Kinh số 20 – Giải Thích Kinh An trú tầm
(Vitakkasaṇṭhānasuttavaṇṇanā)
STT |
Pāḷi |
Việt |
1 |
♦ 216. evaṃ me sutanti vitakkasaṇṭhānasuttaṃ. tattha adhicittamanuyuttenāti dasakusalakammapathavasena uppannaṃ cittaṃ cittameva, vipassanāpādakāṭṭhasamāpatticittaṃ tato cittato adhikaṃ cittanti adhicittaṃ. anuyuttenāti taṃ adhicittaṃ anuyuttena, tattha yuttappayuttenāti attho. |
[(Điều đó) được nghe bởi tôi như vầy – evaṃ me sutaṃ] – (chỉ đến) bài kinh Vitakkasaṇṭhānasutta. Ở đoạn kinh đó, [(bởi vị Tỳ Kheo) rèn luyện thắng tâm – adhicittamanuyuttena] tức: tâm sinh lên do 10 con đường thiện nghiệp chỉ là tâm (thông thường). Tâm thuộc tầng định – là nền tảng cho Vipassanā – là tâm cao cấp hơn tâm đó; (cho nên được gọi là) [thắng tâm – adhicitta]. [(Bởi vị Tỳ Kheo) rèn luyện – anuyuttena] tức: (bởi vị Tỳ Kheo) rèn luyện thắng tâm đó; (bởi vị Tỳ Kheo) gắn bó với (thắng tâm) đó, thực hành (thắng tâm) đó. Ý nghĩa là như vậy. |
2 |
♦ tatrāyaṃ bhikkhu purebhattaṃ piṇḍāya caritvā pacchābhattaṃ piṇḍapātappaṭikkanto nisīdanaṃ ādāya asukasmiṃ rukkhamūle vā vanasaṇḍe vā pabbatapāde vā pabbhāre vā samaṇadhammaṃ karissāmīti nikkhamantopi, tattha gantvā hatthehi vā pādehi vā nisajjaṭṭhānato tiṇapaṇṇāni apanentopi adhicittaṃ anuyuttoyeva. nisīditvā pana hatthapāde dhovitvā pallaṅkaṃ ābhujitvā mūlakammaṭṭhānaṃ gahetvā viharantopi adhicittaṃ anuyuttoyeva. |
Ở đoạn kinh đó, vị Tỳ-Kheo ấy đi khất thực trước buổi ăn; sau buổi ăn, (vị ấy) trở về sau khi khất thực, lấy toạ cụ và ra đi (với suy nghĩ rằng) ‘Ta sẽ thực hành Sa Môn Pháp tại gốc cây, khu rừng, chân núi hay triền dốc ấy’; (vị ấy) đi tới chỗ đó và dọn bỏ cỏ lá khỏi chỗ ngồi bằng tay chân mình; rồi rèn luyện thắng tâm. Thế rồi, vị ấy ngồi xuống; rửa tay chân; ngồi kiết già; nắm bắt đề mục thiền căn bản rồi rèn luyện thắng tâm. |
3 |
♦ nimittānīti kāraṇāni. kālena kālanti samaye samaye. na nu ca kammaṭṭhānaṃ nāma muhuttampi achaḍḍetvā nirantaraṃ manasikātabbaṃ, kasmā bhagavā “kālena kālan”ti āhāti. pāḷiyañhi aṭṭhatiṃsa kammaṭṭhānāni vibhattāni, tesu bhikkhunā attano cittarucitaṃ kammaṭṭhānaṃ gahetvā nisinnena yāva kocideva upakkileso nuppajjati, tāva imesaṃ nimittānaṃ manasikārakiccaṃ natthi. yadā pana uppajjati, tadā imāni gahetvā citte uppannaṃ abbudaṃ nīharitabbanti dassento evamāha. |
[Các tướng – nimitta] (chỉ đến) [các nguyên nhân – kāraṇa]. [Lần này đến lần khác – kālena kālaṃ] tức: [lúc này đến lúc khác – samaye samaye]. Chẳng phải đề mục thiền nên được tác ý không ngừng; (không nên) bị từ bỏ dẫu trong phút chốc hay sao? Vì sao Đức Thế Tôn lại nói (cụm từ) ‘lần này đến lần khác’? Bởi vì 38 đề mục thiền đã được phân loại trong kinh điển. Trong khi vị Tỳ Kheo ngồi xuống nắm bắt một đề mục thiền nào đó hợp với tâm của mình trong số các (đề mục thiền) đó; cho đến khi nào, bất kỳ một phiền não nào cũng không sinh lên (cho vị ấy); thì cho đến khi đó, (vị ấy) không cần tác ý đến các tướng đó. Nhưng khi nào phiền não sinh lên; thì khi đó, (vị ấy) nắm bắt (các tướng) đó, ô uế đã sinh lên trong tâm sẽ được loại trừ. (Đức Thế Tôn) đã nói như vậy để trình bày (điều đó). |
4 |
♦ chandūpasaṃhitāti chandasahagatā rāgasampayuttā. imesaṃ pana tiṇṇaṃ vitakkānaṃ khettañca ārammaṇañca jānitabbaṃ. tattha chandūpasañhitānaṃ aṭṭha lobhasahagatacittāni khettaṃ, dosūpasañhitānaṃ dve domanassasahagatāni, mohūpasañhitānaṃ dvādasapi akusalacittāni. vicikicchāuddhaccasampayuttacittāni pana dve etesaṃ pāṭipuggalikaṃ khettaṃ. sabbesampi sattā ceva saṅkhārā ca ārammaṇaṃ, iṭṭhāniṭṭhāsamapekkhitesu hi sattesu ca saṅkhāresu ca te uppajjanti. aññampi nimittaṃ manasikātabbaṃ kusalūpasaṃhitanti tato nimittato aññaṃ kusalanissitaṃ nimittaṃ manasikātabbaṃ. tattha aññaṃ nimittaṃ nāma chandūpasañhite vitakke sattesu uppanne asubhabhāvanā aññaṃ nimittaṃ nāma. saṅkhāresu uppanne aniccamanasikāro aññaṃ nimittaṃ nāma. dosūpasañhite sattesu uppanne mettābhāvanā aññaṃ nimittaṃ nāma. saṅkhāresu uppanne dhātumanasikāro aññaṃ nimittaṃ nāma. mohūpasañhite yattha katthaci uppanne pañcadhammūpanissayo aññaṃ nimittaṃ nāma. |
