Kinh Chuyển luân Thánh vương Sư tử hống

(Cakkavati-Sìhanàda sutta)

Như vầy tôi nghe.

  1. Một thời Thế Tôn an trú ở Magadha (Ma-kiệt-đà) [1] tại Matulà (Ma-du-la). Lúc bấy giờ Thế Tôn gọi chư Tỷ kheo: “Này các Tỷ kheo!”. Các vị Tỷ kheo ấy Bạch Thế Tôn: “Thưa vâng, bạch Thế Tôn”. Thế Tôn giảng như sau:

    – Này các Tỷ kheo, hãy sống tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa mình, không nương tựa một ai khác, lấy Chánh pháp làm ngọn đèn, lấy Chánh pháp làm nơi nương tựa, không nương tựa một gì khác!

    Này các Tỷ kheo, thế nào là một Tỷ kheo sống tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa mình, không nương tựa một ai khác, lấy Chánh pháp làm ngọn đèn, lấy Chánh pháp làm nơi nương tựa, không nương tựa một gì khác?

    Này các Tỷ kheo, ở đây Tỷ kheo sống quán thên trên tự thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để có thể diệt trừ tham ưu ở đời, trên các cảm thọ… trên các tâm… sống quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để có thể diệt trừ tham ưu ở đời. Này các Tỷ kheo, như vậy là Tỷ kheo sống tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa mình, không nương tựa một ai khác, lấy Chánh pháp làm ngọn đèn, lấy Chánh pháp làm nơi nương tựa, không nương tựa một gì khác.

    Này các Tỷ kheo, hãy đi lại trong giới hạn được phép của mình, trong giới hạn Tổ phụ các Ngươi truyền lại. Này các Tỷ kheo, nếu các Ngươi đi lại trong giới hạn được phép của mình, trong giới hạn Tổ phụ các Ngươi truyền lại, thì Ma vương sẽ không có cơ hội để xâm nhập, không có cơ hội để nhắm vào đối tượng. Này các Tỷ kheo, chính nhờ nhiếp trì các thiện pháp làm nhân duyên mà công đức này được tăng thịnh.

    1. Thuở xưa, này các Tỷ kheo, có Vua Chuyển luân Thánh vương [2] tên là Dalhanemi (Kiên-cố-niệm), là vị pháp vương [3], lấy Chánh pháp trị nước, chinh phục bốn thiên hạ, thống trị các quốc độ và đầy đủ bảy món báu. Vị ấy có đầy đủ báy món báu, tức là xe báu, voi báu, ngựa báu, châu báu, nữ báu, gia chủ báu và thứ bảy là tướng quân báu. Vị ấy có hơn một ngàn hoàng tử, dõng kiện, hùng mạnh, nhiếp phục ngoại địch. Vị này trị vì quả đất này cho đến hải biên, dùng Chánh pháp trị nước, không dùng trượng, không dùng kiếm.

    2. Này các Tỷ kheo, sau nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm, vua Dalhanemi cho gọi một người và bảo:

    – Này khanh, khi nào khanh thấy Thiên luân báu có lặn xuống một ít, có rời khỏi vị trí cũ, thì báo cho Ta biết.

    – Tâu Ðại vương, xin vâng!

    Này các Tỷ kheo người ấy vâng theo lời dạy vua Dalhanemi.

    Này các Tỷ kheo, sau nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm, người ấy thấy Thiên luân báu lặn xuống một ít, có rời khỏi vị trí cũ. Thấy vậy, người ấy liền đến vua Dalhanemi, khi đến xong, liền báo cho vua biết:

    – Ðại vương có biết chăng, xe báu cõi trời của Ngài đã lặn xuống một ít, đã rời khỏi vị trí cũ?

    Này các Tỷ kheo, vua Dalhanemi liền cho mời thái tử và nói rằng:

    – Này thái tử thân yêu, xe báu cõi trời của ta đã lặn xuống một ít, đã rời khỏi vị trí cũ. Ta nghe nói như sau: “Nếu xe báu cõi Trời của Chuẩn luận Pháp vương lặn xuống và rời khỏi vị trí cũ, thời vua còn sống không bao lâu nữa”. Ta đã thọ hưởng dục lạc loài Người một cách đầy đủ. Nay đã đến lúc tìm cầu dục lạc chư Thiên. Này thái tử thân yêu, hãy trị vì trái đất này cho đến hải biên. Ta sẽ cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình.

    Này các Tỷ kheo, vua Dalhanemi sau khi đã khéo đặt hoàng tử [4] con đầu trên ngôi vương vị, liền cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia[5], từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Này các Tỷ kheo, sau khi vị vua ẩn sĩ xuất gia bảy ngày, xe báu cõi Trời liền biến mất.

    1. Này các Tỷ kheo, một người khác đi đến vua Quán đảnh Sát đế lỵ, khi đến xong liền tâu vua Quán đảnh Sát đế lỵ:

    – Tâu Ðại vương, Ngài đã biết xe báu cõi Trời đa biến mất chưa?

    Này các Tỷ kheo, khi vua Quán đảnh Sát đế lỵ nghe tin xe báu cõi Trời đã biến mất, liền không được vui, cảm thấy sầu muộn. Rồi vua ấy đến chỗ vua ẩn sĩ ở, khi đến xong, thưa với vua ẩn sĩ:

    – Ðại vương có biết chăng, xe báu cõi Trời đã biến mất?

    Này các Tỷ kheo, khi nghe nói vậy, vua ẩn sĩ nói với vua Quán đảnh Sát đế lỵ:

    – Này thái tử thân yêu, chớ có không vui vẻ, chớ có sầu muộn. Này thái tử thân yêu, xe báu cõi Trời không phải là gia bảo tổ tiên để lại. Này thái tử thân yêu, hãy hành trì Thánh vương Chánh pháp. Sự tình này sẽ xảy ra, khi con hành trì Thánh vương Chánh pháp vào ngày rằm bố-tát, con gội đầu trai giới, đi lên lầu cao, thì xe báu cõi Trời sẽ hiện ra đầy đủ ngàn tăm, vành xe, trục xe và đầy đủ các bộ phận.

    1. – Tâu Ðại vương, thế nào là Thánh vương Chánh pháp?

    – Này thái tử thân yêu, con y cứ vào Pháp, kính trọng Pháp, cung kính Pháp, đảnh lễ Pháp, cúng dường Pháp, tôn trọng Pháp, tự con trở thành Pháp tràng, Pháp kỳ, xem Pháp là thầy, tự trở thành người bảo vệ hợp pháp cho thứ dân, cho quân đội, cho Sát đế lỵ, cho quần thần, cho Bà la môn, cho gia chủ, cho thị dân, thôn dân, cho Sa môn, Bà la môn, cho các loài thú và loài chim. Chớ có làm gì phi pháp trong quốc độ của con. Này con thân yêu, nếu trong quốc độ của con, có những Sa môn, Bà-la-môn từ bỏ dục vọng, không phóng dật, thực thành nhẫn nhục từ ái, nhiếp phục tự kỷ, an chỉ tự kỷ, giải thoát tự kỷ, thỉnh thoảng sẽ đến với con và hỏi con: “Này Tôn giả, thế nào là thiện, thế nào là bất thiện, thế nào là có tội, thế nào là không có tội, như thế nào nên thực hành, như thế nào không nên thực hành, hành động như thế nào đem lại bất lợi và đau khổ cho tôi lâu ngày, hành động như thế nào đem lại lợi ích và hạnh phúc cho tôi lâu ngày?” Con hãy nghe họ và ngăn chận họ khỏi sự bất thiện và khuyến khích họ làm điều thiện. Này con thân yêu, như vậy là Thánh vương Chánh pháp[6].

    – Thưa vâng, tâu Ðại vương!

    Này các Tỷ kheo, vua Quán đảnh Sát đế lỵ trả lời vua ẩn sĩ và thực hành Thánh vương Chánh pháp. Khi thực hành Thánh vương Chánh pháp vào ngày rằm bố-tát, vua gội đầu trai giới, đi lên lầu cao, thì xe báu cõi Trời hiện ra đầy đủ ngàn tăm, vành xe, trục xe và đầy đủ các bộ phận. Thấy vậy vua Quán đảnh Sát đế lỵ nghĩ rằng: “Ta được nghe nói như sau: “Quán đảnh vương Sát đế lỵ nào vào ngày rằm bố tát gội đầu trai giới, đi lên lầu cao và Thiên bảo luân hiện ra đầy đủ ngàn tăm, vành xe, trục xe và đầy đủ các bộ phận, thì vị vua ấy là Chuyển luân Thánh vương.” Như vậy ta là Chuyển luân Thánh vương”.

    1. Này các Tỷ kheo, vua Quán đảnh Sát đế lỵ từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y qua một bên vai, tay trái cầm bình nước, tay mặt tưới nước trên bảo luân và nói: “Hãy lăn, này Thiên bảo luân, hãy nhiếp phục tất cả”. Xe báu lăn về hướng đông, Chuyển luân Thánh vương theo sau cùng với bốn loại binh chủng. Và này các Tỷ kheo, chỗ nào xe báu ấy dừng lại, chỗ ấy Chuyển luân Thánh vương an trú, cùng với bốn loại chủng binh. Này các Tỷ kheo, các vị vua chư hầu ở hướng đông đều đến yết kiến Chuyển luân Thánh vương và nói:

    – Hãy đến đây, Ðại vương! Thiện lai. Ðại vương! Tất cả đều thuộc của Ðại vương! Ðại vương hãy thuyết giảng!

    Chuyển luân Thánh vương bèn nói:

    – Chớ có sát sanh! Chớ có lấy của không cho! Chớ có sống tà hạnh trong các dục! Chớ có nói láo! Chớ có uống rượu! Và hãy thọ hưởng theo những gì đã có để thọ hưởng!

    Này các Tỷ kheo, các vị vua thù nghịch ở hướng Ðông đều trở thành chư hầu của Chuyển luân Thánh vương.

    1. Này các Tỷ kheo, xe báu ấy chìm xuống biển hướng Ðông, vượt qua biển ấy, lăn về hướng Nam… trở thành chư hầu Chuyển luân Thánh vương. Này các Tỷ kheo, rồi xe báu chìm xuống biển hướng Tây, vượt qua biển ấy, lăn về hướng Bắc, và Chuyển luân Thánh vương theo sau cùng với bốn lại binh chủng. Và này các Tỷ kheo, chỗ nào xe báu ấy dừng lại, chỗ ấy Chuyển luân Thành vương an trú cùng với bốn loại binh chủng. Này các Tỷ kheo, các vị vua chư hầu ở hướng Bắc đều đến yết kiến Chuyển luân Thánh vương và nói:

    – Hãy đến đây, Ðại vương! Thiện lai, Ðại vương! Tất cả đều thuộc của Ðại vương! Ðại vương hãy thuyết giảng!

    Chuyển luân Thánh vương bèn nói:

    – Chớ có sát sanh! Chớ có lấy của không cho! Chớ có sống tà hạnh trong các dục! Chớ có nói láo! Chớ có uống rượu! Và hãy thọ hưởng những gì đã có để thọ hưởng!

    Này các Tỷ kheo, các vua thù nghịch ở hướng Bắc đều trở thành chư hầu Chuyển luân Thánh vương.

    Này các Tỷ kheo, khi xe báu ấy chinh phục quả đất cho đến hải biên, liền trở về kinh đô, và đứng lại như là dính liền trước cửa điện công lý, trong nội cung Chuyển luân Thánh vương và chói sáng nội cung của vua.

    1. Này các Tỷ kheo, lần thứ hai, Chuyển luân Thánh vương… Này các Tỷ kheo, lần thứ ba Chuyển luân Thánh vương… Này các Tỷ kheo, lần thứ tư Chuyển luân Thánh vương… Này các Tỷ kheo, lần thứ năm Chuyển luân Thánh vương… Này các Tỷ kheo, lần thứ sáu Chuyển luân Thánh vương…. Này các Tỷ kheo, lần thứ bảy, Chuyển luân Thánh vương sau nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm cho gọi một người và bảo:

    – Này Khanh, khi nào Khanh thấy xe báu cõi Trời có lặn xuống một ít, có rời khỏi vị trí cũ, thì báo cho ta biết.

