Kinh số 117 – Giải Thích Đại Kinh Bốn Mươi

(Mahācattārīsakasuttavaṇṇanā)

Xem Trung Bộ Kinh – Đại Kinh Bốn Mươi

136. Evamme sutanti Mahācattārīsakasuttaṃ. Tattha ariyanti niddosaṃ lokuttaraṃ, niddosañhi “ariyan”ti vuccati. Sammāsamādhinti maggasamādhiṃ. Saupanisanti sapaccayaṃ. Saparikkhāranti saparivāraṃ.

136. (Kinh) Đại Kinh Bốn Mươi (bắt đầu bằng câu) “Như vầy tôi nghe”. Trong đó, ariya (Thánh) nghĩa là không có lỗi lầm (niddosaṃ), siêu thế (lokuttaraṃ); thật vậy, cái không có lỗi lầm được gọi là ‘Thánh’. Sammāsamādhiṃ (Chánh định) tức là định trong đạo (maggasamādhiṃ). Saupanisaṃ (có cận duyên) nghĩa là có nhân duyên (sapaccayaṃ). Saparikkāraṃ (có tư trợ) nghĩa là có yếu tố phối hợp (saparivāraṃ).

Parikkhatāti parivāritā. Sammādiṭṭhi pubbaṅgamā hotīti dvidhā sammādiṭṭhi pubbaṅgamā hoti purecārikā vipassanāsammādiṭṭhi ca maggasammādiṭṭhi ca. Vipassanāsammādiṭṭhi tebhūmakasaṅkhāre aniccādivasena parivīmaṃsati; Maggasammādiṭṭhi pana parivīmaṃsanapariyosāne bhūmiladdhaṃ vaṭṭaṃ samugghāṭayamānā vūpasamayamānā sītudakaghaṭasahassaṃ matthake āsiñcamānā viya uppajjati. Yathā hi khettaṃ kurumāno kassako paṭhamaṃ araññe rukkhe chindati, pacchā aggiṃ deti, so aggi paṭhamaṃ chinne rukkhe anavasese jhāpeti, evameva vipassanāsammādiṭṭhi paṭhamaṃ aniccādivasena saṅkhāre vīmaṃsati, maggasammādiṭṭhi tāya vīmaṃsanatthaṃ saṅkhāre puna appavattivasena samugghāṭayamānā uppajjati, sā duvidhāpi idha adhippetā.

Parikkhatā (được tư trợ) nghĩa là được bao quanh/hộ trì (parivāritā).

(Câu) “Chánh kiến đi hàng đầu” (Sammādiṭṭhi pubbaṅgamā hoti) có nghĩa là: Chánh kiến đi hàng đầu theo hai cách, với tư cách là người tiên phong, đó là Chánh kiến Tuệ quán (vipassanāsammādiṭṭhi) và Chánh kiến Đạo (maggasammādiṭṭhi).

Chánh kiến Tuệ quán quán xét các pháp hành trong ba cõi theo phương diện vô thường, khổ, vô ngã. Còn Chánh kiến Đạo, vào lúc cuối của sự quán xét ấy, sẽ sanh khởi trong khi nhổ bật gốc rễ vòng luân hồi thuộc về các cõi, trong khi làm cho chúng an tịnh, giống như dội một ngàn ghè nước mát lên đầu.

Ví như một người nông dân khi làm ruộng, trước hết chặt cây trong rừng, sau đó đốt lửa; ngọn lửa ấy thiêu rụi không còn sót lại những cây đã bị chặt trước. Cũng thế ấy, Chánh kiến Tuệ quán trước tiên quán xét các pháp hành theo phương diện vô thường, v.v.; sau đó, Chánh kiến Đạo sanh khởi, nhổ bật gốc rễ các pháp hành đã được (Chánh kiến Tuệ quán) quán xét đó, khiến chúng không thể sanh khởi trở lại.

Cả hai loại (chánh kiến) này đều được nói đến ở đây.

Micchādiṭṭhīti pajānātīti micchādiṭṭhiṃ aniccaṃ dukkhaṃ anattāti lakkhaṇapaṭivedhena ārammaṇato pajānāti, sammādiṭṭhiṃ kiccato asammohato pajānāti. Sāssa hoti sammādiṭṭhīti sā evaṃ pajānanā assa sammādiṭṭhi nāma hoti.

(Câu) “Tuệ tri tà kiến là tà kiến” (Micchādiṭṭhīti pajānāti) có nghĩa là: (Vị ấy) biết rõ tà kiến thông qua đối tượng do thấu triệt tam tướng là vô tường, khổ não, và vô ngã. (Vị ấy) biết rõ chánh kiến theo phận sự bởi sự không si mê (asammohato).