[Liên hệ với dục – chandūpasaṃhitā] tức: [đi kèm với dục – chandasahagata]; [liên kết với luyến ái – rāgasampayutta]. Thế nhưng, [phạm vi – khetta] và [đối tượng – ārammaṇa] của 3 loại tư duy này nên được biết đến. Trong chủ đề này, 8 loại tâm đi kèm với tham là phạm vi của (các tư duy) liên hệ với dục. 2 loại tâm đi kèm với ưu là phạm vi của (các tư duy) liên hệ với sân. Và 12 loại bất thiện tâm là phạm vi của (các tư duy) liên hệ với si. Còn 2 loại tâm liên kết với hoài nghi, trạo cử là phạm vi riêng biệt của (các tư duy) ấy (các tư duy liên hệ với si). Và chính các chúng sinh cùng các pháp hữu vi là đối tượng của tất cả (các tư duy ấy). Bởi vì khi các chúng sinh hay các pháp hữu vi được nghĩ tưởng đến (theo lối) khả ái hay bất khả ái(i); thì (các tư duy) ấy sinh lên. [Một tướng khác – tức (tướng) liên hệ với thiện – nên được tác ý – aññampi nimittaṃ manasikātabbaṃ], tức: một tướng khác với tướng đó – (tướng khác này) dựa vào thiện – nên được tác ý. Ở đoạn kinh đó, [một tướng khác – aññaṃ nimittaṃ] tức: khi tư duy liên hệ với dục đối với các chúng sinh sinh lên, thì một tướng khác (chỉ đến) sự phát triển bất mỹ (tướng). Khi tư duy liên hệ với dục đối với các pháp hữu vi sinh lên, thì một tướng khác (chỉ đến) tác ý đến vô thường (tưởng). Khi tư duy liên hệ với sân đối với các chúng sinh sinh lên, thì một tướng khác (chỉ đến) sự phát triển từ. Khi tư duy liên hệ với sân đối với các pháp hữu vi sinh lên, thì một tướng khác (chỉ đến) tác ý đến [giới – dhātu]. Khi tư duy liên hệ với si đối với bất kỳ đối tượng nào sinh lên, thì một tướng khác (chỉ đến) sự hỗ trợ từ 5 phương pháp. —– (i) Tức các chúng sinh hay các pháp hữu vi nào đó được (một chúng sinh nào đó) nghĩ tưởng đến rằng: ‘Các chúng sinh này khả ái’, ‘các pháp hữu vi này bất khả ái’… |
5 |
♦ imassa hatthā vā sobhanā pādā vātiādinā nayena hi sattesu lobhe uppanne asubhato upasaṃharitabbaṃ. kimhi sārattosi? kesesu sārattosi. lomesu … pe … muttesu sārattosi. ayaṃ attabhāvo nāma tīhi aṭṭhisatehi ussāpito, navahi nhārusatehi ābaddho, navahi maṃsapesisatehi anulitto, allacammena pariyonaddho, chavirāgena paṭicchanno, navahi vaṇamukhehi navanavutilomakūpasahassehi ca asuci paggharati, kuṇapapūrito, duggandho, jeguccho, paṭikūlo, dvattiṃsakuṇapasañcayo, natthettha sāraṃ vā varaṃ vāti evaṃ asubhato upasaṃharantassa sattesu uppanno lobho pahīyati, tenassa asubhato upasaṃharaṇaṃ aññaṃ nimittaṃ nāma hoti. |
Quả thật, khi tham đối với các chúng sinh sinh lên theo phương thức (cảm nghĩ rằng) ‘Đôi tay hay đôi chân của người này đẹp đẽ’ vân vân, thì (hành giả) nên xử lý theo phương thức bất mỹ tướng – (tự hỏi mình rằng) ‘Ngươi mê say điều gì? Ngươi mê say những sợi tóc chăng? Ngươi mê say những sợi lông chăng?… Ngươi mê say nước tiểu chăng? Cái được gọi là [trạng thái cá nhân – attabhāva] này được chống đỡ bởi 300 khúc xương; được kết nối lại bởi 900 sợi gân; được bao phủ bởi 900 lát thịt; được phủ bởi một lớp da ẩm ướt; được che đậy bởi màu sắc của lớp da ngoài. Chất bất tịnh rỉ ra từ 9 lỗ lở loét(i) và 99.000 lỗ chân lông. (Trạng thái cá nhân đó) đầy thứ ô uế, hôi hám, ghê tởm, gớm ghiếc, là một khối 32 thứ ô uế. Không có cái cốt lõi hay cái tối hảo ở đó.’ Khi (hành giả) xử lý theo phương thức bất mỹ tướng như vậy; thì tham đối với các chúng sinh đã sinh lên được từ bỏ. Do đó, một tướng khác (chỉ đến) sự xử lý theo phương thức bất mỹ tướng của vị ấy. —– (i) Lối nói ẩn dụ về 9 lỗ trên cơ thể, thường xuyên thải ra chất bẩn. |
6 |
♦ pattacīvarādīsu saṅkhāresu lobhe uppanne dvīhākārehi saṅkhāramajjhattataṃ samuṭṭhāpetīti satipaṭṭhānavaṇṇanāyaṃ vuttanayena assāmikatāvakālikabhāvavasena manasikaroto so pahīyati. tenassa aniccato manasikāro aññaṃ nimittaṃ nāma hoti. sattesu dose uppanne pana āghātavinayakakacopamovādādīnaṃ vasena mettā bhāvetabbā, taṃ bhāvayato doso pahīyati, tenassa mettābhāvanā aññaṃ nimittaṃ nāma hoti. khāṇukaṇṭakatiṇapaṇṇādīsu pana dose uppanne tvaṃ kassa kuppasi, kiṃ pathavīdhātuyā, udāhu āpodhātuyā, ko vā panāyaṃ kuppati nāma, kiṃ pathavīdhātu udāhu āpodhātūtiādinā nayena dhātumanasikāraṃ karontassa doso pahīyati. tenassa dhātumanasikāro aññaṃ nimittaṃ nāma hoti. |
Tham đối với các pháp hữu vi bị từ bỏ bởi người tác ý theo phương cách là trạng thái vô chủ & trạng thái tạm thời – phương cách đó đã được nói trong phần Giải Thích (tức Chú Giải) về [sự thiết lập niệm – satipaṭṭhāna] – rằng: ‘Khi tham đối với các pháp hữu vi như y, bát vân vân sinh lên; thì (hành giả) khởi lên sự quân bình đối với các pháp hữu vi theo 2 phương thức.’ Do đó, một tướng khác (chỉ đến) tác ý theo phương thức vô thường tướng của vị ấy. Còn khi sân đối với các chúng sinh sinh lên; thì (hành giả) nên phát triển tâm từ dựa vào phương thức như lời dạy về ví dụ cái cưa để loại trừ sự oán giận vân vân. Khi (vị ấy) phát triển tâm từ; sân được từ bỏ (bởi vị ấy). Do đó, một tướng khác (chỉ đến) sự phát triển từ của vị ấy. Nhưng khi sân đối với gốc cây, bụi gai, cỏ, lá vân vân sinh lên; thì (hành giả) nên tác ý đến giới theo phương cách (tự hỏi rằng) ‘Ngươi tức giận cái gì? (Ngươi tức giận) địa giới hay thuỷ giới?’ hay ‘Người nào đó đang tức giận? Địa giới hay thuỷ giới (đang tức giận)?’ Sân bị từ bỏ bởi người tác ý đến giới theo phương cách như vậy. Do đó, một tướng khác (chỉ đến) tác ý đến giới của vị ấy. |