    – Tâu Ðại vương, xin vâng!

    Này các Tỷ kheo, người ấy vâng theo lời dạy Chuyển luân Thánh vương.

    Này các Tỷ kheo, sau nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm, người ấy thấy xe báu cõi Trời lặn xuống một ít, có rời khỏi vị trí cũ. Thấy vậy, người ấy liền đến Chuyển luân Thánh vương, khi đến xong liền báo cho vua biết:

    – Ðại vương có biết chăng, xe báu cõi Trời của Ngài đã lặn xuống một ít, đã rời khỏi vị trí cũ?

    Này các Tỷ kheo, Chuyển luân Thánh vương liền cho mời thái tử và nói rằng:

    – Này thái tử thân yêu, xe báu cõi Trời của Ta đã lặn xuống một ít, đã rời khỏi vị trí cũ. Ta nghe như sau: “Nếu Thiên bảo luân của Chuyển luân Thánh vương có lặn xuống một ít, và rời khỏi vị trí cũ, thì vua còn sống không bao lâu nữa.” Ta đã thọ hưởng dục lạc loài Người một cách đầy đủ. Nay đã đến lúc tìm cầu dục lạc chư Thiên. Này thái tử thân yêu, hãy trị vì trái đất này cho đến hải biên. Ta sẽ cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình.

    Này các Tỷ kheo, Chuyển luân Thánh vương sau khi đã khéo đặt thái tử con đầu trên ngôi vương vị, liền cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình.

    Này các Tỷ kheo, sau khi Chuyển luân Thánh vương xuất gia bảy ngày, xe báu cõi Trời ấy biến mất.

    1. Này các Tỷ kheo, một người khác đi đến vua Quán đảnh Sát đế lỵ, khi đến nơi liền tâu với vua:

    – Ðại vương có biết chăng, xe báu cõi Trời đã biến mất?

    Này các Tỷ kheo, khi vua Quán đảnh Sát đế lỵ nghe tin xe báu cõi Trời đã biến mất, liền không được vui vẻ và cảm thấy sầu muộn. Vua ấy không đến chỗ vua ẩn sĩ và hỏi về Thánh vương Chánh pháp. Vị ấy tự cai trị quốc gia theo ý của mình. Vì cai trị quốc gia theo ý của mình, nên quốc gia không được hưng thịnh như trong thời xưa, khi các vua chúa cai trị theo Thánh vương Chánh pháp.

    Này các Tỷ kheo, rồi các vị đại thần, cận thần, tài chánh quan, các cận vệ, các thủ môn quan, các vị sống bằng bùa chú tụ họp lại, cùng đến vua Quán đảnh Sát đế lỵ và nói:

    – Tâu Ðại vương, vì Ðại vương cai trị quốc gia theo ý Ðại vương [7], nên quốc gia không được hưng thịnh, như trong thời xưa, các vua chúa cai trị theo Thánh vương Chánh pháp. Nay có các vị đại thần, cận thần, tài chánh quan, các cận vệ, các thủ môn quan, các vị sống bằng bùa chú, chúng tôi và một số các vị khác thọ trì Thánh vương Chánh pháp. Tâu Ðại vương, nếu Ðại vương hỏi chúng tôi về Thánh vương Chánh pháp, được hỏi, chúng tôi sẽ trả lời cho Ðại vương rõ về pháp này.

    1. Này các Tỷ kheo, rồi vua Quán đảnh Sát đế lỵ cho mời họp các vị đại thần, cận thần, tài chánh quan, các cận vệ, các thủ môn quan, các vị sống bằng bùa chú và hỏi về Thánh vương Chánh pháp. Và những vị này được hỏi, đã trả lời về Thánh vương Chánh pháp. Khi nghe họ nói xong, vị vua có sắp đặt sự hộ trì, ngăn chận, che chở, nhưng không cho người nghèo tiền của. Và vì vậy, nghèo đói được lan rộng. Vì nghèo đói được lan rộng, một người đã lấy vật không cho của những người khác, và hành động ấy được gọi là ăn trộm. Người ta bắt anh ta và dẫn đến trước vua Quán đảnh Sát đế lỵ và tâu vua:

    – Tâu Ðại vương, người này lấy vật không cho của những người khác, hành động này được gọi là ăn trộm.

    Này các Tỷ kheo, khi nghe vậy vua Quán đảnh Sát đế lỵ nói với người ấy:

    – Này Ngươi, có phải Ngươi lấy vật không cho của những người khác, tức là ăn trộm?

    – Tâu Ðại vương, sự thật có vậy.

    – Sao lại làm vậy?

    – Tâu Ðại vương, con không có gì sống!

    Này các Tỷ kheo, vua Quán đảnh Sát đế lỵ liền cho người ấy tiền của và nói:

    – Này Ngươi, với tiền của này Ngươi hãy tự nuôi dưỡng, nuôi dưỡng cha mẹ, nuôi dưỡng vợ con, tiến hành các công việc, thực hiện sự cúng dường với công đức tối thượng cho các vị Sa môn, mà kết quả là hưởng lạc thọ hiện tại và sanh Thiên giới trong tương lai…

    Này các Tỷ kheo, người ấy vâng theo lời vua Quán đảnh Sát đế lỵ và tâu:

    – Thưa vâng, Ðại vương!

    1. Này các Tỷ kheo, rồi một người khác lấy của không cho của những người khác, tức là ăn trộm. Người ta bắt anh ta và dẫn đến trước mặt vua Quán đảnh Sát đế lỵ và tâu vua:

    – Tâu Ðại vương, người này lấy vật không cho của những người khác, tức là ăn trộm.

    Này các Tỷ kheo, khi nghe vậy, vua Quán đảnh Sát đế lỵ nói với người ấy:

    – Này Ngươi, có phải Ngươi lấy của không cho của những người khác không, tức là ăn trộm?

    – Tâu Ðại vương, sự thật có vậy.

    – Sao lại làm vậy?

    – Tâu Ðại vương, con không có gì để sống!

    Này các Tỷ kheo, vua Quán đảnh Sát đế lỵ liền cho người ấy tiền của và nói:

    – Này Ngươi, với tiền của này, Ngươi hãy tự nuôi dưỡng, nuôi dưỡng cha mẹ, nuôi dưỡng vợ con, tiến hành các công việc, thực hiện sự cúng dường với công đức tối thắng cho các vị Sa môn, Bà la môn, mà kết quả là lạc thọ hiện tại và sanh thiên giới trong tương lai.

    Này các Tỷ kheo, người ấy vâng theo lời vua Quán đảnh Sát đế lỵ và tâu:

    – Thưa vâng, Ðại vương!

    1. Này các Tỷ kheo, nhiều người nghe: “Những ai lấy vật không cho của những người khác, tức là ăn trộm, vua cho những người ấy tiền của.” Nghe vậy, họ nghĩ: “Chúng ta hãy lấy vật không cho của những người khác, tức là ăn trộm.”

    Này các Tỷ kheo, lại một người khác lấy vật không cho của những người khác, tức là ăn trộm. Người ta bắt anh ta và dẫn đến trước vua Quán đảnh Sát đế lỵ và tâu vua:

    – Tâu Ðại vương, người này lấy vật không cho của những người khác, tức là ăn trộm.

    Này các Tỷ kheo, khi nghe nói vậy vua Quán đảnh Sát đến lỵ nói với người ấy:

    – Này Ngươi, có phải Ngươi lấy vật không cho của những người khác, tức là ăn trộm?

    – Tâu Ðại vương, sự thật có vậy?

    – Sao lại làm vậy?

    – Tâu Ðại vương, con không có gì để sống!

    Này các Tỷ kheo, vua Quán đảnh Sát đế lỵ suy nghĩ: “Nếu ai lấy vật không cho của những người khác tức là ăn trộm và ta cho họ tiền của, thì lấy vật không cho như vậy tăng trưởng. Nay ta phải ngăn chận triệt để người ấy, hình phạt thích đáng và chặt đầu nó!”

    Này các Tỷ kheo, vua Quán đảnh Sát đế lỵ ra lệnh cho các người:

    – Này các Khanh, hãy lấy dây thật chắc, cột tay ra đàng sau với gút thật chặt, cạo đầu nó, dắt nó đi với tiếng trống khe khắt, từ đường này đến đường khác, từ ngã tư này đến ngã tư khác, dắt nó ra khỏi cửa phía Nam, ngăn chận triệt để người ấy, hình phạt thích đáng và chặt đầu nó.

    – Tâu Ðại vương, thưa vâng!

    Này các Tỷ kheo, các người ấy vâng theo lệnh của vua Quán đảnh Sát đế lỵ, lấy dây thật chắc cột tay ra đàng sau với gút thật chặt, cạo đầu anh ta, dắt anh ta đi với tiếng trống khe khắt, từ đường này đến đường khác, từ ngã tư này đến ngã tư khác, dắt anh ta ra khỏi cửa phía Nam, ngăn chận triệt để người ấy, hình phạt thích đáng và chặt đầu anh ta.

    1. Này các Tỷ kheo, nhiều người nghe: “Những ai lấy vật không cho của những người khác, tức là ăn trộm, vua ngăn chận triệt để họ, hình phạt thích đáng và chém đầu họ.”

    Nghe vậy, những người ấy nghĩ: “Chúng ta hãy rèn kiếm cho thật bén, với những kiếm bén này, chúng ta sẽ lấy vật không cho của họ tức là ăn trộm, sẽ ngăn chận triệt để chúng, hình phạt thích đáng chúng và chém đầu họ”.

    Những người ấy rèn kiếm bén, sau khi rèn kiếm bén xong, họ đi cướp làng, họ đi cướp thôn xóm, họ đi cướp thành, họ đi cướp đường, họ lấy vật không cho tức là ăn trộm, họ ngăn chận triệt để những người mà họ ăn trộm, hình phạt thích đáng và chém đầu những người này.

    1. Này các Tỷ kheo, như vậy vì không cho người nghèo tiền của, nghèo đói tăng thịnh; vì nghèo đói tăng thịnh nên trộm cắp tăng thịnh; vì trộm cắp tăng thịnh nên đao kiếm được tăng thịnh; và đao kiếm được tăng thịnh, nên sát sanh tăng thịnh; vì sát sanh tăng thịnh nên nói láo tăng thịnh; vì nói láo tăng thịnh nên tuổi thọ của loài hữu tình giảm thiểu, sắc đẹp giảm thiểu; vì tuổi thọ giảm thiểu và sắc đẹp giảm thiểu, nên loài Người tuổi thọ đến tám vạn năm và con của họ thọ bốn vạn năm.

    Này các Tỷ kheo, khi loài Người thọ bốn vạn năm, một người khác lấy vật không cho tức là ăn trộm. Người ta bắt người này lại, dẫn đến trước vua Quán đảnh Sát đế lỵ và thưa:

    – Tâu Ðại vương, người này lất vật không cho của những người khác, tức là ăn trộm.

    Này các Tỷ kheo, khi nghe nói vậy, vua Quán đảnh Sát đế lỵ nói với người ấy:

    – Này Ngươi, có thật Ngươi lấy vật không cho của những người khác, tức là ăn trộm không?

    – Tâu Ðại vương, không!

    Người ấy cố ý nói không thật.

    1. Này các Tỷ kheo, như vậy vì không cho tiền của những người nghèo, nghèo đói tăng thịnh; vì nghèo đói tăng thịnh nên trộm cắp tăng thịnh; vì trộm cắp tăng thịnh nên đao kiếm tăng thịnh; vì đao kiếm tăng thịnh nên sát sanh tăng thịnh; vì sát sanh tăng thịnh nên nói láo tăng thịnh, vì nói láo tăng thịnh nên tuổi thọ của loài Người giảm thiểu, sắc đẹp giảm thiểu; vì tuổi thọ giảm và sắc đẹp giảm thiểu, nên loài Người tuổi thọ đến bốn vạn năm và con của họ thọ hai vạn năm.

