêu pha xa xỉ.
    Cả bốn, không phải bạn,
    Biết vậy, người trí tránh,
    Như đường đầy sợ hãi.

    1. Này Gia chủ tử, bốn loại bạn này phải được xem là bạn chân thật: Người bạn giúp đỡ phải được xem là bạn chân thật; người bạn chung thủy trong khổ cũng như trong vui phải được xem là bạn chân thật; người bạn khuyên điều lợi ích phải được xem là bạn chân thật; người bạn có lòng thương tưởng phải được xem là bạn chân thật.
    2. Này Gia chủ tử, có bốn trường hợp, người bạn giúp đỡ phải được xem là bạn chân thật: Che chở cho bạn khi bạn vô ý phóng dật, che chở của cải cho bạn khi bạn vô ý phóng dật, là chỗ nương tựa cho bạn khi bạn sợ hãi, khi bạn có công việc sẽ giúp đỡ cho bạn của cải gấp hai lần những gì bạn thiếu. Này Gia chủ tử, như vậy có bốn trường hợp, người bạn giúp đỡ phải được xem là người bạn chân thật.
    3. Này Gia chủ tử, có bốn trường hợp, người bạn chung thủy trong khổ cũng như trong vui phải được xem là người bạn chân thật: Nói cho bạn biết điều bí mật của mình; giữ gìn kín điều bí mật của bạn; không bỏ bạn khi bạn gặp khó khăn; dám hy sinh thân mạng vì bạn. Này Gia chủ tử, như vậy có bốn trường hợp, người bạn chung thủy trong khổ cũng như trong vui phải được xem là người bạn chân thật.
    4. Này Gia chủ tử, có bốn trường hợp, người bạn khuyên điều lợi ích phải được xem là người bạn chân thật: Ngăn chận bạn không làm điều ác; khuyến khích bạn làm điều thiện; cho bạn nghe điều bạn chưa nghe; cho bạn biết con đường lên cõi chư Thiên. Này Gia chủ tử, như vậy có bốn trường hợp, người bạn khuyên điều lợi ích phải được xem là người bạn chân thật.
    5. Này Gia chủ tử, có bốn trường hợp, người bạn thương tưởng phải được xem là người bạn chân thật: Không hoan hỷ khi bạn gặp hoạn nạn; hoan hỷ khi bạn gặp may mắn; ngăn chận những ai nói xấu bạn; khuyến khích những ai tán thán bạn. Này Gia chủ tử, như vậy có bốn trường hợp, người bạn thương tưởng phải được xem là người bạn chân thật.

    Thế Tôn thuyết giảng như vậy.

    1. Thiện thệ thuyết giảng xong, bậc Ðạo Sư lại giảng thêm:

    Bạn sẵn sàng giúp đỡ,
    Bạn chung thủy khổ vui,
    Bạn khuyến khích lợi ích,
    Bạn có lòng thương tưởng.
    Biết rõ bốn bạn này,
    Người trí phục vụ họ,
    Như mẹ đối con ruột.
    Người trí giữ giới luật,
    Sáng như lửa đồi cao.
    Người tích trữ tài sản,
    Như cử chỉ con ong.
    Tài sản được chồng chất,
    Như ụ mối đùn cao,
    Người cư xử như vậy,
    Chất chứa các tài sản,
    Vừa đủ để lợi ích
    Cho chính gia đình mình.
    Tài sản cần chia bốn
    Ðể kết hợp bạn bè:
    Một phần mình an hưởng,
    Hai phần dành công việc,
    Phần tư, phần để dành,
    Phòng khó khăn hoạn nạn.

    1. Này Gia chủ tử, vị Thánh đệ tử hộ trì sáu phương  [7] như thế nào? Này Gia chủ tử, sáu phương này cần được hiểu như sau: Phương Ðông cần được hiểu là cha mẹ. Phương Nam cần được hiểu là sư trưởng. Phương Tây cần được hiểu là vợ con. Phương Bắc cần được hiểu là bạn bè. Phương Dưới cần được hiểu là tôi tớ, lao công. Phương Trên cần được hiểu là Sa-môn, Bà-la-môn.