7 |
♦ mohe pana yattha katthaci uppanne — ♦ “garūsaṃvāso uddeso, uddiṭṭhaparipucchanaṃ. ♦ kālena dhammassavanaṃ, ṭhānāṭṭhānavinicchayo. ♦ pañca dhammūpanissāya, mohadhātu pahīyatī”ti. — |
Còn khi si đối với bất kỳ đối tượng nào sinh lên; thì: ‘Việc sống gần các bậc thầy; việc tụng đọc (Giáo Pháp); việc hỏi về điều được tụng đọc; việc Nghe pháp đúng thời; việc phân biệt nguyên do và phi nguyên do; Yếu tố si được từ bỏ nhờ sự hỗ trợ từ 5 phương pháp đó.’ |
8 |
♦ ime pañca dhammā upanissitabbā. garuṃ upanissāya viharanto hi bhikkhu — “ācariyo gāmappavesanaṃ anāpucchantassa pattakāle vattaṃ akarontassa ghaṭasataudakāharaṇādidaṇḍakammaṃ karotī”ti yattappaṭiyatto hoti, athassa moho pahīyati. uddesaṃ gaṇhantopi — “ācariyo uddesakāle uddesaṃ aggaṇhantassa asādhukaṃ sajjhāyantassa ca daṇḍakammaṃ karotī”ti yattappaṭiyatto hoti, evampissa moho pahīyati. garubhāvanīye bhikkhū upasaṃkamitvā “idaṃ bhante kathaṃ imassa ko attho”ti paripucchanto kaṃkhaṃ vinodeti, evampissa moho pahīyati. kālena dhammasavanaṭṭhānaṃ gantvā sakkaccaṃ dhammaṃ suṇantassāpi tesu tesu ṭhānesu attho pākaṭo hoti. evampissa moho pahīyati. idamassa kāraṇaṃ, idaṃ na kāraṇanti ṭhānāṭṭhānavinicchaye cheko hoti, evampissa moho pahīyati. tenassa pañcadhammūpanissayo aññaṃ nimittaṃ nāma hoti. |
5 phương pháp đó nên được dựa vào. Quả thật, nhờ sống nương dựa vào bậc thầy; vị Tỳ Kheo (nghĩ rằng) ‘Khi ta không xin phép việc đi vào làng (mà vẫn cứ đi), không thực hiện nhiệm vụ khi đến giờ; thì giáo thọ sư thi hành hình phạt như (bắt ta) mang nước trong 100 cái bình nước vân vân.’ Vị ấy vô cùng thận trọng (như vậy); si bèn được từ bỏ bởi vị ấy. Khi tiếp thu việc tụng đọc, (vị ấy suy nghĩ rằng) ‘Vào lúc tụng đọc, nếu ta không tiếp thu việc tụng đọc hay tụng đọc không tốt; thì giáo thọ sư thi hành hình phạt (với ta).’ Vị ấy vô cùng thận trọng (như vậy); si cũng được từ bỏ bởi vị ấy như thế. Khi tiếp cận các vị Tỳ Kheo đáng tôn kính rồi; vị ấy hỏi: ‘Bạch ngài! Điều này (được hiểu) như thế nào? Ý nghĩa của điều này là gì?’ và (vị ấy) trừ được hoài nghi. Si cũng được từ bỏ bởi vị ấy như thế. Khi (vị ấy) đi đến nơi nghe Pháp đúng thời, rồi nghe Pháp một cách thấu đáo; thì ý nghĩa về (chủ đề) này (chủ đề) kia trở nên rõ ràng (cho vị ấy). Si cũng được từ bỏ bởi vị ấy như thế. Khi (vị ấy) thành thạo về việc phân biệt nguyên do & phi nguyên do rằng ‘Đây là nguyên nhân của (việc) này; đó không phải là nguyên nhân của (việc) này.’ Si cũng được từ bỏ bởi vị ấy như thế. Do đó, một tướng khác (chỉ đến) sự hỗ trợ cho vị ấy từ 5 phương pháp đó. |
9 |
♦ apica aṭṭhatiṃsāya ārammaṇesu yaṃkiñci bhāventassāpi ime vitakkā pahīyanti eva. imāni pana nimittāni ujuvipaccanīkāni paṭipakkhabhūtāni. imehi pahīnā rāgādayo suppahīnā honti. yathā hi aggiṃ allakaṭṭhehipi paṃsūhipi sākhādīhipi pothetvā nibbāpentiyeva, udakaṃ pana aggissa ujuvipaccanīkaṃ, tena nibbuto sunibbuto hoti, evamimehi nimittehi pahīnā rāgādayo suppahīnā honti. tasmā etāni kathitānīti veditabbāni. |
Và thêm nữa, các tư duy ấy cũng được từ bỏ bởi người phát triển bất kỳ (đề mục thiền) nào trong số 38 đối tượng (tức 38 đề mục thiền). Tuy nhiên, các tướng đó là những (phương cách) đối lập, đối nghịch trực tiếp (với tham, sân, si). Các (tư duy) về luyến ái vân vân được từ bỏ, được buông bỏ nhờ chúng. Quả thật giống như người ta làm lửa tắt bằng cách dập (lửa) bằng gỗ ướt, bằng đất, bằng cành cây vân vân; nhưng nước mới là (yếu tố) đối nghịch trực tiếp với lửa – lửa tắt đi, tắt ngấm nhờ nó (nước). Cũng vậy, nhờ các tướng đó, các (tư duy) về luyến ái vân vân được từ bỏ, được buông bỏ. Do đó, các (tướng) đó nên được hiểu là những gì được (Đức Phật) thuyết giảng (ở đoạn kinh đó). |
10 |
♦ kusalūpasaṃhitanti kusalanissitaṃ kusalassa paccayabhūtaṃ. ajjhattamevāti gocarajjhattaṃyeva. palagaṇḍoti vaḍḍhakī. sukhumāya āṇiyāti yaṃ āṇiṃ nīharitukāmo hoti, tato sukhumatarāya sāradāruāṇiyā. oḷārikaṃ āṇinti candaphalake vā sāraphalake vā ākoṭitaṃ visamāṇiṃ. abhinihaneyyāti muggarena ākoṭento haneyya. abhinīhareyyāti evaṃ abhinihananto phalakato nīhareyya. abhinivaseyyāti idāni bahu nikkhantāti ñatvā hatthena cāletvā nikkaḍḍheyya. tattha phalakaṃ viya cittaṃ, phalake visamāṇī viya akusalavitakkā, sukhumāṇī viya aññaṃ asubhabhāvanādikusalanimittaṃ, sukhumāṇiyā oḷārikāṇinīharaṇaṃ viya asubhabhāvanādīhi kusalanimittehi tesaṃ vitakkānaṃ nīharaṇaṃ. |