    Này các Tỷ kheo, khi loài Người tuôi thọ đến hai vạn năm, một người khác lấy vật không cho của những người khác, tức là ăn trộm. Một người khác báo với vua Quán đảnh Sát đế lỵ về người ấy:

    – Tâu Ðại vương, người này đã lấy vật không cho của những người khác, tức là ăn trộm.

    Như vậy người ấy đã bị nói xấu.

    1. Này các Tỷ kheo, như vậy vì không cho tiền của những người nghèo, nghèo đói tăng thịnh; vì nghèo đói tăng thịnh nên trộm cắp tăng thịnh… vì nói xấu được tăng nên tuổi thọ loài Người giảm thiểu và sắc đẹp giảm thiểu. Vì tuổi thọ của họ giảm thiểu và sắc đẹp giảm thiểu, nên tuổi thọ loài Người chỉ có hai vạn năm và con của họ chỉ có một vạn năm.

    Này các Tỷ kheo, khi tuổi thọ [8] loài Người đến một vạn năm, một số chúng sanh có sắc đẹp, một số không có sắc đẹp. Những chúng sanh không có sắc đẹp tham đắm những chúng sanh có sắc đẹp và có tà hạnh với vợ những người khác.

    1. Này các Tỷ kheo, như vậy vì không cho tiền của những người nghèo, nghèo đói tăng thịnh; vì nghèo đói tăng thịnh nên trộm cắp tăng thịnh… nên tà dâm tăng thịnh; vì tà dâm tăng thịnh nên tuổi thọ loài Người giảm thiểu và sắc đẹp giảm thiểu. Vì tuổi thọ của họ giảm thiểu, và sắc đẹp giảm thiểu nên tuổi thọ loài Người chỉ có một vạn năm và con của họ chỉ có năm ngàn năm.

    Này các Tỷ kheo, khi tuổi thọ loài Người chỉ có năm ngàn năm, thì hai pháp hưng thịnh, tức là ác khẩu và nói lời phù phiếm. Khi hai pháp này hưng thịnh, thời tuổi thọ các loài hữu tình giảm thiểu, sắc đẹp giảm thiểu. Vì tuổi thọ của chúng giảm thiểu và sắc đẹp giảm thiểu nên tuổi thọ loài Người chỉ có năm ngàn năm và con của họ một số người sống hai ngàn năm trăm năm, một số người sống hai ngàn năm.

    Này các Tỷ kheo, khi tuổi thọ loài Người chỉ có hai ngàn năm trăm năm, tham và sân tăng thịnh. Vì tham và sân tăng thịnh nên tuổi thọ các loài hữu tình giảm thiểu và sắc đẹp giảm thiểu. Vì tuổi thọ của họ giảm thiểu và sắc đẹp giảm thiểu, nên tuổi thọ loài Người chỉ có hai ngàn năm trăm năm và các người con chỉ có một ngàn năm.

    Này các Tỷ kheo, khi tuổi thọ loài Người chỉ có một ngàn năm thì tà kiến tăng thịnh. Vì tà kiến tăng thịnh, nên tuổi thọ các loài hữu tình giảm thiểu và sắc đẹp giảm thiểu. Vì tuổi thọ của họ giảm thiểu và sắc đẹp giảm thiểu, nên tuổi thọ loài Người chỉ có một ngàn năm, và người con chỉ có năm trăm năm.

    Này các Tỷ kheo, khi tuổi thọ loài Người chỉ có năm trăm năm, thì ba pháp tăng thịnh: phi pháp dục, phi lý tham và tà kiến. Khi ba pháp này tăng thịnh, thời tuổi thọ của các loài hữu tình giảm thiểu, sắc đẹp giảm thiểu, tuổi thọ loài Người chỉ có năm trăm năm, còn những người con, một số sống đến hai trăm năm mươi năm, một số sống đến hai trăm năm.

    Này các Tỷ kheo, khi tuổi thọ loài Người chỉ có hai trăm năm mươi năm, những pháp sau này tăng thịnh: Thiếu sự hiếu kính đối với cha mẹ, thiếu sự kính lễ đối với các vị Sa môn, Bà la môn, thiếu sự kính trọng đối với các vị cầm đầu trong gia đình.

    1. Này các Tỷ kheo, như vậy vì không cho tiền của những người nghèo, nghèo đói tăng thịnh; vì nghèo đói tăng thịnh, nên trộm cắp tăng thịnh; vì trộm cắp tăng thịnh nên đao kiếm tăng thịnh; vì đao kiếm tăng thịnh nên sát sanh tăng thịnh; vì sát sanh tăng thịnh nên nói láo tăng thịnh; vì nói láo tăng thịnh nên nói xấu tăng thịnh; vì nói xấu tăng thịnh nên tà hạnh tăng thịnh; vì tà hạnh tăng thịnh nên hai pháp tăng thịnh tức là ác khẩu và nói lời phù phiếm; vì hai pháp này tăng thịnh nên tham, sân tăng thịnh; vì tham, sân tăng thịnh nên tà kiến tăng thịnh; vì tà kiến tăng thịnh nên ba pháp tăng thịnh: phi pháp dục, phi lý tham và tà kiến. Vì ba pháp này tăng thịnh nên các pháp sau đây tăng thịnh: thiếu sự hiếu kính đối với cha mẹ, thiếu sự kính lễ đối với các vị Sa môn, Bà la môn, thiếu sự kính trọng đối với các vị cầm đầu trong gia đình. Vì những pháp này tăng thịnh nên tuổi thọ các loài hữu tình này giảm thiểu, sắc đẹp giảm thiểu, vì tuổi thọ giảm thiểu và sắc đẹp giảm thiểu nên loài Người chỉ sống có hai trăm năm mươi năm, và những người con chỉ có một trăm năm.
    2. Này các Tỷ kheo, một thời sẽ đến khi những người con của loài Người chỉ sống đến mười tuổi [9]. Này các Tỷ kheo, khi tuổi thọ loài Người chỉ mười tuổi, con gái đến năm tuổi sẽ lập gia đình. Này các Tỷ kheo, khi tuổi thọ loại Người chỉ có mười tuổi, các loại sau này sẽ biến mất, tức là tô, lạc, dầu, đường cát và muối. Này các Tỷ kheo, khi tuổi thọ loài Người chỉ có mười tuổi, loại hột Kudrusa trở thành món ăn tối thượng. Này các Tỷ kheo, như hiện nay cháo thịt là những món ăn tối thượng, cũng vậy này các Tỷ kheo, khi tuổi thọ loài Người đến mười tuổi, loại hột Kudrusa trở thành món ăn tối thượng. Khi tuổi thọ loài người đến mười tuổi, mười thiện hạnh hoàn toàn biến mất và mười bất thiện hạnh tăng thịnh tối đa. Này các Tỷ kheo, khi tuổi thọ loài người đến mười tuổi, chữ thiện cũng sẽ không còn, nói gì ai là người làm điều thiện? Này các Tỷ kheo, khi tuổi thọ loài Người đến mười tuổi, những ai thiếu sự hiếu kính đối với cha mẹ, thiếu sự hiếu kính đối với Sa môn, Bà-la-môn, thiếu sự cung kính đối với người cầm đầu trong gia đình, những người ấy sẽ được người ta lễ bái, tán dương. Này các Tỷ kheo, như hiện nay những ai hiếu hính với cha mẹ, kính lễ đối với các vị Sa môn, Bà-la-môn, cung kính đối với những người cầm đầu trong gia đình, những người ấy được người ta lễ bái tán dương. Cũng vậy này các Tỷ kheo, khi tuổi thọ loài Người đến mười tuổi, những ai thiếu sự hiếu kính đối với cha mẹ, thiếu sự kính lễ đối với các vị Sa môn, Bà-la-môn, thiếu sự cung kính đối với các vị cầm đầu trong gia đình, những người ấy được người ta lễ bái tán dương.

    3. Này các Tỷ kheo, khi tuổi thọ loài Người chỉ có mười tuổi, không có phân biệt mẹ hay bá mẫu hay thúc mẫu, vợ con của sư trưởng, chị dâu của cha. Thế giới rơi vào thông dâm như dê, gà, heo, chó và chó rừng. Này các Tỷ kheo, khi tuổi thọ loài Người chỉ có mười tuổi, các loài hữu tình đối với nhau, hại tâm rất mãnh liệt, sát tâm rất mãnh liệt. Mẹ đối với con, con đối với mẹ, cha đối với con, con đối với cha, anh đối với em, em đối với anh, em đối với chị, chị đối với em, hại tâm rất mãnh liệt, sân tâm rất mãnh liệt, ác ý rất mãnh liệt, sát tâm rất mãnh liệt. Này các Tỷ kheo, như người thợ săn khi thấy loài thú, hại tâm rất mãnh liệt khởi lên, sân tâm rất mãnh liệt, ác ý rất mãnh liệt, sát tâm rất mãnh liệt khởi lên. Cũng vậy này các Tỷ kheo, khi tuổi thọ loài Người chỉ có mười tuổi, các loài hữu tình đối với nhau, hại tâm rất mãnh liệt, ác ý rất mãnh liệt, sát tâm rất mãnh liệt.
    4. Này các tỷ kheo, khi loài Người tuổi thọ chỉ có mười tuổi đao trượng kiếp khởi lên trong bảy ngày, trong thời gian ấy họ xem nhau như loài thú, dao kiếm sắc bén hiện ra trong tay của họ. Với dao kiếm sắc bén ấy họ tàn hại mạng nhau, xem nhau như loài thú. Này các Tỷ kheo, giữa các loài hữu tình ấy, một số suy nghĩ: “Chúng ta chớ giết ai; mong đừng ai giết chúng ta. Chúng ta hãy đi vào rừng cỏ, rừng sâu, hang cây, sông ngòi hiểm hóc hay kẽ núi và sống với rễ và trái cây”. Họ đi vào rừng cỏ, rừng sâu, hang cây, sông ngòi hiểm hóc, hay kẽ núi đi ra, ôm lấy nhau, cùng nhau an ủi, khoan khoái nói với nhau: “Sung sướng thay được thấy bạn còn sống! Sung sướng thay được thấy bạn còn sống!” Này các Tỷ kheo, rồi các loài hữu tình ấy suy nghĩ: “Vì chúng ta tạo nhân bất thiện pháp nên bà con chúng ta bị giết hại nhiều như vậy. Vậy chúng ta hãy làm điều thiện. Chúng ta làm điều thiện như thế nào? Chúng ta chớ có sát sanh. Ðó là điều thiện chúng ta có thể làm”. “Chúng ta sẽ không sát sanh”, đó là điều thiện họ làm. Do hành thiện pháp làm nhân, tuổi thọ của họ được tăng thịnh, sắc đẹp được tăng thịnh. Vì tuổi thọ được tăng thịnh, sắc đẹp đựoc tăng thịnh, nên tuổi thọ loài Người chỉ có mười tuổi nhưng con của họ, thọ đến hai mươi tuổi.
    5. Này các Tỷ kheo, rồi các loài hữu tình ấy suy nghĩ: “Chúng ta nhờ hành thiện pháp làm nhân, nên tuổi thọ được tăng thịnh, sắc đẹp được tăng thịnh. Vậy chúng ta hãy làm việc thiện nhiều hơn nữa. Chúng ta hãy gìn giữ không lấy của không cho, gìn giữ không làm các tà hạnh, gìn giữ không nói láo, gìn giữ không nói hai lưỡi, gìn giữ không ác khẩu, gìn giữ không nói lời phù phiếm, từ bỏ tham, từ bỏ sân, từ bỏ tà kiến, tà bỏ ba pháp tức là phi phápc dục, phi lý tham và tà kiến. Chúng ta hãy hiếu kính cha mẹ, kính lễ các vị Sa môn, Bà-la-môn, cung kính các vị cầm đầu trong gia đình. Chúng ta hãy thực hành thiện pháp ấy.”

