Kinh số 8 – Giải Thích Kinh Đoạn Giảm

(Sallekhasuttavaṇṇanā)

8.1. Nội dung dịch

No

Pāḷi

Việt

1

♦ 81. evaṃ me sutanti sallekhasuttaṃ. tattha mahācundoti tassa therassa nāmaṃ. sāyanhasamayanti sāyanhakāle.

0

2

paṭisallānā vuṭṭhitoti ettha

paṭisallānanti tehi tehi

sattasaṅkhārehi paṭinivattitvā

sallānaṃ nilīyanaṃ, ekībhāvo

pavivekoti vuttaṃ hoti. yo tato

vuṭṭhito, so paṭisallānā vuṭṭhito

nāma hoti. ayaṃ pana yasmā

paṭisallānānaṃ uttamato

phalasamāpattito vuṭṭhāsi, tasmā “paṭisallānā vuṭṭhito”ti vutto.

[Xuất khỏi trạng thái độc cư] trong cụm từ này:

Trạng thái độc cư (paṭisallānaṃ) được gọi là trạng thái đơn cư (sallānaṃ), trạng thái ẩn cư (nilīyanaṃ), trạng thái đơn độc (ekībhāvo), trạng thái tách biệt (paviveko) bằng cách tránh thoát khỏi mọi chúng sinh & uẩn(i). Người nào xuất khỏi đó, thì người ấy được gọi là xuất khỏi trạng thái độc cư. Bởi vì vị Trưởng lão ấy (Mahācunda) xuất khỏi Sự Thể Nhập Quả (phalasamāpatti) tối thượng, cho nên vị ấy được nói là ‘xuất khỏi trạng thái độc cư.’

—–

(i) Theo Sớ Giải tương ứng, mọi chúng sinh gồm: bạn đồng cư, đệ tử, nam cận sự… Còn mọi uẩn là các nhóm đối tượng cho giác quan như Sắc, Thanh…  

3

bhagavantaṃ abhivādetvāti

samadasanakhujjalavibhūsitena

sirasā bhagavantaṃ sakkaccaṃ

vanditvā

[Vị ấy đảnh lễ Thế Tôn] nghĩa là vị ấy kính chào Thế Tôn một cách nghiêm cẩn bằng đầu mình, được điểm tô bằng nét đẹp của 10 ngón tay đồng đều(i).

—–

(i) Động tác đảnh lễ cúi đầu và chắp đều tay, cung cách chắp đều 10 ngón tay tô điểm cho sự kính cẩn khi cúi đầu.

4

abhivādāpetvā vā “sukhī bhava,

cundā”ti evaṃ vacībhedaṃ

kārāpetvā

(Thế Tôn) chào đón vị ấy, lên tiếng rằng: ‘Này Cunda, hãy an lành!’

5

bhagavā pana kira vandito

samāno suvaṇṇadundubhisadisaṃ gīvaṃ paggayha kaṇṇasukhaṃ

pemaniyaṃ amatābhisekasadisaṃ brahmaghosaṃ nicchārento

“sukhī hohī”ti tassa tassa nāmaṃ gahetvā vadati, etaṃ āciṇṇaṃ

tathāgatānaṃ.

Thế rồi quả thật, Thế Tôn trong khi được kính chào, Ngài vươn thẳng cổ giống như chiếc trống có màu vàng(i), phát ra Phạm âm thuận tai, đáng được ưa thích giống như rải (âm thanh) Bất Tử (amatābhiseka), (Ngài) nắm tên họ của chính vị ấy rồi nói rằng: ‘Hãy an lành!’; đó là thông lệ của các Như Lai.

—–

(i) Có lẽ so sánh làn da cổ Đức Phật mịn như mặt trống căng đều. Ngoài ra, chiếc trống phát ra âm thanh tượng trưng cho cái cổ phát ra tiếng nói. Trong Chú Giải Tạng Luật có cụm từ [amatadundubhi – trống Bất Tử] = āhañchaṃ amatadundubhinti

dhammacakkappaṭilābhāya

amatabheriṃ paharissāmīti; cho thấy hình ảnh cái trống đi với sự Bất Tử, tức Niết Bàn – được ẩn dụ bằng âm thanh Bất Tử ở đây – là một dạng công thức biểu đạt trong Truyền thống kinh điển.   

6

tatridaṃ sādhakasuttaṃ, “sakko, bhante, devānamindo sāmacco

saparijano bhagavato pāde sirasā vandatīti, sukhī hotu pañcasikha

sakko devānamindo sāmacco

saparijano, sukhakāmā hi devā

manussā asurā nāgā gandhabbā,

ye caññe santi puthukāyā”ti.

evañca pana tathāgatā evarūpe

mahesakkhe yakkhe abhivadantīti.

Trong chủ đề này, đây là đoạn kinh minh chứng:

(Lời Thiên Tử Pañcasikha) ‘Thưa Ngài, Đế Thích – Thiên Chủ – cùng với thuộc cấp & tùy tùng kính chào Thế Tôn bằng đầu mình nơi chân Ngài.’

(Lời Thế Tôn) ‘Này Pañcasikha, Đế Thích – Thiên Chủ – cùng với thuộc cấp & tùy tùng hãy an lành! Quả thật, chư Thiên, con người, Asura, Rồng, Càn Thát Bà – họ là những nhóm chúng sinh riêng biệt, khác nhau – đều mong muốn sự an lành.’

Các Như Lai đã đáp lời như vậy với các Dạ Xoa có đại thần lực như thế.  

7

yā imāti idāni vattabbābhimukhaṃ karonto viya āha. anekavihitāti nānappakārā.

0

8

diṭṭhiyoti micchādiṭṭhiyo.

[Các Kiến] tức các Tà Kiến.

9

loke uppajjantīti sattesu

pātubhavanti.

[Sinh lên trong thế gian] tức hiện ra nơi các chúng sinh.

10

attavādappaṭisaṃyuttāti “rūpaṃ attato

samanupassatī”tiādinayappavattena attavādena paṭisaṃyuttā, tā

vīsati bhavanti.

[Liên hệ với học thuyết về Bản ngã] tức là liên hệ với học thuyết về Bản ngã vận hành theo những thể thức như ‘Vị ấy nhận thấy Sắc là Ngã.’; có 20 học thuyết đó.

11

lokavādappaṭisaṃyuttāti “sassato attā ca loko

cā”tiādinayappavattena

lokavādena paṭisaṃyuttā, tā

aṭṭha honti sassato, asassato,

sassato ca asassato ca, neva

sassato nāsassato, antavā,

anantavā, antavā ca anantavā ca, nevantavā nānantavā attā ca loko cāti evaṃ pavattattā.

[Liên hệ với học thuyết về Thế giới] tức là liên hệ với học thuyết về Thế giới vận hành theo những thể thức như ‘Bản ngã và Thế giới là trường tồn.’; có 8 học thuyết đó, với sự vận hành như thế này: ‘(1) Bản ngã và Thế giới trường tồn; (2) không trường tồn; (3) vừa trường tồn vừa không trường tồn; (4) không phải trường tồn cũng không phải không trường tồn; (5) hữu biên; (6) vô biên; (7) vừa hữu biên vừa vô biên; (8) không phải hữu biên cũng không phải vô biên(i).’

—–

(i) Tham khảo Indacanda, Huỳnh Trọng Khánh, Nguyễn Đình Vũ Trường Bộ – Tập Một (Nhà Xuất Bản Tôn Giáo 2022).

12

ādimevātiādīsu ayamattho kiṃ nu kho bhante ādimeva

manasikarontassa appatvāpi

sotāpattimaggaṃ

vipassanāmissakapaṭhamamanasikārameva manasikarontassa

bhikkhuno evametāsaṃ

ettakeneva upāyena etāsaṃ

diṭṭhīnaṃ pahānañca paṭinissaggo ca hotīti.

[chỉ trong giai đoạn khởi điểm vân vân] đây là ý nghĩa của câu kinh đó: ‘Thưa Ngài, liệu có sự từ bỏ, có sự bỏ chính các Tà Kiến đó bằng cách thức chỉ như vậy cho vị Tỳ Kheo đang tác ý chỉ với sự tác ý sơ khởi kết hợp với Vipassanā, (vị Tỳ Kheo ấy) chưa đạt đến Nhập Lưu Đạo và đang tác ý chỉ trong giai đoạn khởi điểm?(i)’

—–

(i) Câu hỏi này chỉ đến vị Tỳ Kheo chưa đạt đến Nhập Lưu Đạo và đang thực hành thiền Vipassanā ở các giai đoạn thấp hơn.

13

idañca thero attanā

anadhimānikopi samāno

adhimānikānaṃ

adhimānappahānatthaṃ

adhimāniko viya hutvā pucchatīti

veditabbo.

Vị Trưởng lão ấy (Mahācunda) trong khi tự mình không ảo tưởng (anadhimānika) lại như thể chính mình ảo tưởng rồi hỏi điều đó nhằm mục đích triệt bỏ ảo tưởng cho những người ảo tưởng(i). Điều đó nên được hiểu như vậy.

—–

(i) Theo Sớ Giải tương ứng, Trưởng lão Mahācunda là bậc trí tuệ, Ngài biết đối với vị Tỳ Kheo chưa đạt đến Nhập Lưu Đạo thì chưa thể từ bỏ các Tà Kiến được; chỉ những ai ảo tưởng mới tin rằng được. Nhưng Ngài làm ra vẻ không biết, giống như đang ‘nhập hội’ với những người ảo tưởng rồi đặt câu hỏi để Đức Phật giảng rõ và giải tan ảo tưởng.

‘‘Ādimeva nu kho…pe… paṭinissaggo hotī’ti anabhisametāvī viya vadanto

adhimāne ṭhito viya hotīti āha

‘‘adhimāniko viya hutvā’ ’ti.

14

apare panāhu “therassa

antevāsikā ādimanasikāreneva

diṭṭhīnaṃ samucchedappahānaṃ hotīti evaṃsaññinopi,

samāpattivihārā sallekhavihārāti evaṃsaññinopi atthi. so tesaṃ

atthāya bhagavantaṃ pucchatī”ti.

Những người khác lại nói rằng: ‘Các đồ đệ của vị Trưởng lão ấy là những người tưởng như thế này ‘Có sự từ bỏ – tức là sự đoạn tuyệt các Tà Kiến chỉ bằng sự tác ý khởi điểm.’ hoặc tưởng như thế này ‘Sự sống theo cách thể nhập(i) là sự sống gột bỏ(ii).’ Vị Trưởng lão ấy hỏi Thế Tôn vì các đồ đệ đó.’

—–

(i) Tức thể nhập các tầng thiền.

(ii) Theo chính bài Chú Giải này, sự gột bỏ (sallekha) là ẩn dụ cho phạm hạnh (brahmacariya) vì phạm hạnh gột bỏ (sallekhati) cái phi phạm hạnh (abrahmacariya):

ettha ca brahmacariyaṃ sallekhoti

veditabbaṃ. brahmacariyañhi

abrahmacariyaṃ sallekhati.  

15

82. athassa bhagavā tāsaṃ diṭṭhīnaṃ pahānūpāyaṃ dassento yā imātiādimāha.

0

16

tattha yattha cetā diṭṭhiyo

uppajjantītiādi pañcakkhandhe

sandhāya vuttaṃ.

Trong câu kinh này, cụm từ [ở chỗ nào các Tà Kiến ấy sinh lên vân vân] được nói chỉ đến Ngũ Uẩn.

17

etesu hi etā diṭṭhiyo uppajjanti.

yathāha “rūpe kho, bhikkhave,

sati rūpaṃ abhinivissa evaṃ

diṭṭhi uppajjati, so attā so loko so pecca bhavissāmi nicco dhuvo

sassato avipariṇāmadhammo”ti

(saṃ. ni. 3.152) vitthāro.

Bởi vì các Tà Kiến ấy sinh lên nơi các Uẩn đó. Đức Phật đã nói như thế này: ‘Này các Tỳ Kheo, trong khi Sắc tồn tại; bằng cách hướng đến Sắc, Tà Kiến sinh lên như vầy ‘Chính Bản Ngã là Thế Giới; chính ta sau khi chết sẽ tồn tại, thường hằng, ổn cố, vĩnh viễn, không có tính biến đổi.’ (Saṃ. ni. 3.152) Sự giải thích là như vậy.

18

ārammaṇavasena pana

ekavacanaṃ katvā yattha cāti āha, yasmiṃ ārammaṇe uppajjantīti vuttaṃ hoti.

Đức Phật đã nói cụm từ [ở chỗ nào] với ý nghĩa là đối tượng(i) được đặt ở số đơn (ekavacanaṃ)(ii). Điều được nói có nghĩa là ‘(Các Tà Kiến) sinh lên ở đối tượng nào.’

—–

(i) Đối tượng của tâm.

(ii) Thuật ngữ ngữ pháp truyền thống Ấn Độ: một danh từ sẽ được chia theo ekavacana [số đơn] hay bahuvacana [số nhiều]. Ví dụ: danh từ Purisa [con người] có thể chia ở chủ cách số ít là Puriso [một con người] hay chủ cách số nhiều là Purisā [những con người].

19

ettha ca uppajjanti anusenti

samudācarantīti imesaṃ evaṃ

nānākaraṇaṃ veditabbaṃ.

Trong câu kinh này, cụm từ [(các Tà Kiến) sinh lên, ẩn trú, hiện hành vân vân] nên được hiểu là sự đa dạng như thế của các Tà Kiến ấy.

20

jātivasena hi ajātā jāyamānā

uppajjantīti vuccanti.

Cụm từ [(các Tà Kiến) sinh lên] được nói theo nghĩa là: (các Tà Kiến) chưa từng được sinh lên thì đang sinh lên với ý nghĩa là sự khởi sinh(i).

—–

(i) Các Tà Kiến đa dạng về cấp độ. Cấp thứ nhất là mới sinh lên lần đầu tiên.

21

punappunaṃ āsevitā thāmagatā

appaṭivinītā anusentīti.

Cụm từ [(các Tà Kiến) ẩn trú] được nói theo nghĩa là: (các Tà Kiến) chưa được tẩy trừ thì trở nên mạnh mẽ, được hướng đến hết lần này đến lần khác.

22

kāyavacīdvāraṃ sampattā

samudācarantīti, idametesaṃ

nānākaraṇaṃ.

Cụm từ [(các Tà Kiến) hiện hành] được nói theo nghĩa là: (các Tà Kiến) đã đi đến Thân Môn, Khẩu Môn; đó là sự đa dạng của các Tà Kiến ấy.

23

taṃ netaṃ mamātiādīsu taṃ

pañcakkhandhappabhedaṃ

ārammaṇametaṃ mayhaṃ na

hoti, ahampi eso na asmi, eso me

attāpi na hotīti evametaṃ

yathābhūtaṃ sammappaññāya

passatoti evaṃ tāva padattho

veditabbo.

Đối với cụm từ [(thấy) cái đó rằng ‘cái đó không phải là của ta.’ vân vân], ý nghĩa là:

‘Đối tượng đó(i) – vốn được chia thành Ngũ Uẩn đó – thì không phải là của ta; ta không phải là cái đó, cái đó không phải là Bản Ngã của ta’; đối với (hành giả) thấy cái đó theo thực tính như vậy bằng Trí Tuệ Chân Chánh. Ý nghĩa của câu kinh như thế nên được hiểu như vậy.

—–

(i) Ở đây, Chú Giải hiểu đối tượng (ārammaṇa) là cái đã được phản ánh qua Ngũ Uẩn chứ không phải là vật độc lập bên ngoài giác quan của chúng sinh. Chẳng hạn: chiếc xe hơi đậu bên đường là một vật độc lập với giác quan/nhận thức của ta. Dù ta có thấy, có biết đến nó hay không thì nó vẫn tồn tại. Nhưng khi ta nhìn thấy nó, thì hình sắc nó mới hiện lên Nhãn Thức của ta; Nhãn Thức này mới thuộc về Thức Uẩn, thuộc về Ngũ Uẩn của ta; còn chiếc xe độc lập kia thì không thể thuộc về Ngũ Uẩn của ta được, chỉ có thể coi nó là Sắc Uẩn của chính nó thôi, không liên can đến Ngũ Uẩn của ta.  

24

yasmā pana ettha etaṃ mamāti

taṇhāgāho, tañca gaṇhanto

aṭṭhasatataṇhāvicaritappabhedaṃ taṇhāpapañcaṃ gaṇhāti.

Ở chủ đề này; bởi vì cụm từ [cái đó là của ta] chỉ đến sự nắm bắt (đối tượng) do Tham Ái; trong khi nắm bắt cái đó, chúng sinh nắm bắt ảo tưởng do Tham Ái được chia thành 108 loại suy tưởng Tham Ái.

25

esohamasmīti mānagāho, tañca

gaṇhanto navappabhedaṃ

mānapapañcaṃ gaṇhāti.

[Ta không phải là cái đó] chỉ đến sự nắm bắt (đối tượng) do Ngã Mạn; trong khi nắm bắt cái đó, chúng sinh nắm bắt ảo tưởng do Ngã Mạn được chia thành 9 loại. 

26

eso me attāti diṭṭhigāho, tañca

gaṇhanto

dvāsaṭṭhidiṭṭhigatappabhedaṃ

diṭṭhipapañcaṃ gaṇhāti.

[Cái đó không phải là Bản Ngã của ta] chỉ đến sự nắm bắt (đối tượng) do Tà Kiến; trong khi nắm bắt cái đó, chúng sinh nắm bắt ảo tưởng do Tà Kiến được chia thành 62 loại Tà Kiến.

27

tasmā netaṃ mamāti vadanto

bhagavā yathāvuttappabhedaṃ

taṇhāpapañcaṃ paṭikkhipati.

nesohamasmīti mānapapañcaṃ.

na meso attāti diṭṭhipapañcaṃ.