      1. Này Gia chủ tử, có bốn trường hợp, người con phải phụng dưỡng cha mẹ như phương Ðông: “Ðược nuôi dưỡng, tôi sẽ nuôi dưỡng lại cha mẹ; tôi sẽ làm bổn phận đối với cha mẹ; tôi sẽ gìn giữ gia đình và truyền thống; tôi bảo vệ tài sản thừa tự; tôi sẽ làm tang lễ khi cha mẹ qua đời”. Này Gia chủ tử, được con phụng dưỡng như phương Ðông, theo năm cách như vậy, cha mẹ có lòng thương tưởng đến con theo năm cách: Ngăn chận con làm điều ác; khuyến khích con làm điều thiện; dạy con nghề nghiệp, cưới vợ xứng đáng cho con; đúng thời trao của thừa tự cho con.

      Này Gia chủ tử, như vậy là cha mẹ được con phụng dưỡng như phương Ðông theo năm cách và cha mẹ có lòng thương tưởng con theo năm cách. Như vậy phương Ðông được che chở, được trở thành an ổn và thoát khỏi các sự sợ hãi.

      1. Này Gia chủ tử, có năm cách, đệ tử phụng dưỡng các bậc sư trưởng như phương Nam: Ðứng dậy để chào, hầu hạ thầy, hăng hái học tập, tự phục vụ thầy, chú tâm học hỏi nghề nghiệp. Này Gia chủ tử, được đệ tử phụng dưỡng như phương Nam theo năm cách như vậy, các bậc sư trưởng có lòng thương tưởng đến các đệ tử theo năm cách: Huấn luyện đệ tử những gì mình đã được khéo huấn luyến; dạy cho bảo trì những gì mình được khéo bảo trì; dạy cho thuần thục các nghề nghiệp; khen đệ tử với các bạn bè quen thuộc; bảo đảm nghề nghiệp cho đệ tử về mọi mặt.

      Này Gia chủ tử, như vậy là bậc sư trưởng được đệ tử phụng dưỡng như phương Nam theo năm cách và sư trưởng có lòng thương tưởng đến đệ tử theo năm cách. Như vậy phương Nam được che chở, được trở thành an ổn và thoát khỏi các sự sợ hãi.

      1. Này Gia chủ tử, có năm cách, người chồng phải đối xử với vợ như phương Tây: Kính trọng vợ, không bất kính đối với vợ; trung thành với vợ; giao quyền hành cho vợ; sắm đồ nữ trang với vợ; Này Gia chủ tử, được chồng đối xử như phương Tây theo năm cách như vậy, người vợ có lòng thương tưởng chồng theo năm cách: Thi hành tốt đẹp bổn phận của mình; khéo tiếp đón bà con; trung thành với chồng; khéo gìn giữ tài sản của chồng; khéo léo và nhanh nhẹn làm mọi công việc.

      Này Gia chủ, người vợ được người chồng đối xử như phương Tây theo năm cách và người vợ có lòng thương tưởng chồng theo năm cách. Như vậy phương Tây được che chở, được trở thành an ổn và thoát khỏi các sự sợ hãi.

      1. Này Gia chủ tử, có năm cách vị thiện nam tử đối xử với bạn bè như phương Bắc: Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, không lường gạt. Này Gia chủ tử, được vị thiện nam tử đối xử như phương Bắc theo năm cách như vậy, bạn bè có lòng thương kính vị thiện nam tử theo năm cách: Che chở nếu vị thiện nam tử phóng túng; bảo trì tài sản của vị thiện nam tử nếu vị này phóng túng; trở thành chỗ nương tựa khi vị thiện nam tử gặp nguy hiểm; không tránh xa khi vị thiện nam tử gặp khó khăn; kính trọng gia đình của vị thiện nam tử.

      Như vậy các bạn bè được vị thiện nam tử đối xử như phương Bắc theo năm cách và bạn bè có lòng thương tưởng vị thiện nam tử theo năm cách. Như vậy phương Bắc được che chở, được trở thành an ổn và thoát khỏi các sự sợ hãi.

      1. Này Gia chủ tử, có năm cách một vị Thánh chủ nhân đối xử với hạng nô bộc như phương Dưới: Giao việc đúng theo sức lực của họ; lo cho họ ăn uống và tiền lương; điều trị cho họ khi bệnh hoạn; chia xẻ các mỹ vị đặc biệt cho họ; thỉnh thoảng cho họ nghỉ phép. Này Gia chủ tử, các hàng nô bộc được Thánh chủ nhân đối xử như phương Dưới với năm cách như kia, có lòng thương tưởng đối với vị chủ nhân theo năm cách như sau: Dậy trước khi chủ dậy; đi ngủ sau chủ; tự bằng lòng với các vật đã cho; khéo làm các công việc; đem danh tiếng tốt đẹp cho chủ.

