Kinh A-sá-nang-chi
(Atànàtiya sutta)Như vậy tôi nghe.
- Một thời Thế Tôn ở tại Ràjagaha (Vương Xá), núi Gijjhakùta (Linh Thứu). Bốn Thiên vương sau khi sắp đặt trấn giữ bốn phương với đại quân Yakkha (Dạ-xoa), đại quân Gandhabba (Càn-thát-bà) [2], đại quân Kumbhanda (Cưu-bàn-trà) [3]và đại quân Nàga (Na-già)[4] , án ngữ bốn phương, bảo trì bốn phương, trong đêm tối thâm sâu, với hào quang tuyệt diệu chói sáng toàn thể núi Linh Thứu, đến tại chỗ Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Các vị Dạ-xoa, có vị đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; có vị nói lên những lời chúc tụng, hỏi thăm, rồi ngồi xuống một bên; có vị nói lên tên họ rồi ngồi xuống một bên; có vị im lặng, rồi ngồi xuống một bên.
- Sau khi ngồi xuống một bên, đại vương Vessavana (Tỳ-sa-môn) bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, có những thượng phẩm Dạ-xoa không tin tưởng Thế Tôn; bạch Thế Tôn có những thượng phẩm Dạ-xoa tin tưởng Thế Tôn, Bạch Thế Tôn, có những trung phẩm Dạ-xoa không tin tưởng Thế Tôn; bạch Thế Tôn, có những trung phẩm Dạ-xoa tin tưởng Thế Tôn. Bạch Thế Tôn, có những hạ phẩm Dạ-xoa không tin tưởng Thế Tôn, có những hạ phẩm Dạ-xoa tin tưởng Thế Tôn. Bạch Thế Tôn, nhưng phần lớn các Dạ-xoa không tin tưởng Thế Tôn. Vì sao vậy? Bạch Thế Tôn. Thế Tôn thuyết pháp để từ bỏ sát sanh, thuyết pháp để từ bỏ trộm cắp, thuyết pháp để từ bỏ tà dâm, thuyết pháp để từ bỏ nói láo, thuyết pháp để từ bỏ không uống các loại rượu. Bạch Thế Tôn, tuy vậy phần lớn các Dạ-xoa đều không từ bỏ sát sanh, không từ bỏ trộm cắp, không từ bỏ tà dâm, không từ bỏ nói láo, không từ bỏ uống các loại rượu. Ðối với họ, Pháp ấy không được ưa thích, không được đón mừng. Bạch Thế Tôn, có những đệ tử của Thế Tôn, sống trong chốn thâm sâu cùng cốc, ít tiếng, ít động, có gió mát từ ngoài đồng thổi, che dấu không cho người thấy, thích hợp tịnh tu. Tại chỗ ấy, có những thượng phẩm Dạ-xoa không tin tưởng lời dạy Thế Tôn. Bạch Thế Tôn, hãy học chú Atànàtiyarakkha (A-sá-nang-chi Hộ Kinh) để học được lòng tin, để các vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Nam cư sĩ, Nữ cư sĩ có thể sống an lạc, được che chở, được hộ trì không bị tại họa.
Thế Tôn im lặng chấp thuận.
- Rồi đại vương Vessavana, biết được Thế Tôn đã chấp thuận, trong giờ phút ấy, đọc lên bài Atànàtiya Hộ Kinh:
Ðảnh lễ Vipassi (Tỳ-bà-thi),
Sáng suốt và huy hoàng! [5]
Ðảnh lễ đấng Sikhi (Thi-khí)
Có lòng thương muôn loài!
Ðảnh lễ Vessabha (Tỳ-xá-bà),
Thanh tịnh, tu khổ hạnh!
Ðảnh lễ Kakusandha (Câu-lâu-tôn),
Vị nhiếp phục ma quân!
Ðảnh lễ Konàgamana, (Câu-na-hàm)
Bà-la-môn viên mãn!
Ðảnh lễ kassapa (Ca-diếp),
Vị giải thoát muôn mặt!
Ðảnh lễ Angirasa,
Vị Thích tử huy hoàng,
Ðã thuyết chơn diệu pháp,
Diệt trừ mọi khổ đau!
Ai yểm ly thế giới,
Nhìn đời đúng như chơn,
Vị ấy không hai lưỡi,
Bậc vĩ đại thanh thoát.