    Họ hiếu kính mẹ, hiếu kính cha, kính lễ các vị Sa môn, Bà-la-môn, cung kính các vị cầm đầu ở trong gia đình, họ sẽ thực hành thiện pháp này. Do hành thiện pháp làm nhân, tuổi thọ tăng thịnh, sắc đẹp tăng thịnh. Vì tuổi thọ họ tăng thịnh và sắc đẹp tăng thịnh, tuổi thọ loài Người đến hai mươi tuổi và các người con sẽ lên đến bốn mươi tuổi. Tuổi thọ loài người lên đến bốn mươi tuổi và các người con sẽ lên đến tám mươi tuổi. Tuổi thọ loài Người lên đến tám mươi tuổi và các người con sẽ lên đến một trăm sáu mươi tuổi. Tuổi thọ loài Người lên đến một trăm sáu mươi tuổi và các người con sẽ lên đến ba trăm hai mươi tuổi. Tuổi thọ loài Người lên đến ba trăm hai mươi tuổi và các người con sẽ lên đến sáu trăm bốn mươi tuổi. Tuổi thọ loài Người lên đến sáu trăm bốn mươi tuổi và các con sẽ lên đến hai ngàn tuổi. Tuổi thọ loài Người lên đến hai ngàn tuổi và các người con sẽ lên đến bốn ngàn tuổi. Tuổi thọ loài Người lên đến bốn ngàn tuổi và các người con sẽ lên đến tám ngàn tuổi. Tuổi thọ loài Người lên đến tám ngàn tuổi và các con sẽ lên đên hai vạn tuổi. Tuổi thọ loài Người lên đến hai vạn tuổi các người con sẽ lên đến bốn vạn tuổi. Tuổi thọ loài Người lên đến bốn vạn tuổi và các người con sẽ lên tám vạn tuổi.

    1. Này các Tỷ kheo, khi tuổi thọ loài Người kên đến tám vạn tuổi, các người con gái đến năm trăm tuổi có thể thành lập gia đình. Này các Tỷ kheo, khi tuổi thọ loài người lên đến tám vạn tuổi, ba chứng bệnh sau đây có mặt: lòng dục, tham ăn và già. Này các Tỷ kheo, khi tuổi thọ loài Người lên đến tám vạn tuổi, nước Jambudìpa này (Diêm phù đề) sẽ rất hùng mạnh và phong phú. Các làng mạc, tỉnh thành, kinh đô ở sát nhau đến nổi con gà gáy bên này, bên kia có thể nghe được! Này các Tỷ kheo, khi tuổi thọ loài Người lên đến tám vạn tuổi, nước Jambudìpa này như sẽ rất phồn thịnh với người Avidi (A-tỷ Ðịa ngục), giống như rừng lau hay rừng sậy. Này các Tỷ kheo, khi tuổi thọ loài Người lên đến tám vạn tuổi, thành phố Baranasi này (Ba-la-nại) là kinh đô tên gọi Ketumati, rất là hùng mạnh, phong phú, đông dân cư và ăn uống đầy đủ. Này các Tỷ kheo, khi tuổi thọ loài Người lên đến tám vạn tuổi tại nước Jambudìpa này, sẽ có tám vạn bốn ngàn thành phố và Ketumati sẽ là kinh đô tối thượng.
    2. Này các Tỷ kheo, khi tuổi thọ loài Người lên đến tám vạn tuổi [10] ,ở kinh đô Ketumati, có vị Chuyển luân Thánh vương tên là Sankha ra đời, là vị pháp vương, lấy Chánh pháp trị nước, chinh phục bốn thiên hạ, cai trị các quốc độ, và đầy đủ bảy món báu, tức là xe báu, voi báu, ngựa báu, châu báu, nữ báu, gia chủ báu và thứ bảy là tướng quân báu. Vị ấy có hơn một ngàn hoàng tử, dõng kiện, hùng mạnh, nhiếp phục ngoại địch, vị này trị vì quả đất này cho đến hải biên, dùng Chánh pháp trị quốc, không dùng trượng, không dùng kiếm.

    3. Này các Tỷ kheo, khi tuổi thọ loài Người lên đến tám vạn tuổi, có Thế Tôn tên là Metteyya sẽ ra đời, là vị A la hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn; như Ta nay sanh ra ở đời này, là bậc A la hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Vị này tự mình biết, chứng, và tuyên thuyết quả đất này, gồm có Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, Thế giới này với Sa môn, Bà la môn, loài Trời, loài Người; như Ta hiện nay tự mình biết, chứng và tuyên thuyết quả đất này, gồm có Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, Thế giới này với Sa môn, Bà la môn, loài Trời và loài Người. Vị này sẽ thuyết pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, với nghĩa lý văn tự đầy đủ và tuyên thuyết đời sống phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh; như Ta hiện nay thuyết pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, với nghĩa lý văn tự đầy đủ và tuyên thuyết đời sống phạm hành hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh. Vị này sẽ có khoảng vài ngàn vị Tỷ kheo Tăng đoàn; như Ta hiện nay có khoảng vài trăm vị Tỷ kheo Tăng đoàn vậy.
    4. Này các Tỷ kheo, vua Sankha sẽ cho thiết lập cung điện mà vua Mahà Panada đã thiết lập. Sau khi thiết lập, vua trú tại đó. Sau vua lại bố thí cung điện ấy, dâng cúng cho các vị Sa môn, Bà-la-môn, các hàng bần cùng, du đãng, ăn xin, cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà sa, từ bỏ gia đình, sống không gia đình dưới sự chỉ đạo của Thế Tôn Metteyya, bậc A la hán, Chánh Ðẳng Giác. Vị này xuất gia như vậy, sống một mình, biệt lập, tinh tấn, trì chú, chuyên tâm, chẳng bao lâu chứng được vô thượng phạm hạnh, mà vì mục đích này các thiện nam tử đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Với vô thượng phạm hạnh này, ngay trong hiện tại, vị này tự tu, tự chứng, đạt đến và an trú.
    5. Này các Tỷ kheo, hãy sống tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa mình, không nương tựa một ai khác, lấy Chánh pháp làm ngọn đèn, nương tựa Chánh pháp, không nương tựa một gì khác. Này các Tỷ kheo, thế nào là một Tỷ kheo sống tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa mình, không nương tựa một ai khác, lấy Chánh pháp làm ngọn đèn, nương tựa Chánh pháp, không nương tựa một gì khác? Này các Tỷ kheo, ở đây vị Tỷ kheo sống quán thân trên tự thân, nhiệt tâm, tinh cần, chánh niệm, tỉnh giác, để diệt trừ tham ưu ở đời, trên các cảm thọ… trên các tâm… quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tinh cần, chánh niệm, tỉnh giác, để có thể diệt trừ tham ưu ở đời. Như vậy này các Tỷ kheo, vị Tỷ kheo sống tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa mình, không nương tựa một ai khác, lấy Chánh pháp làm ngọn đèn, nương tựa Chánh pháp, không nương tựa một gì khác.
    6. Này các Tỷ kheo, hãy đi lại trong giới hạn được phép của mình, trong giới hạn Tổ phụ các Ngươi truyền lại. Này các Tỷ kheo, nếu các Ngươi đi lại trong giới hạn được phép của mình, trong giới hạn Tổ phụ các Ngươi truyền lại thời tuổi thọ sẽ được tăng thịnh, sắc đẹp sẽ được tăng thịnh, an lạc sẽ được tăng thịnh, tài sản sẽ được tăng thịnh, thế lực sẽ được tăng thịnh.

    Này các Tỷ kheo, như thế nào vị Tỷ kheo tuổi thọ được tăng thịnh [11] ? Này các Tỷ kheo, ở đây, vị Tỷ kheo tu tập thần túc, đầy đủ Dục thiền định tinh cần hành; tu tập thần túc, đầy đủ Tinh tấn thiền định tinh cần hành; tu tập thần túc đầy đủ Tâm định tinh cần hành; tu tập thần túc đầy đủ Tư duy thiền định tinh cần hành. Vị này tu tập bốn pháp thần túc này một cách tinh cần, nếu muốn sống kéo dài một kiếp hay năm còn lại của một kiếp. Này các Tỷ kheo, như vậy Ta nói vị Tỷ kheo tuổi thọ được tăng thịnh.

    Này các Tỷ kheo, thế nào là vị Tỷ kheo sắc đẹp được tăng thịnh? Này các Tỷ kheo, ở đây, vị Tỷ kheo sống giữ giới luật, chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Patimokkha (Ba-la-đề-mộc-xoa), đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, thọ lãnh và tu học trong giới pháp. Này các Tỷ kheo, như vậy vị Tỷ kheo sắc đẹp được tăng thịnh.

    Này các Tỷ kheo, thế nào là vị Tỷ kheo an lạc được tăng thịnh? Này các Tỷ kheo, ở đây, vị Tỷ kheo ly dục, ly ác pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh với tầm, với tứ; diệt tầm, diệt tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ… chứng và trú Thiền thứ ba… chứng và trú Thiền thứ tư. Này các Tỷ kheo, như vậy vị Tỷ kheo an lạc được tăng thịnh.

    Này các Tỷ kheo, thế nào là vị Tỷ kheo tài sản được tăng thịnh? Này các Tỷ kheo, ở đây, vị Tỷ kheo an trú, biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại vô biên, không hận, không sân, với tâm câu hữu với bi… với tâm câu hữu với hỷ… Vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại vô biên, không hận, không sân. Này các Tỷ kheo, như vậy vị Tỷ kheo, tài sản được tăng thịnh.

    Này các Tỷ kheo, như thế nào là vị Tỷ kheo thế lực được tăng thịnh? Này các tỷ kheo, ở đây vị Tỷ kheo, với sự diệt tận các lậu hoặc, tự mình biết và chứng, đạt đến an trú ngay trong hiện tại tâm giải thoát, tuệ giải thoát không còn các lậu hoặc. Này các Tỷ kheo, như vậy là vị Tỷ kheo thế lực được tăng thịnh.

    Này các Tỷ kheo, ta quán sát và thấy không có một uy lực nào khác khó nhiếp phục hơn uy lực của Ma vương. Này các Tỷ kheo, chính nhờ chấp nhận và thực hành những thiện pháp ấy mà công đức này được tăng thịnh!

    Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời dạy Thế Tôn.

    Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt

    Chú giải

    Chú giải
    1

    Magadha (Ma-kiệt-đà) : Trong ngày mà Đức Thế Tôn thuyết giảng bài kinh này là ngày mà Ngài và chư tăng là 20.000 vị Tỷ kheo được mời đi cúng dường trai tăng . Lúc đó Đức Thế Tôn Ngài quan sát số người rất đông, chỉ riêng chư Tăng cũng sẽ chứng quả A La Hán sau khi nghe bài giảng của Ngài. Có điều là chỗ mà Ngài và chư Tăng dùng bữa trưa ấy quá chật để có thể đủ chỗ cho lượng lớn quần chúng như vậy. Cho nên sau khi dùng trưa xong, thay vì như mọi khi Đức Phật có 1 pháp thoại ngắn để tùy hỷ công đức. Nhưng Ngài đứng dậy rời khỏi chỗ cúng dường và đi, lúc đó dân chúng,những người cúng dường tập thể thấy Thế Tôn bỏ đi như vậy họ mới nghĩ rằng có thể trong buổi cúng dường có 1 chút gì đó không được viên mãn cho nên Thế tôn không có hoan hỷ , cho nên họ để ý Ngài đi về đâu thì họ sẽ đến chỗ đó họ gặp Ngài để một là tìm hiểu hai là sám hối với Đức Phật. Đức Thế Tôn đi đến chỗ thích hợp, đang trên đường đi Ngài mới dừng lại bước vào bên trong lề đường chỗ có mấy gốc cây thì Ngài mới đưa mắt nhìn Ngài A Nan, ngài A Nan nhìn thì biết ngay Bậc đạo sư muốn ngồi ở đây. Lúc bây giờ rất đông quần chúng ngồi xung quanh và Chư Thiên ở trên hư không, tổng cộng là 84.000.