(Câu) “Đó là chánh kiến của vị ấy” (Sāssa hoti sammādiṭṭhi) có nghĩa là: Sự hiểu biết như vậy của vị ấy được gọi là chánh kiến.

Dvāyaṃ vadāmīti dvayaṃ vadāmi, duvidhakoṭṭhāsaṃ vadāmīti attho. Puññabhāgiyāti puññakoṭṭhāsabhūtā. Upadhivepakkāti upadhisaṅkhātassa vipākassa dāyikā.

Dvāyaṃ vadāmi: Ta nói có 2 loại (chánh kiến), có nghĩa là ta nói (chánh kiến) có hai loại. Thuộc phước báu: liên quan đến phước báu. Đưa đến quả sanh y: nghĩa là cái mang lại (dāyikā) quả dị thục (vipākassa) vốn được gọi là sanh y (upadhisaṅkhātassa).

Paññā paññindriyantiādīsu vibhajitvā vibhajitvā amatadvāraṃ paññapeti dassetīti paññā. Tasmiṃ atthe indattaṃ karotīti paññindriyaṃ. avijjāya na kampatīti paññābalaṃ. Bojjhaṅgappattā hutvā catusaccadhamme vicinātīti dhammavicayasambojjhaṅgo. Maggasampattiyā pasaṭṭhā sobhanā diṭṭhīti sammādiṭṭhi. Ariyamaggassa aṅganti maggaṅgaṃ. Soti so bhikkhu. Pahānāyāti pajahanatthāya. Upasampadāyāti paṭilābhatthāya. Sammāvāyāmoti niyyāniko kusalavāyāmo. Satoti satiyā samannāgato hutvā. Anuparidhāvanti anuparivattantīti sahajātā ca purejātā ca hutvā parivārenti. Ettha hi sammāvāyāmo ca sammāsati ca lokuttarasammādiṭṭhiṃ sahajātā parivārenti rājānaṃ viya ekarathe ṭhitā asiggāhachattaggāhā. Vipassanāsammādiṭṭhi pana purejātā hutvā parivāreti rathassa purato pattikādayo viya. Dutiyapabbato paṭṭhāya pana sammāsaṅkappādīnaṃ tayopi sahajātaparivārāva hontīti veditabbā.

Trong các từ “trí tuệ, tuệ căn, v.v.” (Paññā paññindriyantiādīsu):

  • Nó phân tích, phân chia và làm hiển lộ, chỉ bày cánh cửa bất tử, nên gọi là trí tuệ (paññā).
  • Nó thực thi quyền làm chủ (indattaṃ) trong ý nghĩa đó, nên gọi là tuệ căn (paññindriyaṃ).
  • Nó không bị lay động bởi vô minh, nên gọi là tuệ lực (paññābalaṃ).
  • Khi đã trở thành một giác chi, nó thẩm xét Bốn Pháp Chân Lý, nên gọi là Trạch pháp giác chi (dhammavicayasambojjhaṅgo).
  • Là cái thấy (diṭṭhi) đúng đắn, tốt đẹp (pasaṭṭhā sobhanā) do sự thành tựu Thánh đạo, nên gọi là chánh kiến (sammādiṭṭhi).
  • Là một chi phần (aṅga) của Thánh đạo, nên gọi là đạo chi (maggaṅgaṃ).

So (Vị ấy) tức là vị Tỳ-kheo đó. Pahānāya (để đoạn trừ) nghĩa là nhằm mục đích đoạn trừ. Upasampadāya (để thành tựu) nghĩa là nhằm mục đích chứng đắc. Sammāvāyāmo (Chánh tinh tấn) là sự nỗ lực thiện lành có năng lực dẫn dắt (đến Niết-bàn). Sato (có chánh niệm) nghĩa là được trang bị với niệm.

(Câu) “Chạy theo, chạy vòng quanh” (Anuparidhāvanti anuparivattantīti) có nghĩa là chúng hộ trì (cho Chánh kiến) bằng cách trở thành pháp đồng sanh (sahajātā) và pháp tiền sanh (purejātā).

Cụ thể ở đây, Chánh tinh tấn và Chánh niệm hộ trì cho Chánh kiến Siêu thế với tư cách là pháp đồng sanh, giống như người cầm gươm và người cầm lọng đứng cùng trên một cỗ xe với nhà vua. Còn (khi liên hệ với) Chánh kiến Tuệ quán, chúng hộ trì với tư cách là pháp tiền sanh, giống như lính bộ binh đi phía trước cỗ xe.