      Này Gia chủ tử, các hàng nô bộc được vị Thánh chủ nhân đối xử như phương Dưới với năm cách, có lòng thương tưởng đối với Thánh chủ nhân theo năm cách. Như vậy phương Dưới được che chở, được trở thành an ổn và thoát khỏi các sự sợ hãi.

      1. Này Gia chủ tử, có năm cách vị thiện nam tử đối xử với các vị Sa-môn, Bà-la-môn như phương Trên: Có lòng từ trong hành động về thân; có lòng từ trong hành động về khẩu; có lòng từ trong hành động về ý; mở rộng cửa để đón các vị ấy; cúng dường các vị ấy các vật dụng cần thiết. Này Gia chủ tử, các vị Bà-la-môn, Sa-môn được vị thiện nam tử đối xử như phương Trên theo năm cách như vậy, có lòng thương tưởng vị thiện nam tử ấy theo năm cách sau đây: Ngăn họ không làm điều ác; khuyến khích họ làm điều thiện; thương xót họ với tâm từ bi, dạy họ những điều chưa nghe; làm cho thanh tịnh điều đã được nghe; chỉ bày con đường đưa đến cõi Trời.

      Này Gia chủ tử, các vị Sa-môn, Bà-la-môn được thiện nam tử đối xử như phương Trên với năm cách, và các vị Sa-môn, Bà-la-môn có lòng thương tưởng vị thiện nam tử theo năm cách. Như vậy phương Trên được che chở, được trở thành an ổn và thoát khỏi các sự sợ hãi.

      Thế Tôn thuyết giảng như vậy.

      1. Thiện thệ thuyết giảng xong, bậc Ðạo Sư lại giảng thêm:

      Cha mẹ là phương Ðông,
      Sư trưởng là phương Nam,
      Vợ chồng là phương Tây,
      Bạn bè là phương Bắc,
      Nô bộc là phương Dưới,
      Sa-môn, Bà-la-môn,
      Có nghĩa là phương Trên.
      Cư sĩ vì gia đình,
      Ðảnh lễ phương hướng ấy.
      Kẻ trí giữ Giới, Luật,
      Từ tốn và biện tài,
      Khiêm nhường và nhu thuận,
      Nhờ vậy được danh xưng.
      Dậy sớm không biếng nhác,
      Bất động giữa hiểm nguy,
      Người hiền, không phạm giới,
      Nhờ vậy được danh xưng.
      Nhiếp chúng, tạo nên bạn,
      Từ ái, tâm bao dung,
      Dẫn đạo, khuyến hóa đạo,
      Nhờ vậy được danh xưng.
      Bố thí và ái ngữ,
      Lợi hành bất cứ ai,
      Ðồng sự trong mọi việc,
      Theo trường hợp xử sự.
      Chính những nhiếp sự này,
      Khiến thế giới xoay quanh,
      Như bánh xe quay lăn,
      Vòng theo trục xe chính.
      Nhiếp sự này vắng mặt,
      Không có mẹ hưởng thọ,
      Hay không cha hưởng thọ,
      Sự hiếu kính của con.
      Do vậy bậc có trí,
      Ðối với nhiếp pháp này,
      Như quán sát chấp trì,
      Nhờ vậy thành vĩ đại,
      Ðược tán thánh, danh xưng.

      1. Khi được nghe vậy, Siṅgālaka, gia chủ tử bạch Thế Tôn: “Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Bạch Thế Tôn, nay con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp và chúng Tỷ-kheo. Mong Thế Tôn nhận con làm đệ tử, từ nay trở đi cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.

      Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt

      Chú giải

      Chú giải
      1 – Rājagaha (Vương Xá thành)  : là chỗ ở của những dòng dõi hoàng gia, hoàng tộc, một vùng đất rộng lớn , nhiều đời trải qua một thời gian thật là dài, đây là một vùng đất có vượng khí , có phong thủy tốt , địa thế sinh hoạt đi lại thuận tiện, là chỗ sinh sống của những hạng đại gia , đại phước. Khi các vị ấy chưa ra đời thì vùng đất này sẽ do 1 nhóm dạ xoa trưởng quản , coi sóc.