[Liên hệ với thiện – kusalūpasaṃhita], tức: [dựa vào thiện – kusalanissita], [làm duyên cho thiện – kusalassa paccayabhūta]. [Ngay bên trong – ajjhattameva], tức: ở ngay phạm vi bên trong. [Thợ mộc – palagaṇḍa], tức: [thợ mộc – vaḍḍhakī]. [Cho cái chốt tinh xảo – sukhumāya āṇiyā], tức: (người ấy) muốn rút cái chốt ấy (cái chốt thô xấu); thì (rút ra) cho cái chốt tinh xảo hơn, cái chốt (được làm) từ gỗ thuộc phần lõi (cây)(i). [Cái chốt thô xấu – oḷārikaṃ āṇiṃ], tức: cái chốt thiếu hài hoà, bị đóng vào tấm ván gỗ đàn hương hay tấm ván gỗ cứng. [Đập vào – abhinihaneyya], tức: đập vào bằng cách đóng bằng búa. [Đẩy ra – abhinīhareyya], tức: đẩy ra khỏi tấm ván bằng cách đập vào như vậy. [Lấy ra – abhinivaseyya], tức: (người ấy) biết rằng ‘(cái chốt) đã rời ra nhiều’; (người ấy) lay động bằng tay rồi gỡ ra. Ở đoạn kinh đó, tấm ván giống như tâm; cái chốt thiếu hài hoà ở tấm ván giống như các tư duy bất thiện; cái chốt tinh xảo giống như tướng khác, mang tính thiện – tức việc phát triển bất mỹ tướng vân vân; việc đẩy cái chốt thô xấu ra cho cái chốt tinh xảo (thế vào) giống như việc đẩy lùi các tư duy ấy bằng các tướng thiện – tức việc phát triển bất mỹ tướng vân vân. —–
(i) Tức rút cái chốt thô xấu ra, lắp cái chốt tinh xảo vào. Cái chốt tinh xảo được làm từ gỗ lõi cây. |
11 |
♦ 217. ahikuṇapenātiādi atijegucchapaṭikūlakuṇapadassanatthaṃ vuttaṃ. kaṇṭhe āsattenāti kenacideva paccatthikena ānetvā kaṇṭhe baddhena paṭimukkena. aṭṭiyeyyāti aṭṭo dukkhito bhaveyya. harāyeyyāti lajjeyya. jiguccheyyāti sañjātajiguccho bhaveyya. |
[Do xác rắn vân vân – ahikuṇapenātiādi], cụm từ này được nói (bởi Đức Phật) nhằm thể hiện xác chết không đáng ưa và cực kỳ ghê tởm. [Được treo vào cổ – kaṇṭhe āsattena], tức: được cột vào, được quấn vào cổ bởi một kẻ thù nào đó sau khi (kẻ thù ấy) dẫn (người ấy) đi. [Lo sợ – aṭṭiyeyya], tức: (người ấy) trở nên e sợ và khổ não. [Xấu hổ – harāyeyya], tức: (người ấy) hổ thẹn. [Ghê tởm – jiguccheyya], tức: (người ấy) trở nên ghê tởm. |
12 |
♦ pahīyantīti evaṃ imināpi kāraṇena ete akusalā dhammā sāvajjā dukkhavipākāti attano paññābalena upaparikkhato ahikuṇapādīni viya jigucchantassa pahīyanti. yo pana attano paññābalena upaparikkhituṃ na sakkoti, tena ācariyaṃ vā upajjhāyaṃ vā aññataraṃ vā garuṭṭhāniyaṃ sabrahmacāriṃ saṅghattheraṃ vā upasaṅkamitvā ghaṇḍiṃ paharitvā bhikkhusaṅghameva vā sannipātetvā ārocetabbaṃ, bahunañhi sannipāte bhavissateva eko paṇḍitamanusso, svāyaṃ evaṃ etesu ādīnavo daṭṭhabboti kathessati, kāyavicchindanīyakathādīhi vā pana te vitakke niggaṇhissatīti. |
[(Các tư duy ấy) được từ bỏ – pahīyanti] do nguyên nhân này – tức là: trong khi (vị ấy) suy xét bằng tuệ lực của mình rằng ‘(Các tư duy) này là các pháp bất thiện, có lỗi, có quả khổ’ và (vị ấy) ghê tởm (chúng) như xác rắn vân vân; thì (các tư duy ấy) được từ bỏ (bởi vị ấy). Tuy nhiên, người nào không thể suy xét bằng tuệ lực của mình; thì người ấy nên đi đến giáo thọ sư, tế độ sư, vị đồng phạm hạnh đáng kính nào đó hay một trưởng lão trong Tăng chúng; đánh chuông; triệu tập Tỳ Kheo Tăng rồi trình bày (vấn đề của mình). Bởi vì khi nhiều người hội họp, chắc sẽ có một người trí; chính người ấy sẽ thuyết giảng rằng: ‘Nguy hiểm nên được nhận thấy như vậy đối với (các pháp) đó’; hoặc (người ấy) sẽ chê trách các tư duy đó bằng những lời nói về việc nhàm chán thân xác vân vân. |
13 |
♦ 218. asatiamanasikāro āpajjitabboti neva so vitakko saritabbo na manasikātabbo, aññavihitakena bhavitabbaṃ. yathā hi rūpaṃ apassitukāmo puriso akkhīni nimīleyya, evameva mūlakammaṭṭhānaṃ gahetvā nisinnena bhikkhunā cittamhi vitakke uppanne aññavihitakena bhavitabbaṃ. evamassa so vitakko pahīyati, tasmiṃ pahīne puna kammaṭṭhānaṃ gahetvā nisīditabbaṃ. |
[Việc không ghi nhớ, không tác ý đến nên được tiến hành – asatiamanasikāro āpajjitabbo], tức: tư duy ấy không nên được ghi nhớ cũng không nên được tác ý đến. (Vị Tỳ Kheo ấy) nên tiếp xúc với (đối tượng) khác. Bởi vì giống như một người mong muốn không nhìn thấy hình sắc thì sẽ nhắm đôi mắt lại; cũng vậy, khi vị Tỳ Kheo đã nắm bắt đề mục thiền căn bản và ngồi (hành thiền), mà tư duy ấy sinh lên nơi tâm (của vị ấy); thì (vị ấy) nên tiếp xúc với (đối tượng) khác. Như vậy, tư duy ấy được từ bỏ bởi vị ấy. Khi nó đã được từ bỏ; thì (vị ấy) nên nắm bắt đề mục thiền trở lại và ngồi (hành thiền). |