Tuy nhiên, cần phải hiểu rằng, bắt đầu từ đoạn thứ hai (về Chánh tư duy) trở đi, đối với Chánh tư duy và các chi phần còn lại, cả ba pháp (Chánh kiến, Chánh tinh tấn, Chánh niệm) chỉ là những pháp hộ trì đồng sanh mà thôi.

137. Micchāsaṅkappoti pajānātīti micchāsaṅkappaṃ aniccaṃ dukkhaṃ anattāti lakkhaṇapaṭivedhena ārammaṇato pajānāti sammāsaṅkappaṃ kiccato asammohato pajānāti. Ito aparesu sammāvācādīsupi evameva yojanā veditabbā. Kāmasaṅkappādayo dvedhāvitakkasutte (ma. ni. 1.206) vuttāyeva.

137. Biết rõ là tà tư duy: Biết rõ tà tư duy thông qua đối tượng do thấu triệt tam tướng là vô thương, khổ não, vô ngã; biết rõ chánh tư duy theo phận sự do không si mê. Đối với các chi phần sau đây như Chánh ngữ, v.v., cũng nên hiểu cách áp dụng tương tự như vậy. Các loại tư duy như tư duy về dục (Kāmasaṅkappādayo) đã được nói đến trong Kinh Song Tầm (Dvedhāvitakka Sutta).

Takkotiādīsu takkanavasena takko. sveva ca upasaggena padaṃ vaḍḍhetvā vitakkoti vutto, sveva saṅkappanavasena saṅkappo. Ekaggo hutvā ārammaṇe appetīti appanā. Upasaggena pana padaṃ vaḍḍhetvā byappanāti vuttaṃ. Cetaso abhiniropanāti cittassa abhiniropanā. Vitakkasmiñhi sati vitakko ārammaṇe cittaṃ abhiniropeti vitakke pana asati attanoyeva dhammatāya cittaṃ ārammaṇaṃ abhiruhati jātisampanno abhiññātapuriso viya rājagehaṃ. Anabhiññātassa hi paṭihārena vā dovārikena vā attho hoti, abhiññātaṃ jātisampannaṃ sabbe rājarājamahāmattā jānantīti attanova dhammatāya nikkhamati ceva pavisati ca, evaṃsampadamidaṃ veditabbaṃ. Vācaṃ saṅkharotīti vacīsaṅkhāro. Ettha ca lokiyavitakko vācaṃ saṅkharoti, na lokuttaro. Kiñcāpi na saṅkharoti, vacīsaṅkhārotveva ca panassa nāmaṃ hoti. Sammāsaṅkappaṃ anuparidhāvantīti lokuttarasammāsaṅkappaṃ parivārenti. Ettha ca tayopi nekkhammasaṅkappādayo pubbabhāge nānācittesu labbhanti, maggakkhaṇe pana tiṇṇampi kāmasaṅkappādīnañca padacchedaṃ samugghātaṃ karonto maggaṅgaṃ pūrayamāno ekova sammāsaṅkappo uppajjitvā nekkhammasaṅkappādivasena tīṇi nāmāni labhati. parato sammāvācādīsupi eseva nayo.

Trong các từ “suy tư, v.v.” (Takkotiādīsu):

  • Do có sự suy nghĩ(takkanavasena), nó được gọi là suy tư (takko). Chính nó, khi được thêm tiền tố để phát triển từ ngữ, được gọi là suy tầm (vitakko). Chính nó, do có sự chủ ý (saṅkappanavasena), được gọi là tư duy (saṅkappo). [1]
  • Khi đã trở nên nhất tâm, nó đặt (tâm) vào đối tượng, nên gọi là sự an trú (appanā). Và khi được thêm tiền tố để phát triển từ ngữ, nó được gọi là sự chuyên trú (byappanā).
  • Sự hướng tâm (Cetaso abhiniropanā) là sự đặt tâm vững chắc vào đối tượng. Thật vậy, khi có vitakka (suy tầm), chính vitakka sẽ hướng tâm vào đối tượng. Nhưng khi không có vitakka, tâm tự nó đi đến đối tượng theo bản chất tự nhiên của nó, giống như một người có dòng dõi cao quý và quen thuộc (với vua) tự mình đi vào hoàng cung. Người không quen thuộc thì cần đến người gác cổng hay người dẫn đường; còn người quen thuộc, có dòng dõi cao quý thì được tất cả từ vua đến các quan đại thần biết đến, nên có thể tự mình ra vào một cách tự nhiên. Phải hiểu sự so sánh này là như vậy. [2]
  • Nó tạo tác lời nói, nên gọi là khẩu hành (vacīsaṅkhāro). Ở đây, tư duy thế gian (lokiyavitakko) thì tạo tác lời nói, còn (tư duy) siêu thế (lokuttaro) thì không. Dù không tạo tác, nó vẫn có tên là “khẩu hành”. [3]

(Câu) “Chạy vòng quanh chánh tư duy” nghĩa là chúng hộ trì cho Chánh tư duy siêu thế.