      Tham khảo: https://youtu.be/RNpULFphzHw

      Đoạn: 00:00:55 – 00:08:34

      2

      – Veluvana (Trúc Lâm) : Gọi là trúc lâm vì nơi đây là vườn ngự uyển được bao quanh bởi tre, nơi đây đẹp đến mức Vua Bình Sa Vương thuê nhạc sĩ, thi sĩ làm thơ ca ngợi gây tò mò cho Hoàng Hậu để bà vô chùa nghe Pháp.

      Chú giải: veḷuvane kalandakanivāpeti veḷuvananti tassa uyyānassa nāmaṃ. taṃ kira veḷūhi parikkhittaṃ ahosi aṭṭhārasahatthena ca pākārena gopuraṭṭālakayuttaṃ nīlobhāsaṃ manoramaṃ, tena veḷuvananti vuccati.

      Tham khảo: https://youtu.be/RNpULFphzHw

      Đoạn: 00:00:55 – 00:08:34

      3

      Kalandakanivāpa (chỗ tìm ăn của loài sóc) :  là chỗ nuôi dưỡng các con sóc . Thuở xưa tại Rājagaha (Vương Xá thành) có một ông Vua vào buổi trưa đi tản bộ trong Vườn Ngự cùng với các cô cung nữ, khi Vua buồn ngủ thì Ngài đã gối đầu lên chân 1 cô Cung Nữ ngủ say. Cô cung nữ ham đi hái hoa đã gỡ nhẹ đầu Vua xuống khỏi chân và cô ấy đi .Khi Nàng rời đi , có một con Rắn cực độc ( Rắn Hổ Mang ) bò đến phía vị Vua ấy . Lúc có 1 vị Thọ Thần nhìn thấy ông đem lòng xót xa cho Vua nghĩ rằng “tính mạng nhà vua đang gặp nguy hiểm” . Nên vị Thọ Thần biến thành một con Sóc chạy tới ngay lỗ tai Vua hét lớn lên khiến vị Vua giật mỉnh tỉnh dậy, thấy có 1 con rắn đang bò và nhờ đó mà thoát nạn. Vị Vua ấy liền nghĩ , tại sao con Sóc xuất hiện kịp thời đến như vậy , ngay lúc đại nạn con sóc xuất hiện như một Quý Nhân. Để tỏ lòng mang ơn , Vị Vua ấy ra lệnh không được giết Sóc và ngay tại chỗ vị Vua ấy thoát nạn , Vua cho người mang đến chỗ ấy nhiều trái cây và các loại hạt cho con sóc ấy ăn thoải mái. Từ đó chỗ đó trở thành Kalandakanivāpa (chỗ tìm ăn của loài sóc)

      Chú giải: kalandakānañcettha nivāpaṃ adaṃsu, tena kalandakanivāpoti vuccati. pubbe kira aññataro rājā tattha uyyānakīḷanatthaṃ āgato surāmadena matto divā niddaṃ okkami. parijanopissa “sutto rājā”ti pupphaphalādīhi palobhiyamāno ito cito ca pakkāmi. atha surāgandhena aññatarasmā susirarukkhā kaṇhasappo nikkhamitvā rañño abhimukho āgacchati, taṃ disvā rukkhadevatā “rañño jīvitaṃ dammī”ti kāḷakavesena āgantvā kaṇṇamūle saddamakāsi. rājā paṭibujjhi. kaṇhasappo nivatto. so taṃ disvā “imāya kāḷakāya mama jīvitaṃ dinnan”ti kāḷakānaṃ tattha nivāpaṃ paṭṭhapesi, abhayaghosañca ghosāpesi. tasmā taṃ tato pabhuti “kalandakanivāpo”ti saṅkhyaṃ gataṃ.