 

Cho nên, Thế Tôn nói [cái đó không phải là của ta] để bác bỏ ảo tưởng do Tham Ái được chia theo cách được nói ở trên. Ngài nói [ta không phải là cái đó] để bác bỏ ảo tưởng do Ngã Mạn. Ngài nói [cái đó không phải là Bản Ngã của ta] để bác bỏ ảo tưởng do Tà Kiến.

28

diṭṭhekaṭṭhāyeva cettha

taṇhāmānā veditabbā.

Trong đoạn kinh này, Tham Ái và Ngã Mạn nên được hiểu là đi chung với Tà Kiến(i).

—–

(i) Theo Sớ Giải tương ứng, chỉ có Tham Ái (taṇhā) đi chung với Tà Kiến (diṭṭhi); Ngã Mạn thì không.

Sahajekaṭṭhā pana diṭṭhiyā taṇhā eva,

na māno, sā ca kho apāyagamanīyā.

29

evametanti evaṃ “netaṃ mamā”tiādinā ākārena etaṃ

khandhapañcakaṃ.

0

30

yathābhūtanti yathā sabhāvaṃ,

yathā atthīti vuttaṃ hoti.

[theo thực tính] nghĩa là đúng theo bản chất, theo cách ‘sự vật tồn tại.’ Điều đó được nói như vậy.

31

khandhapañcakañhi eteneva

ākārena atthi.

Bởi vì khối Ngũ Uẩn tồn tại theo chính phương cách đó.

32

mamantiādinā pana gayhamānampi tenākārena nevatthīti

adhippāyo.

Không có cái gì được nắm bắt lại tồn tại theo phương cách đó – tức là ‘(cái đó là) của ta vân vân.’ Ý nghĩa là như vậy.

33

sammappaññāya passatoti

sotāpattimaggapaññāpariyosānāya vipassanāpaññāya suṭṭhu

passantassa.

[đối với (hành giả) thấy bằng Trí Tuệ Chân Chánh] nghĩa là đối với (hành giả) thấy rõ ràng bằng Trí Tuệ Vipassanā có kết cục là Trí Tuệ Nhập Lưu Đạo.

34

evametāsanti etena upāyena

etāsaṃ.

0

35

pahānaṃ paṭinissaggoti

ubhayampetaṃ samucchedappahānassevādhivacanaṃ.

[Sự từ bỏ, sự bỏ], 2 từ đó là thuật ngữ (chỉ đến) chính sự từ bỏ theo cách đoạn tuyệt.

36

evaṃ bhagavā ādimanasikāreneva diṭṭhīnaṃ pahānaṃ hoti nu kho

noti āyasmatā mahācundena

adhimānikānaṃ vasena pañhaṃ

puṭṭho sotāpattimaggena

diṭṭhippahānaṃ dassetvā idāni

sayameva adhimānikānaṃ

jhānaṃ vibhajanto ṭhānaṃ kho

panetantiādimāha.

Như vậy, khi được đặt câu hỏi bởi Đại Đức Mahācunda về những người ảo tưởng rằng ‘Liệu có sự từ bỏ các Tà Kiến chỉ bằng sự tác ý sơ khởi hay không?’, thì Thế Tôn trình bày sự từ bỏ Tà Kiến bằng Nhập Lưu Đạo; rồi để phân tích tầng thiền của chính những người ảo tưởng, Ngài đã nói ‘Điều này có thể xảy ra vân vân.’   

37

tattha adhimānikā nāma yesaṃ

appatte pattasaññāya adhimāno

uppajjati, svāyaṃ uppajjamāno

neva lokavaṭṭānusārīnaṃ

bālaputhujjanānaṃ uppajjati, na ariyasāvakānaṃ.

Trong chủ đề này; đối với những người nào, sự ảo tưởng sinh lên do tưởng về sự thành đạt cái chưa thành đạt, thì những người ấy được gọi là những người ảo tưởng. Khi sinh lên, chính ảo tưởng đó không sinh lên cho những người theo đuổi vòng luân hồi thế gian, cho những thường nhân thiểu tri (bālaputhujjana)(i); cũng không sinh lên cho những vị Thánh Đệ Tử(ii).

—–

(i) Từ [bāla] trước nay hay được dịch là [ngu] – nếu làm tính từ, hay [kẻ ngu] – nếu làm danh từ. Trong tiếng Việt, [ngu/kẻ ngu] có mang ít nhiều sắc thái miệt thị mà từ Pāḷi không thấy biểu hiện; vì vậy, dịch giả đề xuất dịch là [thiểu tri/người thiểu tri]. Tương tự, [puthujjana] nên dịch là [thường nhân] thay cho [phàm phu] có mang tính miệt thị: ‘phàm phu tục tử.’

(ii) Thường nhân thiểu tri tức những người không biết Phật Pháp, không tu tập; họ không thể ảo tưởng về thành quả tu tập được. Giống như một cầu thủ bóng đá hạng trung bình thì có thể ảo tưởng rằng mình là cầu thủ xuất sắc; nhưng một người không quan tâm gì đến bóng đá thì không thể nào có loại ảo tưởng đó được. Còn các vị Thánh Đệ Tử thì tu tập đúng đắn hoặc đã đạt các Đạo Quả cao thì không thể ảo tưởng. 

38

na hi sotāpannassa “sakadāgāmī

ahan”ti adhimāno uppajjati, na

sakadāgāmissa “anāgāmī ahan”ti, na anāgāmino “arahā ahan”ti,

Bởi vì đối với vị Nhập Lưu, không có ảo tưởng ‘Ta là bậc Nhất Lai’; đối với vị Nhất Lai, không có ảo tưởng ‘Ta là bậc Bất Lai’; đối với vị Bất Lai, không có ảo tưởng ‘Ta là bậc A La Hán.’

39

kārakasseva pana samathavasena vā vipassanāvasena vā

vikkhambhitakilesassa niccaṃ

yuttapayuttassa

āraddhavipassakassa uppajjati.

(Ảo tưởng ấy) sinh lên cho chính hành giả đã tiến hành và trau dồi Vipassanā liên tục, có phiền não bị đè nén nhờ Thiền Samatha hay Thiền Vipassanā. 

40

tassa hi

samathavikkhambhitānaṃ vā

vipassanāvikkhambhitānaṃ vā

kilesānaṃ samudācāraṃ apassato “sotāpanno ahanti vā,

sakadāgāmī, anāgāmī, arahā

ahan”ti vā adhimāno uppajjati

Quả thật, khi vị ấy không nhìn thấy sự hiện hành của các phiền não bị đè nén nhờ Thiền Samatha hay Thiền Vipassanā, thì ảo tưởng ‘Ta là bậc Nhập Lưu hay ta là bậc Nhất Lai, Bất Lai, A La Hán.’ sinh lên (cho vị ấy)(i).

—–

(i) Vị hành giả chưa đắc Quả, nhưng thực hành tốt Thiền Samatha hay Thiền Vipassanā liên tục nên phiền não bị đè nén, chúng không hiện hành ra Thân Môn, Khẩu Môn. Do đó, vị ấy tưởng lầm là mình đã đắc cao, đã đoạn tuyệt được Tà Kiến.

41

talaṅgaratissapabbatavāsidhammadinnattherena

ovādiyamānattherānaṃ viya.

Giống như sinh lên cho các vị Trưởng lão được giáo huấn bởi Trưởng lão Dhammadinna – người sống tại xứ Talaṅgaratissapabbata.

42

therassa kira

acirūpasampannasseva ovāde

ṭhatvā bahū bhikkhū visesaṃ

adhigacchiṃsu.

Quả thật, khi vị Trưởng lão ấy tiếp nhận (các Tỳ Kheo đệ tử) không lâu, thì nhiều vị Tỳ Kheo (đệ tử) sau khi trụ trong lời giáo huấn của vị Trưởng lão ấy, đã có được thành quả.

43

taṃ pavattiṃ sutvā

tissamahāvihāravāsī

bhikkhusaṅgho “na

aṭṭhānaniyojako theroti theraṃ

ānethā”ti sambahule bhikkhū

pāhesi.

Nghe tin ấy, Tăng Đoàn Tỳ Kheo – sống tại Tissamahāvihāra (nói rằng) ‘Vị Trưởng lão ấy không phải là người khuyến dạy (đệ tử) một cách sai lệch(i); hãy đưa vị Trưởng lão ấy (đến)’, rồi phái đi nhiều vị Tỳ Kheo.

—–

(i) [Na aṭṭhānaniyojako]; Sớ Giải tương ứng chú cho cụm từ này là [sappāyakammaṭṭhāneyeva niyojanato] = [khích lệ (các đệ tử) đến đề mục thiền thích hợp]. Theo hướng của Sớ Giải, có thể hiểu từ ghép [aṭṭhānaniyojaka] = [aṭṭhāna] + [niyojaka]; trong đó [aṭṭhāna] = [a + √(ṭ)ṭhā + na]

44

te gantvā, “āvuso, dhammadinna bhikkhusaṅgho taṃ pakkosāpetī”ti āhaṃsu.

Các vị ấy đi, nói với vị Trưởng lão rằng ‘Này Đạo hữu, Dhammadinna! Tăng Đoàn Tỳ Kheo triệu tập Ngài.’ Rồi đưa vị ấy (đi).

45

so āha “kiṃ pana tumhe, bhante, attānaṃ gavesatha paran”ti?

attānaṃ sappurisāti, so tesaṃ

kammaṭṭhānamadāsi, sabbeva

arahattaṃ pāpuṇiṃsu.

Vị Trưởng lão ấy đã nói rằng: ‘Thưa Đại Đức! Vì sao các ngài lại tìm bản thân mình(i) ở nơi xa? Hãy tìm bản thân mình theo cách của các bậc chân nhân.’ Vị Trưởng lão ấy đã chỉ định đề mục thiền cho các vị Tỳ Kheo đó; toàn bộ các vị đó đã đạt đến trạng thái A La Hán(ii).  

—–

(i) [attānaṃ], chỉ thân/tâm mình.

(ii) Tăng Đoàn Tỳ Kheo tại Tissamahāvihāra muốn mời Trưởng lão Dhammadinna đến Tissamahāvihāra để dạy thiền; nhưng Ngài đáp với các vị Tỳ Kheo sứ giả rằng muốn thiền thì thiền ngay tại đây, tức tại chỗ ở của Ngài – tìm hiểu thân/tâm mình ngay tại đây, không phải đi đâu xa.

46

bhikkhusaṅgho puna aññe

bhikkhū pāhesi, evaṃ

yāvatatiyaṃ pahitā sabbepi

tattheva arahattaṃ patvā

vihariṃsu.

Tăng Đoàn Tỳ Kheo lại phái đi nhiều vị Tỳ Kheo khác, như vậy cho đến lần thứ 3, toàn bộ các vị Tỳ Kheo được phái đi đã đạt trạng thái A La Hán ngay tại đó rồi sống.

47

tato saṅgho gatagatā

nāgacchantīti aññataraṃ

vuḍḍhapabbajitaṃ pāhesi.

Kế đó, Tăng Đoàn (nghĩ rằng) ‘Nhiều vị đã đi rồi không đến’, bèn phái một vị xuất gia cao niên nọ.

48

so gantvā ca, “bhante,

dhammadinna tikkhattuṃ

tissamahāvihāravāsī

bhikkhusaṅgho tuyhaṃ santike

pesesi, tvaṃ nāma saṅghassa

āṇaṃ garuṃ na karosi,

nāgacchasī”ti āha.

Vị ấy đi rồi nói rằng: ‘Thưa Đại Đức Dhammadinna! Tăng Đoàn Tỳ Kheo sống tại Tissamahāvihāra đã 3 lần phái (sứ giả) đến chỗ ngài; nhưng ngài không xem trọng lời yêu cầu của Tăng Đoàn, ngài không đến.’

49

thero kimetanti paṇṇasālaṃ

appavisitvāva pattacīvaraṃ

gāhāpetvā tāvadeva nikkhami, so antarāmagge haṅkanavihāraṃ

pāvisi.

Trưởng lão (Dhammadinna) nói rằng ‘Làm sao có việc ấy’(i), rồi không đi vào nơi ẩn dật của mình, cho lấy y & bát, ngài đi khỏi ngay lập tức. Ở giữa đường, ngài đi vào Haṅkanavihāra.

—–

(i) Ý Trưởng lão là không hề có chuyện Ngài không tôn trọng Tăng Đoàn, Ngài không đến vì dạy thiền cho chính các vị Tỳ Kheo sứ giả.

50

tattha ceko mahāthero

saṭṭhivassātīto adhimānena

arahattaṃ paṭijānāti.

Tại đó, một vị Đại Trưởng lão đã qua 60 hạ, tự nhận trạng thái A La Hán do ảo tưởng.

51

thero taṃ upasaṅkamitvā

vanditvā paṭisanthāraṃ katvā

adhigamaṃ pucchi.

Vị Trưởng lão (Dhammadinna) đi đến chỗ vị đó, đảnh lễ, thăm hỏi xã giao, rồi hỏi về thành tựu của vị đó.

52

thero āha “āma dhammadinna,

yaṃ pabbajitena kātabbaṃ,

cirakataṃ taṃ mayā,

atītasaṭṭhivassomhi etarahī”ti.

kiṃ, bhante, iddhimpi

vaḷañjethāti.

Vị Đại Trưởng lão nói rằng: ‘Ừ, Dhammadinna! Việc gì nên được làm bởi người xuất gia, thì việc đó đã được làm từ lâu bởi ta; hiện nay ta đã qua 60 hạ.’ (Trưởng lão Dhammadinna) ‘Thưa Đại Đức! Liệu ngài vận dụng thần thông được chăng?’

53

āma dhammadinnāti. sādhu vata, bhante, hatthiṃ tumhākaṃ

paṭimukhaṃ āgacchantaṃ

māpethāti. sādhāvusoti

(Đại Trưởng lão) ‘Được, Dhammadinna!’ (Trưởng lão Dhammadinna) ‘Thật lành thay, thưa Đại Đức! Ngài hãy tạo ra một con voi đi đến thẳng mặt ngài!’ (Đại Trưởng lão) ‘Lành thay, này ông!’

54

thero sabbasetaṃ sattappatiṭṭhaṃ tidhāpabhinnaṃ naṅguṭṭhaṃ

bījayamānaṃ soṇḍaṃ mukhe

pakkhipitvā dvīhi dantehi

vijjhitukāmaṃ viya paṭimukhaṃ āgacchantaṃ mahāhatthiṃ

māpesi.

Vị Đại Trưởng lão đã tạo ra một con voi lớn bằng cách bố trí trước mặt ngài cái thân voi có màu trắng toàn bộ, có 7 chân(i), (con voi ấy) đang cuồng nộ, có 9 đuôi đang phe phẩy, (con voi ấy) đang đến trước mặt ngài như thể muốn đâm xuyên bằng 2 cái ngà của nó.

—–

(i) [7 chân] = [sattappatiṭṭhā] = [satta] + [patiṭṭhā]. Từ [patiṭṭhā] không hiện diện trong các từ điển Pāḷi của PTS; xét về từ nguyên, nó gồm [pati] + [√(ṭ)ṭhā], trong bối cảnh mô tả thân thể con voi, nó có thể mang nghĩa [cái chân – foot]. Từ điển Monier-Williams Sanskrit Dictionary có ghi nhận nghĩa này đối với dạng Sanskrit tương ứng của nó là [pratiṣṭhā].

55

so taṃ attanāyeva māpitaṃ

hatthiṃ disvā bhīto palāyituṃ

ārabhi.

Đại Trưởng lão nhìn thấy con voi được tạo ra bởi chính mình ấy, thì sợ hãi, bắt đầu bỏ chạy.

56

tadāva attānaṃ “nāhaṃ arahā”ti ñatvā dhammadinnassa pādamūle ukkuṭikaṃ nisīditvā “patiṭṭhā me hohi, āvuso”ti āha.

Và khi ấy, vị ấy biết về bản thân rằng ‘Ta không phải là A La Hán‘, bèn ngồi chồm hổm dưới chân của Dhammadinna rồi nói rằng: ‘Này ông! Hãy làm nơi nương tựa cho tôi!’

57

dhammadinno “mā, bhante, soci, mā anattamano ahosi, kārakānaṃyeva adhimāno uppajjatī”ti

theraṃ samassāsetvā

kammaṭṭhānamadāsi. thero

tassovāde ṭhatvā arahattaṃ

pāpuṇi.

Trưởng lão Dhammadinna an ủi vị Đại Trưởng lão rằng ‘Thưa Đại Đức! Xin chớ than van! Xin chớ không vui! Ảo tưởng sinh lên cho chính các hành giả!’, rồi chỉ định đề mục thiền cho vị đó. Vị Đại Trưởng lão trụ trong lời giáo huấn của vị ấy rồi đã đạt đến trạng thái A La Hán.

58

cittalapabbatepi tādisova thero

vasati. dhammadinno tampi

upasaṅkamitvā tatheva pucchi.

sopi tatheva byākāsi.

Một vị Trưởng lão khác hệt như vậy sống tại Cittalapabbata. Trưởng lão Dhammadinna đến chỗ vị đó rồi cũng hỏi như thế. Vị đó cũng trả lời như thế.

59

tato naṃ dhammadinno kiṃ,

bhante, iddhimpi vaḷañjethāti āha. āmāvusoti.

Thế là Trưởng lão Dhammadinna đã nói với vị đó rằng: ‘Thưa Đại Đức! Liệu ngài vận dụng thần thông được chăng?’ (Trưởng lão) ‘Ngày ông! Được!’.

60

sādhu vata, bhante, ekaṃ

pokkharaṇiṃ māpethāti. thero

māpesi. ettha, bhante,

padumagumbaṃ māpethāti.

tampi māpesi.

(Trưởng lão Dhammadinna) ‘Thật lành thay, thưa Đại Đức! Ngài hãy tạo ra một cái hồ!’ Vị Trưởng lão kia đã tạo ra một cái hồ. (Trưởng lão Dhammadinna) ‘Tại đây, Ngài hãy tạo ra một cụm hoa sen!’ Vị Trưởng lão kia đã tạo ra một cụm hoa sen.

