Kinh số 58 – Giải Thích Kinh Vương Tử Vô Úy

(Abhayarājakumārasuttavaṇṇanā)

Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Vương Tử Vô Úy

83. evaṃ V.3.78 P.3.108 M.3.76 me sutanti abhayasuttaṃ. tattha abhayoti tassa nāmaṃ. rājakumāroti bimbisārassa orasaputto. vādaṃ āropehīti dosaṃ āropehi. nerayikoti niraye nibbattako. kappaṭṭhoti kappaṭṭhitiko. atekicchoti buddhasahassenāpi tikicchituṃ na sakkā. uggilitunti dve ante mocetvā kathetuṃ asakkonto uggilituṃ bahi nīharituṃ na sakkhiti. ogilitunti pucchāya dosaṃ datvā hāretuṃ asakkonto ogilituṃ anto pavesetuṃ na sakkhiti.

83 Kinh Vương Tử Vô Úy được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, abhayo: là tên của vị Vương tử đó. Rājakumāro: là Hoàng tử con của vua Bimbisāra. vādaṃ āropehi: hãy cáo buộc trong lời nói. Nerayiko: người tái sanh trong địa ngục. Kappaṭṭho: phải đọa suốt một kiếp. Atekiccho: thậm chí đức Phật cả nghìn vị cũng không thể cứu chữa được. Uggilituṃ (nuốt vào): Như Lai khi không thể nói để giải quyết câu hỏi hai móc cũng không thể nhả ra, tức là mang ra bên ngoài. Ogilituṃ (nhả ra): Khi không thể đưa ra lỗi lầm của vấn đề ra ngoài, cũng không thể nuốt vào, tức là nuốt vào bên trong.

evaṃ, bhanteti nigaṇṭho kira cintesi — “samaṇo gotamo mayhaṃ sāvake bhinditvā gaṇhāti, handāhaṃ ekaṃ pañhaṃ abhisaṅkharomi, yaṃ puṭṭho samaṇo gotamo ukkuṭiko hutvā nisinno uṭṭhātuṃ na sakkhissatī”ti. so abhayassa gehā nīhaṭabhatto siniddhabhojanaṃ bhuñjanto bahū pañhe abhisaṅkharitvā — “ettha samaṇo gotamo imaṃ nāma dosaṃ dassessati, ettha imaṃ nāmā”ti sabbe pahāya cātumāsamatthake imaṃ pañhaṃ addasa. athassa etadahosi — “imassa pañhassa pucchāya vā vissajjane vā na sakkā doso dātuṃ, ovaṭṭikasāro ayaṃ, ko nu kho imaṃ gahetvā samaṇassa gotamassa vādaṃ āropessatī”ti. tato “abhayo rājakumāro paṇḍito, so sakkhissatīti taṃ uggaṇhāpemī”ti niṭṭhaṃ gantvā uggaṇhāpesi. so vādajjhāsayatāya tassa vacanaṃ sampaṭicchanto “evaṃ, bhante,”ti āha.

evaṃ, bhante (dạ được thưa ngài…): Kể rằng Nigaṇṭha nghĩ rằng – “Sa-môn Gotama đã làm tổn hại đệ tử của tôi rồi tự nhận lấy, thôi đủ rồi, tôi sẽ chuẩn bị sẵn một câu hỏi, Sa-môn Gotama bị hỏi phải ngồi chồm hổm không thể đứng dậy.” Nigaṇṭha ấy thọ nhận vật thực từ Hoàng cung của Vương tử Abhaya rồi thọ dụng vật thực bổ dưỡng, đã chuẩn bị sẵn nhiều câu hỏi nghĩ rằng – “Sa-môn Gotama sẽ nhìn thấy lỗi lầm trong câu hỏi này, trong câu hỏi đó cũng trở nên xấu” đã từ bỏ hết mọi thứ, suy nghĩ về câu hỏi này ở trong đầu đến 4 tháng. Khi đó Nigaṇṭha nghĩ rằng – “Sa-môn Gotama không thể khiến lỗi lầm trong việc hỏi hoặc trả lời câu hỏi, câu hỏi này gọi là ovaṭṭikasāro (câu hỏi xoay vòng), ai có thể tiếp nhận câu hỏi đi luận chiến với Sa-môn Gotama”. Từ đó đồng thuận rằng – “Vương tử Abhaya là bậc trí giả, vị ấy có thể, vì thế ta sẽ cho Vương tử Abhaya học tập câu hỏi đó,” rồi cho Vương tử Abhaya học. Vương tử Abhaya có khuynh hướng thích luận chiến mới nhận lời của Nigaṇṭha, đã nói rằng: “dạ được thưa ngài…