Cùng đảnh lễ Gotama,
Lo an lạc Nhơn Thiên
Trì giới đức viên mãn!
Bậc vĩ đại thanh thoát!
4.
Mặt trời sáng mọc lên,
Vầng thái dương tròn lớn,
Khi mặt trời mọc lên,
Ðêm tối liền biến mất.
Khi mặt trời mọc lên
Liền được gọi là ngày.
Biển cả hải triều động,
Như hồ nước thâm sâu.
Ở đấy mọi người biết,
Chính biển cả hải triều,
Dân chúng gọi phương ấy
Là phương Purimà, (phương Đông).
Vị trị vì phương ấy,
Bậc đại vương danh xưng,
Chư loài Càn-thát-bà,
Danh gọi Dhatarattha (Trì Quốc Thiên vương).
Càn-thát-bà hầu quanh,
Hưởng múa hát của họ.
Vua này có nhiều con,
Ta nghe chỉ một tên,
Tám mươi và mười một,
Ðại lực, danh Inda.
Họ chiêm ngưỡng Thế Tôn,
Thuộc giòng họ mặt trời.
Từ xa, họ lễ Phật,
Bậc vĩ đại thanh thoát.
“Ðảnh lễ bậc Siêu Nhân!
Ðảnh lễ bậc Thượng nhân!
Thiện tâm nhìn chúng con,
Phi nhơn cũng lễ Ngài”.
Ðã nhiều lần, nghe hỏi,
Nên đảnh lễ như vậy,
“Quý vị xin đảnh lễ,
Gotama chiến thắng!
Chúng con xin đảnh lễ,
Gotama chiến thắng!
Ðảnh lễ Gotama,
Bậc trí đức viên mãn”.
5.
Họ được gọi Peta,
Nói hai lưỡi, sau lưng,
Sát sanh và tham đắm,
Ðạo tặc và man trá,
Dân chúng gọi phương ấy,
Là phương Dakkhinà (phương Nam).
Vị trị vì phương ấy,
Bậc đại vương, danh xưng,
Chủ loài Kumbhanda (Cưu-bàn-trà)
Danh gọi Virùlhaka (Tỳ-lâu-lặc).
Kumbhanda hầu quanh,
Hưởng múa hát của họ.
Vua này có nhiều con,
Ta nghe chỉ một tên,
Tám mươi và mười một,
Ðại lực, danh Inda.
Họ chiêm ngưỡng Thế Tôn,
Thuộc giòng họ mặt trời.
Từ xa, họ lễ Phật,
Bậc vĩ đại thanh thoát.
“Ðảnh lễ bậc Siêu Nhân!
Ðảnh lễ bậc Thượng nhân!
Thiện tâm nhìn chúng con,
Phi nhơn cũng lễ Ngài”.
Ðã nhiều lần, nghe hỏi,
Nên đảnh lễ như vậy,
“Quý vị xin đảnh lễ,
Gotama chiến thắng!
Chúng con xin đảnh lễ,
Gotama chiến thắng!
Ðảnh lễ Gotama,
Bậc trí đức viên mãn”.
6.
Mặt trời sáng lặn xuống,
Vầng thái dương trong lớn.
Khi mặt trời lặn xuống.
Ban ngày liền biến mất.
Khi mặt trời lặn xuống,
Liền được gọi là đêm.
Biển cả hải triều động,
Như hồ nước thâm sâu,
Ở đây mọi người hết,
Chính biển cả hải triều,
Dân chúng gọi phương ấy,
Là phương Pacchimà (phương Tây).
Vị trị vì phương ấy,
Bậc đại vương, danh xưng.
Chủ các loài Nàgà,
Danh Virùpakkha (Tỳ-lâu-bác-xoa).
Loài Nàgà hầu quanh,
Hưởng múa hát của họ.
Vua này có nhiều con,
Ta nghe chỉ một tên,
Tám mươi và mười một,
Ðại lực, danh Inda.
Họ chiêm ngưỡng Thế Tôn,
Thuộc giòng họ mặt trời.
Từ xa, họ lễ Phật,
Bậc vĩ đại thanh thoát.
“Ðảnh lễ bậc Siêu Nhân!
Ðảnh lễ bậc Thượng nhân!
Thiện tâm nhìn chúng con,
Phi nhơn cũng lễ Ngài”.
