Kinh số 115 – Giải Thích Kinh Đa Giới
(Bahudhātukasuttavaṇṇanā)Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Đa Giới
124. Evamme sutanti bahudhātukasuttaṃ. Tattha bhayānītiādīsu bhayanti cittutrāso. Upaddavoti anekaggatākāro. Upasaggoti upasaṭṭhākāro[1] tattha tattha lagganākāro. Tesaṃ evaṃ nānattaṃ veditabbaṃ — pabbatādivisamanissitā corā janapadavāsīnaṃ pesenti “mayaṃ asukadivase nāma tumhākaṃ gāmaṃ paharissāmā”ti. Taṃ pavattiṃ sutakālato paṭṭhāya bhayaṃ santāsaṃ āpajjanti. Ayaṃ cittutrāso nāma. “idha no corā kupitā anatthampi āvaheyyun”ti hatthasāraṃ gahetvā dvipadacatuppadehi saddhiṃ araññaṃ pavisitvā tattha tattha bhūmiyaṃ nipajjanti, ḍaṃsamakasādīhi khajjamānā gumbantarāni pavisanti, khāṇukaṇṭake maddanti. Tesaṃ evaṃ vicarantānaṃ vikkhittabhāvo anekaggatākāro nāma. Tato coresu yathāvutte divase anāgacchantesu “tucchakasāsanaṃ[2] taṃ bhavissati, gāmaṃ pavisissāmā”ti saparikkhārā gāmaṃ pavisanti, atha tesaṃ paviṭṭhabhāvaṃ ñatvā gāmaṃ parivāretvā dvāre aggiṃ datvā manusse ghātetvā corā sabbaṃ vibhavaṃ vilumpetvā gacchanti. Tesu ghātitāvasesā aggiṃ nibbāpetvā koṭṭhacchāyabhitticchāyādīsu tattha tattha laggitvā nisīdanti naṭṭhaṃ anusocamānā. Ayaṃ upasaṭṭhākāro lagganākāro nāma.
124. Kinh Đa Giới – Bahudhātu được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, sự sợ hãi v.v, sự hoảng hốt của tâm gọi là sự sợ hãi. Biểu hiện không chuyên nhất trong đối tượng gọi là tai ương/phiền não. Trạng thái bị áp sát (upasaṭṭhākāra), trạng thái mắc kẹt, bám víu (lagganākāra) vào nơi này nơi kia gọi là sự nguy hiểm. Nên biết sự khác biệt của những biểu hiện chẳng hạn như sự sợ hãi v.v, đó như vầy –
Những tên cướp sống ở nơi hiểm trở như núi non, gửi tin đến cho dân làng rằng: “Vào ngày đó, chúng tôi sẽ tấn công làng của các người.” Kể từ lúc nghe được tin đó, dân làng liền sinh tâm sợ hãi, kinh hoàng. Đây gọi là sự hoảng hốt của tâm.
Nghĩ rằng: “Bọn cướp đang tức giận có thể sẽ gây ra tai họa cho chúng ta,” họ bèn thu gom những tài sản quý giá, rồi cùng với người và gia súc trốn vào rừng. Tại đó, họ phải nằm ngay trên đất, bị ruồi, muỗi và các côn trùng khác cắn đốt, đi vào các bụi rậm thì dẫm phải gốc cây và gai nhọn. Tình trạng tán loạn của họ khi đi lang thang như vậy được gọi là trạng thái tâm không chuyên nhất.
Sau đó, khi không thấy bọn cướp đến vào ngày đã hẹn, họ nghĩ: “Chắc đó chỉ là tin rỗng tuếch, chúng ta hãy trở về làng.” Họ bèn mang theo đồ đạc của mình và cùng nhau vào làng. Bấy giờ, biết được dân làng đã trở về, bọn cướp liền bao vây làng, phóng hỏa ở các cổng, giết người, cướp đoạt toàn bộ của cải rồi bỏ đi.
Trong số đó, những người sống sót sau khi dập tắt lửa, họ ngồi bám víu vào những nơi như bóng râm của nhà kho, bóng râm của vách tường, lòng đầy than khóc cho những gì đã mất. Đây gọi là trạng thái bị áp sát, trạng thái mắc kẹt/bám víu.