14 |
♦ sace na pahīyati, uggahito dhammakathāpabandho hoti, so mahāsaddena sajjhāyitabbo. evampi ce aññavihitakassa sato so na pahīyati. thavikāya muṭṭhipotthako hoti, yattha ca buddhavaṇṇāpi dhammavaṇṇāpi likhitā honti, taṃ nīharitvā vācentena aññavihitakena bhavitabbaṃ. evampi ce na pahīyati, thavikato araṇisahitāni nīharitvā “ayaṃ uttarāraṇī ayaṃ adharāraṇī”ti āvajjentena aññavihitakena bhavitabbaṃ. evampi ce na pahīyati, sipāṭikaṃ nīharitvā “idaṃ ārakaṇṭakaṃ nāma, ayaṃ pipphalako nāma, idaṃ nakhacchedanaṃ nāma, ayaṃ sūci nāmā”ti parikkhāraṃ samannānentena aññavihitakena bhavitabbaṃ. evampi ce na pahīyati, sūciṃ gahetvā cīvare jiṇṇaṭṭhānaṃ sibbantena aññavihitakena bhavitabbaṃ. evaṃ yāva na pahīyati, tāva taṃ taṃ kusalakammaṃ karontena aññavihitakena bhavitabbaṃ. pahīne puna mūlakammaṭṭhānaṃ gahetvā nisīditabbaṃ, navakammaṃ pana na paṭṭhapetabbaṃ. kasmā? vitakke pacchinne kammaṭṭhānamanasikārassa okāso na hoti. |
Nếu (tư duy ấy) chưa được từ bỏ; thì (vị ấy nên) học một chuỗi Pháp thoại. (Chuỗi Pháp thoại) đó nên được tụng đọc lớn tiếng. Nếu cả khi (vị ấy) tiếp xúc với (đối tượng) khác như vậy, mà (tư duy ấy) chưa được từ bỏ; thì (vị ấy) nên có một quyển sổ tay trong túi, trong đó (trong quyển sổ tay đó) các lời tán dương Đức Phật và các lời tán dương Giáo Pháp được ghi lại, (vị ấy) lấy nó ra rồi nên tiếp xúc với (đối tượng) khác trong khi đọc (nó). Nếu cả khi như vậy mà (tư duy ấy) chưa được từ bỏ; thì (vị ấy) nên lấy ra những mảnh củi từ chiếc túi, rồi tiếp xúc với (đối tượng) khác trong khi quan sát rằng ‘Đây là thanh củi trên; đây là thanh củi dưới.’ Nếu cả khi như vậy mà (tư duy ấy) chưa được từ bỏ; thì (vị ấy) nên lấy ra chiếc hộp nhỏ, rồi tiếp xúc với (đối tượng) khác trong khi kiểm đếm vật dụng rằng ‘Đây là con dao nhỏ. Đây là cái kéo. Đây là đồ cắt móng. Đây là cây kim.’ Nếu cả khi như vậy mà (tư duy ấy) chưa được từ bỏ; thì (vị ấy) nên lấy cây kim, rồi tiếp xúc với (đối tượng) khác trong khi vá chỗ rách trên bộ y. Như vậy, chừng nào (tư duy ấy) chưa được từ bỏ; thì chừng ấy (vị ấy) nên tiếp xúc với (đối tượng) khác bằng cách thực hiện thiện nghiệp đó. Khi (tư duy ấy) đã được từ bỏ; thì (vị ấy) nên nắm bắt đề mục thiền căn bản trở lại và ngồi xuống (hành thiền). Tuy nhiên, (vị ấy) không nên bắt đầu một việc mới. Vì sao? Khi tư duy bị đoạn trừ(i); thì không có cơ hội cho việc tác ý đến đề mục thiền. —– (i) Tức đang còn mạch tư duy, vị ấy vừa bỏ được tư duy bất thiện thì quay trở lại đề mục thiền luôn. Nếu làm việc mới thì mất mạch tư duy, hết động lực hành thiền. |
15 |
♦ porāṇakapaṇḍitā pana navakammaṃ katvāpi vitakkaṃ pacchindiṃsu. tatridaṃ vatthu —tissasāmaṇerassa kira upajjhāyo tissamahāvihāre vasati. tissasāmaṇero “bhante ukkaṇṭhitomhī”ti āha. atha naṃ thero “imasmiṃ vihāre nhānaudakaṃ dullabhaṃ, maṃ gahetvā cittalapabbataṃ gacchāhī”ti āha. so tathā akāsi. tattha naṃ thero āha “ayaṃ vihāro accantasaṅghiko, ekaṃ puggalikaṭṭhānaṃ karohī”ti. so sādhu bhanteti ādito paṭṭhāya saṃyuttanikāyaṃ pabbhārasodhanaṃ tejodhātukasiṇaparikammanti tīṇīpi ekato ārabhitvā kammaṭṭhānaṃ appanaṃ pāpesi, saṃyuttanikāyaṃ pariyosāpesi, leṇakammaṃ niṭṭhāpesi, sabbaṃ katvā upajjhāyassa saññaṃ adāsi. upajjhāyo “dukkhena te sāmaṇera kataṃ, ajja tāva tvaṃyeva vasāhī”ti āha. so taṃ rattiṃ leṇe vasanto utusappāyaṃ labhitvā vipassanaṃ vaḍḍhetvā arahattaṃ patvā tattheva parinibbāyi. tassa dhātuyo gahetvā cetiyaṃ akaṃsu. ajjāpi tissattheracetiyanti paññāyati. idaṃ pabbaṃ asatipabbaṃ nāma. |
Tuy nhiên, các bậc trí thời xưa vẫn đoạn trừ tư duy và làm công việc mới. Đây là câu chuyện về điều đó: bấy giờ, tế độ sư của Sa Di Tissa ngụ tại Tissamahāvihāra. Sa Di Tissa bạch rằng: ‘Thưa Ngài! Con không thoải mái.’ Trưởng lão bèn nói với vị ấy: ‘Nước tắm khó có được ở tu viện này; (con) hãy đưa ta đi đến Cittalapabbata (núi Cittala).’ Vị ấy đã làm như vậy. Tại đó, trưởng lão nói với vị ấy: ‘Nơi ngụ này thuộc về Tăng một cách trọn vẹn. (Con) hãy làm một nơi ở riêng.’ Vị ấy (đáp) ‘Lành thay! Bạch Ngài.’ Từ ban đầu, vị ấy bắt đầu cùng lúc 3 việc: (học) Saṃyuttanikāya (Tương Ưng Bộ Kinh), làm sạch triền núi, chuẩn bị Kasiṇa yếu tố lửa; sau đó, (vị ấy) khiến đề mục thiền đạt đến mức độ An Chỉ, hoàn thành (việc học) Saṃyuttanikāya, hoàn tất việc (chuẩn bị) hang động (để trú ngụ). Sau khi làm tất cả, vị ấy ra hiệu cho tế độ sư. Vị tế độ sư đã nói: ‘Này Sa Di! Con đã làm (việc) một cách khó nhọc. Chính con hãy ở (đây) trong hôm nay.’ Khi vị ấy ngụ trong hang động trong đêm đó; (vị ấy) có được thời tiết thích hợp; tăng trưởng Vipassanā; đạt đến trạng thái A La Hán rồi tịch diệt ngay tại đó. Người ta thu hài cốt của vị ấy rồi làm bảo tháp. Và nay, (bảo tháp ấy) được biết đến là ‘Tissattheracetiya’ (‘Bảo tháp trưởng lão Tissa’). Phần này có tên gọi là phần về việc không ghi nhớ. |