61

padumagumbe mahāpadumaṃ

māpethāti. tampi māpesi. etasmiṃ padumagumbe ṭhatvā

madhurassarena gāyantaṃ

naccantañca ekaṃ itthiviggahaṃ māpethāti. tampi māpesi.

(Trưởng lão Dhammadinna) ‘Ngài hãy tạo ra một hoa sen lớn trong cụm hoa sen!’ Vị Trưởng lão kia đã tạo ra một hoa sen lớn. (Trưởng lão Dhammadinna) ‘Ngài hãy tạo ra một chúng sinh có dạng người nữ đứng trong cụm hoa sen đó múa & hát bằng âm điệu ngọt ngào!’ Vị Trưởng lão kia đã tạo ra một chúng sinh như vậy.

62

so etaṃ, bhante, punappunaṃ

upanijjhāyathāti vatvā sayaṃ

pāsādaṃ pāvisi.

Trưởng lão Dhammadinna nói rằng ‘Thưa Đại Đức! Ngài hãy ngắm nhìn nó hết lần này đến lần khác!’ rồi tự mình đi vào điện.

63

therassa taṃ

upanijjhāyato saṭṭhivassāni

vikkhambhitakilesā caliṃsu, so

tadā attānaṃ ñatvā purimatthero viya dhammadinnattherassa

santike kammaṭṭhānaṃ gahetvā

arahattaṃ pāpuṇi.

Trong khi vị Trưởng lão ấy ngắm nhìn chúng sinh đó, các phiền não bị đè nén suốt 60 hạ đã khuấy động (vị ấy); khi đó, vị ấy biết về bản thân mình, rồi giống như vị Trưởng lão trước, vị ấy nhận đề mục thiền rồi đã đạt đến trạng thái A La Hán trong sự hiện diện của Trưởng lão Dhammadinna.   

64

dhammadinnopi anupubbena

tissamahāvihāraṃ agamāsi.

tasmiñca samaye therā

cetiyaṅgaṇaṃ sammajjitvā

buddhārammaṇaṃ pītiṃ

uppādetvā nisinnā honti, etaṃ

kira tesaṃ vattaṃ.

Một cách tuần tự, Trưởng lão Dhammadinna đã đến Tissamahāvihāra. Vào lúc đó, các vị Trưởng lão quét dọn khoảng trống trước ngôi tháp, khởi lên Hỷ có đối tượng là Đức Phật, rồi ngồi xuống; quả thật, đó là phận sự của các vị ấy. 

65

tena nesaṃ

ekopi “idha pattacīvaraṃ

ṭhapehī”ti dhammadinnaṃ

vattā pucchitāpi nāhosi.

dhammadinno eso bhaveyyāti

ñatvā pana pañhaṃ pucchiṃsu.

Thế rồi, một vị trong số đó là người nói với Trưởng lão Dhammadinna rằng ‘Ngài hãy đặt y & bát ở đây!’; và không có ai hỏi han Trưởng lão nữa. Nhưng khi biết rằng ‘Vị này có thể là Dhammadinna’, họ đã đặt câu hỏi cho ngài.

66

so pucchitapañhe tiṇhena asinā

kumudanāḷakalāpaṃ viya

chinditvā pādaṅguliyā

mahāpathaviṃ pahari. bhante

ayaṃ acetanā mahāpathavīpi

dhammadinnassa guṇaṃ jānāti.

tumhe pana na jānitthāti ca vatvā imaṃ gāthamāha —

Vị Trưởng lão ấy bẻ gẫy các câu hỏi được hỏi giống như một bó thân cây Kumuda (bị chặt gẫy) bởi thanh kiếm nhọn, rồi ấn chạm Đại Địa bằng ngón chân mình. Vị ấy đã nói rằng ‘Thưa Đại Đức, Đại Địa vô tâm ý này còn biết phẩm chất của Dhammadinna; nhưng các ngài lại không biết’; rồi nói bài kệ này:  

67

“acetanāyaṃ pathavī, vijānāti

guṇāguṇaṃ.

sacetanātha kho bhante, na

jānātha guṇāguṇan”ti.

 

‘Đất vô tâm ý này tỏ biết mọi phẩm chất. Vậy mà thưa Đại Đức! Trong khi có tâm ý, các ngài chẳng biết phẩm chất nào!’

68

tāvadeva ca ākāse abbhuggantvā

talaṅgaratissapabbatameva

agamāsi. evaṃ kārakasseva

adhimāno uppajjati.

Ngay khi ấy, vị ấy đi lên không trung rồi đi đến Talaṅgaratissapabbata. Ảo tưởng sinh lên cho chính hành giả như vậy.

69

tasmā

bhagavā tādisānaṃ bhikkhūnaṃ vasena jhānaṃ vibhajanto

ṭhānaṃ kho panetantiādimāha.

Do đó, bởi những vị Tỳ Kheo như vậy, trong khi phân tích tầng thiền, Thế Tôn đã nói ‘Điều này có thể xảy ra vân vân.’

70

tassattho, atthetaṃ kāraṇaṃ, no

natthi.

Đây là ý nghĩa của cụm từ đó: điều này có nguyên nhân, không phải không có (nguyên nhân).

71

yena idhekacco bhikkhu

bāhiraparibbājakehi sādhāraṇaṃ vivicceva kāmehi … pe …

paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja

vihareyya, yaṃ pana tassa

evamassa sallekhena viharāmīti,

yaṃ paṭipattividhānaṃ kilese

saṃlikhati, tenāhaṃ viharāmīti,

taṃ na yujjati, na hi

adhimānikassa bhikkhuno

jhānaṃ sallekho vā

sallekhapaṭipadā vā hoti.

Trong tình huống đó, tại đây, một vị Tỳ Kheo nào đó tách ly khỏi sự chung đụng với các du sĩ ngoại đạo, khỏi các dục… vân vân… nhập vào Sơ Thiền rồi trú, suy nghĩ nào xảy đến cho vị ấy như vầy ‘Ta đang sống bằng sự gột bỏ. Sự thực hiện & triển khai nào gột bỏ các phiền não, thì ta đang sống bằng sự đó.’; suy nghĩ đó không thích hợp, bởi vì tầng thiền của vị Tỳ Kheo ảo tưởng đó không phải là sự gột bỏ hay lộ trình gột bỏ.  

72

kasmā? avipassanāpādakattā. na hi so jhānaṃ samāpajjitvā tato

vuṭṭhāya saṅkhāre sammasati,

jhānaṃ panassa

cittekaggamattaṃ karoti,

diṭṭhadhammasukhavihāro hoti.

Vì sao? Vì (tầng thiền) không có nền tảng là Vipassanā. Bởi vì vị ấy thể nhập vào tầng thiền, xuất khỏi đó, rồi không thấu tri các pháp hữu vi; mà chỉ dùng tầng thiền làm sự quy tụ tâm(i), đó là sự lạc trú trong hiện tại(ii).

—–

(i) [Sự quy tụ tâm] = [cittekagga] = [citta + eka + agga] = [sự nhất điểm tâm].

(ii) Vị ấy nhập tầng thiền, thọ hưởng các lợi lạc trong tầng thiền – đó là sự lạc trú trong hiện tại. Khi vị ấy xuất khỏi tầng thiền, thì không tu tập Vipassanā nên không diệt phiền não tận gốc.

73

tasmā tamatthaṃ dassento bhagavā “na kho panete, cunda, ariyassa vinaye sallekhā vuccanti, diṭṭhadhammasukhavihārā ete ariyassa vinaye vuccantī”ti āha.

0

74

tattha eteti jhānadhammavasena bahuvacanaṃ veditabbaṃ, ete

paṭhamajjhānadhammāti vuttaṃ hoti. samāpattivasena vā, ekampi hi paṭhamajjhānaṃ punappunaṃ samāpattivasena pavattattā

bahuttaṃ gacchati.

 

Trong câu kinh đó, [chúng (ete)] nên được hiểu theo số nhiều với nghĩa là các pháp thuộc tầng thiền, các pháp thuộc Sơ Thiền được gọi là [chúng]. Hoặc (nên được hiểu) với nghĩa là sự thể nhập; bởi vì chỉ một Sơ Thiền lại trở thành nhiều do sự diễn tiến với nghĩa là sự thể nhập hết lần này đến lần này khác(i).

—–

(i) ‘Nhiều’, ‘ít’ ở đây chỉ đến số nhiều, số ít của danh từ. Câu kinh dùng đại từ chỉ định số nhiều là [ete – chúng], nên ở đây ý nghĩa được hiểu theo số nhiều. Sơ Thiền là một tầng thiền, tức đáng lẽ khi chỉ đến Sơ Thiền, Đức Phật chỉ dùng đại từ số ít [etaṃ] mới phải; tuy nhiên, xét theo khía cạnh số lần thể nhập Sơ Thiền thì người ta có thể thể nhập vào Sơ Thiền rất nhiều lần, do đó chỉ đến số lần thể nhập tầng thiền thì có thể dùng theo số nhiều.

75

ārammaṇavasena vā, ekampi hi

paṭhamajjhānaṃ

pathavīkasiṇādīsu pavattivasena

bahuttaṃ gacchatīti. esa nayo

dutiyatatiyacatutthajjhānesu.

 

Hoặc (nên được hiểu) với nghĩa là đối tượng (của thiền tâm); bởi vì chỉ một Sơ Thiền lại trở thành nhiều với nghĩa là sự tiến hành trong các đề mục như Kasiṇa Đất vân vân(i). Phương thức hiểu đó (cũng được áp dụng) đối với Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền.

—–

(i) Sơ Thiền là một tầng thiền nhưng có nhiều cách tu tập ứng với nhiều đề mục tu tập Sơ Thiền – như: Kasiṇa Đất, Hơi Thở… Cho nên khi nhìn theo khía cạnh đó, ta có thể quan niệm có nhiều loại Sơ Thiền: Sơ Thiền tu tập theo Kasiṇa Đất, Sơ Thiền tu tập theo Hơi Thở…

76

āruppajhānesu pana

ārammaṇabhedābhāvato

purimakāraṇadvayavaseneva

bahuvacanaṃ veditabbaṃ.

Còn đối với các tầng thiền Vô Sắc, do không tồn tại sự phân loại đối tượng (của thiền tâm) cho nên (chúng) nên được hiểu theo số nhiều dựa theo 2 nguyên nhân trước(i).

—–

(i) Khác với thiền Hữu Sắc, mỗi tầng thiền Vô Sắc chỉ có 1 đối tượng cho thiền tâm, và 1 kiểu tu tập mà thôi; cho nên phần thiền Hữu Sắc ở trên liệt kê tổng cộng 3 nguyên nhân lý giải vì sao Đức Phật dùng đại từ số nhiều [ete – chúng], thì với thiền Vô Sắc chỉ áp dụng 2 nguyên nhân đầu tiên mà thôi. 

77

yasmā cetesaṃ aṅgānipi santāni

ārammaṇānipi, nibbutāni ceva

sukhumāni cāti vuttaṃ hoti,

tasmā tāni santā ete vihārāti evaṃ vuttānīti veditabbāni.

Bởi vì điều này được nói – rằng ‘Các thành phần và các đối tượng của chúng (các tầng thiền Vô Sắc) thì an tịnh, tịch tịnh và vi tế’, cho nên chúng được nói như thế này: ‘Chúng là sự an tịnh trú.’ Chúng nên được hiểu như vậy.

78

ayaṃ tāva tesaṃ catunnampi

sādhāraṇā vaṇṇanā.

visesavaṇṇanā pana “sabbaso

rūpasaññānan”tiādipadānusārato vattabbā siyā. sā visuddhimagge

sabbākārena vuttāyeva.

Đoạn kinh đó đến chỗ 4 (thiền Hữu Sắc) ấy là sự giải thích tổng quát. Còn sự giải thích chi tiết sẽ được nói sau phần ‘mọi sắc tưởng’ vân vân. Sự giải thích chi tiết đó đã được nói theo phương cách trọn vẹn trong bộ Thanh Tịnh Đạo.

79

83. evaṃ yasmā adhimānikassa bhikkhuno jhānavihāro avipassanāpādakattā sallekhavihāro na hoti, na hi so jhānaṃ samāpajjitvā tato vuṭṭhāya saṅkhāre sammasati, cittekaggakaro diṭṭhadhamme sukhavihāro panassa hoti, tasmā tamatthaṃ dassento rūpajjhānāni ca arūpajjhānāni ca vibhajitvā idāni ca yattha sallekho kātabbo catucattālīsāya ākārehi, tañca vatthuṃ tañca sallekhaṃ dassento idha kho pana votiādimāha.

0

80

kasmā pana “aṭṭhahi samāpattīhi

avihiṃsādayo sallekhā”ti vuttā?

lokuttarapādakattā.

Thế rồi, vì sao các sự bất hại vân vân dựa vào 8 sự thể nhập lại được gọi là các sự gột bỏ? Do (chúng là) nền tảng cho pháp siêu thế.

81

bāhirakānañhi aṭṭha samāpattiyo

vaṭṭapādakāyeva. sāsane

saraṇagamanampi lokuttarapādakaṃ, pageva avihiṃsādayo.

Bởi vì 8 sự thể nhập của những người ngoại đạo là các nền tảng cho vòng luân hồi. Còn sự đi đến nương nhờ (Tam Bảo) trong Giáo Lý (của Phật) là nền tảng cho pháp siêu thế; các sự bất hại vân vân còn hơn thế nhiều nữa.

82

imināyeva ca suttena veditabbaṃ

“yathā bāhirakassa

aṭṭhasamāpattilābhino

pañcābhiññassāpi dinnadānato

sāsane tisaraṇagatassa dinnadānaṃ mahapphalataraṃ hotī”ti.

Do chính bài kinh này, điều này nên được hiểu: ‘Giống như vật được thí của người đã đi đến 3 nơi nương nhờ trong Giáo Lý thì có quả lớn hơn vật được thí của người ngoại đạo đạt được 8 sự thể nhập, có ngũ thông.’

83

idañhi sandhāya

dakkhiṇāvisuddhisutte “bāhirake

kāmesu vītarāge dānaṃ datvā

koṭisatasahassaguṇā pāṭikaṅkhitabbā. sotāpattiphalasacchikiriyāya

paṭipanne dānaṃ datvā asaṅkheyyā appameyyā dakkhiṇā

pāṭikaṅkhitabbā, ko pana vādo

sotāpanne”ti vuttaṃ (ma. ni. 3.379).

Về chủ đề này, trong bài kinh Dakkhiṇāvisuddhi, điều này đã được nói: ‘Sau khi cho thí vật nơi người ngoại đạo đã hết luyến ái đối với các dục, thì 100.000 Koṭi lần (giá trị vật thí) đáng được mong chờ(i). Sau khi cho thí vật nơi người thực hành nhằm thực chứng Nhập Lưu Quả, thì tặng vật vô số, vô lượng đáng được mong chờ, nói gì đến việc cho thí vật nơi vị Nhập Lưu?’ (ma. ni. 3.379)

—–

(i) Koṭi là đơn vị đo lường của người Ấn xưa, 1 Koṭi = 10.000.000 (10 triệu). Nếu ta cúng dường cho một người không theo Phật Pháp nhưng đã hết luyến ái các dục, thì quả trổ cho ta có thể bằng 100.000 Koṭi giá trị vật thí ta đã cúng.

84

saraṇagamanato paṭṭhāya hi tattha

sotāpattiphalasacchikiriyāya

paṭipanno adhippetoti, ayaṃ

tāvettha pāḷiyojanā.

Bởi vì ở chủ đề này, bắt đầu từ việc đi đến nương nhờ; (thì sau đó) việc thực hành nhằm thực chứng Nhập Lưu Quả được hướng đến; đó là sự luận giải kinh điển ở chỗ này.

85

anupadavaṇṇanāyaṃ pana idhāti vihiṃsādivatthudīpanametaṃ. kho panāti nipātamattaṃ. voti karaṇatthe sāmivacanaṃ, ayaṃ pana saṅkhepattho, yadetaṃ “pare vihiṃsakā bhavissantī”tiādinā nayena vihiṃsādivatthuṃ vadāma. idha, cunda, tumhehi sallekho kātabboti.

0

86

evaṃ saṅkhepato vatvā idāni vitthārento “pare vihiṃsakā bhavissanti, mayamettha avihiṃsakā bhavissāmāti sallekho karaṇīyo”tiādimāha.

0

87

tattha pareti ye keci imaṃ

sallekhamananuyuttā. vihiṃsakā

bhavissantīti pāṇinā vā leḍḍunā

vātiādīhi sattānaṃ vihesakā

bhavissanti. mayamettha avihiṃsakā bhavissāmāti mayaṃ pana yattheva vatthusmiṃ pare evaṃ vihiṃsakā

bhavissanti, ettheva avihiṃsakā

bhavissāma, avihiṃsaṃ uppādetvā

viharissāma. iti sallekho karaṇīyoti

evaṃ tumhehi sallekho kātabbo.

0

88

sallekhoti ca idha avihiṃsāva

veditabbā. avihiṃsā hi vihiṃsaṃ

sallekhati, taṃ chindati, tasmā

sallekhoti vuccati. esa nayo

sabbattha.

 

Và ở đây, chính sự bất hại nên được hiểu là [Sự gột bỏ – Sallekho]. Bởi vì sự bất hại gột bỏ sự hại, cắt đứt nó; do đó, nó được gọi là sự gột bỏ(i). Đó là phương pháp (luận giải) cho mọi (câu kinh thuộc đoạn này).

—–

(i) [Sự gột bỏ – Sallekho] bắt nguồn từ căn √likh; căn này có một nghĩa là [cạo, gột]. Bởi ý niệm [cạo, gột] ở đây dùng một cách ẩn dụ cho các hiện tượng tâm: gột bỏ phiền não, gột bỏ sự hại… nên có thể hiểu là [đoạn giảm] cũng không sai. Tuy nhiên, [sự gột bỏ] sát với nghĩa gốc Pāḷi hơn.  