Ở đây, trong giai đoạn đầu(pubbabhāge), cả ba loại (tư duy thiện) là tư duy xuất ly, v.v., có thể sanh khởi trong các tâm khác nhau. Nhưng tại khoảnh khắc Đạo (maggakkhaṇe), chỉ có một Chánh Tư Duy duy nhất sanh khởi, vừa làm tròn phận sự của một đạo chi, vừa cắt đứt và nhổ bật gốc rễ của cả ba loại (tà tư duy) như tư duy về dục, v.v. Khi sanh khởi như vậy, nó nhận được ba tên gọi tương ứng với tư duy xuất ly, v.v.

Đối với các chi phần về sau như Chánh ngữ, v.v., cũng áp dụng cùng một phương pháp này.

138. Musāvādā veramaṇītiādīsu viratipi cetanāpi vaṭṭati. Āratītiādīsu vacīduccaritehi ārakā ramatīti ārati. Vinā tehi ramatīti virati. Tato tato paṭinivattāva hutvā tehi vinā ramatīti paṭivirati. Upasaggavasena vā padaṃ vaḍḍhitaṃ, sabbamidaṃ oramanabhāvasseva adhivacanaṃ, veraṃ maṇati vināsetīti veramaṇi. idampi oramanasseva vevacanaṃ.

138. Trong các câu như “sự kiêng tránh nói dối”, v.v., hiểu là (tâm sở) virati (sự tránh xa) cũng đúng, mà hiểu là (tâm sở) cetanā (tư) cũng đúng.

Trong các từ như ārati, v.v.:

  • Người ấy vui thích (ramati) khi ở xa (ārakā) các khẩu ác hành, vì vậy gọi là ārati (sự vui thích ở xa).
  • Người ấyvui thích (ramati) khi không có (vinā) chúng (các ác hành), vì vậy gọi là virati (sự vui thích trong vắng mặt).
  • Sau khi đã quay lưng lại với (paṭinivattāva hutvā) những điều đó, người ấy vui thích khi không có chúng, vì vậy gọi là paṭivirati (sự vui thích sau khi từ bỏ).

Hoặc (cũng có thể hiểu rằng), từ ngữ chỉ được phát triển thêm bằng cách dùng tiền tố (upasagga). Tất cả những từ này đều là tên gọi khác (adhivacana) cho trạng thái kiêng tránh (oramana).

(Một cách giải thích khác:) Nó hủy diệt (maṇati/vināseti) sự thù hận (veraṃ), nên được gọi là veramaṇi (sự hủy diệt thù hận). Từ này cũng là một từ đồng nghĩa (vevacana) của sự kiêng tránh.

139. Pāṇātipātā veramaṇītiādīsupi cetanā viratīti ubhayampi vaṭṭatiyeva.

139. Đối với sự kiêng tránh sát sanh, v.v., thì việc hiểu đó là (tâm sở) Tư (cetanā) hay (tâm sở) Xa lìa (virati) đều được chấp nhận.

140. Kuhanātiādīsu tividhena kuhanavatthunā lokaṃ etāya kuhayanti vimhāpayantīti kuhanā. Lābhasakkāratthikā hutvā etāya lapantīti lapanā. Nimittaṃ sīlametesanti nemittikā, tesaṃ bhāvo nemittikatā. Nippeso sīlametesanti nippesikā, tesaṃ bhāvo nippesikatā. Lābhena lābhaṃ nijigīsanti magganti pariyesantīti lābhena lābhaṃ nijigīsanā[1], tesaṃ bhāvo lābhena lābhaṃ nijigīsanatā. Ayamettha saṅkhepo, vitthārena panetā kuhanādikā visuddhimagge sīlaniddeseyeva Pāḷiñca aṭṭhakathañca āharitvā pakāsitā. Micchāājīvassa pahānāyāti ettha na kevalaṃ pāḷiyaṃ āgatova micchāājīvo, ājīvahetu pana pavattitā pāṇātipātādayo sattakammapathacetanāpi micchāājīvova. Tāsaṃyeva sattannaṃ cetanānaṃ padapacchedaṃ samugghātaṃ kurumānaṃ maggaṅgaṃ pūrayamānā uppannā virati sammāājīvo nāma.

140. 