84. akālo P.3.109 kho ajjāti ayaṃ pañho catūhi māsehi abhisaṅkhato, tattha idaṃ gahetvā idaṃ vissajjiyamāne divasabhāgo nappahossatīti maññanto evaṃ cintesi. so dānīti sve dāni. attacatutthoti kasmā bahūhi saddhiṃ na nimantesi? evaṃ kirassa ahosi — “bahūsu nisinnesu thokaṃ datvā vadantassa aññaṃ suttaṃ aññaṃ kāraṇaṃ aññaṃ tathārūpaṃ vatthuṃ āharitvā dassessati, evaṃ sante kalaho vā kolāhalameva vā bhavissati. athāpi ekakaṃyeva nimantessāmi, evampi me garahā uppajjissati ‘yāvamaccharī vāyaṃ abhayo, bhagavantaṃ divase divase bhikkhūnaṃ satenapi sahassenapi saddhiṃ carantaṃ disvāpi ekakaṃyeva V.3.79 M.3.77 nimantesī’”ti. “evaṃ pana doso na bhavissatī”ti aparehi tīhi saddhiṃ attacatutthaṃ nimantesi.

akālo kho ajjā (hôm nay thật không phải thời…): Vương tử Abhaya nghĩ rằng câu hỏi này thầy đã chuẩn bị suốt 4 tháng, khi đã nắm lấy câu hỏi này, để Sa-môn Gotama trả lời thì thời gian có lẽ không thích hợp, mới khởi suy nghĩ như vậy. So dāni tách hợp âm thành sve dāni. Attacatuttho (có ngài là thứ 4) tại sao Vương tử Abhaya không thỉnh mời nhiều vị Tỳ khưu? Biết rằng Vương tử Abhaya nghĩ như vầy: “Khi nhiều vị Tỳ khưu ngồi lại với nhau, cúng dường chút ít đức Thế Tôn sẽ thuyết bài Kinh khác, lý do khác, hoặc tương tự như thế, sẽ chỉ làm rối ren (mọi việc), nếu ta chỉ thỉnh mời một mình đức Thế Tôn thì ta cũng sẽ bị sự khiển trách rằng: Vương tử Abhaya thật keo kiệt, thậm chí khi nhìn thấy đức Thế Tôn đi khất thực cùng với hàng trăm vị Tỳ khưu, hàng nghìn vị Tỳ khưu mỗi ngày cũng vẫn thỉnh mời một mình đức Thế Tôn, “làm như thế thì ta cũng sẽ không có lỗi lầm” mới thỉnh mời đức Thế Tôn là vị thứ 4 với thêm 3 vi Tỳ khưu khác nữa.

85. na khvettha, rājakumāra, ekaṃsenāti na kho, rājakumāra, ettha pañhe ekaṃsena vissajjanaṃ hoti. evarūpañhi vācaṃ tathāgato bhāseyyāpi na bhāseyyāpi. bhāsitapaccayena atthaṃ passanto bhāseyya, apassanto na bhāseyyāti attho. iti bhagavā mahānigaṇṭhena catūhi māsehi abhisaṅkhataṃ pañhaṃ asanipātena pabbatakūṭaṃ viya ekavacaneneva saṃcuṇṇesi. anassuṃ nigaṇṭhāti naṭṭhā nigaṇṭhā.