    Tham khảo: https://youtu.be/LxI_ZfKjyng?t=56

    2   Vua chuyển luân Thánh Vương: nội dung bài kinh kể về truyền thống của các vị chuyển luân vương để ẩn dụ rằng Ngài cũng là một vị chuyển luân vương và các đệ tử của Ngài dầu là Tăng Ni Cư sĩ nói chung giống như những hoàng tử của chuyển luân vương. Chuyển luân vương là vật cầm tay hình bánh xe quay , 1 vị chuyển luân vương dùng vật này có ý muốn đi đến nơi nào tay họ cầm cái vật đó thì họ sẽ có mặt ở chỗ đó cho dù họ có đang đứng trên tấm thảm Ba Tư của 1001 đêm hay là họ đang ngồi trên chiếc xe, ngồi trong căn phòng,lâu đài, cung điện… chỉ cần họ có ý có mặt ở chỗ nào đó thì họ cầm vật đó họ xoay thì tự động họ sẽ có mặt. Chuyển luân vương là một ông vua có được cái bánh xe thân kỳ đó. Tham khảo: https://youtu.be/LxI_ZfKjyng?t=734   
    3 Pháp vương: Trong kinh nói 3 đời tám kiếp mới có 1 vị chuyển luân vương ra đời, họ là người Phước báu rất nhiều ( phước vật, phước đức, phước trí), có 32 tướng tốt họ sẽ thành Phật hoặc tối thiểu trở thành chuyển luân vương, người này có đủ Phước, đủ đức để mà phục chúng để cho tất cả thế lực chính trị đều phải quy tụ,tâm phục khẩu phục suốt đời quy mạng , nương tựa,thần phục dưới chân thì đó mới chính là Chuyển luân vương. Vị chuyển luân vương có 3 hạng:
    • Hạng thứ nhất gọi là Ngọc luân thánh vương: cái bánh xe mà vị đó cầm nó bằng ngọc , với bánh xe này vị ấy có thể đi đến được 4 cái hành tinh mà có nhân loại ở.Mỗi thế giới gồm có 31 cõi trong đó có 4 hành tinh có nhân loại ở,ngoài ra có địa ngục A Tỳ. hàng trăm hàng ngàn địa ngục nhỏ khác, phía trên là 6 cõi Dục Thiên gồm Tứ Thiên Vương,Đao Lợi, Dạ Ma đấu xuất hóa lạc và Tha hóa tự tại , lên nữa là 16 cõi Sắc Giới, lên nữa là 4 cõi Vô Sắc. 31 cõi này giống như 1 hột lựu trong trái lựu , mỗi một trái lựu như vậy đều có một mặt trăng , 1 mặt trời , 1000 trái lựu như vậy là một tiểu thiên thế giới. 2000 tiểu thiên đó là một Trung thiên thế giới. 3000 tiểu thiên đó là một Đại thiên thế giới. Cứ như vậy trong vũ trụ có vô số và vô số Đại Thiên thế giới. Với một  vị Ngọc luân thánh vương sức Vị này không ra khỏi trái lựu mà chỉ quẩn quanh trong 1 trái lựu thôi. Họ đến 4 hành tinh có nhân loại thu phục hết. 
    • Hạng thứ hai gọi là Kim luân thánh vương : bánh xe bằng vàng, với bánh xe này vị đó chỉ đến được 3 hành tinh có nhân loại ở.
    • Hạng thứ ba gọi là Nhân luân thánh vương : bánh xe bằng bạc, vị này chỉ có thể cai trị được một hành tinh. 

    Tuy các vị có sức ảnh hưởng xa gần khác nhau nhưng giống nhau là 3 vị này đều có 32 hảo tướng, bởi vì muốn làm Vua phải có đủ các Đức. Truyền thống chung của tất cả chuyển luân vương là những bánh xe ngọc , bánh xe vàng, bánh xe bạc không phải của Cha truyền con nối mà nó tự xuất hiện, nó tự biến mất tùy thuộc vào ông Vua nào đang ngồi trên Ngai vàng lúc đó, thí dụ một vị vua đầy đủ công đức,đầy đủ Phước hạnh khi vừa lên ngôi là tự nhiên bánh xe ấy có mặt và ngược lại bánh xe ấy sẽ biến mất khi vị Vua khác không đủ đức hạnh lên ngôi. 

    Người tin Phật thì phải thấy rằng giải thoát sanh tử là tốt nhất, không có mặt trên thế gian này nữa là tốt nhất, tuy nhiên ngộ nhỡ như mình không có đủ duyên lành để mình ra đi, mình còn cần ít lâu để sống thì sao, thì mình vẫn phải có một việc duy nhất để làm đó là sống thiện ( làm thiện, nói thiện và nghĩ thiện) để có hiện tại lạc trú (an lạc hiện tiện), thứ hai ngay lúc mình làm thiện mình sẽ lặng lẽ kín đáo, âm thầm tạo ra một môi trường sống đẹp trước mắt cho mình sau là cho những người thân cận. Khi giữ giới trong sạch, khi bố thí, khi hành thiền, khi sống bằng kham nhẫn, thiền định trí tuệ … thì lúc đó ta đang kín đáo lặng lẽ âm thầm tạo ra một môi trường sống đẹp, mai này khi tái sanh ra đời thì tự nhiên ta sẽ đi về một nơi chốn thích hợp với con người của tôi. Tham khảo: https://youtu.be/LxI_ZfKjyng?t=869

    4 khéo đặt hoàng tử:  Bài kinh này đề nghị chúng ta sống phải có trách nhiệm, phải có yêu thương, có hiểu, có cảm thông, có bao dung. Giống như những hoàng tử của Chuyển luân vương kế thừa cái Ngai vàng, kế thừa truyền thống tuyệt đẹp từ phụ vương của mình phải có trách nhiệm giữ gìn nó một cách thông minh. Ngày xưa cha của mình muốn giữ được cái bánh xe ngọc đó thì phải trị nước bằng Chánh Pháp, bằng chính trị thiệt thà, không lươn lẹo , lật lọng thì hôm nay người kế vị phải tiếp tục con đường đó nhờ vậy thì cái bánh xe ngọc đó sẽ trở về tay mình. Tham khảo: https://youtu.be/LxI_ZfKjyng?t=2066
    5 xuất gia: Đức Phật kể lại truyền thống của Ngài là có một thời Ngài cũng là chuyển luân vương, những vị trong Hoàng tộc của Ngài cứ thấy tóc bạc là đi tu hoặc có vị thấy bánh xe có dấu hiệu xê dịch là vị ấy biết mình sắp qua đời thì lập tức Vị ấy bỏ hết, giao quyền hành cho người khác còn phần mình đi xuất gia. Tham khảo: https://youtu.be/LxI_ZfKjyng?t=2125
    6 Thánh vương Chánh pháp: Đường lối chính trị của một vị chuyển luân vương là luôn luôn thuận lòng dân, làm cái gì cũng cho dân vì dân và đúng là một đất nước của dân, tuyệt đối không dùng chính sách ngu dân. Ngài thấy dân khổ là Ngài thương, Ngài luôn có Tứ vô lượng tâm ( Từ – Bi – Hỷ – Xả ) với chúng sinh. Tham khảo: https://youtu.be/LxI_ZfKjyng?t=2316
    7 Đại vương cai trị quốc gia theo ý Đại vương: Cuối cùng Ngài giảng về truyền thống chuyển luân vương, chính trị của Chuyển luân vương, Ngài nói xong Ngài vẫn đúc kết về nội dung của Chánh Pháp, của tu hành, của đời sống tâm linh. Hễ mình đối với người ta ra làm sao thì người ta cũng sẽ đối lại với mình như vậy, và mình sống bằng cái tâm tình như thế nào, bằng cái nội dung như thế nào thì cái mình nhận lại cũng như vậy. Sống bằng tâm lành thì thế giới cũng lành, xã hội sẽ lành và bản thân mình được sống trong không khí lành. Còn nếu mình sống bằng tâm trạng bất thiện, mỗi người đều bất thiện thì sẽ có một gia đình bất thiện, một xã hội bất thiện, cộng đồng bất thiện, cuối cùng là đất nước bất thiện và nói chung toàn bộ quốc dân sẽ sống trong một cái bầu không khí bất thiện.  Tham khảo: https://youtu.be/LxI_ZfKjyng?t=2447 
    8 tuổi thọ: Tuổi thọ của chúng sanh theo trong kinh mô tả tuổi thọ chúng sanh và số lượng của các loài sinh vật gồm động vật, thực vật và khoáng vật trên hành tinh này nó cũng phát triển và suy tàn theo cái chu kỳ. Trong kinh là Sanh diệt , có rồi mất. Có một thời nhân loại ở trên hành tinh này là họ mạnh về đời sống tâm linh, đắc thiền, đắc thần thông, tiếp xúc với Chư Thiên thoải mái. Có một thời nữa nền văn minh tâm linh nó bị chìm thay vào đó là văn minh vật chất chẳng hạn như hôm nay chúng ta đâu có tu hành, đâu có thần thông, đâu có thiền định, đâu có phước lành gì đâu. Thế giới hôm nay là thế giới của nhiễu loạn, gian trá, lật lọng, lừa đảo, máu lệ, của súng đạn, của nước mắt thì chúng ta đang ở giai đoạn phát triển cực thịnh của văn minh vật chất, từ bên đây đại dương có thể nói chuyện với người bên kia đại dương như là thần thông vậy. Đây không phải là điều hay ho mà nó là chu kỳ Sanh – Diệt của vạn hữu trên hành tinh này. Có lúc thì văn minh tâm linh phát triển cực mạnh, người hiền truyền cho người hiền, toàn Quân minh thánh chúa.. Rồi có một thời nhân loại trên hành tinh này ác ôn côn đồ, lưu manh, xảo trá, lừa đảo, lật lọng thì lúc đó bộ phận lãnh đạo cũng có bộ mặt tương ứng như vậy. Nó cũng có nội dung như thế nào phù hợp với nhân loại đó. Tại sao có Minh quân thánh chúa mà cũng có Hôn quân bạo chúa, mình không thể phủ nhận môi trường nào tạo ra thứ tào lao đó, mình dễ bị dụ quá, mình u mê quá thì mình mới bị kẻ ác gạt. Cái ngu cái ác nó là chú bác, là bà con cô bạn dì. Cái ngu nó là bạn với ác. Cái ngu là bóng tối, là trú xứ, là quê hương, là chốn về của gián, chuột, rắn rết. Cho nên khi mình sống bất thiện thì chính người dân bất thiện đã tạo ra hôn quân bạo chúa, ảnh hưởng đến môi trường sinh thái, hệ môi sinh trong hành tinh này. Trong chú giải có nói Có thời chúng sanh nặng về Tham thì nạn trộm cướp phát sinh tràn lan, chúng sanh trong đời này theo tùy chu kỳ mà thay đổi, lúc thì tham nhiều, mà tham nhiều thì nạn trộm cướp nhiều và cái thời đó chúng sanh chết rồi đi làm ngạ quỷ nhiều, lúc đó cảnh giới ngạ quỷ cực thịnh. Có thời chúng sanh nặng về Sân, sân nhiều thì chiến tranh nhiều, chết rồi sẽ đi về địa ngục nhiều. Có thời nặng về Si thì bệnh dịch nhiều. Khi chúng sanh tuổi thọ cực thịnh lên tới vô số năm, vô số là 1 con số 1 mà không biết bao nhiêu số 0, trong kinh nói có khi lên tới, Khi sống lâu bắt đầu sanh tật, nó tham cái này nó thích cái kia nó bất mãn cái nọ, nên tuổi thọ tụt dần tụt dần còn có 100, 200 rồi lúc đó tham rộ một thời gian, sân rộ một thời gian, và si nó rộ một thời gian. Tham nhiều thì trộm cướp nhiều, mà chết sanh làm ngạ quỷ nhiều. Thời mà sân nhiều thì chiến tranh nhiều, chết sanh về địa ngục nhiều. Thời Si nhiều thì bệnh dịch nhiều và lạ là số người biết hồi tâm chuyển ý tu hành nó lại nhiều hơn cái thời tham nhiều và sân nhiều.