  1. Trong các từ “sự lừa đảo (kuhanā), v.v.”:
  • Do người ta dùng nó để lừa dối (kuhayanti), làm cho thế gian kinh ngạc/mê hoặc (vimhāpayanti) bằng ba loại cơ sở của sự lừa đảo, nên nó được gọi là kuhanā (sự lừa đảo).
  • Do người ta, vì muốn có lợi lộc và sự cung kính, mà nói năng, tán gẫu (lapanti) bằng nó, nên gọi là lapanā (sự nói năng tâng bốc).
  • Những người có thói quen/hành vi (sīlametesanti) là ra hiệu, gợi ý (nimittaṃ) thì gọi là nemittikā; bản chất của họ được gọi là nemittikatā (tính cách gợi ý, ra hiệu).
  • Những người có thói quen/hành vi (sīlametesanti) là chèn ép, miệt thị (nippeso) thì gọi là nippesikā; bản chất của họ được gọi là nippesikatā (tính cách chèn ép, miệt thị).
  • Họ mong muốn (nijigīsanti), tìm cầu (magganti), truy tìm (pariyesanti) lợi lộc lớn hơn (lābhaṃ) bằng lợi lộc nhỏ (lābhena), nên gọi là lābhena lābhaṃ nijigīsanā (sự dùng lợi nhỏ câu lợi lớn); bản chất của việc đó được gọi là lābhena lābhaṃ nijigīsanatā.

Đây là phần tóm tắt. Còn về chi tiết, những điều như kuhanā (sự lừa đảo), v.v., đã được giải thích rõ ràng trong bộ Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga), ngay tại phần Diễn giải về Giới (Sīlaniddesa), bằng cách trích dẫn cả Pāli và Chú giải.

(Câu) “Để đoạn trừ Tà Mạng”: Ở đây, Tà Mạng không chỉ là những gì đã được nêu trong kinh điển Pāli, mà ngay cả các tư (cetanā) của bảy nghiệp đạo như sát sanh, v.v., khi chúng được thực hiện vì mục đích nuôi mạng, cũng chính là Tà Mạng.

Chính sự kiêng tránh (virati) sanh khởi lên, làm tròn vai trò của một đạo chi, đồng thời thực hiện việc cắt đứt lộ trình (padapacchedaṃ) và nhổ bật gốc rễ (samugghātaṃ) của chính bảy loại tư (cetanā) ấy, thì được gọi là Chánh Mạng (sammāājīvo).

141. Sammādiṭṭhissāti maggasammādiṭṭhiyaṃ ṭhitassa puggalassa. Sammāsaṅkappo pahotīti maggasammāsaṅkappo pahoti, phalasammādiṭṭhissapi phalasammāsaṅkappo pahotīti evaṃ sabbapadesu attho veditabbo. Sammāñāṇassa [2]sammāvimuttīti ettha pana maggasammāsamādhimhi ṭhitassa maggapaccavekkhaṇaṃ sammāñāṇaṃ pahoti, phalasammāsamādhimhi ṭhitassa phalapaccavekkhaṇaṃ sammāñāṇaṃ pahoti. Maggapaccavekkhaṇasammāñāṇe[3] ca ṭhitassa maggasammāvimutti pahoti, phalapaccavekkhaṇasammāñāṇe[4] ṭhitassa phalasammāvimutti pahotīti attho. Ettha ca ṭhapetvā aṭṭha phalaṅgāni sammāñāṇaṃ paccavekkhaṇaṃ katvā sammāvimuttiṃ phalaṃ kātuṃ vaṭṭatīti vuttaṃ.

141. (Câu) “Đối với vị có Chánh Kiến” có nghĩa là: đối với hạng người đã vững trú trong Chánh Kiến thuộc Đạo (maggasammādiṭṭhi).

(Câu) “Chánh Tư Duy được hình thành” có nghĩa là: Chánh Tư Duy thuộc Đạo (maggasammāsaṅkappa) được hình thành. Tương tự, đối với vị có Chánh Kiến thuộc Quả (phalasammādiṭṭhissa), Chánh Tư Duy thuộc Quả (phalasammāsaṅkappa) được hình thành. Nên hiểu ý nghĩa trong tất cả các phần còn lại cũng theo cách như vậy.

Hơn nữa, trong đoạn “đối với vị có Chánh Trí thì có Chánh Giải Thoát”, ý nghĩa nên được hiểu như sau:

  • Đối với hạng người đã vững trú trong Chánh Định thuộc Đạo, thì Chánh Trí là sự quán chiếu Đạo (maggapaccavekkhaṇaṃ) được hình thành.
  • Đối với hạng người đã vững trú trong Chánh Định thuộc Quả, thì Chánh Trí là sự quán chiếu Quả (phalapaccavekkhaṇaṃ) được hình thành.
  • Đối với hạng người đã vững trú trong Chánh Trí quán chiếu Đạo, thì Chánh Giải Thoát thuộc Đạo được hình thành.
  • Đối với hạng người đã vững trú trong Chánh Trí quán chiếu Quả, thì Chánh Giải Thoát thuộc Quả được hình thành.