Naḷāgārāti naḷehi paricchannā agārā, sesasambhārā panettha rukkhamayā honti. tiṇāgārepi eseva nayo. Bālato uppajjantīti bālameva nissāya uppajjanti. Bālo hi apaṇḍitapuriso rajjaṃ vā uparajjaṃ vā aññaṃ vā pana mahantaṃ ṭhānaṃ patthento katipaye attanā sadise vidhavāputte mahādhutte gahetvā “etha ahaṃ tumhe issare karissāmī”ti pabbatagahanādīni nissāya antante gāme paharanto dāmarikabhāvaṃ jānāpetvā anupubbena nigamepi janapadepi paharati, manussā gehāni chaḍḍetvā khemantaṭṭhānaṃ patthayamānā pakkamanti, te nissāya vasantā bhikkhūpi bhikkhuniyopi attano attano vasanaṭṭhānāni pahāya pakkamanti. Gatagataṭṭhāne bhikkhāpi senāsanampi dullabhaṃ hoti. Evaṃ catunnaṃ parisānaṃ bhayaṃ āgatameva hoti. Pabbajitesupi dve bālā bhikkhū aññamaññaṃ vivādaṃ paṭṭhapetvā codanaṃ ārabhanti. Iti Kosambivāsikānaṃ viya mahākalaho uppajjati, catunnaṃ parisānaṃ bhayaṃ āgatameva hotīti evaṃ yāni kānici bhayāni uppajjanti, sabbāni tāni bālato uppajjantīti veditabbāni.
Từ ngôi nhà bằng lau sậy: ngôi nhà được lợp từ lau sậy, trong ngôi nhà được che chắn bằng lau sậy nhưng những vật liệu còn lại trong ngôi nhà này đều toàn bằng gỗ rắn chắc. Kể cả ngôi nhà được lợp bằng cỏ cũng có cách thức như thế. Khởi lên từ người ngu: có nghĩa là chúng nương vào kẻ ngu mà phát sinh. Thật vậy, kẻ ngu si, không phải bậc hiền trí, khi mong cầu vương vị, phó vương, hay một địa vị lớn lao nào khác, liền tập hợp một vài kẻ du côn đầu sỏ, những đứa trẻ mồ côi cha giống như hắn, và nói rằng: “Hãy đến đây, ta sẽ cho các ngươi quyền thế.” Sau đó, chúng nương náu nơi núi non hiểm trở, tấn công các làng mạc ở vùng biên địa, gây nên tình trạng nổi loạn cướp phá, rồi lần lượt tấn công cả thị trấn và các vùng dân cư lớn hơn. Người dân phải từ bỏ nhà cửa, di tản để tìm nơi an ổn. Các vị Tỳ-khưu và Tỳ-khưu-ni đang sống nương nhờ vào (những người dân) đó cũng phải rời bỏ trú xứ của mình mà đi. Ở những nơi họ đến, việc khất thực và tìm trú xứ đều trở nên khó khăn. Như vậy, sự sợ hãi chắc chắn đã khởi lên cho cả bốn hội chúng.
Ngay cả trong hàng ngũ xuất gia, khi hai vị Tỳ-khưu ngu si khởi lên tranh cãi và bắt đầu tố cáo lẫn nhau, một mối bất hòa lớn liền phát sinh, giống như trường hợp các vị Tỳ-khưu ở Kosambī. Khi đó, sự sợ hãi chắc chắn khởi lên cho bốn hội chúng. Do vậy, nên biết rằng: bất cứ sự sợ hãi nào phát sinh, tất cả chúng đều phát sinh từ kẻ ngu.
Etadavocāti Bhagavatā dhammadesanā matthakaṃ apāpetvāva niṭṭhāpitā. Yaṃnūnāhaṃ Dasabalaṃ pucchitvā sabbaññutaññāṇenevassa desanāya pāripūriṃ kareyyanti cintetvā etaṃ “kittāvatā nu kho, bhante”tiādivacanaṃ avoca.
Đã nói như sau: Bài pháp thoại đã được Đức Thế Tôn kết thúc mà chưa đưa đến đỉnh điểm (chưa nói hết ý). Do đó, [Tôn giả Ānanda] đã suy nghĩ rằng: “Giá như ta có thể thỉnh vấn Đấng Thập Lực để Ngài, bằng chính Trí tuệ Toàn giác của mình, làm cho bài pháp này được trọn vẹn.” Nghĩ vậy, ngài bèn nói lên lời này: “Bạch Thế Tôn, cho đến mức độ nào…,” v.v.