16 |
♦ 219. imasmiṃ ṭhatvā vitakke niggaṇhituṃ asakkonto idha ṭhatvā niggaṇhissatīti vitakkamūlabhedaṃ pabbaṃ dassento puna tassa ce bhikkhavetiādimāha. tattha vitakkasaṅkhārasaṇṭhānaṃ manasikātabbanti saṅkharotīti saṅkhāro, paccayo, kāraṇaṃ mūlanti attho. santiṭṭhati etthāti saṇṭhānaṃ, vitakkasaṅkhārassa saṇṭhānaṃ vitakkasaṅkhārasaṇṭhānaṃ, taṃ manasikātabbanti. idaṃ vuttaṃ hoti, ayaṃ vitakko kiṃ hetu kiṃ paccayā kiṃ kāraṇā uppannoti vitakkānaṃ mūlañca mūlamūlañca manasikātabbanti. kiṃ nu kho ahaṃ sīghaṃ gacchāmīti kena nu kho kāraṇena ahaṃ sīghaṃ gacchāmi? yaṃnūnāhaṃ saṇikaṃ gaccheyyanti kiṃ me iminā sīghagamanena, saṇikaṃ gacchissāmīti cintesi. so saṇikaṃ gaccheyyāti so evaṃ cintetvā saṇikaṃ gaccheyya. esa nayo sabbattha. |
(Đức Phật) lại nói: ‘Này các Tỳ Kheo, nếu trong khi vị ấy’ vân vân nhằm trình bày phần (nói về) các loại gốc rễ của tư duy rằng ‘Khi vị ấy đứng tại nơi đó mà không thể kiềm chế được tư duy; thì đứng tại đây, vị ấy có thể kiềm chế được tư duy.’ Ở đoạn kinh đó, ở câu [Sự dừng nghỉ các yếu tố hữu vi của tư duy nên được tác ý đến]; [yếu tố hữu vi – saṅkhāra] tức: cái tạo tác. (Nó là) [duyên – paccaya], [nguyên nhân – kāraṇa], [gốc rễ – mūla]. Ý nghĩa là như vậy. [Sự dừng nghỉ – saṇṭhāna] tức: việc dừng nghỉ tại đó. [Sự dừng nghỉ các yếu tố hữu vi của tư duy – vitakkasaṅkhārasaṇṭhāna], tức: sự dừng nghỉ của các yếu tố hữu vi của tư duy. Điều đó nên được tác ý đến. Đây là điều đã được nói: ‘Gốc rễ của các tư duy hay gốc rễ sâu xa của các tư duy nên được tác ý đến (bởi vị Tỳ Kheo) rằng ‘Tư duy đó đã sinh lên do nhân gì, do duyên gì, do nguyên nhân gì?’’ [Sao nay ta lại đi nhanh? – kiṃ nu kho ahaṃ sīghaṃ gacchāmi], tức: ‘Nay ta đi nhanh do nguyên nhân gì?’ [Hay ta đi từ tốn lại? – yaṃnūnāhaṃ saṇikaṃ gaccheyyaṃ], tức: vị ấy nghĩ rằng ‘Ta được gì với việc đi nhanh này? Ta có thể đi từ tốn.’ [Vị ấy đi từ tốn lại], tức: vị ấy nghĩ như vậy rồi đi từ tốn lại. Phương cách (giải thích) đó nên được áp dụng ở mọi chỗ (liên quan). |
17 |
♦ tattha tassa purisassa sīghagamanakālo viya imassa bhikkhuno vitakkasamāruḷhakālo. tassa saṇikagamanakālo viya imassa vitakkacārapacchedanakālo. tassa ṭhitakālo viya imassa vitakkacāre pacchinne mūlakammaṭṭhānaṃ cittotaraṇakālo. tassa nisinnakālo viya imassa vipassanaṃ vaḍḍhetvā arahattappattakālo. tassa nipannakālo viya imassa nibbānārammaṇāya phalasamāpattiyā divasaṃ vītivattanakālo. tattha ime vitakkā kiṃ hetukā kiṃ paccayāti vitakkānaṃ mūlamūlaṃ gacchantassa vitakkacāro sithilo hoti. tasmiṃ sithilībhūte matthakaṃ gacchante vitakkā sabbaso nirujjhanti. ayamattho duddubhajātakenapi dīpetabbo — |
Ở đoạn kinh đó, thời điểm người ấy đi nhanh giống như thời điểm tư duy của vị Tỳ Kheo ấy tăng tiến. Thời điểm người ấy đi chậm giống như thời điểm diễn trình tư duy của vị Tỳ Kheo ấy bị đoạn trừ. Thời điểm người ấy đứng lại giống như thời điểm tâm của vị Tỳ Kheo ấy tiếp cận đề mục thiền căn bản sau khi diễn trình tư duy (của vị Tỳ Kheo ấy) đã bị đoạn trừ. Thời điểm người ấy ngồi xuống giống như thời điểm vị Tỳ Kheo ấy phát triển Vipassanā và đạt đến trạng thái A La Hán. Thời điểm người ấy nằm xuống giống như thời điểm vị Tỳ Kheo ấy trải qua ban ngày trong Thiền Quả có đối tượng là Niết Bàn. Trong chủ đề này, khi (vị Tỳ Kheo) đi đến gốc rễ sâu xa của các tư duy (theo cách) rằng ‘Các tư duy này có nhân gì, có duyên gì?’; thì diễn trình tư duy (của vị ấy) trở nên yếu ớt. Khi (diễn trình tư duy) đó trở nên yếu ớt và (vị đó) đi đến (nguyên nhân) tột cùng; thì các tư duy đó đoạn diệt hoàn toàn. Ý nghĩa đó cũng nên được soi sáng thông qua chuyện Duddubhajātaka. |
18 |
♦ sasakassa kira beluvarukkhamūle niddāyantassa beluvapakkaṃ vaṇṭato chijjitvā kaṇṇamūle patitaṃ. so tassa saddena “pathavī bhijjatī”ti saññāya uṭṭhahitvā vegena palāyi. taṃ disvā purato aññepi catuppadā palāyiṃsu. tadā bodhisatto sīho hoti. so cintesi — “ayaṃ pathavī nāma kappavināse bhijjati, antarā pathavībhedo nāma natthi, yaṃnūnāhaṃ mūlamūlaṃ gantvā anuvijjeyyan”ti. so hatthināgato paṭṭhāya yāva sasakaṃ pucchi “tayā, tāta, pathavī bhijjamānā diṭṭhā”ti. saso “āma devā”ti āha. sīho “ehi, bho, dassehī”ti. saso “na sakkomi sāmī”ti. “ehi, re, mā bhāyī”ti saṇhamudukena gahetvā gato saso rukkhassa avidūre ṭhatvā — |