Và ở đây, có nói rằng: ngoại trừ tám chi phần của Thánh Quả (vốn đã có sẵn), thì việc hiểu rằng Chánh Trí chính là sự quán chiếu (paccavekkhaṇa), và Chánh Giải Thoát chính là kết quả (phala) của sự quán chiếu đó, là hợp lý.

142. Sammādiṭṭhissa, bhikkhave, micchādiṭṭhi nijjiṇṇā hotītiādīsu avasesanikāyabhāṇakā phalaṃ kathitanti vadanti, majjhimabhāṇakā pana dasannaṃ nijjaravatthūnaṃ āgataṭṭhāne maggo kathitoti vadanti. Tattha[5] dassanaṭṭhena sammādiṭṭhi veditabbā, viditakaraṇaṭṭhena sammāñāṇaṃ, tadadhimuttaṭṭhena[6] sammāvimutti.

142. Trong câu “Này các Tỷ-kheo, đối với người có Chánh Kiến thì Tà Kiến trở nên kiệt quệ”, v.v.:

  • Các vị tụng đọc các bộ Nikāya còn lại (tức Dīgha, Saṃyutta, Aṅguttara) cho rằng (đoạn kinh này) nói về Thánh Quả (phalaṃ).
  • Trong khi đó, các vị tụng đọc Majjhima Nikāya (Trung Bộ Kinh) lại cho rằng tại nơi đề cập đến mười sự việc “bị kiệt quệ” này, (đoạn kinh) đang nóivề Thánh Đạo (maggo).

Trong các pháp đó, nên hiểu rằng:

  • Chánh Kiến (sammādiṭṭhi) có ý nghĩa là thấy (Niết-bàn).
  • Chánh Trí (sammāñāṇa) có ý nghĩa là làm cho biết rõ.
  • Chánh Giải Thoát (sammāvimutti) có ý nghĩa là giải thoát và hướng đến đó.

Vīsati kusalapakkhāti sammādiṭṭhiādayo dasa, “sammādiṭṭhipaccayā ca aneke kusalā dhammā”tiādinā nayena vuttā dasāti evaṃ vīsati kusalapakkhā honti. Vīsati akusalapakkhāti “micchādiṭṭhi nijjiṇṇā hotī”tiādinā nayena vuttā micchādiṭṭhiādayo dasa, “ye ca micchādiṭṭhipaccayā aneke pāpakā”tiādinā vuttā dasa cāti evaṃ vīsati akusalapakkhā veditabbā. Mahācattārīsakoti mahāvipākadānena mahantānaṃ kusalapakkhikānañceva akusalapakkhikānañca cattārīsāya dhammānaṃ pakāsitattā mahācattārīsakoti.

(Bài kinh đề cập đến) hai mươi thiện phần là: mười pháp bắt đầu bằng Chánh Kiến, và mười pháp được nói đến theo phương pháp “do duyên Chánh Kiến mà nhiều thiện pháp khác sanh khởi”. Như vậy là có hai mươi thiện phần.

(Tương tự,) nên hiểu hai mươi bất thiện phần là: mười pháp bắt đầu bằng Tà Kiến được nói đến theo phương pháp “Tà Kiến trở nên kiệt quệ”, và mười pháp được nói đến theo phương pháp “do duyên Tà Kiến mà nhiều ác pháp khác sanh khởi”.

Bài kinh này được gọi là Đại Bốn Mươi (Mahācattārīsaka) vì nó đã tuyên thuyết về 40 pháp (bao gồm 20 thiện phần và 20 bất thiện phần), và vì những pháp này mang lại kết quả to lớn (mahāvipāka).

Imasmiñca pana sutte pañca sammādiṭṭhiyo kathitā vipassanāsammādiṭṭhi kammassakatāsammādiṭṭhi maggasammādiṭṭhi phalasammādiṭṭhi paccavekkhaṇāsammādiṭṭhīti. Tattha “micchādiṭṭhiṃ micchādiṭṭhīti pajānātī”tiādinā nayena vuttā vipassanāsammādiṭṭhi nāma. “Atthi dinnan”tiādinā nayena vuttā kammassakatāsammādiṭṭhi nāma. “Sammādiṭṭhissa, bhikkhave, sammāsaṅkappo pahotī”ti ettha pana maggasammādiṭṭhi phalasammādiṭṭhīti dvepi kathitā. “sammāñāṇaṃ pahotī”ti ettha pana paccavekkhaṇāsammādiṭṭhi kathitāti veditabbā.