125. Aṭṭhārasasu dhātūsu aḍḍhekādasadhātuyo rūpapariggaho, aḍḍhaṭṭhamakadhātuyo arūpapariggahoti rūpārūpapariggahova kathito. Sabbāpi khandhavasena pañcakkhandhā honti. Pañcapi khandhā dukkhasaccaṃ, tesaṃ samuṭṭhāpikā taṇhā samudayasaccaṃ, ubhinnaṃ appavatti nirodhasaccaṃ, nirodhapajānanā paṭipadā maggasaccaṃ. Iti catusaccakammaṭṭhānaṃ ekassa bhikkhuno niggamanaṃ matthakaṃ pāpetvā kathitaṃ hoti. Ayamettha saṅkhepo, vitthārato panetā dhātuyo Visuddhimagge kathitāva. Jānāti passatīti saha vipassanāya maggo vutto.
125. Trong 18 giới (dhātu), việc phân loại 10 giới rưỡi thuộc về sắc (rūpapariggaha) và 7 giới rưỡi thuộc về phi sắc (arūpapariggaha) đã được thuyết giảng. Khi xét theo uẩn (khandha), tất cả (18 giới này) đều nằm trong năm uẩn. Năm uẩn chính là Khổ đế (Dukkhasacca); tham ái, thứ làm phát sinh ra chúng, là Tập đế (Samudayasacca); sự chấm dứt hoàn toàn của cả hai (Khổ và Tập) là Diệt đế (Nirodhasacca); và con đường thực hành để biết rõ sự chấm dứt ấy là Đạo đế (Magasacca). Như vậy, đề mục thiền về Tứ đế này đã được thuyết giảng nhằm đưa sự thực hành của một vị Tỳ-khưu đến chỗ cứu cánh viên mãn (matthakaṃ pāpetvā). Đây là phần tóm lược. Còn phần giải thích chi tiết về các giới này đã được trình bày trong bộ Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga). Câu “biết và thấy” (Jānāti passati) ở đây chỉ cho Đạo (magga) đi cùng với Tuệ minh sát (vipassanā).
Pathavīdhātuādayo saviññāṇakakāyaṃ suññato nissattato dassetuṃ vuttā. Tāpi purimāhi aṭṭhārasahi dhātūhi pūretabbā. Pūrentena viññāṇadhātuto nīharitvā pūretabbā. viññāṇadhātu hesā cakkhuviññāṇādivasena chabbidhā hoti. Tattha cakkhuviññāṇadhātuyā pariggahitāya tassā vatthu cakkhudhātu, ārammaṇaṃ rūpadhātūti dve dhātuyo pariggahitāva honti. Esa nayo sabbattha. Manoviññāṇadhātuyā pana pariggahitāya tassā purimapacchimavasena manodhātu, ārammaṇavasena dhammadhātūti dve dhātuyo pariggahitāva honti. Iti imāsu aṭṭhārasasu dhātūsu aḍḍhekādasadhātuyo rūpapariggahoti purimanayeneva idampi ekassa bhikkhuno niggamanaṃ matthakaṃ pāpetvā kathitaṃ hoti.
[Giáo lý về] địa giới (pathavīdhātu), v.v., được thuyết giảng nhằm mục đích chỉ ra rằng thân có thức này (saviññāṇakakāya) là trống rỗng (suññato) và vô ngã (nissattato). Các giới này cũng cần được hiểu trọn vẹn trong khuôn khổ 18 giới đã nêu trước. Khi phân tích để hiểu trọn vẹn, người ta nên khai triển từ Thức giới (viññāṇadhātu). Thức giới này có 6 loại, bắt đầu bằng Nhãn thức giới.
Trong đó, khi phân tích Nhãn thức giới, thì hai giới khác cũng mặc nhiên được phân tích theo: 1) Nhãn giới (con mắt), là vật nền (vatthu) của nó, và 2) Sắc giới (hình sắc), là đối tượng (ārammaṇa) của nó. Phương pháp này cũng áp dụng tương tự cho các thức còn lại (nhĩ, tỷ, thiệt, thân thức).
Còn khi phân tích Ý thức giới (manoviññāṇadhātu), thì hai giới khác cũng mặc nhiên được phân tích theo: 1) Ý giới (manodhātu), xét theo vai trò trước và sau của nó (tức là tâm hướng ý môn đi trước và tâm na-cảnh đi sau), và 2) Pháp giới (dhammadhātu), là đối tượng của nó.