Ðã nhiều lần, nghe hỏi,
Nên đảnh lễ như vậy,
“Quý vị xin đảnh lễ,
Gotama chiến thắng!
Chúng con xin đảnh lễ,
Gotama chiến thắng!
Ðảnh lễ Gotama,
Bậc trí đức viên mãn”.
7.
Bắc Lô Châu (Uttarakurù) [6]an lạc
Ðại Neru (Tu-di) đẹp đẽ.
Tại đấy, mọi người sống
Không sở hữu, chấp trước.
Họ không gieo hột giống,
Không cần phải kéo cày.
Loài người được thọ hưởng
Lúa chín khỏi nhọc công.
Loại gạo không cám trấu,
Thanh tịnh có hương thơm,
Ðược nấu chín trên đá,
Và họ ăn gạo ấy.
Chỉ cỡi loài bò cái,
Ði phương này phương khác.
Chỉ dùng các loài thú
Ði phương này phương khác.
Dùng xe đàn bà kéo,[7]
Ði phương này phương khác.
Dùng xe đàn ông kéo,
Ði phương này phương khác.
Dùng xe con gái kéo,
Ði phương này phương khác.
Dùng xe con trai kéo,
Ði phương này phương khác.
Họ lên trên các xe,
Ði khắp mọi phương hướng,
Ðể phục vụ vua mình.
Họ cỡi xe voi kéo,
Xe ngựa, xe chư Thiên,
Ðối với vua danh xưng,
Có lâu đài, có kiệu,
Nhiều thành phố của vua,
Ðược xây giữa hư không.
Các thành Atànàtà,
Kusinàtà, Parakusinàtà, Nàttapuriyà, Parakusitannàtà
Kapìvanta thuộc phía Bắc,
Và các thành phố khác,
Như Janogha, Navanavatiya,
Ambara, Ambaravatiya,
Alakamandà,
Là kinh đô của vua,
Chỗ Kuvera ở.
Vị vua đáng kính này,
Kinh đô tên Visànà.
Do vậy Kuvera,
Ðược danh Vessavana.
Các sứ quán được tên:
Tatolà, Tattalà, Tatotalà,
Ojasi, Tejasi, Tatojasi,
Vua Sùra, Arittha, Nemi.
Ðây có vùng nước lớn,
Từ đây mưa đổ xuống,
Ðược tên Dharanì.
Tại đây mưa đổ xuống,
Ðược tên Dharanì.
Tại đây có giảng đường,
Tên Bhagalavati,
Chỗ Dạ-xoa tập hội.
Tại đây nhiều cây trái,
Trên cây chim tụ họp,
Các loại công, loại cò,
Diệu âm chim Kokilà,
Ở đây, chim Jiva,
Kêu tiếng “Hãy sống đi”,
Và tiếng chim kêu lên,
“Hãy khởi tâm thích thú”.
Nhiều loại chim sai khác,
Ở rừng và ở hồ,
Với con vẹt ồn ào,
Và con chim Mynah,
Các loại chim thần thoại,
Gọi là Dandamànavakà.
Hồ sen Kuvera,
Chiếu sáng tất cả trời,
Dân chúng gọi phương ấy,
Là phương Uttarà (phương Bắc).
Vị trị vì phương ấy,
Bậc đại vương danh xưng,
Chủ các loài Dạ-xoa,
Ðược gọi Kuvera.
Các Dạ-xoa hầu quanh,
Hưởng múa hát của chúng.
Vua này có nhiều con,
Ta nghe chỉ một tên,
Tám mươi và mười một,
Ðại lực, danh Inda.
Họ chiêm ngưỡng Thế Tôn,
Thuộc giòng họ mặt trời.
Từ xa, họ lễ Phật,
Bậc vĩ đại thanh thoát.
“Ðảnh lễ bậc Siêu Nhân!
Ðảnh lễ bậc Thượng nhân!
Thiện tâm nhìn chúng con,
Phi nhơn cũng lễ Ngài”.
Ðã nhiều lần, nghe hỏi,
Nên đảnh lễ như vậy,
“Quý vị xin đảnh lễ,
Gotama chiến thắng!
Chúng con xin đảnh lễ,
Gotama chiến thắng!
Ðảnh lễ Gotama,
Bậc trí đức viên mãn”.