na khvettha, rājakumāra, ekaṃsena (Vương tử trong câu hỏi này không thể giải đáp theo một chiều): đức Thế Tôn thuyết rằng này Vương tử trong câu hỏi này không có việc trả lời câu hỏi theo một chiều hướng. Tức là Như Lai nên nói, hoặc không nên nói bằng lời nói với hình thức như thế, Như Lai nhìn thấy lợi ích từ những lý do đã được nói mới nói, khi không nhìn thấy điều lợi ích sẽ không nói. Như thế đức Thế Tôn đã nghiền nát câu hỏi đã chuẩn bị sẵn 4 tháng từ đại đạo sư Nigaṇṭha chỉ bằng một lời duy nhất tựa như phá vỡ chóp của ngọn núi lớn. Anassuṃ nigaṇṭhā (các Nigaṇṭha đã bị bại): Các Nigaṇṭha đã bị hư hoại.

86. aṅke nisinno hotīti ūrūsu nisinno hoti. lesavādino hi vādaṃ paṭṭhapentā kiñcideva phalaṃ vā pupphaṃ vā potthakaṃ vā gahetvā nisīdanti. te attano jaye sati paraṃ ajjhottharanti, parassa jaye sati phalaṃ khādantā viya pupphaṃ P.3.110 ghāyantā viya potthakaṃ vācentā viya vikkhepaṃ dassenti. ayaṃ pana cintesi — “sammāsambuddho esa osaṭasaṅgāmo paravādamaddano. sace me jayo bhavissati, iccetaṃ kusalaṃ. no ce bhavissati, dārakaṃ vijjhitvā rodāpessāmi. tato passatha, bho, ayaṃ dārako rodati, uṭṭhahatha tāva, pacchāpi jānissāmā”ti tasmā dārakaṃ gahetvā nisīdi. bhagavā pana rājakumārato sahassaguṇenapi satasahassaguṇenapi vādīvarataro, “imamevassa dārakaṃ upamaṃ katvā vādaṃ bhindissāmī”ti cintetvā “taṃ kiṃ maññasi rājakumārā”tiādimāha.

aṅke nisinno hotī (nằm ngửa trên bắp vế): ngồi trên bắp vế. Thật vậy, nhà diễn thuyết có nhiều mưu mẹo, trong lúc đặt ra lời nói cũng ngồi xuống nắm bắt một số đồ vật chằng hạn như trái cây, hoặc bông hoa hoặc cuốn sách, khi bản thân chiến thắng thì làm mất uy tín người khác, còn khi bản thân thua cuộc thì thể hiện các hành động để giải quyết sự ngượng ngùng như thể ăn trái cay, như thể ngửi bông hoa, như thể đọc một cuốn sách. Còn Vương tử này nghĩ rằng – “Bậc Chánh đẳng Chánh giác vào chiến trận làm tiêu tan lời nói của người khác, nếu ta chiến thắng, thật là điều tốt đẹp. Còn nếu như ta không chiến thắng ta sẽ véo đứa bé cho khóc, từ đó ta sẽ nói, hãy nhìn thưa ngài, đứa bé này đang khóc, hãy đứng dậy trước, sau đó chúng ta sẽ biết được” vì thế, đã đưa đứa trẻ đến ngồi. Còn đức Thế Tôn là nhà diễn thuyết tối thượng hơn hẳn Vương tử Abhaya cả hàng nghìn hàng triệu lần, ngài suy nghĩ rằng: “Sẽ làm đứa trẻ này trở thành ví dụ minh họa để phá tan lời nói của Vương tử Abhaya ấy” đã nói rằng: “Này Vương tử, ngài nghĩ điều đó như thế nào”.

tattha mukhe āhareyyāti mukhe ṭhapeyya. āhareyyassāhanti apaneyyaṃ assa ahaṃ. ādikenevāti paṭhamapayogeneva. abhūtanti abhūtatthaṃ. atacchanti na tacchaṃ. anatthasaṃhitanti na atthasaṃhitaṃ na vaḍḍhinissitaṃ. appiyā amanāpāti neva piyā na manāpā. iminā nayeneva sabbattha attho daṭṭhabbo.