Vì vậy, [khi phân tích theo cách này], trong 18 giới, 10 giới rưỡi được phân loại là sắc. Theo phương pháp như đã nói, đề mục về giới này cũng được thuyết giảng nhằm đưa sự thực hành của một vị Tỳ-khưu đến chỗ cứu cánh viên mãn.
Sukhadhātūtiādīsu sukhañca taṃ nissattasuññataṭṭhena dhātu cāti sukhadhātu. Esa nayo sabbattha. Ettha ca purimā catasso dhātuyo sappaṭipakkhavasena gahitā, pacchimā dve sarikkhakavasena. Avibhūtabhāvena hi upekkhādhātu avijjādhātuyā sarikkhā. Ettha ca sukhadukkhadhātūsu pariggahitāsu kāyaviññāṇadhātu pariggahitāva hoti, sesāsu pariggahitāsu manoviññāṇadhātu pariggahitāva hoti. Imāpi cha dhātuyo heṭṭhā aṭṭhārasahiyeva pūretabbā. Pūrentena upekkhādhātuto nīharitvā pūretabbā. Iti imāsu aṭṭhārasasu dhātūsu aḍḍhekādasadhātuyo rūpapariggahoti purimanayeneva idampi ekassa bhikkhuno niggamanaṃ matthakaṃ pāpetvā kathitaṃ hoti.
Lạc giới v.v, [được gọi là Lạc giới] vì nó vừa là lạc (sukha), vừa là một “giới” (dhātu) theo ý nghĩa là trống rỗng và vô ngã (nissattasuññataṭṭhena). Phương pháp này áp dụng cho tất cả các giới còn lại.
Ở đây, bốn giới đầu được nhóm lại theo nguyên tắc đối lập (Lạc đối lập với Khổ, Hỷ đối lập với Ưu), còn hai giới sau được nhóm theo nguyên tắc tương đồng. Sở dĩ vậy là vì Xả giới (upekkhādhātu) tương đồng với Vô minh giới (avijjādhātu) ở đặc tính không rõ ràng, mờ nhạt (avibhūtabhāva).
Hơn nữa, trong các giới này, khi phân tích Lạc giới và Khổ giới, thì Thân thức giới (kāyaviññāṇadhātu) cũng mặc nhiên được phân tích theo. Khi phân tích các giới còn lại (Hỷ, Ưu, Xả, Vô minh), thì Ý thức giới (manoviññāṇadhātu) cũng mặc nhiên được phân tích theo.
Sáu giới này cũng cần được hiểu trọn vẹn trong khuôn khổ 18 giới đã nêu trước. Khi phân tích để hiểu trọn vẹn, nên khai triển từ Xả giới (upekkhādhātu). Như vậy, [khi phân tích theo cách này], trong 18 giới, 10 giới rưỡi được phân loại là sắc. Theo phương pháp như đã nói, đề mục này cũng được thuyết giảng nhằm đưa sự thực hành của một vị Tỳ-khưu đến chỗ cứu cánh viên mãn.
Kāmadhātuādīnaṃ dvedhāvitakke (ma. ni. 1.206) kāmavitakkādīsu vuttanayeneva attho veditabbo. Abhidhammepi “tattha katamā kāmadhātu, kāmapaṭisaṃyutto takko vitakko”tiādinā (vibha. 182) nayeneva etāsaṃ vitthāro āgatoyeva. Imāpi cha dhātuyo heṭṭhā aṭṭhārasahiyeva pūretabbā. pūrentena kāmadhātuto nīharitvā pūretabbā. Iti imāsu aṭṭhārasasu dhātūsu aḍḍhekādasadhātuyo rūpapariggahoti purimanayeneva idampi ekassa bhikkhuno niggamanaṃ matthakaṃ pāpetvā kathitaṃ hoti.
Ý nghĩa của Dục giới (Kāmadhātu), v.v., nên được hiểu theo cách đã được trình bày trong phần về dục tầm (kāmavitakka) trong Kinh Song Tầm (Dvedhāvitakka Sutta, Ma. Ni. 1.206).
Ngay cả trong Tạng Vi Diệu Pháp (Abhidhamma), phần giải thích chi tiết về các giới này cũng đã được trình bày theo phương pháp bắt đầu bằng câu: “Trong đó, thế nào là Dục giới? Đó là sự tầm, sự tứ (takko vitakko) liên quan đến dục” (Vibhaṅga, 182).