- Tôn giả, Hộ Kinh Atànàtiya này che chở, hộ trì, ngăn không cho ai làm hại các vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Nam cư sĩ, Nữ cư sĩ và khiến các vị này sống an lạc.
Khi một vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Nam cư sĩ, Nữ cư sĩ nào sẽ học Hộ Kinh Atanatiya này [8] một cách chín chắn, rõ ràng, nếu có loài phi nhân nào, Dạ-xoa, Dạ-xoa-ni, con trai Dạ-xoa, con gái Dạ-xoa, đại thần Dạ-xoa-ni, tùy tùng của Dạ-xoa, hay lao công của Dạ-xoa; hoặc Càn-thát-bà… hoặc Cưu-bàn-trà (Kumbhanda)… hoặc Nàga… đi theo vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Nam cư sĩ, Nữ cư sĩ khi vị này đi; đứng gần, khi vị này đứng; ngồi khi vị này ngồi; nằm khi vị này nằm với tâm niệm độc ác, thời này Tôn giả, vị phi nhân ấy trong làng hay trong đô thị sẽ không được ai đón mừng hay kính trọng. Này Tôn giả, phi nhân ấy, trong kinh đô Alakamada của Ta sẽ không tìm được đất đai hay chỗ ở. Vị phi nhân ấy sẽ không được đi dự hội giữa các Dạ-xoa. Này Tôn giả, vị phi nhân ấy sẽ không được cưới hỏi. Này Tôn giả, các hàng phi nhân sẽ dùng những lời nói hỗn láo xấc xược đối với vị ấy. Này Tôn giả, các hàng phi nhân sẽ dìm đầu vị ấy xuống. Này Tôn giả, các hàng phi nhân sẽ chẻ đầu vị ấy ra làm bảy mảnh.
- Này Tôn giả, có hàng phi nhân hung bạo, dữ tợn, khủng khiếp. Chúng không nghe lời các đại vương, không nghe lời đình thần của các vị đại vương, không nghe lời các vị giúp việc cho các đình thần của các vị đại vương. Này Tôn giả, các phi nhân này được xem là thù nghịch của các bậc đại vương. Này Tôn giả, như các đại tướng cướp vua xứ Magadha bị chinh phục. Cũng vậy, các vị này không nghe lời các vị đại vương, không nghe lời đình thần của các vị đại vương, không nghe lời các vị giúp việc cho các đình thần của các vị đại vương. Này Tôn giả, các vị đại tướng cướp này được xem là kẻ thù nghịch của vua xứ Magadha – cũng vậy, này Tôn giả, có những vị phi nhân hung bạo, dữ tợn, khủng khiếp. Các vị này không nghe lời các đại vương, không nghe lời đình thần của các vị đại vương, không nghe lời các vị giúp việc cho các đình thần các vị đại vương. Này Tôn giả, các vị phi nhân này được xem là kẻ thù nghịch của các bậc đại vương. Này Tôn giả, nếu có vị phi nhân nào, Dạ-xoa hay Dạ-xoa-ni nào… đi theo vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Nam cư sĩ hay Nữ cư sĩ khi vị này đi, đứng gần khi vị này đứng; ngồi khi vị này ngồi; nằm khi vị này nằm với tâm niệm độc ác, vị này hãy nói lên, kêu lên, van lên với các những vị Dạ-xoa ấy, đại Dạ-xoa ấy, quân sư, đại quân sư ấy: “Dạ-xoa này bắt tôi, Dạ-xoa này tấn công tôi, Dạ-xoa này đả thương tôi, Dạ-xoa này hại tôi, Dạ-xoa này làm hại tôi, Dạ-xoa này không thả tôi ra”.
- Những Dạ-xoa, đại Dạ-xoa, quân sự, đại quân sư nào được kêu gọi ở đây:
Inda, Soma, và Varuna,
Bhàradvaja, Pajàpati,
Candana, Kàmasettha,
Kinnughandu, Nighandu,
Panàda và Opamanna,
Devanita và Màtali,
Cittasena và Gandhabba.
Vua Nala, Janesabha,
Sàtàgira Hemavata,
Punnuaka, Karatiya, Gula,
Sivakat và Mucalinda
Vessàmitta, Yugandhara,
Gopàla và Suppagedha,
Hirì, Settì và Mandiya,
Pancàla Canda, Alavaka,
Pajjunna, Sumana, Sumukha,
Dadhimukha Mani Mànicara, Dìgha,
Atha và Serissaka.