      Tham khảo: https://youtu.be/RNpULFphzHw

      Đoạn: 00:00:55 – 00:08:34

      4

      Gia chủ tử: là con của người gia chủ. Cha của chàng thanh niên Siṅgālaka là một gia chủ giàu có tài sản đến 400 triệu đồng vàng thời đó , bố mẹ Siṅgālaka la 2 vị Thánh Cư sĩ đều đắc Tu đà Hoàn, nhưng riêng Siṅgālaka vì là một cậu ấm ham chơi, thiếu hàm dưỡng cho nên coi việc phải cúi đầu trước bậc tu hành là một chuyện khó chịu , coi chuyện phải ngồi trên đất là sợ dơ áo quần , khi sắp mất thì bố của Siṅgālaka mới nghĩ tới một chuyện Thế Tôn và các bậc thánh thế nào cũng độ được con mình, mình hãy dùng một mẹo để đánh dấu cho các Ngài biết chỗ giúp con: ông dạy con làm chuyện là đời để gây sự chú ý cho người khác, thế nào Đức Phật và các Bậc Thánh Tăng cũng xuất hiện. Đó là cách bày cho Siṅgālaka sáng nào cũng để đầu tóc ướt nhẹp xá lạy các phương.

      Chú giải:

      gahapatiputtoti gahapatissa putto gahapatiputto. tassa kira pitā gahapatimahāsālo, nidahitvā ṭhapitā cassa gehe cattālīsa dhanakoṭiyo atthi. so bhagavati niṭṭhaṅgato upāsako sotāpanno, bhariyāpissa sotāpannāyeva. putto panassa assaddho appasanno. atha naṃ mātāpitaro abhikkhaṇaṃ evaṃ ovadanti  “tāta satthāraṃ upasaṅkama, dhammasenāpatiṃ mahāmoggallānaṃ mahākassapaṃ asītimahāsāvake upasaṅkamā”ti. so evamāha  “natthi mama tumhākaṃ samaṇānaṃ upasaṅkamanakiccaṃ, samaṇānaṃ santikaṃ gantvā vanditabbaṃ hoti, onamitvā vandantassa piṭṭhi rujjati, jāṇukāni kharāni honti, bhūmiyaṃ nisīditabbaṃ hoti, tattha nisinnassa vatthāni kilissanti jīranti, samīpe nisinnakālato paṭṭhāya kathāsallāpo hoti, tasmiṃ sati vissāso uppajjati, tato nimantetvā cīvarapiṇḍapātādīni dātabbāni honti. evaṃ sante attho parihāyati, natthi mayhaṃ tumhākaṃ samaṇānaṃ upasaṅkamanakiccan”ti. iti naṃ yāvajīvaṃ ovadantāpi mātāpitaro sāsane upanetuṃ nāsakkhiṃsu.

      ♦ athassa pitā maraṇamañce nipanno “mama puttassa ovādaṃ dātuṃ vaṭṭatī”ti cintetvā puna cintesi  “disā tāta namassāhī”ti evamassa ovādaṃ dassāmi, so atthaṃ ajānanto disā namassissati, atha naṃ satthā  sāvakā  passitvā “kiṃ karosī”ti pucchissanti. tato “mayhaṃ pitā disā namassanaṃ karohīti maṃ ovadī”ti vakkhati. athassa te “na tuyhaṃ pitā etā disā namassāpeti, imā pana disā namassāpetī”ti dhammaṃ desessanti. so buddhasāsane guṇaṃ ñatvā “puññakammaṃ karissatī”ti. atha naṃ āmantāpetvā “tāta, pātova uṭṭhāya cha disā namasseyyāsī”ti āha. maraṇamañce nipannassa kathā nāma yāvajīvaṃ anussaraṇīyā hoti. tasmā so gahapatiputto taṃ pituvacanaṃ anussaranto tathā akāsi. tasmā “kālasseva uṭṭhāya rājagahā nikkhamitvā”tiādi vuttaṃ.

      Tham khảo: https://youtu.be/6ie6rpHpXxg?t=1772

      Đoạn: 00: 29:29 – 00:31:13

      5

      • 4 pháp cộng nghiệp hướng thượng giúp cho chúng sanh làm thân bằng quyến thuộc của nhau, tùy theo cộng nghiệp nhiều ít mà trở thành cha mẹ, con cái, vợ chồng, xóm làng…:
      1. Là Thí xả :  ( bố thí theo cách thả chim không phải thả diều nghĩa là lòng đã trao ra không nhận lại , không mong gì hết) 
      2. Đức tin : tín tâm ( là niềm tin dựa trên trí tuệ )
      3. Giới hạnh ( giữ và hiểu , là khả năng giữ được mình lúc bị cám dỗ hay thử thách, không phải cách hiểu “ không phạm giới là giữ giới “  vì không phạm chưa chắc là giới)
      4. Trí tuệ ( nhận thức căn bản về tam tướng và lý nhân quả nghĩa là khi 
      • Một tâm thiện xuất hiện thì lập tức để lại một dấu ấn trong tương lai , gieo mầm cho thế giới này gọi là hạnh phúc. 
      • Một tâm ác xuất hiện thì nó kín đáo nó tạo ra mầm đau khổ trong tương lai 
      • Vạn sự ở đời do duyên mà có , có rồi phải mất . )