89

ayaṃ pana viseso. pare

micchādiṭṭhīti ettha

kammapathānaṃ

antamicchādiṭṭhiñca micchattānaṃ

ādimicchādiṭṭhiñca missetvā diṭṭhi

vuttāti veditabbā.

Tuy nhiên, đây là điểm khác biệt: [Những người khác có Tà Kiến], ở đây, Tà Kiến được nói theo nghĩa là Tà Kiến đầu tiên hay Tà Kiến cuối cùng kết hợp với những đường lối hành động sai trái(i); điều đó nên được hiểu như vậy.

—–

(i) Những đường lối hành động sai trái [micchatta kammapatha] gồm 8 đường lối, nghịch với Bát Chánh Đạo: Tà Kiến, Tà Tư Duy, Tà Ngữ…

90

tathā mayamettha sammādiṭṭhīti

vuttaṭṭhāne

sammādiṭṭhi. ettha ca

kammapathakathā vitthārato

sammādiṭṭhisutte āvi bhavissati.

micchattesu micchādiṭṭhiādayo

dvedhāvitakke.

0

91

ayaṃ panettha saṅkhepo, pāṇaṃ atipātentīti pāṇātipātī pāṇaghātakāti attho. adinnaṃ ādiyantīti adinnādāyī, parassa hārinoti attho. abrahmaṃ hīnaṃ lāmakadhammaṃ carantīti abrahmacārī, methunadhammappaṭisevakāti attho.

0

92

brahmaṃ seṭṭhaṃ paṭipadaṃ carantīti brahmacārī, methunā paṭiviratāti attho. ettha ca brahmacariyaṃ sallekhoti veditabbaṃ. brahmacariyañhi abrahmacariyaṃ sallekhati. musā vadantīti musāvādī, paresaṃ atthabhañjanakaṃ tucchaṃ alikaṃ vācaṃ bhāsitāroti attho. pisuṇā vācā etesanti pisuṇavācā. paresaṃ mammacchedikā pharusā vācā etesanti pharusavācā. samphaṃ niratthakavacanaṃ palapantīti samphappalāpī. abhijjhāyantīti abhijjhālū, parabhaṇḍalubbhanasīlāti attho. byāpannaṃ pūtibhūtaṃ cittametesanti byāpannacittā.

0

93

micchā pāpikā viññugarahitā etesaṃ diṭṭhīti micchādiṭṭhī, kammapathapariyāpannāya natthi dinnantiādivatthukāya, micchattapariyāpannāya aniyyānikadiṭṭhiyā ca samannāgatāti attho. sammā sobhanā viññuppasatthā etesaṃ diṭṭhīti sammādiṭṭhī, kammapathapariyāpannāya atthi dinnantiādikāya kammassakatādiṭṭhiyā, sammattapariyāpannāya maggadiṭṭhiyā ca samannāgatāti attho.

0

94

micchāsaṅkappāti

ayāthāvāniyyānikākusalasaṅkappā.

esa nayo micchāvācātiādīsu. ayaṃ

pana viseso, micchāsaṅkappādayo

viya hi micchāsati nāma pāṭiekko

koci dhammo natthi, atītaṃ pana

cintayato pavattānaṃ catunnampi

akusalakkhandhānametaṃ

adhivacanaṃ.

[Tà Tư Duy] là tư duy không chính xác, không dẫn khỏi (luân hồi), bất thiện. Đó là phương pháp (luận giải) cho các chủ đề Tà Ngữ vân vân(i). Tuy nhiên, đây là điểm khác biệt: quả thật, Tà Tư Duy vân vân, không phải là một pháp đơn lẻ giống như Tà Niệm; mà nó là thuật ngữ cho 4 bất thiện uẩn diễn tiến đối với người suy nghĩ về quá khứ(ii).

—–

(i) Tà Ngữ là nói lời không chính xác, không dẫn khỏi (luân hồi), bất thiện; Tà Tinh Tấn là sự tinh tấn không đúng đắn, không dẫn khỏi (luân hồi), bất thiện…

(ii) Tức thuật ngữ Tà Tư Duy [Micchāsaṅkappa] chỉ đến cả 4 bất thiện uẩn; nhưng không rõ 4 bất thiện uẩn ở đây là gì. [Người suy nghĩ về quá khứ]; theo Sớ Giải tương ứng, đó là người nghĩ đến chuyện quá khứ như ‘lúc trước ta có nhiều tài sản, ngày nay do dễ duôi, ta mất mát nhiều tài sản.’

95

yampi vuttaṃ bhagavatā — “atthesā, bhikkhave, anussati, nesā natthīti

vadāmi, puttalābhaṃ vā, bhikkhave, anussarato, dhanalābhaṃ vā,

bhikkhave, anussarato, yasalābhaṃ vā, bhikkhave, anussarato”ti, tampi

taṃ taṃ cintentassa satipatirūpakena uppattiṃ sandhāya vuttanti

veditabbaṃ.

Và điều nào được nói bởi Thế Tôn rằng: ‘Này các Tỳ Kheo, ta nói ‘có sự nhớ lại đó; không phải không có sự nhớ lại đó.’ Này các Tỳ Kheo, đối với người nhớ lại sự đạt được con cái; này các Tỳ Kheo, đối với người nhớ lại sự đạt được tài sản; này các Tỳ Kheo, đối với người nhớ lại sự đạt được danh tiếng…’; thì chính điều đó được nói chỉ đến sự khởi sinh (Tà Tư Duy) của người suy nghĩ bằng hình thức nhớ; điều đó nên được hiểu như vậy.

96

micchāñāṇīti ettha ca micchāñāṇanti pāpakiriyāsu upāyacintāvasena

pāpaṃ katvā “sukataṃ mayā”ti

paccavekkhaṇākārena ca uppanno

moho veditabbo, tena samannāgatā puggalā micchāñāṇī.

[Những người có Tà Trí], ở đây, [Tà Trí] nên được hiểu là Si sinh lên (cho người) làm việc ác bằng năng lực từ sự suy xét cách thức cho các việc làm ác; (Si đó sinh lên) với phương cách là sự nghĩ tưởng: ‘Việc đó đã được làm thật tốt bởi ta.’(i) Những người có yếu tố đó là những người có Tà Trí.

—–

(i) Người đó làm việc ác một cách có năng lực, có suy xét, tính toán, làm xong rồi thì nghĩ tưởng lại việc mình làm và tự thấy mình đã làm tốt. Trạng thái tâm Si đó là Tà Trí.   

97

sammāñāṇīti ettha pana ekūnavīsatibhedaṃ paccavekkhaṇāñāṇaṃ “sammāñāṇan”ti vuccati, tena samannāgatā puggalā sammāñāṇī.

0

98

micchāvimuttīti avimuttāyeva

samānā “vimuttā mayan”ti

evaṃsaññino, avimuttiyaṃ vā

vimuttisaññino. tatrāyaṃ vacanattho, micchā pāpikā viparītā vimutti

etesaṃ atthīti micchāvimuttī

[Tà Giải thoát] chỉ đến những người nghĩ rằng ‘Chúng ta đã được giải thoát’ trong khi chưa hề được giải thoát; hoặc tưởng trạng thái giải thoát ở trong cái phi giải thoát(i).

—–

(i) Chẳng hạn cho rằng trạng thái thể nhập Sơ Thiền là trạng thái giải thoát – Niết Bàn. Trạng thái Sơ Thiền không phải giải thoát chân chánh, nên là Tà Giải thoát ĐỐI VỚI NGƯỜI TƯỞNG NHƯ VẬY.

99

tatrāyaṃ vacanattho, micchā pāpikā viparītā vimutti etesaṃ atthīti micchāvimuttī. micchāvimuttīti ca yathāvuttenākārena pavattānaṃ akusalakkhandhānametaṃ adhivacanaṃ. phalasampayuttāni pana sammādiṭṭhiādīni aṭṭhaṅgāni ṭhapetvā sesadhammā sammāvimuttīti veditabbā. sā ca micchāvimuttiṃ sallikhitvā ṭhitattā sallekhoti veditabbā. tattha niyojento āha “mayamettha sammāvimuttī bhavissāmāti sallekho karaṇīyo”ti.

0

100

ito parāni tīṇi nīvaraṇavasena

vuttāni. abhijjhālū

byāpannacittāti evaṃ

kammapathesu vuttattā panettha

paṭhamāni dve nīvaraṇāni na

vuttānīti veditabbāni.

Từ đây, 3 pháp khác được nói với ý nghĩa là sự chướng ngại. [Những người có tính khao khát, những người có ác ý], ở đây, 2 pháp chướng ngại đầu tiên không được nói(i) do đã được nói trong các đường lối hành động như trên; chúng nên được hiểu như vậy.

—–

(i) Có tổng cộng 5 pháp chướng ngại là 5 loại phiền não vi tế trong tâm, chỉ có hành thiền mới đối trị & đoạn tuyệt được. Ở đoạn kinh này chỉ đề cập đến 3 trong 5. Trong số 3 cái, thì 2 cái đầu tiên đã được đề cập ở trên – tức là sự Khao Khát [Abhijjhālu] và sự Ác Ý [Byāpannacitta] – cho nên đến chỗ này không nói lại nữa mà đi thẳng vào cái số 3 là Hôn trầm Thụy miên [Thinamiddha].

101

tattha thinamiddhena pariyuṭṭhitā

abhibhūtāti thinamiddhapariyuṭṭhitā.

Ở câu kinh đó, [bị ngập tràn bởi hôn trầm thụy miên] tức bị chế ngự, bị ngập tràn bởi hôn trầm thụy miên. 

102

uddhaccena samannāgatāti uddhatā. vicinantā kicchanti na sakkonti sanniṭṭhānaṃ kātunti vicikicchī. kodhanātiādīni dasa cittassa upakkilesavasena vuttāni. tattha kodhādīsu yaṃ vattabbaṃ siyā, taṃ sabbaṃ dhammadāyādavatthasuttesu vuttaṃ. ayaṃ panettha vacanattho — kodhanāti kujjhanasīlā.

0

103

upanāhīti upanāhanasīlā, upanāho vā etesaṃ atthīti upanāhī. tathā makkhī palāsī ca. issantīti issukī. maccharāyantīti maccharī, maccheraṃ vā etesaṃ atthīti maccharī. saṭhayantīti saṭhā, na sammā bhāsantīti vuttaṃ hoti, kerāṭikayuttānametaṃ adhivacanaṃ. māyā etesaṃ atthīti māyāvī. thambhasamaṅgitāya thaddhā. atimānayogena atimānī. vuttapaccanīkanayena sukkapakkho veditabbo.

0

104

dubbacāti vattuṃ dukkhā kiñci vuccamānā na sahanti. tabbiparītā suvacā. devadattādisadisā pāpakā mittā etesanti pāpamittā. buddhā vā sāriputtādisadisā vā kalyāṇā mittā etesanti kalyāṇamittā. kāyaduccaritādīsu cittavossaggavasena pamattā. viparītā appamattāti veditabbā.

0

105

imāni tīṇi pakiṇṇakavasena vuttāni. assaddhātiādīni satta asaddhammavasena. tattha tīsu vatthūsu saddhā etesaṃ natthīti assaddhā. sukkapakkhe saddahantīti saddhā, saddhā vā etesaṃ atthītipi saddhā. natthi etesaṃ hirīti ahirikā, akusalasamāpattiyā ajigucchamānānametaṃ adhivacanaṃ. hirī etesaṃ mane, hiriyā vā yuttamanāti hirimanā. na ottappantīti anottappī, akusalasamāpattiyā na bhāyantīti vuttaṃ hoti. tabbiparītā ottappī.

0

106

appaṃ sutametesanti appassutā, appanti ca thokanti na gahetabbaṃ, natthīti gahetabbaṃ. “appassutā”ti hi nissutā sutavirahitā vuccanti. bahu sutametesanti bahussutā, tathāgatabhāsitaṃ ekampi gāthaṃ yāthāvato ñatvā anurūpapaṭipannānametaṃ adhivacanaṃ. kucchitā sīdantīti kusītā, hīnavīriyānametaṃ adhivacanaṃ. āraddhaṃ vīriyametesanti āraddhavīriyā, sammappadhānayuttānametaṃ adhivacanaṃ, muṭṭhā sati etesanti muṭṭhassatī, naṭṭhassatīti vuttaṃ hoti.

0

107

upaṭṭhitā sati etesanti upaṭṭhitassatī, niccaṃ ārammaṇābhimukhappavattasatīnametaṃ adhivacanaṃ. duṭṭhā paññā etesanti duppaññā, naṭṭhapaññāti vuttaṃ hoti.

0

108

paññāya sampannāti

paññāsampannā, paññāti ca idha

vipassanāpaññā veditabbā.

[(Chúng ta) có Tuệ] tức là (chúng ta) có được Tuệ; và ở đây, [Tuệ] nên được hiểu là Tuệ do Vipassanā.

109

vipassanāsambhāro hi paripūro imasmiṃ ṭhāne āgato, tasmā vipassanāpaññāva ayanti porāṇānaṃ āṇā.

0

110

idāni ekameva lokuttaraguṇānaṃ

antarāyakaraṃ aniyyānikadiṭṭhiṃ

tīhākārehi dassento

sandiṭṭhiparāmāsītiādimāha.

Giờ đây, nhằm giải thích một tác nhân cản trở các phẩm chất siêu thế – tức một loại Kiến không dẫn khỏi (luân hồi) – nhưng theo 3 phương cách, Đức Phật đã nói: ‘Bám chấp Thế Kiến vân vân.’

111

tattha sandiṭṭhiṃ parāmasantīti

sandiṭṭhiparāmāsī.

Ở câu kinh đó, [bám chấp Thế Kiến] tức là ‘họ bám chấp vào Thế Kiến.’

112

ādhānaṃ gaṇhantīti ādhānaggāhī,

ādhānanti daḷhaṃ vuccati,

daḷhaggāhīti attho.

[Nắm bắt chặt] tức là ‘họ nắm bắt một cách chặt chẽ.’; ‘một cách mạnh mẽ’ được gọi là [một cách chặt chẽ]; ý nghĩa của cụm từ đó là ‘nắm bắt mạnh mẽ.’(i)

—–

(i) Cụm từ [Nắm bắt chặt (Ādhānaggāhin)] chỉ mô tả hành động [nắm bắt] và phương thức hành động [chặt], nhưng không cho biết đối tượng cho hành động đó là gì; tức nắm bắt cái gì. Dựa vào ý của khái niệm trước đó trong cùng câu kinh (bám chấp Thế Kiến), ta có thể hiểu là nắm bắt Thế Kiến; bởi theo câu chú giải bên trên, 3 khái niệm trong câu kinh này chỉ là một mà thôi, nhưng được diễn tả theo 3 giác độ khác nhau. 

113

yuttakāraṇaṃ disvāva laddhiṃ

paṭinissajjantīti paṭinissaggī,

dukkhena kicchena kasirena

bahumpi kāraṇaṃ dassetvā na

sakkā paṭinissaggaṃ kātunti

duppaṭinissaggī,

[Không dính mắc] tức là: sau khi thấy nguyên nhân trói buộc, người ta không dính mắc Thế Quan(i). [Không hết dính mắc] tức là: sau khi người khác giải thích nguyên nhân trói buộc nhiều lần một cách vất vả, nhọc nhằn, khó khăn; họ vẫn không thể hết dính mắc.

—–

(i) [Thế Quan (Laddhi)] là từ tương đương với [Thế Kiến (Sandiṭṭhi)].

114

ye attano

uppannaṃ diṭṭhiṃ idameva saccanti daḷhaṃ gaṇhitvā api buddhādīhi

kāraṇaṃ dassetvā vuccamānā na

paṭinissajjanti, tesametaṃ

adhivacanaṃ.

Những người nào nắm bắt mạnh mẽ chính Kiến ấy (khi nó) sinh lên cho bản thân mình, (tưởng rằng) ‘đó là sự thật’; thì ngay cả khi được các Đức Phật giải thích nguyên nhân trói buộc, những người được nói đó cũng không hết dính mắc; đó là thuật ngữ chỉ đến những người ấy.

115

tādisā hi puggalā yaṃ yadeva

dhammaṃ vā adhammaṃ vā

gaṇhanti, taṃ sabbaṃ “evaṃ

amhākaṃ ācariyehi kathitaṃ, evaṃ amhehi sutan”ti kummova aṅgāni

sake kapāle antoyeva samodahanti, kumbhīlaggāhaṃ gaṇhanti na

vissajjanti. vuttavipariyāyena

sukkapakkho veditabbo.

Bởi vì những người như thế khi nắm bắt bất kỳ Pháp hay Phi Pháp nào, thì họ nắm bắt tất cả chúng bằng cách nắm bắt của con cá sấu(i), không hết dính mắc – rằng ‘điều đó được nói bởi các vị thầy của chúng tôi như vậy, điều đó được nghe bởi chúng tôi như vậy’; giống như con rùa thu các chân mình vào bên trong cái vỏ của nó. Đoạn kinh tích cực(ii) nên được hiểu theo lối nghịch lại với đoạn được nói đó.

—–

(i) [Cách nắm bắt của con cá sấu (Kumbhīlaggāha)], đây là lối nói thành ngữ của người Ấn xưa. Sớ Giải Tạng Luật có một đoạn dùng cách nói này:

Yathā kumbhīlā gahitaṃ na

paṭinissajjanti, evaṃ kumbhīlaggāhaṃ gaṇhāti, na vissajjeti. = Giống như những con cá sấu không thả con vật bị bắt, vị ấy nắm bắt bằng cách nắm bắt của con cá sấu như vậy; vị ấy không buông ra.

(ii) Ở đây và trong nhiều bài kinh khác, Đức Phật thuyết giảng bằng 2 đoạn kinh nghịch nhau về ý nghĩa: một đoạn nêu cái tiêu cực như Thất Niệm, một đoạn nêu cái tích cực đối nghịch với nó là Có Niệm.

116

84. evaṃ catucattālīsāya ākārehi sallekhaṃ dassetvā idāni tasmiṃ sallekhe cittuppādassāpi bahūpakārataṃ dassetuṃ cittuppādampi kho ahantiādimāha.