Những vị này là những Dạ-xoa, đại Dạ-xoa, quân sư, đại quân sư cần phải được nói lên, kêu lên, van lên: “Dạ-xoa này bắt tôi, Dạ-xoa này tấn công tôi, Dạ-xoa này đả thương tôi, Dạ-xoa này hại tôi, Dạ-xoa này làm hại tôi, Dạ-xoa này không thả tôi ra”.
- Này Tôn giả, đây là Hộ Kinh Atànàtiyà che chở, hộ trì, ngăn không cho ai làm hại các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Nam cư sĩ, Nữ cư sĩ và khiến các vị này sống an lạc.
Thưa Tôn giả, nay chúng tôi cần phải đi, chúng tôi có nhiều việc, có nhiều bổn phận.
– Ðại vương, Ðại vương hãy làm điều gì Ðại vương nghĩ là phải thời.
Rồi bốn vị đại vương, từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về phía Ngài rồi biến mất tại đấy.
Các vị Dạ-xoa ấy, từ chỗ ngồi đứng dậy, có vị đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài rồi biến mất tại chỗ; có vị nói lên những lời hỏi thăm xã giao với Thế Tôn rồi biến mất tại chỗ; có vị chấp tay hướng đến Thế Tôn rồi biến mất tại chỗ; có vị nói lên tên họ của mình rồi biến mất tại chỗ; có vị im lặng biến mất tại chỗ.
- Rồi Thế Tôn sau khi đêm đã mãn, liền gọi các vị Tỷ-kheo:
– Này các Tỷ-kheo, khi hôm, bốn vị đại vương cùng với đại quân sư Dạ-xoa:
“Ðảnh lễ Vipassi (Tỳ-bà-thi)
Sáng suốt và huy hoàng;
Ðảnh lễ đấng Sikhi, (Thi-khí)
Có lòng thương muôn loài…
Này Tôn giả, đó là hộ kinh Atànàtiyà che chở, hộ trì, … (như trên) … rồi biến mất tại chỗ”.
- Này các Tỷ-kheo, hãy học Hộ Kinh Atànàtiyà này, hãy thuộc lòng Kinh Atànàtiyà này. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Nam cư sĩ, Nữ cư sĩ được che chở, được hộ trì, được ngăn khỏi ai làm hại, được sống thoải mái hạnh phúc.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các vị Tỷ-kheo ấy hoan hỷ thọ trì lời dạy Thế Tôn.
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
Chú giải
↥1 |
Atànàtiya Xuất phát từ địa danh Atànàtà là một thành phố thuộc về cảnh giới Tứ Thiên Vương, do 4 vị Thiên Vương xuống lạy Phật có một đề nghị Đức Thế Tôn cho phép hàng tứ chúng từ đây về sau ở nơi hoang vắng quạnh hiu mà có các loài phi nhơn quấy rối thì có thể sử dụng 1 bài Phật chú hay Hộ kinh để tránh được sự quấy nhiễu của các loại phi nhơn tà kiến thiếu đức tin về Tam Bảo – Tham khảo nguồn: https://www.youtube.com/watch?v=Kk1jns8pGrA&t=5918s Kinh này nhắc đến tên của các vị đại lực thiên thần có chánh kiến nguyện trước Phật sẽ hộ trì những người tu hành đàng hoàng khi họ gặp nạn. Nội dung kinh này là kể sơ lược về bốn hành tinh có nhân loại cư trú, cũng nói sơ về bốn bộ chúng của Tứ Thiên Vương, với nội dung là lễ bái 7 Phật từ đời Thế Tôn Tỳ – Bà – Thi đến thời Thế Tôn của chúng ta là Phật Thích Ca. Do tuổi thọ của chư Thiên Tứ Thiên Vương chỉ là 9 triệu năm nhân loại, Cõi Đao Lợi thì bằng 36 triệu năm nhân loại. Thì các vị ấy không thể biết được 7 vị Phật quá khứ. Do đó trong kinh cho ta thấy có hai trường hợp để họ có thể biết được các vị Phật Thế tôn quá khứ là (1) nghe thuyết pháp từ Thế Tôn và chư Thánh Đệ Tử (2) là từ các vị Phạm Thiên sống lâu xuống thuyết lại cho họ nghe. – Tham khảo nguồn: https://www.youtube.com/watch?v=Kk1jns8pGrA&t=5918s |