    Khi nhân loại tuổi thọ giảm quá giảm, tuột xuống còn một hai trăm thì có 3 pháp tăng mạnh: 

    1- Adhammarago: tham ái bất chánh. Khả năng loạn luân rất lớn, lấy vợ bạn, lấy chị dâu, quan hệ tình dục cùng huyết thống (bắt đầu giống thú rồi đó).

    2- Visamalobha: nhu cầu hưởng thụ vật chất không thể kiểm soát, vượt tầm kiểm soát. ‘Visama’ = gồ ghề, gập ghềnh, khúc khuỷu. Thay vì hồi xưa ăn cơm mặc áo ở nhà máy lạnh là đã nhiều, rồi bây giờ riết rồi ăn những thứ quái gở như bắt rắn hổ cắt lấy máu pha rượu uống, lấy nhau thai chế biến uống. Nói chung nhu cầu hưởng thụ quái gở!

    3- Micchadhammo: cái adhammarago là đảo lộn luân thường, còn cái micchadhammo này là thảm trạng rối loạn giới tính. Nghĩa là đàn ông khoái đàn ông, đàn bà khoái đàn bà, rồi người đi thích thú… cái gì trong kinh cũng có nhắc. 

    Tuổi thọ nhân loại càng xuống thấp thì sự phát triển, sự sinh sôi của các phiền não và tệ nạn mỗi lúc một dâng cao, gần như mất kiểm soát. Trong đó có 3 cái thảm trạng nổi bật trên: 

    “101. Adhammaragoti mata matuccha pituccha matulanitiadike ayuttatthane rago. Visamalobhoti paribhogayuttesupi thanesu atibalavalobho. Micchadhammoti purisanam purisesu itthinanca itthisu chandarago”.

    Ba thảm trạng đó xuất hiện khi tuổi thọ con người giảm xuống còn một hai trăm. Chúng ta hãy nhớ trong dòng chảy bất tận, miên viễn thiên thu đời kiếp của dòng sanh tử luân hồi thì lâu lâu sẽ có ông Chuyển Luân vương ra đời. Có những khi ông này tiếp nối ông kia tới mấy chục mấy trăm mấy ngàn thế hệ đều là Chuyển Luân Vương hết. Rồi có khi trải qua hàng triệu hàng tỷ năm trên hành tinh này không có vị nào. Chúng ta phải nhớ vậy, vì đâu? – Là vì phải có người có phước thì mới có Chuyển Luân vương. Đặc biệt trong Kinh nói rất rõ, khi có các bậc tự ngộ (Chánh Đẳng Giác, Độc Giác) ra đời thì sau khi các vị này ra đi một thời gian dài sau đó thế giới này đầy những trường hợp đặc biệt, thí dụ như có Chuyển Luân vương rất nhiều. Những vị Đạo sĩ đắc thiền đắc thần thông, cứu nhân độ thế rất nhiều, rồi tự dưng họ biến mất. Rồi lâu lâu có Phật Độc Giác, Phật toàn Giác ra đời thì chuyện đó lại rộ lên lần nữa. Bởi vì sự có mặt của hai vị này tạo điều kiện cho mấy vị đại nhân quý nhân kia (Chuyển Luân vương hoặc Đạo sĩ đắc Phi tưởng phi phi tưởng) có mặt.

    Thí dụ một vị tỳ kheo suốt mấy chục năm theo hầu vị Chánh Đẳng Giác, tu thiền Chỉ thiền Quán với sự hướng dẫn của vị Chánh Đẳng Giác, mỗi ngày được gặp Phật, được đảnh lễ, được nhìn Phật bằng tình thương kính vô bờ với ngài thì công đức này là vô bờ, sông biển nào chứa cho hết. Các vị không tin nhưng tôi tin! Niệm Phật mà có hiểu giáo lý mới nổi da gà. Niệm Phật mà có hiểu giáo lý mới nghe phỉ lạc. Còn cái kiểu giáo lý dốt đặc, tu theo kiểu cuồng tín, tà tín, mê tín, kiểu làm biếng học đạo rồi cứ sáp vô thầy bà nào cũng được mà hên gặp được Minh sư thiện hữu xui thì gặp bạn dỏm thầy dốt. Rồi đức tin trí tuệ của mình nó có vấn đề là hoang phí một kiếp người, hoang phí cơ hội gặp gỡ Chánh Pháp. Phải biết thương mình, quý vị. Còn nếu quý vị vô phước vô phần nghe cái này thì như ‘đờn khảy tai trâu’. Tôi biết tôi nói nặng đó quý vị, nhưng mà đó là sự thật. Vô Phước vô Phần nghe chạm vô tới điểm này mà vẫn không tỉnh ngộ, không có gì bậy bạ bằng mình hoang phí thân người có được, không có gì hoang phí cho bằng mình bỏ lỡ cơ hội gặp gỡ chánh pháp. Quý vị tưởng tượng quý vị lấy cái một tờ giấy quý vị kéo 1 lằn mực dài giả định đó là cái dòng chảy luân hồi thì trên cái dòng chảy đó có bao nhiêu lần mà mình gặp được chánh đẳng giác. Khi mà ngài ra đời mình có chắc là được làm người hay không mà khi mình được làm người mình có chắc là mình không bị câm đui mù điếc không? Rồi khi mà mình có ngũ căn ngon lành chắc là mình không có mắc tà kiến, mình có chắc là mình được ở gần Ngài để mà gặp gỡ ít ra cũng gặp đệ tử của Ngài để mà có cơ hội mình tìm đến với Ngài hay là mình ở một cái xứ xa xôi muôn trùng xa cách, ở một cái biên địa coi như là chó ăn đá gà ăn muối khỉ ho cò gáy. Cơ hội gặp được Chánh Đẳng Giác không phải là dễ. Cơ hội mang thân người không phải là dễ. Những cái ‘khó’(cơ hội) này phải cùng lúc gặp nhau, các vị tưởng tượng đâu phải dễ: được mang thân người, được sanh ra đúng thời Chánh Đẳng Giác mà lại tứ chi ngũ căn hoàn chỉnh, mà lại được ở trú xứ gần gũi được Phật, Thánh tăng và thánh chúng. Các vị tưởng tượng đi, những cái khó này phải cùng một lúc hội tụ đầy đủ, thì nó phải khó cỡ nào. Mà chỉ riêng cái khoản mang thân người là đã khó hơn con rùa mù, lâu lâu chọt lên lỗ ván trôi trên biển! Cho nên dễ duôi gì thì dễ duôi, nên nhớ nguyện trước Tam bảo: ‘Con xin nguyện có tệ nào có dễ duôi cỡ sư Giác Nguyên thôi, đừng có xuống nữa!!!’ Nguyện vậy bảo đảm cũng không đến nỗi! Tôi chưa bao giờ dám nhận tôi chuyên cần miên mật nhưng tôi xúi quý vị nguyện vậy: Có tệ lậu gì cũng cỡ ổng mà thôi! 

    Tham khảo: https://youtu.be/LxI_ZfKjyng?t=2503

    9 Trong đây nói rõ khi sống bằng tâm bất thiện thì nhiều thứ tệ nạn, thảm trạng sẽ nối đuôi nhau đi theo. Khi chúng sanh sống bất thiện thì tai bay họa gởi nhiều hơn. Thiên tai nhân họa sẽ nhiều hơn. Từ đó tuổi thọ giảm dần bla bla bla …Nó giảm riết coi như từ vô số giảm riết còn 10 tuổi. Khi con người còn 10 tuổi thì thân tướng nhỏ đến mức trong Kinh nói cây cà cây ớt mình muốn hái phải bắc thang. Nó nhỏ như vậy. Lúc đó thế giới loài người hoàn toàn không còn có khái niệm đạo đức nhân luân gì nữa. Sẽ có một số ít trong đó từ từ mới ngộ ra ‘Hình như mình đâu phải con thú, sao mình sống giống nó quá vậy?’. Chính đám người này có suy nghĩ này, họ nhìn con Nai, con Chuột, con Gián, con Chim, Thằn Lằn, Rắn Mối , Tắc Ké, Kỳ Nhông, Ễnh Ương… họ nhìn họ nói với nhau mình đâu phải là mấy con này tại sao cái sinh hoạt thường nhật của mình sao toàn là những cái việc làm giống như mấy con này, đói ăn khát uống, đực cái trống mái và khả năng phản vệ. Bắt đầu họ quan tâm đến đời sống trách nhiệm và mọi thứ muốn biết.Thí dụ mình biết cội nguồn mình là ai, là cha là mẹ thì cha mẹ già mình lo. Rồi mình thương ai coi ai là vợ/chồng thì lo cho vợ/chồng. Biết chăm sóc đến đời sống vật chất và tinh thần, rồi mai này 2 đứa cộng lại nó ra con. Bắt đầu biết trách nhiệm lo cho con. Lo cho con đây không phải chỉ lo cho nó ăn mập thây nó, cho nó sổ sữa mà chỉ còn ở dạy cho nó từ thuở còn thơ, dạy cho nó biết ăn biết nói biết gói biết mở biết thưa biết gửi, dạy nó biết trên kính dưới nhường rồi dạy nó từ từ rồi dạy nó sống không chỉ có ăn còn có nhận thức, sống không chỉ có nhìn xuống phải biết nhìn lên, ở trong nhìn ra ở ngoài nhìn vô. Khi mình nhỏ xíu con mà lại yểu thọ nhờ những suy nghĩ này mình bắt đầu thay đổi. Thay đổi thì tuổi thọ lên dần, lên từ từ cho đến vô số bắt đầu theo c hu kỳ thì nó tuột xuống. Cứ như vậy.

    Tuổi thọ của nhân loại hành tinh này cứ lên rồi xuống, lên rồi xuống là một quy luật vũ trụ.

    Thứ hai, có lúc họ sống nặng về phiền não, có lúc sống nặng về thiện pháp đó cũng là luật vũ trụ.

    Có lúc hành tinh này là một thiên đường để sống, mà có lúc nó là một cõi địa ngục để chịu đựng, nó cũng là luật vũ trụ.

    Và chư Phật luôn luôn ra đời trong thời kỳ tuổi thọ giảm chớ không ra đời trong thời kỳ tuổi thọ tăng. (‘tăng’ tiếng Pali là ‘vaddhamana’ – ‘giảm’ là “hayamana”) Chư Phật chỉ ra đời trong lúc nhân loại tuổi thọ giảm ‘hayamana’. Tham khảo: https://youtu.be/LxI_ZfKjyng?t=3866

    10 Đức Phật kể rằng từ thời Giáo Pháp của Ngài chấm dứt lúc 5.000 năm (kể từ lúc Ngài viên tịch), Giáo Pháp hết rồi thì bắt đầu chúng sanh sống mông muội, sống ác đức, tuổi thọ xuống. Xuống còn 10 rồi bắt đầu lên đến một a tăng kỳ. Rồi nó lại bắt đầu giảm. Giảm cho đến 80.000 thì lúc đó đức Phật Di Lạc ra đời. Điều đặc biệt là lúc Bồ tát Di Lạc ra đời thì ngài là con trai duy nhất của vị quan Thái Sư trong triều. Vị đó chính là thầy của ông vua Chuyển Luân vương tên là Sankha (nghĩa là xà cừ). Điều đặc biệt nữa là Bồ tát Di Lạc có 32 tướng tốt thì vua Chuyển Luân vương này cũng có 32 tướng tốt. Trong cùng một nơi, trong cùng một hành tinh không thể có 2 Chuyển Luân vương, ông này đi ông kia mới đến được, dầu đó là cha con. Hai Chuyển Luân vương mà cùng có mặt thì được nhưng cùng cai trị thì không. Nhưng một vị Phật và một vị Chuyển Luân vương thì ok, một vị là thầy, một vị là đệ tử. Chư thiên nhân loại ai cũng biết chuyện đó hết. Nhắc lại khi tuổi thọ chúng sanh còn 80.000 thì trên trời Đâu Suất Bồ tát Di Lạc sanh xuống làm con trai của quan Thái phó.