0

117

tassattho, ahaṃ, cunda, kusalesu

dhammesu cittuppādampi

bahūpakāraṃ vadāmi, yā panetā

kāyena ca vācāya ca anuvidhiyanā, yathā paṭhamaṃ cittaṃ uppannaṃ,

tatheva tesaṃ dhammānaṃ kāyena

karaṇaṃ, vācāya ca “karothā”ti

āṇāpanaṃ vā, uggahaparipucchādīni vā, tattha vādoyeva ko,

ekantabahūpakārāyeva hi tā

anuvidhiyanāti dasseti.

Đây là ý nghĩa của câu kinh đó: ‘Này Cunda! Ta nói sự khởi tâm đối với các thiện pháp thì hữu ích nhiều; giống như tâm sinh lên trước tiên (thì hữu ích nhiều)(i), cũng hệt như vậy, sự tạo nên các (thiện) pháp đó thông qua thân hay thông qua lời – (chẳng hạn) lời yêu cầu ‘Các vị hãy làm (các pháp đó)’ hoặc câu hỏi về điều học vân vân – (cũng hữu ích nhiều); chính cái nào là sự phù hợp về thân hay về lời(ii) thì quả thật, sự phù hợp ấy hữu ích cực kỳ nhiều; đối với chuyện đó, còn gì phải nói nữa(iii)?’ Câu kinh đó thể hiện như vậy.

—–

(i) Tức sự khởi tâm có trước, rồi sau người ta mới hành động hay nói theo tâm đó. Chính sự khởi thiện tâm đó thôi đã có lợi ích rồi, nếu còn hành động và nói theo thiện tâm đó thì lại còn lợi ích hơn nữa.

(ii) Tức hành động & lời nói phù hợp với sự khởi thiện tâm.

(iii) Tức chuyện khởi thiện tâm đã hữu ích rồi, thì đương nhiên hành động hay nói theo thiện tâm đó còn hưu ích gấp mấy, cần gì phải nói.

118

kasmā panettha cittuppādopi

bahūpakāroti?

ekantahitasukhāvahattā

anuvidhiyanānaṃ hetuttā ca.

Ở đây, vì sao sự khởi tâm thì hữu ích nhiều? Do trạng thái mang lại lợi lạc cùng cực, do trạng thái làm nhân cho các pháp phù hợp (với sự khởi tâm đó)(i).

—–

(i) Chính sự khởi thiện tâm đã mang lại lợi lạc nhiều rồi; kế đó sự khởi thiện tâm lại là nhân sinh ra hành động hay lời nói phù hợp với nó.

119

“dānaṃ dassāmī”ti hi cittuppādo

sayampi ekantahitasukhāvaho

anuvidhiyanānampi hetu, evañhi

uppannacittattāyeva dutiyadivase

mahāvīthiṃ pidahitvā

mahāmaṇḍapaṃ katvā

bhikkhusatassa vā

bhikkhusahassassa vā dānaṃ deti,

“bhikkhusaṅghaṃ nimantetha

pūjetha parivisathā”ti parijane

āṇāpeti.

Bởi vì sự khởi tâm do tự mình rằng ‘Ta sẽ bố thí’ thì mang lại lợi lạc cùng cực, là nhân cho các pháp phù hợp; (i) quả thật, do chính trạng thái tâm sinh lên như vậy, vào ngày hôm sau, vị ấy đóng lại đại lộ, làm lều lớn rồi bố thí đến 100 hay 1.000 vị Tỳ Kheo; vị ấy ra lệnh cho các tùy tùng rằng: ‘Hãy thỉnh mời, cung kính, phục vụ vật thực đến Tỳ Kheo Tăng.’ 

—–

(i) Đoạn văn từ đây trở đi có lẽ là một ví dụ với nhân vật chính là một vị đại thần hay vua chúa.

120

evaṃ “saṅghassa cīvaraṃ

senāsanaṃ bhesajjaṃ dassāmī”ti

cittuppādo sayampi

ekantahitasukhāvaho

anuvidhiyanānampi hetu, evaṃ

uppannacittattāyeva hi cīvarādīni

abhisaṅkharoti deti dāpeti ca. esa

nayo saraṇagamanādīsu.

Sự khởi tâm do tự mình rằng ‘Ta sẽ bố thí thuốc men, chỗ ngụ, y, cho Tăng Đoàn.’ thì mang lại lợi lạc cùng cực, là nhân cho các pháp phù hợp; quả thật, do chính trạng thái tâm sinh lên như vậy, vị ấy chuẩn bị, bố thí, xui khiến bố thí y vân vân. Đó là phương pháp (hiểu) đối với chủ đề ‘Đi đến quy y’ vân vân. 

121

“saraṇaṃ gacchāmī”ti hi cittaṃ

uppādetvāva pacchā kāyena vā

vācāya vā saraṇaṃ gaṇhāti.

Bởi vì, sau khi tâm sinh lên rằng ‘Ta hãy đi đến nương nhờ.’ thì sau đó vị ấy nắm bắt sự nương nhờ bằng thân và lời.

122

tathā

“pañcaṅgaṃ aṭṭhaṅgaṃ dasaṅgaṃ

vā sīlaṃ samādiyissāmī”ti cittaṃ

uppādetvā kāyena vā vācāya vā

samādiyati, “pabbajitvā catūsu

sīlesu patiṭṭhahissāmī”ti ca cittaṃ

uppādetvā kāyena vācāya ca

pūretabbaṃ sīlaṃ pūreti.

Tương tự, sau khi tâm sinh lên rằng ‘Ta sẽ gìn giữ Giới có 5 chi phần, 8 chi phần hay 10 chi phần.’ thì sau đó vị ấy gìn giữ bằng thân và lời; sau khi tâm sinh lên rằng ‘Ta sẽ xuất gia rồi thiết lập trong 4 Giới.’ thì sau đó vị ấy viên thành Giới nên được viên thành bằng thân và lời.

123

“buddhavacanaṃ uggahessāmī”ti

cittaṃ uppādetvāva ekaṃ vā

nikāyaṃ dve vā tayo vā cattāro vā

pañca vā nikāye vācāya uggaṇhāti.

Sau khi tâm sinh lên rằng ‘Ta sẽ học Phật Ngôn.’ thì sau đó vị ấy học một Nikāya hay 2, 3, 4, 5 Nikāya bằng lời.

124

evaṃ dhutaṅgasamādāna-kammaṭṭhānuggaha-kasiṇaparikamma-jhānasamāpattivipassanāmaggaphala- paccekabodhi-sammāsambodhivasena netabbaṃ.

(Tiến trình) được tiến hành theo thể thức như vầy: sự gìn giữ pháp Dhutaṅga, sự học đề mục thiền, sự chuẩn bị Kasiṇa, sự thể nhập tầng thiền, Vipassanā, Đạo, Quả, Độc Giác, Chánh Đẳng Giác.

125

 “buddho bhavissāmī”ti hi

cittuppādo sayampi

ekantahitasukhāvaho

anuvidhiyanānampi hetu, evañhi

uppannacittattāyeva aparena

samayena kappasatasahassādhikāni cattāri asaṅkheyyāni kāyena vācāya ca pāramiyo pūretvā sadevakaṃ

lokaṃ tārento vicarati.

Quả thật, sự khởi tâm do tự mình rằng ‘Ta sẽ trở thành Phật.’ thì mang lại lợi lạc cùng cực, là nhân cho các pháp phù hợp; quả thật, do chính trạng thái tâm sinh lên như vậy, sau đó vị ấy viên thành các Ba La Mật bằng thân và lời suốt 4 A Tăng Kỳ và 100.000 đại kiếp, rồi du hành để cứu giúp thế gian gồm chư thiên. 

126

evaṃ sabbattha cittuppādopi

bahūpakāro. kāyavācāhi pana

anuvidhiyanā atibahūpakārāyevāti

veditabbā.

Sự khởi tâm thì hữu ích nhiều ở mọi nơi như vậy. Còn sự phù hợp về thân hay lời cũng hữu ích rất nhiều. Những điều đó nên được hiểu như vậy.

127

evaṃ kusalesu dhammesu

cittuppādassāpi bahūpakārataṃ

dassetvā idāni tattha niyojento

“tasmā tiha cundā”tiādimāha. taṃ

atthato pākaṭameva.

0

128

85. evaṃ catucattālīsāya ākārehi dassite sallekhe cittuppādassāpi bahūpakārataṃ dassetvā idāni tasseva sallekhassa hitādhigamāya maggabhāvaṃ dassento seyyathāpītiādimāha.

0

129

tassattho, yathā nāma, cunda,

khāṇukaṇṭakapāsāṇādīhi visamo

maggo bhaveyya, tassa

parikkamanāya parivajjanatthāya

añño suparikammakato viya

bhūmibhāgo samo maggo bhaveyya,

Đây là ý nghĩa của câu kinh đó: này Cunda! Thật giống như có một con đường không bằng phẳng do gốc cây, gai hay đá vân vân; thì có một con đường khác bằng phẳng, giống như (con đường) thuộc địa phương(i) được làm chu đáo để tránh thoát, để đi vòng khỏi con đường kia;

—–

(i) [Con đường thuộc địa phương – Bhūmibhāgo maggo]; trong bối cảnh này chỉ đến con đường do người dân, chính quyền làm cho nên bằng phẳng; con đường không bằng phẳng do gốc cây, gai, đá… là con đường do thiên nhiên tự có.

130

yathā ca

rukkhamūlapāsāṇapapātakumbhīlamakarādi paribyākulaṃ visamaṃ

titthamassa, tassa parikkamanāya

parivajjanatthāya aññaṃ avisamaṃ anupubbagambhīraṃ

sopānaphalakasadisaṃ titthaṃ

bhaveyya, yaṃ paṭipanno

sukheneva taṃ nadiṃ vā taḷākaṃ

vā ajjhogāhetvā nhāyeyya vā

uttareyya vā,

Hay giống như có một bến nước không bằng phẳng, hết sức lộn xộn do gốc cây, đá, vách đá, cá sấu, thủy quái vân vân; thì có một bến nước khác bằng phẳng, giống như bậc cầu thang, sâu dần dần để tránh thoát, để đi vòng khỏi bến nước kia; người ta đi vào đó một cách thật thoải mái, sau khi đắm chìm vào dòng sông hay cái hồ đó, (người ta) có thể tắm và ra khỏi nó, 

131

evameva kho, cunda,

visamamaggavisamatitthasadisāya

vihiṃsāya samannāgatassa

vihiṃsakapuggalassa

samamaggasamatitthasadisā

avihiṃsā hoti parikkamanāya.

Cũng giống như vậy, Cunda! Sự bất hại giống với con đường bằng phẳng và bến nước bằng phẳng, nhằm đi vòng khỏi người hãm hại, người có sự hãm hại giống như con đường không bằng phẳng và bến nước không bằng phẳng.

132

yatheva hi

visamamaggatitthaparivajjanatthāya samo maggo ca titthañca paṭiyattaṃ, evaṃ vihiṃsāparivajjanatthāya

avihiṃsā paṭiyattā, yaṃ paṭipanno

sukheneva manussagatiṃ vā

devagatiṃ vā ajjhogāhetvā

sampattiṃ vā anubhaveyya

uttareyya vā lokā. eteneva upāyena

sabbapadāni yojetabbāni.

Bởi vì giống hệt như con đường bằng phẳng và bến nước được chuẩn bị là nhằm tránh thoát con đường không bằng phẳng và bến nước không bằng phẳng; như vậy sự bất hại được chuẩn bị là nhằm tránh thoát sự hại; người ta đi vào đó (sự bất hại) một cách thật thoải mái, sau khi vào cõi người hay cõi trời, (người ta) có thể hưởng thành quả hay ra khỏi thế gian. Tất cả các câu (trong đoạn kinh này) nên được luận giải theo chính cách thức đó.

133

86. evaṃ tasseva hitādhigamāya maggabhāvaṃ dassetvā idāni uparibhāgaṅgamanīyataṃ dassento, seyyathāpītiādimāha.

0

134

tassattho, yathā nāma, cunda, ye

keci akusalā dhammā paṭisandhiyā

janakā vā ajanakā vā, dinnāyapi

paṭisandhiyā vipākajanakā vā

ajanakā vā, sabbe te jātivasena

adhobhāgaṅgamanīyāti

evaṃnāmāva honti, vipākakāle

aniṭṭhākantavipākattā.

Đây là ý nghĩa của câu kinh đó: này Cunda! Thật giống như bất kỳ các pháp nào là bất thiện pháp – dù tạo ra hay không tạo ra sự tái hợp(i), dù tạo ra hay không tạo ra quả của sự tái hợp đã thành(ii) – thì tất cả các pháp ấy đều có tên gọi là ‘(Pháp) dẫn đến hạ phần’ do năng lực sinh ra (cái bất thiện), do trạng thái quả không đáng ưa, không đáng yêu vào thời điểm trổ quả.

—–

(i) [Sự tái hợp – Paṭisandhi] tức sự kết hợp trở lại của Ngũ Uẩn ở kiếp sống mới; trong lối nói phổ thông hay được gọi là [sự tái sinh]. Tuy nhiên, trong tiếng Việt, [tái sinh] về nghĩa không chính xác và bám sát nghĩa gốc Pāḷi bằng [tái hợp].

(ii) Tức phân loại bất thiện pháp theo quả: bất thiện pháp có thể cho quả là tái hợp một kiếp sống mới; hoặc sau khi chúng sinh đã tái hợp kiếp sống mới rồi, thì cho các quả trong đời sống đó. Tất nhiên chưa nói đến loại bất thiện nghiệp bị vô hiệu hóa.

135

yathā ca ye

keci kusalā dhammā paṭisandhiyā

janakā vā ajanakā vā dinnāyapi

paṭisandhiyā vipākajanakā vā

ajanakā vā, sabbe te jātivasena

uparibhāgaṅgamanīyāti

evaṃnāmāva honti, vipākakāle

iṭṭhakantavipākattā,

Giống như bất kỳ các pháp nào là thiện pháp – dù tạo ra hay không tạo ra sự tái hợp(i), dù tạo ra hay không tạo ra quả của sự tái hợp đã thành(ii) – thì tất cả các pháp ấy đều có tên gọi là ‘(Pháp) dẫn đến thượng phần’ do năng lực sinh ra (cái thiện), do trạng thái quả đáng muốn, đáng yêu vào thời điểm trổ quả,

136

evameva kho, cunda, vihiṃsakassa … pe … uparibhāgāyāti.

0

137

tatrāyaṃ

opammasaṃsandanā — yathā sabbe akusalā adhobhāgaṅgamanīyā, evaṃ vihiṃsakassa ekā vihiṃsāpi. yathā ca sabbe kusalā

uparibhāgaṅgamanīyā, evaṃ

avihiṃsakassa ekā avihiṃsāpi.

eteneva upāyena akusalaṃ

akusalena kusalañca kusalena

upametabbaṃ, ayaṃ kirettha

adhippāyoti.

Đây là sự vận dụng phép so sánh ở câu kinh đó: giống như tất cả bất thiện pháp thì dẫn đến hạ phần; như vậy một sự hại này dẫn đến sự hại khác. Và giống như tất cả thiện pháp thì dẫn đến thượng phần; như vậy một sự bất hại này dẫn đến sự bất hại khác. Chính bằng cách thức đó, bất thiện pháp nên được so sánh với bất thiện pháp còn thiện pháp nên được so sánh với thiện pháp; quả thật, đó là ý nghĩa ở đây.

138

87. evaṃ tasseva sallekhassa uparibhāgaṅgamanīyataṃ dassetvā idāni parinibbāpane samatthabhāvaṃ dassetuṃ so vata cundātiādimāha. tattha soti vuttappakārapuggalaniddeso. tassa yoti imaṃ uddesavacanaṃ āharitvā yo attanā palipapalipanno, so vata, cunda, paraṃ palipapalipannaṃ uddharissatīti evaṃ sabbapadesu sambandho veditabbo.

0

139

palipapalipannoti gambhīrakaddame nimuggo vuccati, no ca kho

ariyassa vinaye. ariyassa pana

vinaye palipanti pañca kāmaguṇā

vuccanti. palipannoti tattha nimuggo bālaputhujjano, tasmā evamettha

atthayojanā veditabbā.

Người chìm xuống bãi bùn sâu được gọi là [người chìm vào đầm lầy – palipapalipanno]; vị ấy không ở trong Luật của bậc Thánh. 5 loại Dục được gọi là [đầm lầy – palipaṃ] trong Luật của bậc Thánh. Thường nhân thiểu tri chìm xuống đó được gọi là [người chìm vào – palipanno]; do đó, việc luận giải ý nghĩa ở câu kinh này nên được hiểu như vậy.  

140

yathā, cunda, koci puriso yāva

nāsikaggā gambhīre kaddame

nimuggo aparaṃ tattheva nimuggaṃ hatthe vā sīse vā gahetvā

uddharissatīti netaṃ ṭhānaṃ vijjati, na hi taṃ kāraṇamatthi, yena so taṃ uddharitvā thale patiṭṭhapeyya,

evameva yo attanā

pañcakāmaguṇapalipe palipanno, so vata paraṃ tatheva

palipapalipannaṃ uddharissatīti

netaṃ ṭhānaṃ vijjati.

Này Cunda! ‘Giống như bất kỳ người nào chìm xuống bãi bùn sâu cho đến chóp mũi, rồi người ấy nắm lấy một người khác chìm xuống ngay tại đó ở tay hay ở đầu rồi có thể kéo người kia lên’ – điều đó là bất khả, bởi vì nó không có sơ sở; nhờ cái gì mà người ấy kéo người kia lên rồi để người kia đứng ở nơi đất khô ráo được? ‘Cũng giống như vậy, người nào tự mình chìm vào đầm lầy 5 loại Dục, thì người ấy lại có thể kéo lên một người khác chìm vào đầm lầy hệt như vậy’ – điều đó là bất khả. 

