Kinh Samanamandikà
(Samanamandikàputta sutta)Xem Chú giải bản dịch tiếng Thái-Việt
260.Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Sāvatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ Viên), tại tinh xá Anāthapindika (Cấp Cô Ðộc).
Lúc bấy giờ du sĩ Uggāhamāna, con của Samaṇamuṇḍikā, trú ở tinh xá của Mallikā tại Ekasālaka, có hàng cây tindukā bao quanh, được xây dựng để tranh luận cùng với đại chúng du sĩ khoảng năm trăm vị.
Rồi thợ mộc Pañcakaṅga vào giữa ngày, đi ra khỏi Sāvatthi để yết kiến Thế Tôn. Thợ mộc Pañcakaṅga suy nghĩ: “Nay không phải thời để yết kiến Thế Tôn, Thế Tôn đang an tịnh Thiền tọa; cũng không phải thời để yết kiến các vị Tỷ-kheo đáng kính đang tu dưỡng tâm ý, các vị Tỷ-kheo đang an tịnh Thiền tọa. Ta hãy đi đến tinh xá của Mallikā, tại Ekasālaka, có hàng cây tindukā bao quanh, được xây dựng để tranh luận, đi đến du sĩ Uggāhamāna, con của Samaṇamuṇḍikā”. Rồi thợ mộc Pañcakaṅga đi đến tinh xá của Mallikā, tại Ekasālaka, có hàng cây tindukā bao quanh, được xây dựng để tranh luận.
Lúc bấy giờ du sĩ Uggāhamāna, con của Samaṇamuṇḍikā đang ngồi với đại chúng du sĩ, đang lớn tiếng, cao tiếng, to tiếng, bàn luận nhiều vấn đề phù phiếm như vương luận, tặc luận, đại thần luận, binh luận, bố uý luận, chiến đấu luận, thực luận, ẩm luận, y luận, sàng luận, hoa man luận, hương liệu luận, thân tộc luận, xa thừa luận, thôn luận, trấn luận, thị luận, quốc độ luận, phụ nữ luận, anh hùng luận, câu chuyện bên lề đường, câu chuyện tại chỗ lấy nước, câu chuyện về người đã chết, tạp thoại luận, thế giới luận, hải dương luận, hiện hữu, vô biên hữu luận. Du sĩ Uggāhamāna, con của Samaṇamuṇḍikā thấy thợ mộc Pañcakaṅga từ xa đi đến, thấy vậy liền khuyến cáo chúng của mình:
— Các Tôn giả hãy nhỏ tiếng! Các Tôn giả hãy lặng tiếng! Nay thợ mộc Pañcakaṅga, đệ tử của Sa-môn Gotama đang đến. Khi nào các đệ tử gia chủ mặc áo trắng của Sa-môn Gotama trú ở Sāvatthi, thời thợ mộc Pañcakaṅga là một trong những vị ấy. Các vị Tôn giả ấy ưa mến an tịnh, được tu tập về an tịnh, tán thán an tịnh, nếu biết chúng này an tịnh, có thể ghé tại đây. Rồi các du sĩ ấy đều im lặng.
261. Thợ mộc Pañcakaṅga đi đến du sĩ Uggāhamāna, con của Samaṇamuṇḍikā; sau khi đến, nói lên những lời chào đón hỏi thăm với du sĩ Uggāhamāna, con của Samaṇamuṇḍikā; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên. Du sĩ Uggāhamāna nói với thợ mộc Pañcakaṅga đang ngồi một bên:
— Này Thợ mộc, ta chủ trương rằng một người thành tựu bốn pháp, người ấy sẽ được thiện cụ túc, thiện tối thắng, là bậc Sa-môn thành đạt tối thượng, vô năng thắng. Thế nào là bốn? Ở đây, này Thợ mộc, không làm ác nghiệp về thân, không nói lời ác, không tư duy ác tư duy, không sinh sống (bằng) nếp sống ác. Này Thợ mộc, ta chủ trương rằng một người nào thành tựu bốn pháp này, người ấy sẽ được thiện cụ túc, thiện tối thắng, là Sa-môn thành đạt tối thượng, vô năng thắng.
Rồi thợ mộc Pañcakaṅga không hoan hỷ, không kích bác lời nói của du sĩ Uggāhamāna, con của Samaṇamuṇḍikā; không hoan hỷ, không kích bác, từ chỗ ngồi đứng dậy ra đi, với ý nghĩ: “Từ Thế Tôn, ta sẽ biết ý nghĩa lời nói này”. Rồi thợ mộc Pañcakaṅga đến chỗ Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, thợ mộc Pañcakaṅga thưa lại với Thế Tôn tất cả câu chuyện giữa mình với du sĩ Uggāhamāna, con của Samaṇamuṇḍikā.