    Kể chuyện vua Chuyển Luân vương này trong một kiếp xưa có hai cha con làm nghề thợ gỗ trong rừng. Họ gặp một vị Phật Độc Giác. Tuy họ không biết đây là Thánh nhân nhưng một lòng quý kính chăm sóc hộ trì cúng dường tứ sự. Làm cốc liêu, y áo, thuốc men thực phẩm cho ngài. Khi họ chết thì công đức hộ trì một vị Phật Độc Giác phước báu không thể nghĩ bàn, nên cả hai sanh về trời. Ở trên trời hết tuổi thọ thì người cha sanh trở lại ở tiếp trên trời. Còn người con sanh về cõi nhân loại làm vị Chuyển Luân vương tên là Mahapanada. Phước vị này quá lớn nên Đế Thích lúc đó phải cho một vị thiên tử xuống hóa hiện ra một tòa lâu đài nguy nga, vừa ý thích cho vua này sử dụng.

    Người con này làm Chuyển Luân vương một thời gian thì hết tuổi thọ ổng về trời. Trong Kinh nói lẽ ra những lâu đài được hóa hiện thần thông hoặc do phước báo mà tự xuất hiện thì khi người chủ sử dụng không còn sống nữa thì nó cũng tự biến mất theo. Tuy nhiên trường hợp này lại khác.

    Người cha tiếp tục ở cõi trời còn người con ở cõi nhân loại làm Chuyển Luân vương. Khi người con này hết tuổi thọ về trời thì người cha sử dụng tiếp lâu đài này. Trên nguyên tắc thì cái tòa lâu đài này sẽ bị mất đi nhưng mà vì cái phước báo của người cha quá lớn tác động lại và một phần cũng do cái nghiệp của người cha là phải xài đồ cũ. Đây là chuyện cũng hơi đặc biệt, do cái tình cảm của cha đối với con nó có chút tình ở đây cộng với cái Phước là người cha phải xài đồ cũ Quý vị hỏi tôi tại sao thì cái này là nghiệp bất khả tư nghì không thể hiểu được. Nhiều khi trong lúc tạo phước tạo nghiệp cái tâm có chút gì đó trục trặc, mà nhiều khi bản thân mình không nhận ra. Thường ở những người phiền não nhiều. Thí dụ người tánh bỏn xẻn dầu họ hoan hỷ làm phước nhưng trong đáy lòng họ vẫn còn có vài cái trục trặc. Rồi người tánh sân hận nhiều, khi họ làm phước như đi quét chùa. Lúc quét cũng vui vẻ quét nhưng do cái máu sân nhiều quá, đang quét thấy miếng đờm dãi cũng bực mà cái bực đó kéo dài cả tiếng sau mới hết. Trong khi người tánh sân ít thấy vậy thì thôi giải quyết là xong, thí dụ như vậy. Thì mai này quả lành nó trổ, phước có hưởng nhưng trong hưởng quả lành đó cũng có cái trục trặc.

    Tôi lưu ý bà con là mình càng ít phiền não thì phước báo mình càng ok, càng viên mãn. Còn phiền não nhiều thì lúc mình làm thiện thì nó cũng có nhiều cái vướng. Do mình có thiện tâm như thế nào, cái ác tâm như thế nào nó mới có ảnh hưởng qua lại rất mật thiết đến hạnh nghiệp mà mình đã tạo trữ, hàm dưỡng. Mình sân nhiều thì trong quả bố thí cũng có nét của tánh sân. Mình tham nhiều lúc mình phục vụ cũng để lại cái quả người tham nhiều. Mình ganh tị nhiều, lúc đi nghe Pháp trau dồi trí tuệ nghe bằng tâm ganh tị thì mai này nó cũng thông minh trí tuệ mà bị trục trặc. Đó là tôi ví dụ thôi nghe!

    Thì người con sanh về trời thì đến đời Phật Thích Ca Mâu Ni người con sanh xuống làm một triệu phú tên là Bhakdacci. Bhakdacci này đi theo Phật và đắc được Lục thông. Một ngày kia, trên đường đi hóa Đạo cùng với Đức Phật đi ngang ngôi làng cũ. Lúc đó vua chúa dân chúng tiếp đón Đức Phật rất trọng thể. Đức Phật hỏi ngài Bhakdacci một câu, là ý Ngài muốn cho mọi người thấy. Bhakdacci lúc đó mới xuất gia, trai tăng xong không chịu ngồi kế Đức Phật mà vị này ra rừng ngoài bờ sông ngồi một mình. Thì chư tăng nói ông này mới tu sao chảnh dữ, hỏng biết thiền bao nhiêu, ngay lúc có Thế Tôn có chư tăng ở đây mà không chịu ngồi, lại đi ra ngoài rừng ở bờ sông ngồi là sao. Đức Phật biết chư tăng không hiểu vị này là ai nên có thái độ vậy. Nên lát sau ra bến đò gặp vị này, vị này đảnh lễ thì Đức Phật nói “Bhakdacci, ngày xưa có một thời ngươi ở đây phải không?”. Bhakdacci nói dạ phải. Đức Phật nói ngươi thời đó là Chuyển Luân vương Padana. – Dạ đúng. Ngài nói tiếp: “Ngươi cũng có một lâu đài. Lâu đài ngươi còn ở đây mà”. – Dạ phải. Lúc đó ngài đảnh lễ xin phép Đức Phật rồi dùng thần thông bay ra giữa sông, ngài đưa chân kẹp tòa lâu đài nhấc lên khỏi mặt nước cho mọi người thấy. Lúc đó có rất nhiều ốc, rùa, tôm, cá có trong đó nó rớt ra sợ hãi đau đớn. Đức Phật ngài mới nói “Đủ rồi Bhakdacci hãy trả mọi thứ trở về vị trí cũ. Đừng làm kinh động chúng sinh”.

    Xong rồi chuyện đó qua đi, sau đó người con Niết bàn. Còn người cha hết tuổi thọ cõi trời thì xuống cõi người sau khi trồi lên hụp xuống đủ cõi thì đến đời Phật Di Lạc người cha từ cõi Trời sanh xuống làm Chuyển Luân vương Sankha. Lúc đó cái lâu đài người con dùng tiếp tục xuất hiện cho người cha sử dụng. Nhưng một thời gian ổng cũng bỏ ngôi, ổng đi tu theo Phật Di Lạc, ổng ở trong rừng trong hang chớ không ở lâu đài của Mahapadana nữa.

    Như vậy xuyên suốt nội dung bài Kinh này Đức Phật ngài nói đến một số vấn đề rất quan trọng. Đó là sự kế thừa một cách thông minh và đầy trách nhiệm của thế hệ sau đối với thế hệ trước. Tham khảo: https://youtu.be/LxI_ZfKjyng?t=4061

    11

    Kết thúc bài Kinh ngài dạy rằng:

    Giống như các hoàng tử của Chuyển Luân Vương, thế hệ này sang thế hệ khác luôn sống trong tinh thần truyền thừa, kế thừa một cách thông minh đầy đủ trách nhiệm đối với vương nghiệp của phụ vương. Cũng vậy, bất cứ ai tự nhận mình là học trò, là đệ tử học Phật thương Phật, quý Phật, kính Phật và tin Phật thì hãy tiếp nối truyền thống cao đẹp của ngài bằng cách tiếp tục tu tập 37 Phẩm Bồ đề. Ngài dạy rằng khi tu tập đúng như vậy thì sẽ được những lợi ích như sau: sẽ được tuổi thọ, nhan sắc, an lạc, tài sản và sẽ được quyền lực.

    Các vị nghe vậy thì thấy kỳ quá. Đức Phật kêu mình buông mà sao giờ Ngài hứa với mình là hãy tu tập như vậy để được những thứ đó, thì kỳ quá phải không? Không phải vậy đâu, mình hiểu nhầm đấy thôi. Trong Kinh có nhiều chỗ, lời chúc phúc của chư tăng là ‘Mong cho người được sống lâu, sắc đẹp, an vui, sức mạnh…’ Mà cứ hết thế hệ này đến thế hệ khác đọc như vậy thấy ngồ ngộ vậy thôi. Thật ra trong Kinh này cả những cái ‘sống lâu, sắc đẹp, an vui, sức mạnh…’, tất cả những cái đó được Đức Phật định nghĩa khác đi nhiều lắm.

    Khi nào chúng tỳ kheo tu tập 37 Phẩm trợ bồ đề thì chúng tỳ kheo sẽ được những lợi ích tuổi thọ, nhan sắc, tài sản, quyền lực là:

    1- Sẽ được tuổi thọ. Sống lâu đây là ngụ ý vị đó tu tập Bốn thần túc: Dục, Cần, Tâm, Thẩm.

    * Dục như ý túc: Dục là sự thiết tha trong thiện pháp. Thiện pháp gồm có hai: hữu lậu và vô lậu. Hữu lậu là mong cho mình được cái này được cái kia trong cõi luân hồi => Thiện hữu lậu. Còn thiện vô lậu là nhất tâm cầu giải thoát, nhất tâm cầu giác ngộ. Nhất tâm trong thiện pháp nói chung được gọi là Dục như ý túc.

    * Cần như ý túc: là sự nỗ lực trong mục tiêu lánh ác hành thiện.

    * Tâm như ý túc: là các tâm thiện có được trong lúc mình hành thiện. Thí dụ người không biết giáo lý thì rất có thể chỉ hành thiện bằng tâm thiện ly trí thọ xả vô trợ. Còn người biết giáo lý, có hàm dưỡng, tu tập thì họ sẽ làm phước bằng tâm thọ hỷ hợp trí vô trợ. Tâm như ý túc nó còn bao gồm tất cả tâm đổng lực thiện. Như người có đắc thiền thì họ nghe Pháp, họ hành thiền Vipassana cũng khác người không đắc thiền. Nếu là một bậc Thánh, dầu là thánh hữu học hay La Hán thì lúc các vị làm một việc gì đó thì tâm lực lúc vị đó đang thực hiện cũng không giống người phàm phu. 

    –Tâm như ý túc ở đây là các loại tâm thiện được sử dụng trong lúc làm các điều lành. 

    Còn đối với vị La Hán thì cái thiện đó chuyển qua Duy tác, là Tố. Tức tâm này sẽ được dùng làm những việc mà lẽ ra phàm phu phải làm bằng tâm thiện. Và tâm Tố này làm được những việc giống như tâm thiện làm, có một điều nó không để lại kết quả đời sau kiếp khác, bởi đây là tâm của một người đã hiểu rõ Bốn đế một cách rốt ráo, triệt để.

    Cho nên một người đã hiểu rốt ráo triệt để Bốn Đế thì làm gì có thể tạo ra ba hành. Cái mấu chốt là chỗ này. Hỏi tại sao La hán chỉ có tâm Tố, tâm duy tác mà không có tâm thiện? Bởi vì hễ còn có tâm thiện là còn dính trong ba hành (phúc hành, phi phúc hành và bất động hành). Một vị La Hán đã quán triệt rốt ráo và triệt để Bốn đế thì làm gì có vô minh. Mà không có vô minh thì làm gì có hành. Mà hễ còn có thiện (còn có phúc hành) thì nó mới còn có 32 tâm quả, trong đó có tâm tái tục đầu thai. Vì có tái tục đầu thai nó mới có lục căn, lục xúc, 6 thọ, 6 ái, bốn thủ, hai hữu… Còn người ta đã hiểu rốt ráo Bốn Đế thì đâu còn đủ điều kiện tâm lý để tạo các nghiệp thiện ác. Chỗ này nó sâu vô cùng sâu, nghe!

    * Thẩm như ý túc: là trí tuệ được vận dụng, tận dụng trong lúc hành thiện.