141

tattha siyā ayuttametaṃ,

puthujjanānampi

bhikkhubhikkhunīupāsakaupāsikānaṃ dhammadesanaṃ sutvā hontiyeva dhammaṃ abhisametāro, tasmā

palipapalipanno uddharatīti, taṃ na

tathā daṭṭhabbaṃ.

Trong chủ đề này, điều đó là không phù hợp đối với các thường nhân(i); sau khi nghe bài giảng Pháp của Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Nam Cận Sự, Nữ Cận Sự, họ mới trở thành những người tri đạt Pháp; cho nên ‘người chìm vào đầm lầy có thể kéo lên (người khác)’ – điều đó không thể xảy ra như vậy.

—–

(i) Thường nhân được ví như người chìm vào đầm lầy; không thể tự mình biết đến Phật Pháp để trở nên cao thượng được, phải nhờ tiếp thu từ những người đã biết Phật Pháp rồi, như: Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni…

142

bhagavāyeva hi tattha uddharati,

pasaṃsāmattameva pana

dhammakathikā labhanti raññā

pahitalekhavācako viya.

Bởi vì chính Thế Tôn kéo họ (thường nhân) lên tại đó; còn những người giảng Pháp lại có trạng thái khen ngợi bản thân giống như sứ giả(i) được nhà vua phái đi.

(i) [Sứ giả – pahitalekhavācako] = người đọc thư được phái đi (bởi nhà vua).

143

yathā hi rañño paccantajanapade

pahitaṃ lekhaṃ tattha manussā

lekhaṃ vācetuṃ ajānantā yo

vācetuṃ jānāti, tena vācāpetvā

tamatthaṃ sutvā “rañño āṇā”ti

ādarena sampādenti, na ca nesaṃ

hoti “lekhavācakassa ayaṃ āṇā”ti.

Bởi vì giống như một bức thư được gửi đi đến vùng biên địa của nhà vua, tại đó có nhiều người không biết đọc chữ; người nào biết đọc thì nhà vua sai người ấy đọc ý nghĩa bức thư; dân chúng nghe ‘mệnh lệnh của nhà vua’ rồi thực thi một cách tôn kính, họ không có ý nghĩ ‘đây là mệnh lệnh của người đọc thư.’(i)

—–

(i) Tức họ tôn kính lời của nhà vua, chứ không phải tôn kính lời của người đọc thư – vì người đọc thư chỉ truyền lời của nhà vua mà thôi. 

144

lekhavācako pana “vissaṭṭhāya

vācāya vācesi anelagaḷāyā”ti

pasaṃsāmattameva labhati,

evameva kiñcāpi sāriputtapabhutayo dhammakathikā dhammaṃ desenti, atha kho likhitapaṇṇavācako viya te honti.

Tuy nhiên, người đọc thư lại có trạng thái khen ngợi bản thân rằng: vị ấy đã đọc (bức thư) dựa trên ngôn từ được (nhà vua) gửi đến một cách không lầm lỗi(i). Cũng giống như vậy, dẫu bao nhiêu người giảng Pháp – kể từ Ngài Sāriputta – thuyết pháp đi nữa, thì họ cũng giống như người đọc bức thư đã được viết (bởi người khác) mà thôi.

—–

(i) [không lầm lỗi – anelagaḷā] – đây là thành ngữ của người Ấn xưa, theo Sớ Giải:

[ela] là [nước bọt]; [gaḷā] là [sự vọt ra]. Như vậy [anelagaḷā] là [sự không vọt ra nước bọt], chỉ hành vi nói một cách thuần thục, lưu loát & lịch thiệp, không chút tì vết.

145

bhagavatoyeva pana sā

dhammadesanā rañño āṇā viya. ye

ca taṃ sutvā dhammaṃ abhisamenti, te bhagavāyeva uddharatīti

veditabbā.

Bài giảng Pháp của Thế Tôn thì giống như mệnh lệnh của nhà vua. Những người nào nghe bài giảng ấy rồi tri đạt Pháp, thì chính Thế Tôn kéo những người ấy lên. Những điều đó nên được hiểu như vậy.

146

dhammakathikā pana “vissaṭṭhāya

vācāya dhammaṃ desenti

anelagaḷāyā”ti pasaṃsāmattameva

labhantīti. tasmā yuttamevetanti.

vuttavipariyāyena sukkapakkho

veditabbo.

Thế nhưng, những người giảng Pháp lại có trạng thái khen ngợi bản thân rằng: họ thuyết Pháp dựa trên ngôn từ được (Thế Tôn) gửi đến một cách không lầm lỗi. Do đó, chính điều đó mới phù hợp(i). Đoạn kinh tích cực nên được hiểu theo lối nghịch lại với đoạn được nói đó.

—–

(i) Tức chính Thế Tôn kéo thường nhân lên khỏi đầm lầy.

147

adanto avinīto aparinibbutoti ettha pana anibbisatāya adanto. asikkhitavinayatāya avinīto. anibbutakilesatāya aparinibbutoti veditabbo.

0

148

so tādiso paraṃ damessati, nibbisaṃ karissati, vinessati vā tisso sikkhā sikkhāpessati, parinibbāpessati vā tassa kilese nibbāpessatīti netaṃ ṭhānaṃ vijjati. vuttavipariyāyena sukkapakkho veditabbo.

0

149

evameva kho, cunda, vihiṃsakassa … pe … parinibbānāyāti ettha pana evamattho veditabbo — yathā hi attanā apalipapalipanno paraṃ palipapalipannaṃ uddharissati, danto damessati, vinīto vinessati, parinibbuto parinibbāpessatīti ṭhānametaṃ vijjatīti.

0

150

kiṃ pana tanti? apalipapalipannattaṃ, dantattaṃ vinītattaṃ parinibbutattañca, evameva kho, cunda, vihiṃsakassa purisapuggalassa avihiṃsā hoti parinibbānāya. kiṃ vuttaṃ hoti?

0

151

yo attanā avihiṃsako, tassa yā

avihiṃsā, ayaṃ yā esā vihiṃsakassa parassa vihiṃsā, tassā

parinibbānāya hoti, attanā hi

avihiṃsako parassa vihiṃsācetanaṃ nibbāpessatīti ṭhānametaṃ vijjati.

Người nào tự mình là người bất hại, cái nào là sự bất hại của người ấy; thì cái ấy (sự bất hại) dẫn đến sự tịch diệt sự hại của người hãm hại; bởi vì người bất hại tự mình làm cho hại-tư(i) của người khác tịch diệt(ii). Điều đó là khả(iii).

—–

(i) [Hại-tư – vihiṃsācetana] là từ ghép gồm [sự hại – vihiṃsā] và [tư – cetana]; trong đó, [tư] là tâm sở quyết định trong việc hình thành một nghiệp nào đó. Thuật ngữ Pāḷi [cetana] trong ngôn ngữ đời thường của Phật tử hay bị gọi nhầm thành [Tác ý] – chẳng hạn: ‘tôi có tác ý cúng dường đến chư Tăng vào ngày mai’; nếu nói đúng phải là ‘Tôi có tư cúng dường đến chư Tăng vào ngày mai’. [Tác ý] thường được dùng để dịch một thuật ngữ Pāḷi khác là [manasikāra].

(ii) [Tịch diệt] ở đây không phải là Niết Bàn của các bậc Thánh mà chỉ là sự biến mất, hết đi, mất đi, không còn nữa…

(iii) Tức điều đó có thể xảy ra.

152

kiṃ pana tanti? avihiṃsakattameva. yañhi yena attanā adhigataṃ hoti, so paraṃ tadatthāya samādapetuṃ

sakkotīti.

Tại sao như vậy? Do chính trạng thái bất hại. Bởi vì cái gì được tiến đến bởi bản thân người ấy (người bất hại); thì người ấy có thể khích lệ người khác đến mục đích ấy(i).

—–

(i) Người bất hại khuyến khích người hãm hại bỏ tà theo chánh, phát triển tâm, dần dần bỏ tính hãm hại. Theo giác độ đó, thì người bất hại đã làm cho sự hại của người khác dứt đi, mất đi, không còn nữa. 

153

atha vā yathā attanā apalipanno danto vinīto parinibbuto paraṃ palipapalipannaṃ adantaṃ avinītaṃ aparinibbutañca uddharissati damessati vinessati parinibbāpessatīti ṭhānametaṃ vijjati, evameva vihiṃsakassa purisapuggalassa vihiṃsāpahānāya maggaṃ bhāvayato uppannā avihiṃsā hoti parinibbānāya.

0

154

parinibbuto viya hi aparinibbutaṃ avihiṃsācetanāva vihiṃsācetanaṃ parinibbāpetuṃ samatthā. etamatthaṃ dassento “evameva kho, cundā”tiādimāhāti evamettha attho daṭṭhabbo. yathā cettha, evaṃ sabbapadesu. ativitthārabhayena pana anupadayojanā na katāti.

0

155

88. evaṃ tassa parinibbāpane samatthabhāvaṃ dassetvā idāni taṃ desanaṃ nigametvā dhammapaṭipattiyaṃ niyojetuṃ iti kho, cundātiādimāha. tattha sallekhapariyāyoti sallekhakāraṇaṃ. esa nayo sabbattha ettha avihiṃsādayo eva vihiṃsādīnaṃ sallekhanato sallekhakāraṇaṃ.

0

156

tesaṃ vasena cittassa uppādetabbato cittupādakāraṇaṃ, vihiṃsādi, parikkamanassa hetuto parikkamanakāraṇaṃ, uparibhāganipphādanato uparibhāgakāraṇaṃ, vihiṃsādīnaṃ parinibbāpanato parinibbānakāraṇanti veditabbā.

0

157

hitesināti hitaṃ esantena. anukampakenāti anukampamānena. anukampaṃ upādāyāti anukampaṃ cittena pariggahetvā, pariccātipi vuttaṃ hoti. kataṃ vo taṃ mayāti taṃ mayā ime pañca pariyāye dassentena tumhākaṃ kataṃ. ettakameva hi anukampakassa satthu kiccaṃ, yadidaṃ aviparītadhammadesanā. ito paraṃ pana paṭipatti nāma sāvakānaṃ kiccaṃ. tenāha etāni, cunda, rukkhamūlāni … pe … amhākaṃ anusāsanīti.

0

158

tattha ca rukkhamūlānīti iminā rukkhamūlasenāsanaṃ dasseti. suññāgārānīti iminā janavivittaṭṭhānaṃ. ubhayenāpi ca yogānurūpasenāsanamācikkhati, dāyajjaṃ niyyāteti. jhāyathāti ārammaṇūpanijjhānena aṭṭhatiṃsārammaṇāni, lakkhaṇūpanijjhānena ca aniccādito khandhāyatanādīni upanijjhāyatha, samathañca vipassanañca vaḍḍhethāti vuttaṃ hoti. mā pamādatthāti mā pamajjittha.

0

159

mā pacchā vippaṭisārino ahuvatthāti ye hi pubbe daharakāle, ārogyakāle, sattasappāyādisampattikāle, satthu sammukhībhāvakāle ca yonisomanasikāravirahitā rattindivaṃ maṅgulabhattā hutvā seyyasukhaṃ middhasukhamanubhontā pamajjanti, te pacchā jarākāle, rogakāle, maraṇakāle, vipattikāle, satthu parinibbutakāle ca taṃ pubbe pamādavihāraṃ anussarantā, sappaṭisandhikālakiriyañca bhāriyaṃ sampassamānā vippaṭisārino honti, tumhe pana tādisā mā ahuvatthāti etamatthaṃ dassento āha “mā pacchā vippaṭisārino ahuvatthā”ti.

0

160

ayaṃ vo amhākaṃ anusāsanīti ayaṃ amhākaṃ santikā “jhāyatha mā pamādatthā”ti tumhākaṃ anusāsanī, ovādoti vuttaṃ hoti.

0

 

8.2. Toàn văn Pāḷi

♦ 81. evaṃ me sutanti sallekhasuttaṃ. tattha mahācundoti tassa therassa nāmaṃ. sāyanhasamayanti sāyanhakāle. paṭisallānā vuṭṭhitoti ettha paṭisallānanti tehi tehi sattasaṅkhārehi paṭinivattitvā sallānaṃ nilīyanaṃ, ekībhāvo pavivekoti vuttaṃ hoti. yo tato vuṭṭhito, so paṭisallānā vuṭṭhito nāma hoti. ayaṃ pana yasmā paṭisallānānaṃ uttamato phalasamāpattito vuṭṭhāsi, tasmā “paṭisallānā vuṭṭhito”ti vutto. bhagavantaṃ abhivādetvāti samadasanakhujjalavibhūsitena sirasā bhagavantaṃ sakkaccaṃ vanditvā, abhivādāpetvā vā “sukhī bhava, cundā”ti evaṃ vacībhedaṃ kārāpetvā, bhagavā pana kira vandito samāno suvaṇṇadundubhisadisaṃ gīvaṃ paggayha kaṇṇasukhaṃ pemaniyaṃ amatābhisekasadisaṃ brahmaghosaṃ nicchārento “sukhī hohī”ti tassa tassa nāmaṃ gahetvā vadati, etaṃ āciṇṇaṃ tathāgatānaṃ. tatridaṃ sādhakasuttaṃ, “sakko, bhante, devānamindo sāmacco saparijano bhagavato pāde sirasā vandatīti, sukhī hotu pañcasikha sakko devānamindo sāmacco saparijano, sukhakāmā hi devā manussā asurā nāgā gandhabbā, ye caññe santi puthukāyā”ti. evañca pana tathāgatā evarūpe mahesakkhe yakkhe abhivadantīti.

♦ yā imāti idāni vattabbābhimukhaṃ karonto viya āha. anekavihitāti nānappakārā. diṭṭhiyoti micchādiṭṭhiyo. loke uppajjantīti sattesu pātubhavanti. attavādappaṭisaṃyuttāti “rūpaṃ attato samanupassatī”tiādinayappavattena attavādena paṭisaṃyuttā, tā vīsati bhavanti. lokavādappaṭisaṃyuttāti “sassato attā ca loko cā”tiādinayappavattena lokavādena paṭisaṃyuttā, tā aṭṭha honti sassato, asassato, sassato ca asassato ca, neva sassato nāsassato, antavā, anantavā, antavā ca anantavā ca, nevantavā nānantavā attā ca loko cāti evaṃ pavattattā.

♦ ādimevātiādīsu ayamattho kiṃ nu kho bhante ādimeva manasikarontassa appatvāpi sotāpattimaggaṃ vipassanāmissakapaṭhamamanasikārameva manasikarontassa bhikkhuno evametāsaṃ ettakeneva upāyena etāsaṃ diṭṭhīnaṃ pahānañca paṭinissaggo ca hotīti. idañca thero attanā anadhimānikopi samāno adhimānikānaṃ adhimānappahānatthaṃ adhimāniko viya hutvā pucchatīti veditabbo. apare panāhu “therassa antevāsikā ādimanasikāreneva diṭṭhīnaṃ samucchedappahānaṃ hotīti evaṃsaññinopi, samāpattivihārā sallekhavihārāti evaṃsaññinopi atthi. so tesaṃ atthāya bhagavantaṃ pucchatī”ti.

♦ 82. athassa bhagavā tāsaṃ diṭṭhīnaṃ pahānūpāyaṃ dassento yā imātiādimāha. tattha yattha cetā diṭṭhiyo uppajjantītiādi pañcakkhandhe sandhāya vuttaṃ. etesu hi etā diṭṭhiyo uppajjanti. yathāha “rūpe kho, bhikkhave, sati rūpaṃ abhinivissa evaṃ diṭṭhi uppajjati, so attā so loko so pecca bhavissāmi nicco dhuvo sassato avipariṇāmadhammo”ti (saṃ. ni. 3.152) vitthāro. ārammaṇavasena pana ekavacanaṃ katvā yattha cāti āha, yasmiṃ ārammaṇe uppajjantīti vuttaṃ hoti. ettha ca uppajjanti anusenti samudācarantīti imesaṃ evaṃ nānākaraṇaṃ veditabbaṃ. jātivasena hi ajātā jāyamānā uppajjantīti vuccanti. punappunaṃ āsevitā thāmagatā appaṭivinītā anusentīti. kāyavacīdvāraṃ sampattā samudācarantīti, idametesaṃ nānākaraṇaṃ. taṃ netaṃ mamātiādīsu taṃ pañcakkhandhappabhedaṃ ārammaṇametaṃ mayhaṃ na hoti, ahampi eso na asmi, eso me attāpi na hotīti evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya passatoti evaṃ tāva padattho veditabbo.

♦ yasmā pana ettha etaṃ mamāti taṇhāgāho, tañca gaṇhanto aṭṭhasatataṇhāvicaritappabhedaṃ taṇhāpapañcaṃ gaṇhāti. esohamasmīti mānagāho, tañca gaṇhanto navappabhedaṃ mānapapañcaṃ gaṇhāti. eso me attāti diṭṭhigāho, tañca gaṇhanto dvāsaṭṭhidiṭṭhigatappabhedaṃ diṭṭhipapañcaṃ gaṇhāti. tasmā netaṃ mamāti vadanto bhagavā yathāvuttappabhedaṃ taṇhāpapañcaṃ paṭikkhipati. nesohamasmīti mānapapañcaṃ. na meso attāti diṭṭhipapañcaṃ. diṭṭhekaṭṭhāyeva cettha taṇhāmānā veditabbā. evametanti evaṃ “netaṃ mamā”tiādinā ākārena etaṃ khandhapañcakaṃ. yathābhūtanti yathā sabhāvaṃ, yathā atthīti vuttaṃ hoti. khandhapañcakañhi eteneva ākārena atthi. mamantiādinā pana gayhamānampi tenākārena nevatthīti adhippāyo. sammappaññāya passatoti sotāpattimaggapaññāpariyosānāya vipassanāpaññāya suṭṭhu passantassa. evametāsanti etena upāyena etāsaṃ. pahānaṃ paṭinissaggoti ubhayampetaṃ samucchedappahānassevādhivacanaṃ.