262. Khi nghe nói vậy, Thế Tôn nói với thợ mộc Pañcakaṅga:
— Nếu sự tình là như vậy thời một đứa con nít còn bé nhỏ, vô trí, nằm ngửa sẽ được thiện cụ túc, thiện tối thắng, là bậc Sa-môn, thành đạt tối thượng, là bậc vô năng thắng đúng như lời du sĩ Uggāhamāna, con của Samaṇamuṇḍikā. Này Thợ mộc, đối với đứa con nít nhỏ bé, vô trí, nằm ngửa, không có nghĩ: “Ðây là thân”, từ đâu nó có thể làm ác nghiệp về thân, trừ ra chỉ biết quơ tay quơ chân? Này Thợ mộc, đối với đứa con nít, nhỏ bé, vô trí, nằm ngửa, không có nghĩ: “Ðây là lời nói”, từ đâu nó có thể làm ác nghiệp về lời nói, trừ ra chỉ biết khóc? Này Thợ mộc, đối với đứa con nít, nhỏ bé, vô trí, nằm ngửa, không có nghĩ: “Ðây là tư duy”, từ đâu nó có thể tư duy ác tư duy, trừ ra chỉ biết bập bẹ? Này Thợ mộc, đối với đứa con nít, nhỏ bé, vô trí, nằm ngửa, không có nghĩ: “Ðây là nghề sinh sống”, từ đâu nó có thể sinh sống bằng nếp sống ác, trừ ra chỉ biết bú sữa mẹ? Nếu sự tình là vậy này Thợ mộc, thời một đứa con nít còn bé nhỏ, vô trí, nằm ngửa, sẽ được thiện cụ túc, thiện tối thắng, là bậc Sa-môn thành đạt tối thượng, vô năng thắng, đúng như lời du sĩ Uggāhamāna, con của Samaṇamuṇḍikā.
263. Này Thợ mộc, Ta chủ trương rằng một người thành tựu bốn pháp, người ấy sẽ không được thiện cụ túc, thiện tối thắng, không là bậc Sa-môn thành đạt tối thượng, vô năng thắng, và điều này còn vượt trội hơn cả đứa trẻ con nằm ngửa kia. Thế nào là bốn? Ở đây, này Thợ mộc, không làm ác nghiệp về thân, không nói lời ác ngữ, không tư duy ác tư duy, không sinh sống (bằng) nếp sống ác. Này Thợ mộc, Ta chủ trương rằng một người thành tựu bốn pháp này, người ấy sẽ không được thiện cụ túc, thiện tối thắng, không là bậc Sa-môn thành đạt tối thượng, vô năng thắng.
“Này thợ mộc, Ta tuyên bố rằng người nào thành tựu mười pháp là người thiện cụ túc, thiện tối thắng, là bậc Sa-môn đạt đến tối thượng, không ai có thể thắng được.
[Về giới bất thiện]
- Ta nói, này thợ mộc, đây là những giới bất thiện cần được hiểu.
- Ta nói, này thợ mộc, những giới bất thiện này có nguồn gốt từ đây cần được hiểu.
- Ta nói, này thợ mộc, ở đây những giới bất thiện được đoạn diệt hoàn toàn cần được hiểu.
- Ta nói, này thợ mộc, thực hành như vậy là con đường đưa đến đoạn diệt các giới bất thiện cần được hiểu.
[Về giới thiện]
- Ta nói, này thợ mộc, đây là những giới thiện cần được hiểu.
- Ta nói, này thợ mộc, những giới thiện này có nguồn gốc từ đây cần được hiểu.
- Ta nói, này thợ mộc, ở đây những giới thiện được đoạn diệt hoàn toàn cần được hiểu.
- Ta nói, này thợ mộc, thực hành như vậy là con đường đưa đến đoạn diệt các giới thiện cần được hiểu.
[Về tư duy bất thiện]
- Ta nói, này thợ mộc, đây là những tư duy bất thiện cần được hiểu.
- Ta nói, này thợ mộc, những tư duy bất thiện này có nguồn gốc từ đây cần được hiểu.
- Ta nói, này thợ mộc, ở đây những tư duy bất thiện được đoạn diệt hoàn toàn cần được hiểu.