Ở đó, mukhe āhareyya: có thể đặt vào miệng. Āhareyyassāhaṃ đồng nghĩa với apaneyyaṃ assa ahaṃ. Ādikeneva (từ đầu): chỉ với câu đầu tiên. Abhūtaṃ (không như thật): có ý nghĩa không thật. Atacchaṃ (không như chân): không có lợi ích. Anatthasaṃhitaṃ (không tương thích với lợi ích): không tương thích với lợi ích, không nương vào sự phát triển. appiyā amanāpā: không yêu mến, không hài lòng. Nên biết ý nghĩa trong tất cả các câu với cách thức này.

tattha appiyapakkhe paṭhamavācā acoraṃyeva coroti, adāsaṃyeva dāsoti, aduppayuttaṃyeva duppayuttoti pavattā. na taṃ tathāgato bhāsati. dutiyavācā coraṃyeva coro ayantiādivasena pavattā. tampi M.3.78 tathāgato na bhāsati. tatiyavācā “idāni akatapuññatāya duggato dubbaṇṇo appesakkho V.3.80, idha ṭhatvāpi puna puññaṃ na karosi, dutiyacittavāre kathaṃ catūhi apāyehi na muccissasī”ti evaṃ mahājanassa atthapurekkhārena P.3.111 dhammapurekkhārena anusāsanīpurekkhārena ca vattabbavācā. tatra kālaññū tathāgatoti tasmiṃ tatiyabyākaraṇe tassā vācāya byākaraṇatthāya tathāgato kālaññū hoti, mahājanassa ādānakālaṃ gahaṇakālaṃ jānitvāva byākarotīti attho.

Ở đó, trong phần lời nói không phải là nơi yêu mến, lời nói đầu được vận hành là (tuyên bố sai sự thật) người không phải kẻ trộm cho là kẻ trộm, không phải nô lệ cho là nô lệ, không phải người gắn kết với ác nghiệp cho là người gắn kết với ác nghiệp. Như Lai không nói lời nói ấy. Lời nói thứ 2 vận hành theo mãnh lực như này: chỉ cho người là kẻ trộm cho rằng (người này) là kẻ trộm v.v, Như Lai không nói kể cả lời nói đó. Nên biết lời nói thứ 3 là lời nói nên nói bởi mong muốn mang lại lợi ích dẫn dầu, bởi mong muốn Pháp dẫn dầu, bởi mong muốn dạy bảo dẫn dầu cho đại chúng như vầy: “Bây giờ do ngài không tạo phước (cho nên) ngài mới nghèo khổ, có màu da xấu xí, có ít quyền lực, dù đã được vững trú trong thế gian này vẫn không tạo thêm phước, ở trong phần tâm thứ 2 ngài sẽ thoát khỏi 4 khổ cảnh như thế nào?” Ở đây, kālaññū tathāgato (Như Lai biết được thời điểm) nghĩa là Như Lai là người biết được thời điểm để đem lại lợi ích cho việc tuyên bố lời nói đó, trong việc tuyên bố thứ 3 ấy. Có nghĩa là Như Lai biết được thời gian nắm lấy cần được nắm lấy để tiếp nhận (lắng nghe) của đại chúng rồi mới tuyên thuyết.

piyapakkhe paṭhamavācā aṭṭhāniyakathā nāma. sā evaṃ veditabbā — evaṃ kira gāmavāsimahallakaṃ nagaraṃ āgantvā pānāgāre pivantaṃ vañcetukāmā sambahulā dhuttā pītaṭṭhāne ṭhatvā tena saddhiṃ suraṃ pivantā “imassa nivāsanapāvuraṇampi hatthe bhaṇḍakampi sabbaṃ gaṇhissāmā”ti cintetvā katikaṃ akaṃsu — “ekekaṃ attapaccakkhakathaṃ kathema, yo ‘abhūtan’ti kathesi, kathitaṃ vā na saddahati, taṃ dāsaṃ katvā gaṇhissāmā”ti. tampi mahallakaṃ pucchiṃsu “tumhākampi tāta ruccatī”ti. evaṃ hotu tātāti.