Bấy giờ, con thỏ nọ đang ngủ ở gốc cây Beluva; thì một trái (Beluva) chín lìa khỏi thân cây rồi rớt xuống gốc tai (của nó). Do tiếng động của (trái cây) ấy, nó thức dậy với cảm tưởng rằng ‘Mặt đất đang nứt ra!’ rồi chạy thật nhanh. Thấy nó, các loài 4 chân khác ở phía trước (trước mặt nó) cũng chạy đi. Lúc bấy giờ, Đức Bồ Tát là một con sư tử. Ngài nghĩ: ‘Quả thật, mặt đất này nứt ra vào hoại kiếp; không có chuyện đất nứt ra vào khoảng giữa (2 hoại kiếp). Hay ta đi đến gốc rễ sâu xa (của chuyện này) để khảo sát!’ Nó hỏi từ con bảo tượng cho tới con thỏ rằng: ‘Này quý bạn! Bạn thấy mặt đất đang nứt ra chăng?’ Con thỏ đáp: ‘Vâng, thưa ngài.’ Sư tử: ‘Nào bạn! Hãy chỉ (cho ta)!’ Thỏ: ‘Thưa chúa! Tôi không thể.’ (Sư tử nói) bằng lời mềm dịu rằng ‘Nào nào! Chớ sợ hãi!’ rồi đưa nó (đi); thỏ đi (đến đó), đứng ở chỗ không xa cái cây rồi nói bài thơ rằng: |
19 |
♦ “duddubhāyati bhaddante, yasmiṃ dese vasāmahaṃ. ♦ ahampetaṃ na jānāmi, kimetaṃ duddubhāyatī”ti. (jā. 1.4.85) — ♦ gāthamāha. bodhisatto “tvaṃ ettheva tiṭṭhā”ti rukkhamūlaṃ gantvā sasakassa nipannaṭṭhānaṃ addasa, beluvapakkaṃ addasa, uddhaṃ oleketvā vaṇṭaṃ addasa, disvā “ayaṃ saso ettha nipanno, niddāyamāno imassa kaṇṇamūle patitassa saddena ‘pathavī bhijjatī’ti evaṃsaññī hutvā palāyī”ti ñatvā taṃ kāraṇaṃ sasaṃ pucchi. saso “āma, devā”ti āha. bodhisatto imaṃ gāthamāha — ♦ “beluva patitaṃ sutvā, duddubhanti saso javi. ♦ sasassa vacanaṃ sutvā, santattā migavāhinī”ti. (jā. 1.4.86). ♦ tato bodhisatto “mā bhāyathā”ti migagaṇe assāsesi. evaṃ vitakkānaṃ mūlamūlaṃ gacchantassa vitakkā pahīyanti. |
‘Thưa ngài! Có tiếng động lớn ở nơi tôi ngụ. Mà tôi không biết nó (là gì). Tiếng động lớn nào đã sinh lên?’ (Jā.1.4.85) Bồ Tát nói: ‘Bạn hãy đứng ngay tại đây!’; (Ngài) đi đến gốc cây và nhìn thấy chỗ con thỏ đã nằm. Ngài thấy trái Beluva chín (rớt trúng con thỏ). Ngài quan sát phía trên và nhìn thấy thân cây. Nhìn thấy (như vậy); Ngài hiểu rằng ‘Con thỏ này đã nằm ở đây. Khi đang ngủ, do tiếng động của trái Beluva chín rơi xuống gốc tai (của nó), nó tưởng rằng ‘Mặt đất đang nứt ra!’ rồi chạy’; (Ngài) hỏi con thỏ về nguyên nhân đó. Con thỏ đáp: ‘Thưa vâng, bạch Chúa!’ Bồ Tát đã nói bài thơ này: ‘Sau khi nghe tiếng rơi của quả Beluva; con thỏ (tưởng rằng) ‘Có tiếng động lớn!’ rồi chạy đi. Sau khi nghe lời nói của con thỏ; bầy thú sợ hãi (chạy đi).’ (Jā.1.4.86) Thế rồi, Bồ Tát an ủi những bầy thú rằng: ‘(Các bạn) chớ sợ!’ Như vậy, khi (vị Tỳ Kheo) đi đến gốc rễ sâu xa của các tư duy; thì các tư duy ấy được từ bỏ. |
20 |
♦ 220. imasmiṃ vitakkamūlabhedapabbe ṭhatvā vitakke niggaṇhituṃ asakkontena pana evaṃ niggaṇhitabbāti aparampi kāraṇaṃ dassento puna tassa ce, bhikkhavetiādimāha. |
Sau khi mở đầu phần (nói về) các loại gốc rễ của tư duy; (Đức Phật) lại nói: ‘Này các Tỳ Kheo! Nếu khi (vị Tỳ Kheo) ấy…’ vân vân nhằm trình bày một nguyên nhân khác nữa rằng ‘Tuy nhiên, (các tư duy ấy) nên được kiềm chế như vậy bởi (vị Tỳ Kheo) không thể kiềm chế tư duy (theo cách thức trước đó).’ |
21 |
♦ dantebhidantamādhāyāti heṭṭhādante uparidantaṃ ṭhapetvā. cetasā cittanti kusalacittena akusalacittaṃ abhiniggaṇhitabbaṃ. balavā purisoti yathā thāmasampanno mahābalo puriso dubbalaṃ purisaṃ sīse vā gale vā khandhe vā gahetvā abhiniggaṇheyya abhinippīḷeyya abhisantāpeyya santattaṃ kilantaṃ mucchāparetaṃ viya kareyya, evameva bhikkhunā vitakkehi saddhiṃ paṭimallena hutvā “ke ca tumhe ko cāhan”ti abhibhavitvā — “kāmaṃ taco ca nhāru ca aṭṭhi ca avasissatu sarīre upasussatu maṃsalohitan”ti (a. ni. 2.5) evaṃ mahāvīriyaṃ paggayha vitakkā niggaṇhitabbāti dassento ima atthadīpikaṃ upamaṃ āhari. |
[Đặt hàm răng trên ở trên hàm răng dưới – dantebhidantam ādhāya] – tức: đặt hàm răng trên ở trên hàm răng dưới. [Tâm… bằng tâm – cetasā cittaṃ] tức: bất thiện tâm nên bị kềm nén bởi thiện tâm. [Một người mạnh – balavā puriso] tức: giống như một người có sức lực, có sức mạnh lớn nắm lấy một người có sức yếu ở đầu, ở cổ hay ở thân; rồi áp chế, đè nén, hành hạ, khiến (kẻ ấy) sợ hãi, mệt mỏi như thể bị mất ý thức; hệt như vậy, vị Tỳ Kheo ở cùng với các tư duy ấy giống như ở cùng với địch thủ, (vị ấy) áp đảo (chúng) rằng ‘Các ngươi là ai, còn ta là ai?’; (vị ấy) nên kềm chế các tư duy ấy bằng cách nỗ lực lớn lao rằng: ‘Quả thật, da, gân và xương hãy còn lại trong thân thể ta; thịt và máu hãy khô cạn trong thân thể ta!’ (a. ni. 2.5). (Đức Phật) đã đưa ra ví dụ đó nhằm soi sáng ý nghĩa và trình bày như vậy. |