Hơn nữa, trong bài kinh này, năm loại Chánh Kiến đã được thuyết giảng, đó là:

  1. Chánh Kiến Thiền Tuệ (vipassanāsammādiṭṭhi)
  2. Chánh Kiến về Nghiệp và Quả của Nghiệp (kammassakatāsammādiṭṭhi)
  3. Chánh Kiến thuộc Thánh Đạo (maggasammādiṭṭhi)
  4. Chánh Kiến thuộc Thánh Quả (phalasammādiṭṭhi)
  5. Chánh Kiến Quán Chiếu (paccavekkhaṇāsammādiṭṭhi)

Trong đó:

  • Chánh Kiến được nói theo phương pháp “Vị ấy biết rõ Tà Kiến là Tà Kiến…” được gọi là Chánh Kiến Thiền Tuệ.
  • Chánh Kiến được nói theo phương pháp “Có sự bố thí (có kết quả)…” được gọi là Chánh Kiến về Nghiệp và Quả của Nghiệp.
  • Trong câu “Này các Tỷ-kheo, từ Chánh Kiến mà Chánh Tư Duy được hình thành…”, cả hai loại là Chánh Kiến thuộc Thánh Đạo và Chánh Kiến thuộc Thánh Quả đều đã được nói đến.
  • Nên biết rằng, trong câu “…Chánh Trí được hình thành”, Chánh Kiến Quán Chiếu đã được nói đến.

143. Sammādiṭṭhiṃ ce bhavaṃ garahatīti micchādiṭṭhi nāmāyaṃ sobhanāti vadantopi sammādiṭṭhi nāmāyaṃ na sobhanāti vadantopi sammādiṭṭhiṃ garahati nāma. Okkalāti Okkalajanapadavāsino. Vassabhaññāti Vasso ca Bhañño cāti[7] dve janā. Ahetuvādāti natthi hetu natthi paccayo sattānaṃ visuddhiyāti evamādivādino. Akiriyavādāti karoto na karīyati pāpanti evaṃ kiriyapaṭikkhepavādino. Natthikavādāti natthi dinnantiādivādino. Te imesu tīsupi dassanesu okkantaniyāmā ahesuṃ. kathaṃ panetesu niyāmo hotīti. Yo hi evarūpaṃ laddhiṃ gahetvā rattiṭṭhānadivāṭṭhāne nisinno sajjhāyati vīmaṃsati, tassa “natthi hetu natthi paccayo karoto na karīyati pāpaṃ, natthi dinnaṃ, kāyassa bhedā ucchijjatī”ti tasmiṃ ārammaṇe micchāsati santiṭṭhati, cittaṃ ekaggaṃ hoti, javanāni javanti. Paṭhamajavane satekiccho hoti, tathā dutiyādīsu. sattame Buddhānampi atekiccho anivattī Ariṭṭhakaṇḍakasadiso hoti.

  1. (Câu) “Nếu ai chỉ trích Chánh Kiến”: Bất kỳ ai nói rằng “Tà Kiến này là tốt đẹp”, hoặc nói rằng “Chánh Kiến này là không tốt đẹp”, thì đều được gọi là đang chỉ trích Chánh Kiến.
  • Okkalā: Là những người sống ở xứ Okkalā.
  • Vassabhaññā: Là tên của hai người, Vassa và Bhañña.
  • Thuyết Vô Nhân (Ahetuvādā): Là những người có quan điểm rằng: “Không có nhân, không có duyên cho sự thanh tịnh của chúng sanh”.
  • Thuyết Vô Tác (Akiriyavādā): Là những người có quan điểm bác bỏ hành động (nghiệp), cho rằng: “Người làm ác không bị xem là đã làm”.
  • Thuyết Hư Vô (Natthikavādā): Là những người có quan điểm rằng: “Sự bố thí không có kết quả”, v.v.

Những người này đã đi vào con đường tà kiến cố định (niyāma) trong cả ba quan điểm ấy.

Vậy, sự cố định trong các quan điểm này xảy ra như thế nào?
Bởi vì người nào, sau khi chấp thủ một học thuyết như vậy, ngồi ở nơi yên tĩnh ban ngày hay ban đêm để suy ngẫm, quán xét về nó, thì Tà Niệm của người ấy sẽ an trú vững chắc trên đối tượng đó: “Không có nhân, không có duyên; làm ác không bị xem là đã làm; bố thí không có quả; sau khi thân hoại, chúng sanh sẽ bị đoạn diệt”. Tâm của người ấy trở nên nhất tâm trên đối tượng đó, và các sát-na đổng lực (javana) vận hành.