Sáu giới này (dục giới, ly dục giới, sân giới, vô sân giới, hại giới, vô hại giới) cũng cần được hiểu trọn vẹn trong khuôn khổ 18 giới đã nêu trước. Khi phân tích để hiểu trọn vẹn, nên khai triển từ Dục giới (Kāmadhātu).
Như vậy, [khi phân tích theo cách này], trong 18 giới, 10 giới rưỡi được phân loại là sắc. Theo phương pháp như đã nói, đề mục này cũng được thuyết giảng nhằm đưa sự thực hành của một vị Tỳ-khưu đến chỗ cứu cánh viên mãn.
Kāmadhātuādīsu pañca kāmāvacarakkhandhā kāmadhātu nāma, pañca rūpāvacarakkhandhā rūpadhātu nāma, cattāro arūpāvacarakkhandhā arūpadhātu nāma. Abhidhamme pana “tattha katamā kāmadhātu, heṭṭhato avīcinirayaṃ pariyantaṃ karitvā”tiādinā (vibha. 182) nayena etāsaṃ vitthāro āgatoyeva. Imāpi tisso dhātuyo heṭṭhā aṭṭhārasahiyeva pūretabbā. Pūrentena kāmadhātuto nīharitvā pūretabbā. Iti imāsu aṭṭhārasasu dhātūsu aḍḍhekādasadhātuyo rūpapariggahoti purimanayeneva idampi ekassa bhikkhuno niggamanaṃ matthakaṃ pāpetvā kathitaṃ hoti.
[Trong nhóm các giới liên quan đến cõi], năm uẩn thuộc cõi Dục (kāmāvacara) được gọi là Dục giới (Kāmadhātu); năm uẩn thuộc cõi Sắc (rūpāvacara) được gọi là Sắc giới (Rūpadhātu); và bốn uẩn thuộc cõi Vô sắc (arūpāvacara) được gọi là Vô sắc giới (Arūpadhātu).
Trong Tạng Vi Diệu Pháp (Abhidhamma), phần giải thích chi tiết về các giới này cũng đã được trình bày theo phương pháp bắt đầu bằng câu: “Trong đó, thế nào là Dục giới? [Là toàn bộ cõi] lấy địa ngục Vô Gián (Avīci) làm giới hạn dưới cùng…” (Vibhaṅga, 182).
Ba giới này cũng cần được hiểu trọn vẹn trong khuôn khổ 18 giới đã nêu trước. Khi phân tích để hiểu trọn vẹn, nên khai triển từ Dục giới (Kāmadhātu). Như vậy, [khi phân tích theo cách này], trong 18 giới, 10 giới rưỡi được phân loại là sắc. Theo phương pháp như đã nói, đề mục này cũng được thuyết giảng nhằm đưa sự thực hành của một vị Tỳ-khưu đến chỗ cứu cánh viên mãn.
Saṅkhatāti paccayehi samāgantvā katā, pañcannaṃ khandhānametaṃ adhivacanaṃ. na saṅkhatā asaṅkhatā. nibbānassetaṃ adhivacanaṃ. Imāpi dve dhātuyo heṭṭhā aṭṭhārasahiyeva pūretabbā. Pūrentena saṅkhatadhātuto nīharitvā pūretabbā. Iti imāsu aṭṭhārasasu dhātūsu aḍḍhekādasadhātuyo rūpapariggahoti purimanayeneva idampi ekassa bhikkhuno niggamanaṃ matthakaṃ pāpetvā kathitaṃ hoti.
Hữu vi (Saṅkhata): [được gọi như vậy] vì chúng được tạo tác do các duyên hợp lại. Đây là một tên gọi khác của năm uẩn.
Vô vi (Asaṅkhata) là pháp không bị tạo tác (bởi các duyên). Đây là một tên gọi khác của Niết-bàn (Nibbāna).
Hai giới này (Hữu vi giới và Vô vi giới) cũng cần được hiểu trọn vẹn trong khuôn khổ 18 giới đã nêu trước. Khi phân tích để hiểu trọn vẹn, nên khai triển từ Hữu vi giới (Saṅkhatadhātu). Như vậy, [khi phân tích theo cách này], trong 18 giới, 10 giới rưỡi được phân loại là sắc. Theo phương pháp như đã nói, đề mục này cũng được thuyết giảng nhằm đưa sự thực hành của một vị Tỳ-khưu đến chỗ cứu cánh viên mãn.