      Bốn yếu tố này tương đồng nhau thì sẽ tái ngộ trong luân hồi ở hoàn cảnh tốt nhất nếu bốn yếu tố không tương đồng thì sẽ gặp gỡ trong trục trặc.

      Tham khảo : https://youtu.be/cS7UU3cOs1s?t=539

      6

      • Bốn nghiệp phiền não : Mỗi ác Nghiệp ta làm luôn để lại vô số hệ lụy cho người khác nên khi chịu quả xấu,thì ta cũng phải chịu đựng chừng ấy những kiểu đau khổ. 

      1.Sát sanh: là nghiệp để lại nhiều quả xấu trong đó có 1 quả rất dễ sợ đó là phải sống trong cảnh Sanh Ly Tử Biệt, xa người mình thương

      2. Trộm cắp : không đơn giản chỉ là hành vi trộm cắp mà còn là có thể lấy đi mạng của người khác ( có nhiều vụ cướp giật làm người khác té gây đến chết người..)

      3. Nói dối : do nói dối có thể dẫn đến đại họa cho thiên hạ ,có những câu nói dối dẫn đến địa ngục, nghiệp nói dối sẽ sanh ra đời chịu quả nói không ai nghe, sanh ra có miệng dị dạng, nói không ai tin, miệng có mùi hôi, dị dạng kỳ hình ( do nói dối có thêm bớt) và rất nhiều quả khác .

      4.Giới tà dâm: bị sa đọa 4 cảnh khổ , cho quả đời sau sanh ra nặng thì đi vào địa ngục, nhẹ thì làm ngạ quỷ, hoặc sanh ra người thì phải mang thân nữ,rối loạn giới tính. Trong số những người có Phước giống nhau thì người nữ được xem là có vị trí thấp. Trong số những người vô Phước với nhau thì thân nữ bị xem là vị trí thấp. Thân nữ không phân biệt giàu nghèo sang hèn , vì người nữ có những cái khổ mà người Nam không bị.

      Tham khảo: https://youtu.be/cS7UU3cOs1s?t=1712

      https://youtu.be/6ie6rpHpXxg?t=1772

      Đoạn: 00:06:35 – 00:21:00

      7

      Sáu Phương theo chú giải Đức Phật giải thích :

      • Hướng Đông tượng trưng cho Đạo Hiếu cha mẹ , không phải lạy hướng Đông là chắp tay vái lạy mà là sống hiếu thảo với cha mẹ , cha mẹ còn sống thì chăm sóc phụng dưỡng về cả 2 phương diện tinh thần, vật chất, gìn giữ gia phong, tài sản cha mẹ không làm thất thoát , lo lắng hậu sự , hồi hướng công đức ( ví dụ thay vì bỏ tiền đốt giấy vàng mã thì nên dùng số tiền đó mua đồ ăn bố thí rồi hồi hướng công đức cho cha mẹ quá vãng). Nhưng lưu ý ai có tà kiến ,tánh ghen tị, bỏn xẻn, trạo hối (hối hận) , nặng nề cũng khó nhận Phước Hồi Hướng. 
      • Hướng Tây: tượng trưng cho Đạo vợ chồng là người chồng phải có sự tôn trọng đối với người vợ . 
      • Hướng Nam: tượng trưng cho Đạo Thầy Trò có bổn phận phải thực hiện .
      • Hướng Bắc: tượng trưng cho Đạo bạn bè 
      • Phương Dưới : Đạo Nô Bộc kẻ dưới quyền phải làm sao cho phải phép
      • Phương trên : Đạo Tam Tục nếu mình xuất gia đối với người Cư Sĩ phải làm sao, và người Cư Sĩ đối với người Xuất Gia phải làm sao. 

      Tham khảo: https://youtu.be/6ie6rpHpXxg?t=1772

      Đoạn: 00:32:00