---|---|
↥2 | Càn thát bà: có sở thích âm nhạc hoặc là sống dựa vào hoa trái củ rễ thực vật. Tuỳ vào phước báu của bản thân thì có vị sẽ làm chủ một khu rừng, có vị chỉ làm chủ một khóm ( bụi) cây, có vị chỉ làm chủ quản một cội cây, hoặc 1 nhánh cây, lá, hoa, củ, rễ cây… Có vị sống trong gỗ cây, khi gỗ cây đó bị đốn về làm vật dụng trong nhà thì vị đó sẽ đi theo ở trong đó. – Tham khảo nguồn: https://www.youtube.com/watch?v=Kk1jns8pGrA&t=5918s – Thời gian: 23:00 |
↥3 | Cưu Bàn Trà : vì loài này thấp lùn một cách đặc biệt, bụng to như cái lu di chuyển nhanh nhìn như quả trứng hay cái lu đang lăn đi nên gọi là Cưu Bàn Trà, loài này thường được cắt cử canh giữ những thánh tích hay những nơi có báu vật. – Tham khảo nguồn: https://www.youtube.com/watch?v=Kk1jns8pGrA&t=5918s – Thời gian: 1:21:50 |
↥4 | Rồng : bao gồm luôn cả các loài rắn ở hành tinh chúng ta cũng đều nằm dưới quyền của vị thiên vương Virùpakkha (Tỳ-lâu-bác-xoa) – Tham khảo nguồn: https://www.youtube.com/watch?v=Kk1jns8pGrA&t=5918s – Thời gian: 1:25:40 |
↥5 | cakkhumantassāti : Là người có cặp mắt ( pháp nhãn ,huệ nhãn), không riêng Phật Vippassi ( Tỳ-bà-thi) có ngoại hiệu là cakkhumantassāti , mà cả 7 vị Phật đều là cakkhumantassāti , nhưng vì nói riêng từng vị Phật nên gắn liền với những ngoại hiệu khác nhau. Như vậy trong từng vị Phật đều đáng nhận cả 7 ngoại hiệu ( hồng danh) :
tất cả là những vị có mắt nhìn đời ( pháp nhãn ,huệ nhãn) tất cả đều là những vị yêu thương muôn loài tất cả đều là những vị phát nát phiền não tất cả đều là những vị phá nát ma quân tất cả đều là những vị hoàn tất trọng nhiệm ( việc) cần phải làm tất cả đều là những vị đã giải thoát tất cả đều là những vị có hào quang phóng từ châu thân. Tuy có điều hồng danh ngoại hiệu tuy giống nhau, nhưng tên tộc ( tên riêng) thì không giống nhau,có bao nhiêu Phật thì sẽ có bấy nhiêu tên riêng, tuy vậy công đức các vị vẫn tương tự nhau ( đều vô lượng), đều là bậc đại sĩ. Chú giải Pali : cakkhumantassāti na vipassīyeva cakkhumā, sattapi buddhā cakkhumanto, tasmā ekekassa buddhassa etāni satta satta nāmāni honti. sabbepi buddhā cakkhumanto, sabbe sabbabhūtānukampino, sabbe nhātakilesattā nhātakā. sabbe mārasenāpamaddino, sabbe vusitavanto, sabbe vimuttā, sabbe aṅgato rasmīnaṃ nikkhantattā aṅgīrasā. na kevalañca buddhānaṃ etāneva satta nāmāni asaṅkhyeyyāni nāmāni saguṇena mahesinoti vuttaṃ. Tham khảo nguồn: https://www.youtube.com/watch?v=Kk1jns8pGrA&t=5918s |
↥6 |
Bắc Lô Châu (Uttarakurù): Tuổi thọ ở đây tối đa là vô số tuổi và tối thiểu là 1000 tuổi. Còn gọi là Châu Amama ( vô sở chấp), nam nữ ở đây thích nhau sau khi gần gũi là sẽ không gặp lại nhau nữa, người nữ sau khi mang thai đủ tháng sẽ sinh ra một em bé rồi bỏ đi. Đất trời thiên nhiên ở đây rất ôn hoà, không quá nóng quá lạnh, không có côn trùng, mãnh thú, độc xà hầm hố. Khách bộ hành( không kể đó là nam, phụ, lão, ấu…) đi ngang nghe con nít khóc sẽ đưa tay cho đứa trẻ ngậm… Đứa trẻ lớn lên không cha không mẹ, người xứ này cũng không biết đạo nghĩa vợ chồng nên gọi là vô sở chấp. |