♦ evaṃ bhagavā ādimanasikāreneva diṭṭhīnaṃ pahānaṃ hoti nu kho noti āyasmatā mahācundena adhimānikānaṃ vasena pañhaṃ puṭṭho sotāpattimaggena diṭṭhippahānaṃ dassetvā idāni sayameva adhimānikānaṃ jhānaṃ vibhajanto ṭhānaṃ kho panetantiādimāha. tattha adhimānikā nāma yesaṃ appatte pattasaññāya adhimāno uppajjati, svāyaṃ uppajjamāno neva lokavaṭṭānusārīnaṃ bālaputhujjanānaṃ uppajjati, na ariyasāvakānaṃ. na hi sotāpannassa “sakadāgāmī ahan”ti adhimāno uppajjati, na sakadāgāmissa “anāgāmī ahan”ti, na anāgāmino “arahā ahan”ti, kārakasseva pana samathavasena vā vipassanāvasena vā vikkhambhitakilesassa niccaṃ yuttapayuttassa āraddhavipassakassa uppajjati. tassa hi samathavikkhambhitānaṃ vā vipassanāvikkhambhitānaṃ vā kilesānaṃ samudācāraṃ apassato “sotāpanno ahanti vā, sakadāgāmī, anāgāmī, arahā ahan”ti vā adhimāno uppajjati, talaṅgaratissapabbatavāsidhammadinnattherena ovādiyamānattherānaṃ viya.

♦ therassa kira acirūpasampannasseva ovāde ṭhatvā bahū bhikkhū visesaṃ adhigacchiṃsu. taṃ pavattiṃ sutvā tissamahāvihāravāsī bhikkhusaṅgho “na aṭṭhānaniyojako theroti theraṃ ānethā”ti sambahule bhikkhū pāhesi. te gantvā, “āvuso, dhammadinna bhikkhusaṅgho taṃ pakkosāpetī”ti āhaṃsu. so āha “kiṃ pana tumhe, bhante, attānaṃ gavesatha paran”ti? attānaṃ sappurisāti, so tesaṃ kammaṭṭhānamadāsi, sabbeva arahattaṃ pāpuṇiṃsu. bhikkhusaṅgho puna aññe bhikkhū pāhesi, evaṃ yāvatatiyaṃ pahitā sabbepi tattheva arahattaṃ patvā vihariṃsu.

♦ tato saṅgho gatagatā nāgacchantīti aññataraṃ vuḍḍhapabbajitaṃ pāhesi. so gantvā ca, “bhante, dhammadinna tikkhattuṃ tissamahāvihāravāsī bhikkhusaṅgho tuyhaṃ santike pesesi, tvaṃ nāma saṅghassa āṇaṃ garuṃ na karosi, nāgacchasī”ti āha. thero kimetanti paṇṇasālaṃ appavisitvāva pattacīvaraṃ gāhāpetvā tāvadeva nikkhami, so antarāmagge haṅkanavihāraṃ pāvisi. tattha ceko mahāthero saṭṭhivassātīto adhimānena arahattaṃ paṭijānāti. thero taṃ upasaṅkamitvā vanditvā paṭisanthāraṃ katvā adhigamaṃ pucchi. thero āha “āma dhammadinna, yaṃ pabbajitena kātabbaṃ, cirakataṃ taṃ mayā, atītasaṭṭhivassomhi etarahī”ti. kiṃ, bhante, iddhimpi vaḷañjethāti. āma dhammadinnāti. sādhu vata, bhante, hatthiṃ tumhākaṃ paṭimukhaṃ āgacchantaṃ māpethāti. sādhāvusoti thero sabbasetaṃ sattappatiṭṭhaṃ tidhāpabhinnaṃ naṅguṭṭhaṃ bījayamānaṃ soṇḍaṃ mukhe pakkhipitvā dvīhi dantehi vijjhitukāmaṃ viya paṭimukhaṃ āgacchantaṃ mahāhatthiṃ māpesi. so taṃ attanāyeva māpitaṃ hatthiṃ disvā bhīto palāyituṃ ārabhi. tadāva attānaṃ “nāhaṃ arahā”ti ñatvā dhammadinnassa pādamūle ukkuṭikaṃ nisīditvā “patiṭṭhā me hohi, āvuso”ti āha. dhammadinno “mā, bhante, soci, mā anattamano ahosi, kārakānaṃyeva adhimāno uppajjatī”ti theraṃ samassāsetvā kammaṭṭhānamadāsi. thero tassovāde ṭhatvā arahattaṃ pāpuṇi.

♦ cittalapabbatepi tādisova thero vasati. dhammadinno tampi upasaṅkamitvā tatheva pucchi. sopi tatheva byākāsi. tato naṃ dhammadinno kiṃ, bhante, iddhimpi vaḷañjethāti āha. āmāvusoti. sādhu vata, bhante, ekaṃ pokkharaṇiṃ māpethāti. thero māpesi. ettha, bhante, padumagumbaṃ māpethāti. tampi māpesi. padumagumbe mahāpadumaṃ māpethāti. tampi māpesi. etasmiṃ padumagumbe ṭhatvā madhurassarena gāyantaṃ naccantañca ekaṃ itthiviggahaṃ māpethāti. tampi māpesi. so etaṃ, bhante, punappunaṃ upanijjhāyathāti vatvā sayaṃ pāsādaṃ pāvisi. therassa taṃ upanijjhāyato saṭṭhivassāni vikkhambhitakilesā caliṃsu, so tadā attānaṃ ñatvā purimatthero viya dhammadinnattherassa santike kammaṭṭhānaṃ gahetvā arahattaṃ pāpuṇi.

♦ dhammadinnopi anupubbena tissamahāvihāraṃ agamāsi. tasmiñca samaye therā cetiyaṅgaṇaṃ sammajjitvā buddhārammaṇaṃ pītiṃ uppādetvā nisinnā honti, etaṃ kira tesaṃ vattaṃ. tena nesaṃ ekopi “idha pattacīvaraṃ ṭhapehī”ti dhammadinnaṃ vattā pucchitāpi nāhosi. dhammadinno eso bhaveyyāti ñatvā pana pañhaṃ pucchiṃsu. so pucchitapañhe tiṇhena asinā kumudanāḷakalāpaṃ viya chinditvā pādaṅguliyā mahāpathaviṃ pahari. bhante ayaṃ acetanā mahāpathavīpi dhammadinnassa guṇaṃ jānāti. tumhe pana na jānitthāti ca vatvā imaṃ gāthamāha —

♦ “acetanāyaṃ pathavī, vijānāti guṇāguṇaṃ.

♦ sacetanātha kho bhante, na jānātha guṇāguṇan”ti.

♦ tāvadeva ca ākāse abbhuggantvā talaṅgaratissapabbatameva agamāsi. evaṃ kārakasseva adhimāno uppajjati. tasmā bhagavā tādisānaṃ bhikkhūnaṃ vasena jhānaṃ vibhajanto ṭhānaṃ kho panetantiādimāha.

♦ tassattho, atthetaṃ kāraṇaṃ, no natthi. yena idhekacco bhikkhu bāhiraparibbājakehi sādhāraṇaṃ vivicceva kāmehi … pe … paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja vihareyya, yaṃ pana tassa evamassa sallekhena viharāmīti, yaṃ paṭipattividhānaṃ kilese saṃlikhati, tenāhaṃ viharāmīti, taṃ na yujjati, na hi adhimānikassa bhikkhuno jhānaṃ sallekho vā sallekhapaṭipadā vā hoti. kasmā? avipassanāpādakattā. na hi so jhānaṃ samāpajjitvā tato vuṭṭhāya saṅkhāre sammasati, jhānaṃ panassa cittekaggamattaṃ karoti, diṭṭhadhammasukhavihāro hoti. tasmā tamatthaṃ dassento bhagavā “na kho panete, cunda, ariyassa vinaye sallekhā vuccanti, diṭṭhadhammasukhavihārā ete ariyassa vinaye vuccantī”ti āha.

♦ tattha eteti jhānadhammavasena bahuvacanaṃ veditabbaṃ, ete paṭhamajjhānadhammāti vuttaṃ hoti. samāpattivasena vā, ekampi hi paṭhamajjhānaṃ punappunaṃ samāpattivasena pavattattā bahuttaṃ gacchati. ārammaṇavasena vā, ekampi hi paṭhamajjhānaṃ pathavīkasiṇādīsu pavattivasena bahuttaṃ gacchatīti. esa nayo dutiyatatiyacatutthajjhānesu. āruppajhānesu pana ārammaṇabhedābhāvato purimakāraṇadvayavaseneva bahuvacanaṃ veditabbaṃ.

♦ yasmā cetesaṃ aṅgānipi santāni ārammaṇānipi, nibbutāni ceva sukhumāni cāti vuttaṃ hoti, tasmā tāni santā ete vihārāti evaṃ vuttānīti veditabbāni. ayaṃ tāva tesaṃ catunnampi sādhāraṇā vaṇṇanā. visesavaṇṇanā pana “sabbaso rūpasaññānan”tiādipadānusārato vattabbā siyā. sā visuddhimagge sabbākārena vuttāyeva.

♦ 83. evaṃ yasmā adhimānikassa bhikkhuno jhānavihāro avipassanāpādakattā sallekhavihāro na hoti, na hi so jhānaṃ samāpajjitvā tato vuṭṭhāya saṅkhāre sammasati, cittekaggakaro diṭṭhadhamme sukhavihāro panassa hoti, tasmā tamatthaṃ dassento rūpajjhānāni ca arūpajjhānāni ca vibhajitvā idāni ca yattha sallekho kātabbo catucattālīsāya ākārehi, tañca vatthuṃ tañca sallekhaṃ dassento idha kho pana votiādimāha.

♦ kasmā pana “aṭṭhahi samāpattīhi avihiṃsādayo sallekhā”ti vuttā? lokuttarapādakattā. bāhirakānañhi aṭṭha samāpattiyo vaṭṭapādakāyeva. sāsane saraṇagamanampi lokuttarapādakaṃ, pageva avihiṃsādayo. imināyeva ca suttena veditabbaṃ “yathā bāhirakassa aṭṭhasamāpattilābhino pañcābhiññassāpi dinnadānato sāsane tisaraṇagatassa dinnadānaṃ mahapphalataraṃ hotī”ti. idañhi sandhāya dakkhiṇāvisuddhisutte “bāhirake kāmesu vītarāge dānaṃ datvā koṭisatasahassaguṇā pāṭikaṅkhitabbā. sotāpattiphalasacchikiriyāya paṭipanne dānaṃ datvā asaṅkheyyā appameyyā dakkhiṇā pāṭikaṅkhitabbā, ko pana vādo sotāpanne”ti vuttaṃ (ma. ni. 3.379). saraṇagamanato paṭṭhāya hi tattha sotāpattiphalasacchikiriyāya paṭipanno adhippetoti, ayaṃ tāvettha pāḷiyojanā.

♦ anupadavaṇṇanāyaṃ pana idhāti vihiṃsādivatthudīpanametaṃ. kho panāti nipātamattaṃ. voti karaṇatthe sāmivacanaṃ, ayaṃ pana saṅkhepattho, yadetaṃ “pare vihiṃsakā bhavissantī”tiādinā nayena vihiṃsādivatthuṃ vadāma. idha, cunda, tumhehi sallekho kātabboti.

♦ evaṃ saṅkhepato vatvā idāni vitthārento “pare vihiṃsakā bhavissanti, mayamettha avihiṃsakā bhavissāmāti sallekho karaṇīyo”tiādimāha.

♦ tattha pareti ye keci imaṃ sallekhamananuyuttā. vihiṃsakā bhavissantīti pāṇinā vā leḍḍunā vātiādīhi sattānaṃ vihesakā bhavissanti. mayamettha avihiṃsakā bhavissāmāti mayaṃ pana yattheva vatthusmiṃ pare evaṃ vihiṃsakā bhavissanti, ettheva avihiṃsakā bhavissāma, avihiṃsaṃ uppādetvā viharissāma. iti sallekho karaṇīyoti evaṃ tumhehi sallekho kātabbo. sallekhoti ca idha avihiṃsāva veditabbā. avihiṃsā hi vihiṃsaṃ sallekhati, taṃ chindati, tasmā sallekhoti vuccati. esa nayo sabbattha. ayaṃ pana viseso. pare micchādiṭṭhīti ettha kammapathānaṃ antamicchādiṭṭhiñca micchattānaṃ ādimicchādiṭṭhiñca missetvā diṭṭhi vuttāti veditabbā. tathā mayamettha sammādiṭṭhīti vuttaṭṭhāne sammādiṭṭhi. ettha ca kammapathakathā vitthārato sammādiṭṭhisutte āvi bhavissati. micchattesu micchādiṭṭhiādayo dvedhāvitakke.

♦ ayaṃ panettha saṅkhepo, pāṇaṃ atipātentīti pāṇātipātī pāṇaghātakāti attho. adinnaṃ ādiyantīti adinnādāyī, parassa hārinoti attho. abrahmaṃ hīnaṃ lāmakadhammaṃ carantīti abrahmacārī, methunadhammappaṭisevakāti attho. brahmaṃ seṭṭhaṃ paṭipadaṃ carantīti brahmacārī, methunā paṭiviratāti attho. ettha ca brahmacariyaṃ sallekhoti veditabbaṃ. brahmacariyañhi abrahmacariyaṃ sallekhati. musā vadantīti musāvādī, paresaṃ atthabhañjanakaṃ tucchaṃ alikaṃ vācaṃ bhāsitāroti attho. pisuṇā vācā etesanti pisuṇavācā. paresaṃ mammacchedikā pharusā vācā etesanti pharusavācā. samphaṃ niratthakavacanaṃ palapantīti samphappalāpī. abhijjhāyantīti abhijjhālū, parabhaṇḍalubbhanasīlāti attho. byāpannaṃ pūtibhūtaṃ cittametesanti byāpannacittā. micchā pāpikā viññugarahitā etesaṃ diṭṭhīti micchādiṭṭhī, kammapathapariyāpannāya natthi dinnantiādivatthukāya, micchattapariyāpannāya aniyyānikadiṭṭhiyā ca samannāgatāti attho. sammā sobhanā viññuppasatthā etesaṃ diṭṭhīti sammādiṭṭhī, kammapathapariyāpannāya atthi dinnantiādikāya kammassakatādiṭṭhiyā, sammattapariyāpannāya maggadiṭṭhiyā ca samannāgatāti attho.

♦ micchāsaṅkappāti ayāthāvāniyyānikākusalasaṅkappā. esa nayo micchāvācātiādīsu. ayaṃ pana viseso, micchāsaṅkappādayo viya hi micchāsati nāma pāṭiekko koci dhammo natthi, atītaṃ pana cintayato pavattānaṃ catunnampi akusalakkhandhānametaṃ adhivacanaṃ. yampi vuttaṃ bhagavatā — “atthesā, bhikkhave, anussati, nesā natthīti vadāmi, puttalābhaṃ vā, bhikkhave, anussarato, dhanalābhaṃ vā, bhikkhave, anussarato, yasalābhaṃ vā, bhikkhave, anussarato”ti, tampi taṃ taṃ cintentassa satipatirūpakena uppattiṃ sandhāya vuttanti veditabbaṃ. micchāñāṇīti ettha ca micchāñāṇanti pāpakiriyāsu upāyacintāvasena pāpaṃ katvā “sukataṃ mayā”ti paccavekkhaṇākārena ca uppanno moho veditabbo, tena samannāgatā puggalā micchāñāṇī. sammāñāṇīti ettha pana ekūnavīsatibhedaṃ paccavekkhaṇāñāṇaṃ “sammāñāṇan”ti vuccati, tena samannāgatā puggalā sammāñāṇī. micchāvimuttīti avimuttāyeva samānā “vimuttā mayan”ti evaṃsaññino, avimuttiyaṃ vā vimuttisaññino. tatrāyaṃ vacanattho, micchā pāpikā viparītā vimutti etesaṃ atthīti micchāvimuttī. micchāvimuttīti ca yathāvuttenākārena pavattānaṃ akusalakkhandhānametaṃ adhivacanaṃ. phalasampayuttāni pana sammādiṭṭhiādīni aṭṭhaṅgāni ṭhapetvā sesadhammā sammāvimuttīti veditabbā. sā ca micchāvimuttiṃ sallikhitvā ṭhitattā sallekhoti veditabbā. tattha niyojento āha “mayamettha sammāvimuttī bhavissāmāti sallekho karaṇīyo”ti.

♦ ito parāni tīṇi nīvaraṇavasena vuttāni. abhijjhālū byāpannacittāti evaṃ kammapathesu vuttattā panettha paṭhamāni dve nīvaraṇāni na vuttānīti veditabbāni. tattha thinamiddhena pariyuṭṭhitā abhibhūtāti thinamiddhapariyuṭṭhitā. uddhaccena samannāgatāti uddhatā. vicinantā kicchanti na sakkonti sanniṭṭhānaṃ kātunti vicikicchī. kodhanātiādīni dasa cittassa upakkilesavasena vuttāni. tattha kodhādīsu yaṃ vattabbaṃ siyā, taṃ sabbaṃ dhammadāyādavatthasuttesu vuttaṃ. ayaṃ panettha vacanattho — kodhanāti kujjhanasīlā. upanāhīti upanāhanasīlā, upanāho vā etesaṃ atthīti upanāhī. tathā makkhī palāsī ca. issantīti issukī. maccharāyantīti maccharī, maccheraṃ vā etesaṃ atthīti maccharī. saṭhayantīti saṭhā, na sammā bhāsantīti vuttaṃ hoti, kerāṭikayuttānametaṃ adhivacanaṃ. māyā etesaṃ atthīti māyāvī. thambhasamaṅgitāya thaddhā. atimānayogena atimānī. vuttapaccanīkanayena sukkapakkho veditabbo.