    Vị tỳ kheo nào thành tựu 4 như ý túc này là vị đó có tuổi thọ. Chú giải nói là mai này khi thành La Hán rồi ngoại trừ trọng nghiệp, đoạn nghiệp thì vị A La Hán có thể kéo dài tuổi thọ của mình bằng năng lực của thiền định, của thần thông. Năng lực đó chỉ có được ở người thành tựu Bốn như ý túc này ở cấp độ vô cùng vững mạnh, bởi vì cái dục phải mạnh, cái tâm phải mãnh liệt. Ý chí con người một là đủ xài, hai là nó yếu, ba là dư thừa. Có những người họ không tha thiết gì hết là người đó thiếu Dục như ý túc. Mình phải biết chỗ này. Dầu thành thánh rồi đi nữa mà nhiều vị Dục như ý túc họ không đủ mạnh để làm việc gì hết. Nên có những vị A La Hán không có thần thông, họ thì cái gì cũng muốn buông hết. Nhưng riêng những vị mà có hàm dưỡng nhiều đời họ đặc biệt lắm. Khi nào cần buông thì một, hai, ba: phủi tay. Nhưng khi nào cần làm việc thì họ cũng lập tức có ngay một tâm trạng thích hợp để làm việc đó. Thí dụ trong room này chúng ta không ai có thể nào ngồi xuống chơi xếp hình Lego hay lấy bút màu vẽ tầm bậy tầm bạ nguệch ngoạc như mấy đứa nhỏ được. Tuy nhiên nếu chúng ta đang chơi với một đứa bé mình thương thì mình cũng phải ngồi bệt xuống sàn xếp hình với nó, cũng chơi những trò tào lao với nó. Mà lúc chơi mình cũng vui hết mình mà không có gượng.

    Ở đây cũng vậy. Có nhiều việc vị La Hán có lục thông thì không có cần như đi thuyết Pháp độ sinh mà phải chịu trời nóng, bị chúng chửi, ăn đồ ăn thiu, bị chó rượt…tuy nhiên vì độ sinh, vì thương vị đó cũng làm. Thì lúc đó không phải vì tâm thiện mà cái tâm ngài dùng là tâm Tố.

    2- Thứ hai khi sống đúng lời Phật thì mình sẽ được an lạc. An lạc đây chính là an lạc trong Bốn thiền. Tại sao an lạc đây được chỉ cho thiền? – Là bởi vì an lạc có ba:

    – Thứ nhứt là an lạc của người hưởng dục. Ở cõi dục hạnh phúc là phải thấy cái này, phải nghe, ngửi, nếm, đụng, có liên hệ tới 5 dục mới thấy sướng. Nó là thứ hạnh phúc cần phải tìm kiếm, phải đầu tư, phải lệ thuộc rất nhiều điều kiện hoàn cảnh. Còn an lạc của thánh nhân là kiểu hạnh phúc nằm giữa phàm và thánh, của người vừa chấm dứt cơn bịnh trầm kha. Là an lạc của một người vừa trút được gánh nặng phải mang vác sau một ngày trời khó nhọc.

    Tôi vẫn nói hoài, hạnh phúc, một là có được cái gì đó. Hai là không có cái gì đó. Hạnh phúc của thánh nhân là an lạc của người không có cái gì đó, buông được cái gì đó, buông hết phiền não. Tu đà hườn biết rằng ta có dễ duôi cách mấy thì cũng không đi quá 8 kiếp. Nhị quả Tư đà hàm biết rõ rằng ta có dễ duôi cách mấy cũng chỉ còn trở lại cõi Dục một lần nữa thôi. Tam quả biết rằng ta có ra sao đi nữa thì khi bỏ thân nhân loại này ta sẽ vĩnh viễn không bao giờ trở lui cõi Dục nữa. Còn vị La Hán khi chứng rồi thì biết rằng chỉ cần ta hắt một hơi ra thì ngàn thu muôn kiếp vĩnh viễn không bao giờ còn trở lui cõi hiện hữu này nữa.

    Nên niềm an lạc của vị Thánh vị đó có được là từ chỗ buông, là mất cái gì đó.

    Còn mình thì hạnh phúc là có cái gì đó. Hạnh phúc cõi Dục là phải lệ thuộc rất nhiều điều kiện hoàn cảnh. Ở cõi thiền, hạnh phúc không còn lệ thuộc hoàn cảnh như cõi Dục nhưng nó còn là thứ hạnh phúc tạm gọi là của tục đế, của cái gì đó có thiệt (thiệt đó là thiền). Còn hạnh phúc của thánh nhân thì là của người đã rũ bỏ gánh nặng, đã vĩnh biệt căn bệnh nan y đã hành hạ ngài bao nhiêu triệu tỷ ức kiếp luân hồi. Bây giờ ngài biết ngài hết bệnh. Ngay cả một bậc thánh sống an trú trong thiền ngài cũng an lạc hơn khi ngài không sống trong thiền.

    Có một lần ngài Assaji bệnh nặng quá. Đức Phật đến thăm, hỏi Assaji có chịu đựng nổi không? Ngài Assaji nói rằng ‘Con từng có đắc thiền, nhưng con lại không trau dồi. Hôm nay trong cơn đau này nếu mà con còn giữ được 4 tầng thiền trước đây thì trong cơn đau này con đã không đau như vậy’. Lúc ngài nói như vậy ngài đã là vị A La Hán rồi.

    Có nghĩa là nếu an trú trong các tầng thiền Chỉ thì vị đó đạt được nhiều an lạc, mà A La Hán mà không đắc thiền không có được. Nhớ, chuyện này quan trọng lắm. Tức là A La Hán không còn tâm sân, không còn sợ chết nhưng khi đau quá vị đó sống trong tâm thân thức thọ khổ. Riêng người đắc thiền dầu còn phàm, mà họ muốn chịu đựng một cơn đau, họ chỉ cần búng ngón tay, khẩy một móng tay là họ nhập định liền không còn thấy đau đớn.

    Cho nên Đức Phật ngài dạy nếu tu đúng các ngươi sẽ được an lạc. An lạc đây là an lạc trong thiền.

    3- Nếu tu đúng lời Phật sẽ được nhan sắc. Nhan sắc đây không phải trán cao mắt sáng, mũi cao, da mịn, răng trắng, môi hồng … Mà nhan sắc là vẻ đẹp đức hạnh của một người có Giới. Một người có tăng tướng là có sự trang nghiêm có giới, có định, có niệm, có tàm, úy, từ tâm, có trí tuệ thì tự nhiên mình nhìn là mình muốn đảnh lễ. Trường hợp đó Đức Phật gọi là nhan sắc của tỳ kheo, dầu vị đó không có ngoại diện đặc biệt. Còn dầu mình có ngoại diện mà mình không có hàm dưỡng, dầu có đẹp đi nữa Du Tử Lê gọi đó là cái nhan sắc lầm than!

    4- Tỳ kheo hành đúng lời Phật thì vị đó sẽ có được tài sản lớn. Tài sản đây là 4 vô lượng tâm. Hôm qua tôi nói là tôi mong trước khi chết tôi vẫn còn đủ thời gian để tôi tu 7 năm thiền quán và 7 năm từ tâm là vậy đó. Bởi với thời gian tu rốt ráo, tu miên mật, hôm nay tôi nhắc bà con, muốn tu cái này thì phải có cái gan lìa bỏ, cắt đứt triệt để hoàn toàn những mối quan hệ với bạn bè, thân quyến. Tin tôi đi, bà con còn động tới phone, facebook, còn email, còn alo còn mấy cái đó thì tôi dám hứa một điều là bà con đừng hòng tu Tứ vô lượng tâm. Nó phiền liên tục. 

    Trong Kinh Tăng Chi đức Phật ngài dạy: “Này các tỳ kheo, dầu có đãi cơm cả một đại chúng vô số người cũng không bằng công đức của một người mà trong thời gian buông nắm bàn tay mà tu tập Từ vô lượng tâm, Hỷ vô lượng tâm, Bi vô lượng tâm, Xả vô lượng tâm”. Bàn tay các vị nắm và buông, cái thời gian nắm và thả tay đó mà tu tập từ bi hỷ xả thì công đức còn hơn mình đãi ăn một đại chúng countless people. Dễ sợ như vậy! Công đức vô lượng. Mà thời gian rất là ngắn, chỉ là thời gian bóp và thả bàn tay ngắn như vậy thì công đức vô lượng thì nói chi là quý vị tu 7 năm coi như là chết không cần cầu siêu mà cái tu tâm từ đời sau sanh ra sức khỏe vô địch, nhan sắc vô địch, quan hệ xã hội vô địch, coi như mình chỉ thở thôi là người ta biết mình muốn nói gì mà mình chỉ yêu cầu người ta bằng ánh mắt thôi, mình sở hữu được cái nhìn khiến thiên hạ không thể từ chối. Nói như vậy không có nghĩa tôi mong tôi trở thành cái người thiên hạ đệ nhất, lãng tử hào hoa, đa tình phong lưu của vũ trụ, không phải. Mà khi mình tu tập tâm từ thì đời sau mình sanh ra mình sẽ dễ làm nhiều cái điều thiện lắm. Vì thế giới này đang cần đến những Minh quân Thánh chúa mà. Trong khi mình có tu tập từ tâm mình sẽ được ít bệnh, nhan sắc, uy tín, tình cảm… rất nhiều thứ. Các vị lên internet tìm chữ ‘11 quả báo từ tâm’ sẽ thấy hết hồn. Người từ tâm nhiều thì khi chết không hoảng loạn. Người từ tâm nhiều thì nhập định dễ hơn những người khác. Vì khi anh thiếu lòng từ với chúng sanh anh dễ bị bồn chồn, áy náy, ray rứt và sợ hãi, âu lo vô cớ. Nhưng người sống có từ tâm mãnh liệt thì họ ngồi đâu cũng ngồi với tâm trạng một người mẹ giữa bầy con của mình. Các vị hiểu không, hồi nhỏ tôi không hiểu lớn đọc Kinh mới hết hồn chỗ này: không có đề mục nào bì được với đề mục từ tâm về điểm này. Ngoài chuyện tu Tứ Niệm Xứ là con đường giải thoát tôi không dám nói tới chớ riêng cái đề mục mình đính kèm tu mỗi ngày là niệm Phật, niệm chết và niệm từ bi, niệm bất tịnh. Trong đó có cái là khi từ tâm quý vị đến mức tự tại vô ngại thì mình đi đến đâu đi nữa mình cũng ngồi với tâm trạng một người mẹ giữa đám con của mình. Hay chỗ đó, đặc biệt lắm. Cho nên tôi muốn cuối đời mình có 7 năm tu từ tâm. Dĩ nhiên trong lúc mình tu Tứ Niệm Xứ mình cũng có thể có từ tâm, nhưng không rốt ráo bằng chuyên chú từ tâm 7 năm và Tứ Niệm Xứ 7 năm. Nếu trong room này bà con nào tự xét thấy mình còn đủ 14 năm thì nghe lời tôi làm thử đi. Thứ đó chết là không cầu siêu gì hết, tự động bốc hơi, mà bốc hơi là tha hồ đi chơi! Cho nên nói Tứ vô lượng tâm là tài sản lớn của tỳ kheo.

    5- Sẽ được sức mạnh, quyền lực:

    Sức mạnh, quyền lực của tỳ kheo chính là Thánh trí La Hán. Trên đời này không có sức mạnh nào có thể cưỡng lại trước cái chết. Chỉ có thánh trí La Hán khi đã Niết bàn rồi thì vĩnh viễn không còn tái sinh. Nhớ điểm đó. Thứ hai nữa, nếu trên đời này mình không là thánh nhân thì mình còn bị chư thiên ma vương, bị phiền não tấn công, nhưng đối với vị La Hán thì không, vị này không còn phiền não nữa.

    Cho nên một người tu đúng lời Phật thì sẽ được nhan sắc, tài sản, hạnh phúc và sức mạnh quyền lực. Bốn cái đó là phải hiểu như tôi đã giải thích ở trên.

    Tham khảo: https://youtu.be/LxI_ZfKjyng?t=5263