Trong phần lời nói là nơi yêu mến, lời nói đầu tiên là lới nói không nên thiết lập, lời nói không nên thiết lập ấy nên biết như vậy – Như đã được nghe một người đàn ông lớn tuổi sống trong làng đã đi vào thành phố uống rượu ở một quán rượu, những kẻ say rượu muốn lừa hắn. Vì thế họ đã đứng gần nơi anh ta đang uống rượu rồi cùng anh ta uống rượu, trong lòng thầm nghĩ rằng: “chúng ta sẽ lấy hết toàn bộ trang phục kể cả những thứ trong tay của người đàn ông lớn tuổi này.” Vì vậy, họ đã thực hiện giao ước rằng: “chúng tôi sẽ kể cho nhau nghe những câu chuyện mà chính mỗi người chúng tôi đã thấy, người nào nói ‘không đúng sự thật’, hoặc không tin câu chuyện đã nói, chúng tôi sẽ bắt người đó làm nô lệ.” Vì thế mới hỏi người đàn ông lớn tuổi ấy rằng: “Bác có hài lòng không?” – ta đồng ý này các chàng trai trẻ.

eko dhutto āha — mayhaṃ, bho mātu, mayi kucchigate kapiṭṭhaphaladohalo ahosi. sā aññaṃ kapiṭṭhahārakaṃ alabbhamānā maṃyeva pesesi. ahaṃ gantvā rukkhaṃ abhiruhituṃ asakkonto attanāva attānaṃ pāde gahetvā muggaraṃ viya rukkhassa upari khipiṃ; atha sākhato sākhaṃ vicaranto phalāni gahetvā otarituṃ asakkonto gharaṃ gantvā nisseṇiṃ āharitvā oruyha mātu santikaṃ gantvā phalāni mātuyā adāsiṃ; tāni pana mahantāni honti cāṭippamāṇāni. tato me mātarā ekāsane nisinnāya samasaṭṭhiphalāni P.3.112 khāditāni. mayā ekucchaṅgena ānītaphalesu sesakāni kulasantake gāme khuddakamahallakānaṃ ahesuṃ. amhākaṃ gharaṃ soḷasahatthaṃ, sesaparikkhārabhaṇḍakaṃ apanetvā kapiṭṭhaphaleheva yāva chadanaṃ pūritaṃ. tato atirekāni gahetvā gehadvāre rāsiṃ akaṃsu. so asītihatthubbedho pabbato viya ahosi. kiṃ īdisaṃ, bho sakkā, saddahitunti?

Một kẻ nghiện rượu mới nói rằng – Thưa bác, khi tôi còn trong bụng mẹ, bà bị ốm nghén muốn ăn trái Kapiṭṭha1, bà không thể tìm người mang lại trái Kapiṭṭha được, nên đã sai tôi đi, tôi không thể trèo lên cây nên đã nắm lấy chân mình liệng lên trên cây như thể ném một cái búa, rồi cũng trèo từ cành này qua cành khác hái trái Kapiṭṭha, nhưng lại không thể đi xuống, cẩn phải trở về nhà lấy cái thang dựa vào cây mới có thể trèo xuống được, rồi đi tìm mẹ để đưa cho bà trái Kapiṭṭha; Tuy nhiên trái Kapiṭṭha có kích thước lớn như cái lu, từ đó mẹ của tôi ngồi xuống một chỗ ngồi để ăn bà đã ăn hết 60 trái Kapiṭṭha trong số trái Kapiṭṭha mà tôi đã mang đến bởi một bên hông, các trái Kapiṭṭha còn lại giành cho những đứa trẻ, và những người lớn tuổi trong nhà của gia đình, nhà của tôi có kích thước 16 hắt tay, mang những đồ vật còn sót lại ra ngoài, trái Kapiṭṭha chất đầy đến nóc nhà, phần dư từ nóc nhà cũng gôm lại đặt ở gần của chính nó cao 80 hắt tay tựa như một đỉnh núi. Này bác, bác tin câu chuyện này không?