♦ dubbacāti vattuṃ dukkhā kiñci vuccamānā na sahanti. tabbiparītā suvacā. devadattādisadisā pāpakā mittā etesanti pāpamittā. buddhā vā sāriputtādisadisā vā kalyāṇā mittā etesanti kalyāṇamittā. kāyaduccaritādīsu cittavossaggavasena pamattā. viparītā appamattāti veditabbā. imāni tīṇi pakiṇṇakavasena vuttāni. assaddhātiādīni satta asaddhammavasena. tattha tīsu vatthūsu saddhā etesaṃ natthīti assaddhā. sukkapakkhe saddahantīti saddhā, saddhā vā etesaṃ atthītipi saddhā. natthi etesaṃ hirīti ahirikā, akusalasamāpattiyā ajigucchamānānametaṃ adhivacanaṃ. hirī etesaṃ mane, hiriyā vā yuttamanāti hirimanā. na ottappantīti anottappī, akusalasamāpattiyā na bhāyantīti vuttaṃ hoti. tabbiparītā ottappī. appaṃ sutametesanti appassutā, appanti ca thokanti na gahetabbaṃ, natthīti gahetabbaṃ. “appassutā”ti hi nissutā sutavirahitā vuccanti. bahu sutametesanti bahussutā, tathāgatabhāsitaṃ ekampi gāthaṃ yāthāvato ñatvā anurūpapaṭipannānametaṃ adhivacanaṃ. kucchitā sīdantīti kusītā, hīnavīriyānametaṃ adhivacanaṃ. āraddhaṃ vīriyametesanti āraddhavīriyā, sammappadhānayuttānametaṃ adhivacanaṃ, muṭṭhā sati etesanti muṭṭhassatī, naṭṭhassatīti vuttaṃ hoti. upaṭṭhitā sati etesanti upaṭṭhitassatī, niccaṃ ārammaṇābhimukhappavattasatīnametaṃ adhivacanaṃ. duṭṭhā paññā etesanti duppaññā, naṭṭhapaññāti vuttaṃ hoti. paññāya sampannāti paññāsampannā, paññāti ca idha vipassanāpaññā veditabbā. vipassanāsambhāro hi paripūro imasmiṃ ṭhāne āgato, tasmā vipassanāpaññāva ayanti porāṇānaṃ āṇā.

♦ idāni ekameva lokuttaraguṇānaṃ antarāyakaraṃ aniyyānikadiṭṭhiṃ tīhākārehi dassento sandiṭṭhiparāmāsītiādimāha. tattha sandiṭṭhiṃ parāmasantīti sandiṭṭhiparāmāsī. ādhānaṃ gaṇhantīti ādhānaggāhī, ādhānanti daḷhaṃ vuccati, daḷhaggāhīti attho. yuttakāraṇaṃ disvāva laddhiṃ paṭinissajjantīti paṭinissaggī, dukkhena kicchena kasirena bahumpi kāraṇaṃ dassetvā na sakkā paṭinissaggaṃ kātunti duppaṭinissaggī, ye attano uppannaṃ diṭṭhiṃ idameva saccanti daḷhaṃ gaṇhitvā api buddhādīhi kāraṇaṃ dassetvā vuccamānā na paṭinissajjanti, tesametaṃ adhivacanaṃ. tādisā hi puggalā yaṃ yadeva dhammaṃ vā adhammaṃ vā gaṇhanti, taṃ sabbaṃ “evaṃ amhākaṃ ācariyehi kathitaṃ, evaṃ amhehi sutan”ti kummova aṅgāni sake kapāle antoyeva samodahanti, kumbhīlaggāhaṃ gaṇhanti na vissajjanti. vuttavipariyāyena sukkapakkho veditabbo.

♦ 84. evaṃ catucattālīsāya ākārehi sallekhaṃ dassetvā idāni tasmiṃ sallekhe cittuppādassāpi bahūpakārataṃ dassetuṃ cittuppādampi kho ahantiādimāha.

♦ tassattho, ahaṃ, cunda, kusalesu dhammesu cittuppādampi bahūpakāraṃ vadāmi, yā panetā kāyena ca vācāya ca anuvidhiyanā, yathā paṭhamaṃ cittaṃ uppannaṃ, tatheva tesaṃ dhammānaṃ kāyena karaṇaṃ, vācāya ca “karothā”ti āṇāpanaṃ vā, uggahaparipucchādīni vā, tattha vādoyeva ko, ekantabahūpakārāyeva hi tā anuvidhiyanāti dasseti. kasmā panettha cittuppādopi bahūpakāroti? ekantahitasukhāvahattā anuvidhiyanānaṃ hetuttā ca.

♦ “dānaṃ dassāmī”ti hi cittuppādo sayampi ekantahitasukhāvaho anuvidhiyanānampi hetu, evañhi uppannacittattāyeva dutiyadivase mahāvīthiṃ pidahitvā mahāmaṇḍapaṃ katvā bhikkhusatassa vā bhikkhusahassassa vā dānaṃ deti, “bhikkhusaṅghaṃ nimantetha pūjetha parivisathā”ti parijane āṇāpeti. evaṃ “saṅghassa cīvaraṃ senāsanaṃ bhesajjaṃ dassāmī”ti cittuppādo sayampi ekantahitasukhāvaho anuvidhiyanānampi hetu, evaṃ uppannacittattāyeva hi cīvarādīni abhisaṅkharoti deti dāpeti ca. esa nayo saraṇagamanādīsu.

♦ “saraṇaṃ gacchāmī”ti hi cittaṃ uppādetvāva pacchā kāyena vā vācāya vā saraṇaṃ gaṇhāti. tathā “pañcaṅgaṃ aṭṭhaṅgaṃ dasaṅgaṃ vā sīlaṃ samādiyissāmī”ti cittaṃ uppādetvā kāyena vā vācāya vā samādiyati, “pabbajitvā catūsu sīlesu patiṭṭhahissāmī”ti ca cittaṃ uppādetvā kāyena vācāya ca pūretabbaṃ sīlaṃ pūreti. “buddhavacanaṃ uggahessāmī”ti cittaṃ uppādetvāva ekaṃ vā nikāyaṃ dve vā tayo vā cattāro vā pañca vā nikāye vācāya uggaṇhāti. evaṃ dhutaṅgasamādāna-kammaṭṭhānuggaha-kasiṇaparikamma-jhānasamāpattivipassanāmaggaphala- paccekabodhi-sammāsambodhivasena netabbaṃ.

♦ “buddho bhavissāmī”ti hi cittuppādo sayampi ekantahitasukhāvaho anuvidhiyanānampi hetu, evañhi uppannacittattāyeva aparena samayena kappasatasahassādhikāni cattāri asaṅkheyyāni kāyena vācāya ca pāramiyo pūretvā sadevakaṃ lokaṃ tārento vicarati. evaṃ sabbattha cittuppādopi bahūpakāro. kāyavācāhi pana anuvidhiyanā atibahūpakārāyevāti veditabbā.

♦ evaṃ kusalesu dhammesu cittuppādassāpi bahūpakārataṃ dassetvā idāni tattha niyojento “tasmā tiha cundā”tiādimāha. taṃ atthato pākaṭameva.

♦ 85. evaṃ catucattālīsāya ākārehi dassite sallekhe cittuppādassāpi bahūpakārataṃ dassetvā idāni tasseva sallekhassa hitādhigamāya maggabhāvaṃ dassento seyyathāpītiādimāha.

♦ tassattho, yathā nāma, cunda, khāṇukaṇṭakapāsāṇādīhi visamo maggo bhaveyya, tassa parikkamanāya parivajjanatthāya añño suparikammakato viya bhūmibhāgo samo maggo bhaveyya, yathā ca rukkhamūlapāsāṇapapātakumbhīlamakarādi paribyākulaṃ visamaṃ titthamassa, tassa parikkamanāya parivajjanatthāya aññaṃ avisamaṃ anupubbagambhīraṃ sopānaphalakasadisaṃ titthaṃ bhaveyya, yaṃ paṭipanno sukheneva taṃ nadiṃ vā taḷākaṃ vā ajjhogāhetvā nhāyeyya vā uttareyya vā, evameva kho, cunda, visamamaggavisamatitthasadisāya vihiṃsāya samannāgatassa vihiṃsakapuggalassa samamaggasamatitthasadisā avihiṃsā hoti parikkamanāya. yatheva hi visamamaggatitthaparivajjanatthāya samo maggo ca titthañca paṭiyattaṃ, evaṃ vihiṃsāparivajjanatthāya avihiṃsā paṭiyattā, yaṃ paṭipanno sukheneva manussagatiṃ vā devagatiṃ vā ajjhogāhetvā sampattiṃ vā anubhaveyya uttareyya vā lokā. eteneva upāyena sabbapadāni yojetabbāni.

♦ 86. evaṃ tasseva hitādhigamāya maggabhāvaṃ dassetvā idāni uparibhāgaṅgamanīyataṃ dassento, seyyathāpītiādimāha.

♦ tassattho, yathā nāma, cunda, ye keci akusalā dhammā paṭisandhiyā janakā vā ajanakā vā, dinnāyapi paṭisandhiyā vipākajanakā vā ajanakā vā, sabbe te jātivasena adhobhāgaṅgamanīyāti evaṃnāmāva honti, vipākakāle aniṭṭhākantavipākattā. yathā ca ye keci kusalā dhammā paṭisandhiyā janakā vā ajanakā vā dinnāyapi paṭisandhiyā vipākajanakā vā ajanakā vā, sabbe te jātivasena uparibhāgaṅgamanīyāti evaṃnāmāva honti, vipākakāle iṭṭhakantavipākattā, evameva kho, cunda, vihiṃsakassa … pe … uparibhāgāyāti. tatrāyaṃ opammasaṃsandanā — yathā sabbe akusalā adhobhāgaṅgamanīyā, evaṃ vihiṃsakassa ekā vihiṃsāpi. yathā ca sabbe kusalā uparibhāgaṅgamanīyā, evaṃ avihiṃsakassa ekā avihiṃsāpi. eteneva upāyena akusalaṃ akusalena kusalañca kusalena upametabbaṃ, ayaṃ kirettha adhippāyoti.

♦ 87. evaṃ tasseva sallekhassa uparibhāgaṅgamanīyataṃ dassetvā idāni parinibbāpane samatthabhāvaṃ dassetuṃ so vata cundātiādimāha. tattha soti vuttappakārapuggalaniddeso. tassa yoti imaṃ uddesavacanaṃ āharitvā yo attanā palipapalipanno, so vata, cunda, paraṃ palipapalipannaṃ uddharissatīti evaṃ sabbapadesu sambandho veditabbo. palipapalipannoti gambhīrakaddame nimuggo vuccati, no ca kho ariyassa vinaye. ariyassa pana vinaye palipanti pañca kāmaguṇā vuccanti. palipannoti tattha nimuggo bālaputhujjano, tasmā evamettha atthayojanā veditabbā. yathā, cunda, koci puriso yāva nāsikaggā gambhīre kaddame nimuggo aparaṃ tattheva nimuggaṃ hatthe vā sīse vā gahetvā uddharissatīti netaṃ ṭhānaṃ vijjati, na hi taṃ kāraṇamatthi, yena so taṃ uddharitvā thale patiṭṭhapeyya, evameva yo attanā pañcakāmaguṇapalipe palipanno, so vata paraṃ tatheva palipapalipannaṃ uddharissatīti netaṃ ṭhānaṃ vijjati.

♦ tattha siyā ayuttametaṃ, puthujjanānampi bhikkhubhikkhunīupāsakaupāsikānaṃ dhammadesanaṃ sutvā hontiyeva dhammaṃ abhisametāro, tasmā palipapalipanno uddharatīti, taṃ na tathā daṭṭhabbaṃ. bhagavāyeva hi tattha uddharati, pasaṃsāmattameva pana dhammakathikā labhanti raññā pahitalekhavācako viya. yathā hi rañño paccantajanapade pahitaṃ lekhaṃ tattha manussā lekhaṃ vācetuṃ ajānantā yo vācetuṃ jānāti, tena vācāpetvā tamatthaṃ sutvā “rañño āṇā”ti ādarena sampādenti, na ca nesaṃ hoti “lekhavācakassa ayaṃ āṇā”ti. lekhavācako pana “vissaṭṭhāya vācāya vācesi anelagaḷāyā”ti pasaṃsāmattameva labhati, evameva kiñcāpi sāriputtapabhutayo dhammakathikā dhammaṃ desenti, atha kho likhitapaṇṇavācako viya te honti. bhagavatoyeva pana sā dhammadesanā rañño āṇā viya. ye ca taṃ sutvā dhammaṃ abhisamenti, te bhagavāyeva uddharatīti veditabbā. dhammakathikā pana “vissaṭṭhāya vācāya dhammaṃ desenti anelagaḷāyā”ti pasaṃsāmattameva labhantīti. tasmā yuttamevetanti. vuttavipariyāyena sukkapakkho veditabbo.

♦ adanto avinīto aparinibbutoti ettha pana anibbisatāya adanto. asikkhitavinayatāya avinīto. anibbutakilesatāya aparinibbutoti veditabbo. so tādiso paraṃ damessati, nibbisaṃ karissati, vinessati vā tisso sikkhā sikkhāpessati, parinibbāpessati vā tassa kilese nibbāpessatīti netaṃ ṭhānaṃ vijjati. vuttavipariyāyena sukkapakkho veditabbo.

♦ evameva kho, cunda, vihiṃsakassa … pe … parinibbānāyāti ettha pana evamattho veditabbo — yathā hi attanā apalipapalipanno paraṃ palipapalipannaṃ uddharissati, danto damessati, vinīto vinessati, parinibbuto parinibbāpessatīti ṭhānametaṃ vijjatīti. kiṃ pana tanti? apalipapalipannattaṃ, dantattaṃ vinītattaṃ parinibbutattañca, evameva kho, cunda, vihiṃsakassa purisapuggalassa avihiṃsā hoti parinibbānāya. kiṃ vuttaṃ hoti? yo attanā avihiṃsako, tassa yā avihiṃsā, ayaṃ yā esā vihiṃsakassa parassa vihiṃsā, tassā parinibbānāya hoti, attanā hi avihiṃsako parassa vihiṃsācetanaṃ nibbāpessatīti ṭhānametaṃ vijjati. kiṃ pana tanti? avihiṃsakattameva. yañhi yena attanā adhigataṃ hoti, so paraṃ tadatthāya samādapetuṃ sakkotīti.

♦ atha vā yathā attanā apalipanno danto vinīto parinibbuto paraṃ palipapalipannaṃ adantaṃ avinītaṃ aparinibbutañca uddharissati damessati vinessati parinibbāpessatīti ṭhānametaṃ vijjati, evameva vihiṃsakassa purisapuggalassa vihiṃsāpahānāya maggaṃ bhāvayato uppannā avihiṃsā hoti parinibbānāya. parinibbuto viya hi aparinibbutaṃ avihiṃsācetanāva vihiṃsācetanaṃ parinibbāpetuṃ samatthā. etamatthaṃ dassento “evameva kho, cundā”tiādimāhāti evamettha attho daṭṭhabbo. yathā cettha, evaṃ sabbapadesu. ativitthārabhayena pana anupadayojanā na katāti.

♦ 88. evaṃ tassa parinibbāpane samatthabhāvaṃ dassetvā idāni taṃ desanaṃ nigametvā dhammapaṭipattiyaṃ niyojetuṃ iti kho, cundātiādimāha. tattha sallekhapariyāyoti sallekhakāraṇaṃ. esa nayo sabbattha ettha avihiṃsādayo eva vihiṃsādīnaṃ sallekhanato sallekhakāraṇaṃ. tesaṃ vasena cittassa uppādetabbato cittupādakāraṇaṃ, vihiṃsādi, parikkamanassa hetuto parikkamanakāraṇaṃ, uparibhāganipphādanato uparibhāgakāraṇaṃ, vihiṃsādīnaṃ parinibbāpanato parinibbānakāraṇanti veditabbā. hitesināti hitaṃ esantena. anukampakenāti anukampamānena. anukampaṃ upādāyāti anukampaṃ cittena pariggahetvā, pariccātipi vuttaṃ hoti. kataṃ vo taṃ mayāti taṃ mayā ime pañca pariyāye dassentena tumhākaṃ kataṃ. ettakameva hi anukampakassa satthu kiccaṃ, yadidaṃ aviparītadhammadesanā. ito paraṃ pana paṭipatti nāma sāvakānaṃ kiccaṃ. tenāha etāni, cunda, rukkhamūlāni … pe … amhākaṃ anusāsanīti.

♦ tattha ca rukkhamūlānīti iminā rukkhamūlasenāsanaṃ dasseti. suññāgārānīti iminā janavivittaṭṭhānaṃ. ubhayenāpi ca yogānurūpasenāsanamācikkhati, dāyajjaṃ niyyāteti. jhāyathāti ārammaṇūpanijjhānena aṭṭhatiṃsārammaṇāni, lakkhaṇūpanijjhānena ca aniccādito khandhāyatanādīni upanijjhāyatha, samathañca vipassanañca vaḍḍhethāti vuttaṃ hoti. mā pamādatthāti mā pamajjittha. mā pacchā vippaṭisārino ahuvatthāti ye hi pubbe daharakāle, ārogyakāle, sattasappāyādisampattikāle, satthu sammukhībhāvakāle ca yonisomanasikāravirahitā rattindivaṃ maṅgulabhattā hutvā seyyasukhaṃ middhasukhamanubhontā pamajjanti, te pacchā jarākāle, rogakāle, maraṇakāle, vipattikāle, satthu parinibbutakāle ca taṃ pubbe pamādavihāraṃ anussarantā, sappaṭisandhikālakiriyañca bhāriyaṃ sampassamānā vippaṭisārino honti, tumhe pana tādisā mā ahuvatthāti etamatthaṃ dassento āha “mā pacchā vippaṭisārino ahuvatthā”ti. ayaṃ vo amhākaṃ anusāsanīti ayaṃ amhākaṃ santikā “jhāyatha mā pamādatthā”ti tumhākaṃ anusāsanī, ovādoti vuttaṃ hoti.

♦ papañcasūdaniyā majjhimanikāyaṭṭhakathāya

♦ sallekhasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.