- Ta nói, này thợ mộc, thực hành như vậy là con đường đưa đến đoạn diệt các tư duy bất thiện cần được hiểu.
[Về tư duy thiện]
- Ta nói, này thợ mộc, đây là những tư duy thiện cần được hiểu.
- Ta nói, này thợ mộc, những tư duy thiện này có nguồn gốc từ đây cần được hiểu.
- Ta nói, này thợ mộc, ở đây những tư duy thiện được đoạn diệt hoàn toàn cần được hiểu.
- Ta nói, này thợ mộc, thực hành như vậy là con đường đưa đến đoạn diệt các tư duy thiện cần được hiểu.”
264. Và này Thợ mộc, thế nào là bất thiện giới? Thân nghiệp bất thiện, khẩu nghiệp bất thiện, nếp sống ác. Những pháp này, này Thợ mộc, được gọi là bất thiện giới.
Và này Thợ mộc, những bất thiện giới này sanh khởi như thế nào? Sự sanh khởi của chúng cũng được nói đến, cần phải trả lời từ tâm sanh khởi. Thế nào là tâm? Tâm có nhiều loại, đa chủng, sai biệt. Tâm có tham, có sân, có si, từ đây những bất thiện giới sanh khởi.
Và này Thợ mộc, những bất thiện giới này từ đâu được trừ diệt, không có dư tàn? Sự trừ diệt của chúng cũng được nói đến. Ở đây, này Thợ mộc, một Tỷ-kheo, sau khi đoạn trừ thân ác hạnh, tu tập thân thiện hạnh; sau khi đoạn trừ khẩu ác hạnh, tu tập khẩu thiện hạnh; sau khi đoạn trừ ý ác hạnh, tu tập ý thiện hạnh; sau khi đoạn trừ nếp sống ác sinh sống với nếp sống chánh. Ở đây, những bất thiện giới ấy được trừ diệt không có tàn dư.
Thực hành như thế nào, này Thợ mộc, là sự thực hành đưa đến diệt trừ các bất thiện giới? Ở đây, này Thợ mộc, vị Tỷ-kheo khởi lên ý muốn, nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm, chuyên cần; khiến cho các ác, bất thiện pháp từ trước chưa sanh không được sanh khởi; khởi lên ý muốn nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm, chuyên cần khiến cho các ác, bất thiện pháp đã sanh được trừ diệt; khởi lên ý muốn nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm, chuyên cần khiến cho các thiện pháp chưa sanh nay được sanh khởi; khởi lên ý muốn nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm, chuyên cần khiến cho các thiện pháp đã sanh có thể duy trì, không quên lãng, được tăng trưởng, được quảng đại, được tu tập, được viên mãn. Sự thực hành như vậy, này Thợ mộc, là sự thực hành đưa đến diệt trừ các bất thiện giới.
265. Và này Thợ mộc, thế nào là thiện giới? Thân nghiệp thiện, khẩu nghiệp thiện, nếp sống thanh tịnh mạng; những pháp này, này Thợ mộc, được gọi là thiện giới.
Và này Thợ mộc, những thiện giới này sanh khởi như thế nào? Sự sanh khởi của chúng cũng được nói đến, cần phải trả lời là tự tâm sinh khởi. Thế nào là tâm? Tâm có nhiều loại, đa chủng, sai biệt. Tâm không tham, không sân, không si, từ đây những thiện giới sanh khởi.
Và này Thợ mộc, những thiện giới này từ đâu được trừ diệt, không có dư tàn? Sự trừ diệt của chúng cũng được nói đến. Ở đây, vị Tỷ-kheo có giới hạnh, không lấy giới làm tự ngã (silamayo), và vị này như thật tuệ tri tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Ở đây, những thiện giới ấy được trừ diệt, không có dư tàn.
Thực hành như thế nào, này Thợ mộc, là sự thực hành đưa đến trừ diệt các thiện giới? Ở đây, này Thợ mộc, vị Tỷ-kheo khởi lên ý muốn, nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm, chuyên cần, khiến cho các ác, bất thiện pháp, chưa sanh không được sanh khởi; khiến cho các ác, bất thiện pháp đã sanh được trừ diệt; khiến cho các thiện pháp chưa sanh nay được sanh khởi; khởi lên ý muốn nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm, chuyên cần, khiến cho các thiện pháp đã sanh có thể duy trì, không quên lãng, được tăng trưởng, được quảng đại, được tu tập, được viên mãn. Sự thực hành như vậy là sự thực hành đưa đến diệt trừ các thiện giới.