  • Ở sát-na đổng lực thứ nhất, (tà kiến ấy) còn có thể cứu chữa (satekiccho). Tương tự ở các sát-na thứ hai, v.v. (cho đến thứ sáu).
  • Nhưng đến sát-na đổng lực thứ bảy, người ấy trở nên vô phương cứu chữa (atekiccho) ngay cả đối với chư Phật, trở thành người không thể đảo ngược (quan điểm của mình), giống như Tỳ-kheo Ariṭṭha (người chấp tà kiến về các pháp chướng ngại).

Tattha koci ekaṃ dassanaṃ okkamati, koci dve, koci tīṇipi, niyatamicchādiṭṭhikova hoti, patto saggamaggāvaraṇañceva mokkhamaggāvaraṇañca. Abhabbo tassa attabhāvassa anantaraṃ saggampi gantuṃ, pageva mokkhaṃ, vaṭṭakhāṇu nāmesa satto pathavīgopako, yebhuyyena evarūpassa bhavato vuṭṭhānaṃ natthi. Vassabhaññāpi edisā ahesuṃ. Nindābyārosaupārambhabhayāti attano nindābhayena ghaṭṭanabhayena upavādabhayena cāti attho. sesaṃ sabbattha uttānamevāti.

Trong trường hợp đó, có người rơi vào một tà kiến, có người hai, có người cả ba, và trở thành người có Tà Kiến Cố Định (niyatamicchādiṭṭhika), đã đạt đến sự ngăn che con đường đến cõi trời và ngăn che con đường giải thoát. Người ấy không có khả năng (abhabbo) đi đến cõi trời ngay trong kiếp sống kế tiếp, huống chi là giải thoát. Chúng sanh này được gọi là “cái cọc trong luân hồi” (vaṭṭakhāṇu), một “kẻ canh giữ mặt đất” (pathavīgopako). Phần lớn những chúng sanh như vậy không thể thoát ra khỏi vòng sinh tử. Những người như Vassa và Bhañña cũng đã là những người như thế. Vì sợ quở trách, phẫn nộ, công kích: Bởi sợ bản thân bị chỉ trích, bởi sợ bị thóa mạ, bởi sợ bị sỉ nhục. Từ còn lại ở các câu đều đơn giản.

Giải Thích Đại Kinh Bốn Mươi Kết Thúc


[1] Sī. Syā. – Nijigiṃsanā

[2] Sī. Syā. – Sammāñāṇaṃ

[3] Sī. Syā. – Maggapaccavekkhaṇañāṇa

[4] Sī. Syā. – Phalapaccavekkhaṇañāṇa

[5] Ka. – Tassa

[6] Sī. – Tadadhimokkhaṭṭhena, Ka. – Tadavimuttaṭṭhena

[7] Ka. – Vayabhiññāti vayo ca bhiñño cāti

Chú giải

Chú giải
1
  • Takko (Suy tư): Là hành động cơ bản nhất của việc “nghĩ”, “hướng đến” đối tượng (ở đây là Niết-bàn). 
  • Vitakko (Suy tầm): Là một dạng takko mạnh hơn, chi tiết hơn. Không chỉ nghĩ, mà còn suy xét, tìm tòi sâu hơn về vấn đề đó.
  • Saṅkappo (Tư duy): Nhấn mạnh đến khía cạnh “chủ ý”, “mục đích”. Đây không phải là suy nghĩ vẩn vơ, mà là một sự hướng tâm có mục đích rõ ràng là đạt đến Niết-bàn.
  • 2
  • Appanā (Sự an trú): Là hành động “đặt tâm” một cách vững chắc lên đối tượng. Giống như bạn đặt một vật nặng lên bàn, nó nằm yên ở đó.
  • Byappanā (Sự chuyên trú): Là một dạng appanā mạnh hơn, chuyên chú hơn. Giống như một nam châm hút chặt vào miếng sắt, không thể tách rời.
  • Cetaso abhiniropanā (Sự hướng tâm vững chắc): Nhấn mạnh sự vững chãi, không lay chuyển của việc đặt tâm vào đối tượng.
  • 3 Bình thường, trong cuộc sống hàng ngày, chính những suy nghĩ, suy tầm (vitakka) của là thứ tạo ra, định hình nên lời nói. Suy nghĩ đi trước, lời nói theo sau. Vì vậy, suy nghĩ được gọi là “khẩu hành” vì nó là gốc rễ của lời nói.
    Chánh Tư Duy Siêu Thế, dù xảy ra trong im lặng tuyệt đối và không tạo ra lời nói nào, nhưng về bản chất nó vẫn cùng một “họ”, một “dòng dõi” với các loại tư duy khác. Vì vậy, nó vẫn mang cái “tên họ” của gia đình mình là “khẩu hành”, dù lúc đó nó không làm công việc tạo ra lời nói.