gāmikamahallako M.3.79 tuṇhī nisīditvā sabbesaṃ kathāpariyosāne pucchito āha — “evaṃ bhavissati tātā, mahantaṃ raṭṭhaṃ, raṭṭhamahantatāya sakkā saddahitun”ti. yathā ca tena, evaṃ sesehipi tathārūpāsu nikkāraṇakathāsu kathitāsu āha — mayhampi tātā suṇātha, na tumhākaṃyeva kulāni, amhākampi kulaṃ mahākulaṃ, amhākaṃ pana avasesakhettehi kappāsakhettaṃ mahantataraṃ V.3.81. tassa anekakarīsasatassa kappāsakhettassa majjhe eko kappāsarukkho mahā asītihatthubbedho ahosi. tassa pañca sākhā, tāsu avasesasākhā phalaṃ na gaṇhiṃsu, pācīnasākhāya ekameva mahācāṭimattaṃ phalaṃ ahosi. tassa cha aṃsiyo, chasu aṃsīsu cha kappāsapiṇḍiyo pupphitā. ahaṃ massuṃ kāretvā nhātavilitto khettaṃ gantvā tā kappāsapiṇḍiyo pupphitā disvā ṭhitakova hatthaṃ pasāretvā gaṇhiṃ. tā kappāsapiṇḍiyo thāmasampannā cha dāsā ahesuṃ. vatvā uṭṭhāya nisinnakeyeva cūḷāsu gahetvā P.3.113 aṭṭhāsi. te “na mayaṃ dāsā”tipi vattuṃ nāsakkhiṃsu. atha ne kaḍḍhanto vinicchayaṃ netvā lakkhaṇaṃ āropetvā yāvajīvaṃ dāse katvā paribhuñji. evarūpiṃ kathaṃ tathāgato na bhāsati.

Người đàn ông lớn trong làng đã ngồi im lặng bị nhóm người nghiện rượu hỏi, khi kết thúc câu chuyện cũng nói rằng – “Nó sẽ trở nên như thế đó bác, vùng đất to lớn, tôi tin bởi vùng đất to lớn, khi những kẻ nghiện rượu còn lại kể chuyện không có nhân tương tự nhau, giống như kẻ nghiện rượu đó đã nói, người đàn ông lớn tuổi cũng nói rằng: “hãy lắng nghe tôi này các chàng trai trẻ, dòng tộc của của các anh không to lớn đâu, dòng tộc của tôi mới thật sự to lớn, ruộng vườn của tôi to lớn hơn bất kỳ ruộng vườn nào, giữa ruộng vườn có diện tích hàng trăm mẫu, có một cây bông 80 hắt tay kích thước to lớn, nó các 5 nhánh, cả 5 nhánh ấy, những nhánh khác không có quả, nhánh cây ở hướng Đông chỉ có một quả, cái quả to bằng cái lu kích thước lớn. Quả đó có 6 múi, mỗi múi có 6 quả đều nở hoa trong cả 6 múi đó. Tôi mới cho họ sửa soạn lại râu, đi tắm sạch sẽ xức dầu thơm rồi đi ra đồng, đứng nhìn những bông hoa của quả bông ấy trổ hoa, mới đưa tay ra nắm lấy, những quả bông ấy có sức mạnh khiến họ trở thành những nô lệ, những người nô lệ ấy từng ngươi cũng rời bỏ tôi đi, cho đến bây giờ tôi cũng không được gặp lại những nô lệ ấy, hôm nay tôi đã gặp được các người. Vị ấy đã đề cập đến tên sáu người, ngươi tên là Nanda, ngươi tên là Puṇṇa, ngươi tên là Vaḍḍhamāna, ngươi tên là Citta, ngươi tên là Maṅgala, ngươi tên là Poṭṭhiya rồi đứng dậy tóm lấy búi tóc những kẻ nghiện rượu đang ngồi đứng lên. Những kẻ nghiện rượu ấy không thể bác bỏ rằng “chúng tôi không phải những người nô lệ”. Khi đó, người đàn ông lớn tuổi sống ở làng ấy đã tóm gọn những kẻ nghiện rượu đưa ra pháp đình, sau đó đưa ra tướng người hầu rồi buộc tội đã khiến cho họ trở thành những người nô lệ phục vụ đến trọn đời. Như Lai cũng không nói những lời nói bằng hình thức như vậy.