↥7 | Đàn bà ở đây là do Dạ Xoa tìm những người ở chỗ khác tới kéo xe, chính cả người dân nơi đây cũng không ngờ phương tiện đi lại của họ là do Dạ Xoa dùng thần thông mang người từ phương khác về kéo. Vì người Bắc-cu-lô-châu chỉ biết hưởng thụ chứ không ngờ người kéo xe có thể ở châu của mình …,
Họ đặc biệt thích người nữ có bầu vì những người này không quá nhanh cũng không quá chậm luôn cẩn thận vì giữ thai, có khi ngồi thẳng lên lưng bắt cõng. Dạ Xoa không dám bắt những người có chánh kiến, thường Dạ Xoa chỉ bắt những người biên địa chỗ xa xôi thiếu văn minh, hoặc dân bộ lạc. Chú giải Pali: itthiṃ vā vāhanaṃ katvāti yebhuyyena gabbhiniṃ mātugāmaṃ vāhanaṃ karitvā. tassā piṭṭhiyā nisīditvā caranti. tassā kira piṭṭhi onamituṃ sahati. itarā pana itthiyo yāne yojenti. purisaṃ vāhanaṃ katvāti purise gahetvā yāne yojenti. gaṇhantā ca sammādiṭṭhike gahetuṃ na sakkonti. yebhuyyena paccantimamilakkhuvāsike gaṇhanti. Do đó có nhiều người ở cõi này, ta thấy họ ngủ triền miên nhưng thật đó chỉ là “xác giả”, còn người thật đã bị Da Xoa bắt đi phục dịch. Trong chú giải có một mẫu chuyện là có một vị thiện nam ngồi bên vị Trưởng Lão mà cứ ngủ gục, Vị Trưởng Lão mới hỏi tại sao nhìn ông có vẻ buồn ngủ, vị thiện nam mới thưa : “thưa Ngài, cả đêm con bị đám dạ xoa bắt đi làm việc nên rất mệt.” Chú giải Pali: aññataro kirettha jānapado ekassa therassa samīpe nisīditvā niddāyati, thero “upāsaka ativiya niddāyasī”ti pucchi. “ajja, bhante, sabbarattiṃ vessavaṇadāsehi kilamitomhī”ti āha. Tham khảo nguồn: https://www.youtube.com/watch?v=Kk1jns8pGrA&t=5918s |
↥8 |
Cách trì tụng kinh này Trước tiên, không nên tụng kinh này liền. Nhẹ nhàng hỏi tên phi nhơn đang quấy rối và trong tuần đầu tiên nên tụng 3 kinh : Kinh Từ Bi, Kinh Ngọn Cờ, Kinh Tam Bảo. Nếu phi nhơn chịu xuất đi thì tốt, còn nếu không thì mới đọc tụng kinh Atànàtiya sutta này, khoảng thời gian đó chư tăng không dùng 2 món thực phẩm (1) thịt động vật (piṭṭhaṃ) và (2) các loại bột (maṃsaṃ) như: ngũ cốc, bột gạo,.. và không sống ở mộ địa tha ma nghĩa trang. Vì sao vậy ? Vì loài phi nhơn thường tìm dịp tấn công khi người ấy sống ở nơi hoang vắng và dùng các loại thịt, hay bột ngũ cốc như đã nói. Ngoài ra, chỗ tụng kinh phải được dọn dẹp cỏ rác, cắt tỉa cây cối um tùm có nghĩa là nơi tụng phải sạch sẽ, gọn gàng. Chú giải Pali: idha pana ṭhatvā parittassa parikammaṃ kathetabbaṃ. paṭhamameva hi āṭānāṭiyasuttaṃ na bhaṇitabbaṃ, mettasuttaṃ dhajaggasuttaṃ ratanasuttanti imāni sattāhaṃ bhaṇitabbāni. sace muñcati, sundaraṃ. no ce muñcati, āṭānāṭiyasuttaṃ bhaṇitabbaṃ, taṃ bhaṇantena bhikkhunā Tham khảo nguồn: https://www.youtube.com/watch?v=Kk1jns8pGrA&t=5918s |