22 |
♦ 221. yato kho, bhikkhaveti idaṃ pariyādānabhājaniyaṃ nāma, taṃ uttānatthameva. yathā pana satthācariyo tiroraṭṭhā āgataṃ rājaputtaṃ pañcāvudhasippaṃ uggaṇhāpetvā “gaccha, attano raṭṭhe rajjaṃ gaṇha. sace te antarāmagge corā uṭṭhahanti, dhanunā kammaṃ katvā gaccha. sace te dhanu nassati vā bhijjati vā sattiyā asinā”ti evaṃ pañcahipi āvudhehi kattabbaṃ dassetvā uyyojeti. so tathā katvā sakaraṭṭhaṃ gantvā rajjaṃ gahetvā rajjasiriṃ anubhoti. evamevaṃ bhagavā adhicittamanuyuttaṃ bhikkhuṃ arahattagahaṇatthāya uyyojento — “sacassa antarā akusalavitakkā uppajjanti, aññanimittapabbe ṭhatvā te niggaṇhitvā vipassanaṃ vaḍḍhetvā arahattaṃ pāpuṇissati. tattha asakkonto ādīnavapabbe ṭhatvā, tatrāpi asakkonto asatipabbe ṭhatvā, tatrāpi asakkonto vitakkamūlabhedapabbe ṭhatvā, tatrāpi asakkonto abhiniggaṇhanapabbe ṭhatvā vitakke niggaṇhitvā vipassanaṃ vaḍḍhetvā arahattaṃ pāpuṇissatī”ti imāni pañca pabbāni desesi. |
[Này các Tỳ Kheo! Khi nào… – yato kho, bhikkhave], đó là đoạn kinh tổng kết; nó có ý nghĩa hoàn toàn rõ ràng. Quả giống như một vị thầy về binh khí huấn luyện một hoàng tử đến từ ngoại bang về thuật (dùng) 5 loại binh khí; khi cho vị hoàng tử đi, (vị ấy) trình bày điều cần được làm bằng 5 loại binh khí rằng: ‘(Con) hãy đi, hãy nắm vương quyền ở vương quốc của mình! Nếu bọn cướp nổi lên ở giữa đường của con; con hãy hành sự bằng cung rồi đi! Nếu cung của con hỏng hay bị gẫy; (con hãy hành sự) bằng giáo, bằng kiếm (rồi đi)!’ Vị (hoàng tử) ấy làm như vậy; đi đến vương quốc của mình; nắm lấy vương quyền rồi hưởng vinh quang vương quyền. Hệt như vậy, Đức Thế Tôn trong khi khích lệ vị Tỳ Kheo (đang) rèn luyện thắng tâm đến mục tiêu là đạt được trạng thái A La Hán đã thuyết giảng 5 phần này: ‘Nếu các tư duy bất thiện sinh lên bên trong vị Tỳ Kheo ấy; thì (vị ấy) theo phần ‘tướng khác’ (để đối trị); kềm chế chúng; tăng trưởng Vipassanā rồi có thể đạt đến trạng thái A La Hán. Khi (vị ấy) không thể (thành tựu) trong tình huống đó, thì (vị ấy) theo phần ‘nguy hiểm’; khi (vị ấy) cũng không thể (thành tựu) trong tình huống đó, thì (vị ấy) theo phần ‘không ghi nhớ’; khi (vị ấy) cũng không thể (thành tựu) trong tình huống đó, thì (vị ấy) theo phần ‘các loại nguồn gốc của tư duy’; khi (vị ấy) cũng không thể (thành tựu) trong tình huống đó, thì (vị ấy) theo phần ‘áp chế’; kềm chế các tư duy ấy; tăng trưởng Vipassanā rồi có thể đạt đến trạng thái A La Hán’. |
23 |
♦ vasī vitakkapariyāyapathesūti vitakkacārapathesu ciṇṇavasī paguṇavasīti vuccati. yaṃ vitakkaṃ ākaṅkhissatīti idaṃ assa vasībhāvākāradassanatthaṃ vuttaṃ. ayañhi pubbe yaṃ vitakkaṃ vitakketukāmo hoti, taṃ na vitakketi. yaṃ na vitakketukāmo hoti, taṃ vitakketi. idāni pana vasībhūtattā yaṃ vitakkaṃ vitakketukāmo hoti, taṃyeva vitakketi. yaṃ na vitakketukāmo, na taṃ vitakketi. tena vuttaṃ “yaṃ vitakkaṃ ākaṅkhissati, taṃ vitakkaṃ vitakkessati. yaṃ vitakkaṃ nākaṅkhissati, na taṃ vitakkaṃ vitakkhessatī”ti. acchecchi taṇhantiādi sabbāsavasutte vuttamevāti. ♦ papañcasūdaniyā majjhimanikāyaṭṭhakathāya ♦ vitakkasaṇṭhānasuttavaṇṇanā niṭṭhitā. ♦ dutiyavaggavaṇṇanā niṭṭhitā. ♦ mūlapaṇṇāsaṭṭhakathāya paṭhamo bhāgo niṭṭhito. |
[Thành thạo về các đường hướng tư duy – vasī vitakkapariyāyapatha], tức: vị ấy được gọi là ‘Thành thạo – tức giỏi; thành thạo – tức tường tận về các khuôn mẫu tư duy.’ [Vị ấy mong muốn tư duy nào – yaṃ vitakkaṃ ākaṅkhissati], (cụm từ) này được nói nhằm thể hiện khuynh hướng của trạng thái thành thạo của vị Tỳ Kheo ấy. Bởi vì trước đây, vị ấy muốn tư duy tư duy nào; thì vị ấy không tư duy được tư duy đó. Vị ấy không muốn tư duy tư duy nào; thì vị ấy lại tư duy tư duy đó. Nhưng giờ đây, nhờ trạng thái thành thạo; vị ấy muốn tư duy tư duy nào, thì vị ấy tư duy chính tư duy đó. Vị ấy không muốn tư duy tư duy nào; thì vị ấy không tư duy tư duy đó. Do đó, điều này đã được nói: ‘Vị ấy mong muốn tư duy nào; thì vị ấy có thể tư duy tư duy đó. Vị ấy không mong muốn tư duy nào; thì vị ấy sẽ không tư duy tư duy đó. Cụm từ [vị ấy cắt sạch tham ái – acchecchi] vân vân đã được nói trong kinh Sabbāsavasutta. Sự giải thích bài kinh Vitakkasaṇṭhānasutta thuộc bộ Chú Giải Trung Bộ – Papañcasūdanī được hoàn thành. Sự giải thích chương thứ 2 được hoàn thành. Phần thứ nhất thuộc chú giải 50 bài kinh đầu được hoàn thành. |