266. Và này Thợ mộc, thế nào là bất thiện tư duy? Dục tư duy, sân tư duy, hại tư duy. Những pháp này, này Thợ mộc, được gọi là bất thiện tư duy.
Và này Thợ mộc, những bất thiện tư duy này sanh khởi như thế nào? Sự sanh khởi của chúng cũng được nói đến. Cần phải trả lời là từ tưởng sanh khởi. Thế nào là tưởng? Tưởng có nhiều loại, đa chủng, sai biệt: dục tưởng, sân tưởng, hại tưởng, từ đấy những bất thiện tư duy sanh khởi.
Và này Thợ mộc, những bất thiện tư duy này từ đâu được trừ diệt, không có dư tàn? Sự trừ diệt của chúng cũng được nói đến. Ở đây, này Thợ mộc, vị Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm, với tứ. Ở đây, những bất thiện tư duy được trừ diệt, không có dư tàn.
Và sự thực hành như thế nào, này Thợ mộc, là sự thực hành đưa đến diệt trừ các bất thiện tư duy? Ở đây, vị Tỷ-kheo khởi lên ý muốn nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm, chuyên cần khiến cho các ác, bất thiện pháp chưa sanh không được sanh khởi… khiến cho các ác, bất thiện pháp đã sanh được trừ diệt; khiến cho các thiện pháp chưa sanh nay được sanh khởi; khởi lên ý muốn nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm, chuyên cần; khiến cho các thiện pháp đã sanh có thể duy trì, không quên lãng, được tăng trưởng, được quảng đại, được tu tập, được viên mãn. Sự thực hành như vậy là sự thực hành đưa đến diệt trừ các bất thiện tư duy.
267. Này Thợ mộc, thế nào là thiện tư duy? Ly dục tư duy, vô sân tư duy, bất hại tư duy; những pháp này, này Thợ mộc, được gọi là thiện tư duy.
Và này Thợ mộc, những thiện tư duy này sanh khởi như thế nào? Sự sanh khởi của chúng cũng được nói đến. Cần phải trả lời là từ tưởng sanh khởi. Thế nào là tưởng? Tưởng có nhiều loại, đa chủng, sai biệt: ly dục tưởng, vô sân tưởng, bất hại tưởng, từ đấy sanh khởi là những thiện tư duy.
Và này Thợ mộc, những thiện tư duy này từ đâu được diệt, không có dư tàn? Sự trừ diệt của chúng cũng được nói đến. Ở đây, này Thợ mộc, vị Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Ở đây, những thiện tư duy ấy được trừ diệt không có dư tàn.
Và sự thực hành như thế nào, này Thợ mộc, là sự thực hành đưa đến diệt trừ các thiện tư duy? Ở đây, Tỷ-kheo khởi lên ý muốn nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm, chuyên cần khiến cho các ác, bất thiện pháp chưa sanh không có sanh khởi… ; khiến cho các ác, bất thiện pháp đã sanh được trừ diệt… ; khiến cho các thiện pháp chưa sanh nay được sanh khởi; khởi lên ý muốn nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm, chuyên cần, khiến cho các thiện pháp đã sanh, có thể duy trì, không quên lãng, được tăng trưởng, được quảng đại, được tu tập, được viên mãn. Sự thực hành như vậy là sự thực hành đưa đến diệt trừ các thiện tư duy.
268.Này Thợ mộc, với mười pháp nào mà Ta tuyên bố rằng một người thành tựu những pháp ấy là người đã thành tựu thiện pháp, đạt thiện pháp tối thượng, là bậc Sa-môn đã đạt đến điều tối thượng, không thể bị khuất phục? Ở đây, này Thợ mộc, vị Tỷ-kheo:
thành tựu vô học chánh kiến,
thành tựu vô học chánh tư duy,
thành tựu vô học chánh ngữ,
thành tựu vô học chánh nghiệp,
thành tựu vô học chánh mạng,
thành tựu vô học chánh tinh tấn,
thành tựu vô học chánh niệm,
thành tựu vô học chánh định,
thành tựu vô học chánh trí,
thành tựu vô học chánh giải thoát.
Này Thợ mộc, với mười pháp này, Ta tuyên bố rằng một người thành tựu những pháp ấy là người đã thành tựu thiện pháp, đạt thiện pháp tối thượng, là bậc Sa-môn đã đạt đến điều tối thượng, không thể bị khuất phục.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Thợ mộc Pañcakaṅga hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Chịu trách nhiệm nội dung hiệu đính: TK. Sudhīro)