dutiyavācā āmisahetucāṭukamyatādivasena nānappakārā paresaṃ thomanavācā ceva, corakathaṃ rājakathanti ādinayappavattā tiracchānakathā ca. tampi tathāgato na bhāsati. tatiyavācā ariyasaccasannissitakathā, yaṃ vassasatampi suṇantā paṇḍitā neva tittiṃ gacchanti. iti tathāgato neva sabbampi appiyavācaṃ bhāsati na piyavācaṃ. tatiyaṃ tatiyameva pana bhāsitabbakālaṃ anatikkamitvā bhāsati. tattha tatiyaṃ appiyavācaṃ sandhāya heṭṭhā daharakumāraupamā āgatāti veditabbaṃ.

Lời nói thứ hai là lời nói của kẻ trộm cắp đối với người khác có nhiều cách thức khác nhau do nhìn thấy tài vật hoặc do mãnh lực sự muốn uống rượu v.v, và việc nói phù phiếm được diễn ra theo hình thức như sau: chuyện người ăn trộm, chuyện về vua chúa v.v. Kể cả vấn đề này Như Lai cũng không nói đến. Lời nói thứ ba là nói dựa vào Thánh Đế mà những bậc trí giả lắng nghe dầu trải qua hàng trăm năm cũng không cảm thấy no đủ. Như thế Như Lai không thuyết tất cả lời nói chân thật bất kể không phải là lời nói yêu mến hoặc lời nói được yêu mến (nhưng không có lợi ích) thì chỉ thuyết lời nói thứ 3. Hơn nữa, chính lời nói thứ 3 (ngài) cũng không thuyết quá thời gian cần thuyết. Ở đây nên biết rằng ví dụ minh họa bằng câu chuyện đứa trẻ nhỏ (daharakumāra) đã được thuyết giảng trước đó. Trong trường hợp này muốn đề cập đến lời nói không được yêu mến ở trường hợp thứ 3.

87. udāhu ṭhānasovetanti udāhu ṭhānuppattikañāṇena taṅkhaṇaṃyeva taṃ tathāgatassa upaṭṭhātīti pucchati. saññātoti ñāto paññāto pākaṭo. dhammadhātūti dhammasabhāvo. sabbaññutaññāṇassetaṃ adhivacanaṃ M.3.80. taṃ bhagavatā suppaṭividdhaṃ, hatthagataṃ bhagavato. tasmā so yaṃ yaṃ icchati, taṃ taṃ sabbaṃ ṭhānasova paṭibhātīti. sesaṃ sabbattha uttānameva. ayaṃ pana dhammadesanā neyyapuggalavasena pariniṭṭhitāti.

udāhu ṭhānasovetaṃ (hay là câu trả lời xuất hiện rõ rằng): Vương tử Abhaya hỏi rằng: hay là câu đó xuất hiện ngay lập tức cùng Như Lai bằng trí tuệ khởi lên tức khắc. Saññāto (đã được nhận biết): vị ấy đã biết, đã biết toàn diện, đã hiện hữu. Dhammadhātu (Pháp giới): Thực tính của Pháp, lời này là tên gọi của Toàn giác trí. Thật vậy, Toàn giác trí ấy đức Thế Tôn thấu triệt một cách chân chánh, trong bàn tay của đức Thế Tôn. Vì thế, ngài muốn nói đến điều nào, thì toàn bộ điều đấy cũng rõ ràng ngay tức khắc. Những từ còn lại trong các câu đều đơn giản. Pháp thoại này kết thức bởi mãnh lực của hạng người cần được hướng dẫn (neyyapuggala).

Giải Thích Kinh Vương Tử Vô Úy Kết Thúc.

1 Trái táo voi