126. Ajjhattikabāhirānīti ajjhattikāni ca bāhirāni ca. Ettha hi cakkhuādīni ajjhattikāni cha, rūpādīni bāhirāni cha. Idhāpi jānāti passatīti saha vipassanāya maggo kathito.
126. Nội xứ và Ngoại xứ (Ajjhattikabāhira): [Cụm từ này] có nghĩa là cả những pháp bên trong (nội xứ) và những pháp bên ngoài (ngoại xứ). Ở đây, sáu pháp bên trong là mắt, v.v. (tức 6 căn), và sáu pháp bên ngoài là sắc, v.v. (tức 6 trần). Ở đây cũng vậy, câu “biết và thấy” (jānāti passati) chỉ cho Đạo (magga) đi cùng với Tuệ minh sát (vipassanā).
Imasmiṃ sati idantiādi Mahātaṇhāsaṅkhaye vitthāritameva.
[Nguyên lý Duyên khởi] “Cái này có, cái kia có”, v.v. (Imasmiṃ sati, idaṃ hoti), đã được giải thích chi tiết trong Đại Kinh Đoạn Tận Tham Ái (Mahātaṇhāsaṅkhaya Sutta).
127. Aṭṭhānanti hetupaṭikkhepo. Anavakāsoti paccayapaṭikkhepo. Ubhayenāpi kāraṇameva paṭikkhipati. Kāraṇañhi tadāyattavuttitāya attano phalassa ṭhānanti ca avakāsoti ca vuccati. Yanti yena kāraṇena. Diṭṭhisampannoti maggadiṭṭhiyā sampanno sotāpanno ariyasāvako. Kañci saṅkhāranti catubhūmakesu saṅkhatasaṅkhāresu kañci ekasaṅkhārampi. Niccato upagaccheyyāti niccoti gaṇheyya. Netaṃ ṭhānaṃ vijjatīti etaṃ kāraṇaṃ natthi na upalabbhati. Yaṃ puthujjanoti yena kāraṇena puthujjano. Ṭhānametaṃ vijjatīti etaṃ kāraṇaṃ atthi. Sassatadiṭṭhiyā hi so tebhūmakesu saṅkhatasaṅkhāresu[3] kañci saṅkhāraṃ niccato gaṇheyyāti attho. Catutthabhūmakasaṅkhārā pana tejussadattā divasaṃ santatto ayoguḷo viya makkhikānaṃ diṭṭhiyā vā aññesaṃ vā akusalānaṃ ārammaṇaṃ na honti. Iminā nayena kañci saṅkhāraṃ sukhatotiādīsupi attho veditabbo.
127.Aṭṭhānaṃ (Bất khả năng, điều không thể xảy ra): là sự phủ định về mặt nhân (hetu). Anavakāso (Không có cơ hội): là sự phủ định về mặt duyên (paccaya). Cả hai từ này đều phủ định chính cái nguyên nhân (kāraṇa). Thật vậy, nguyên nhân được gọi là “cơ sở” (ṭhāna) và “điều kiện/cơ hội” (avakāsa) cho quả của chính nó, vì sự tồn tại của quả phụ thuộc vào nguyên nhân ấy.
Yaṃ [trong câu Yaṃ diṭṭhisampanno]: có nghĩa là “bởi vì, do nguyên nhân là”. Vị thành tựu Chánh kiến (Diṭṭhisampanno): là bậc Thánh đệ tử đã chứng quả Nhập Lưu, người đã thành tựu Chánh kiến của Đạo (maggadiṭṭhi). Bất kỳ hành nào (Kañci saṅkhāraṃ): là bất kỳ một pháp hữu vi nào trong các pháp hữu vi thuộc bốn cõi. Có thể xem là thường hằng (Niccato upagaccheyya): có nghĩa là có thể chấp thủ nó là thường hằng. Điều đó không thể xảy ra (Netaṃ ṭhānaṃ vijjati): có nghĩa là nguyên nhân đó không tồn tại, không thể tìm thấy.
[Câu] Mà một phàm phu… (Yaṃ puthujjano): có nghĩa là “Vì lý do mà một phàm phu…”. Điều đó có thể xảy ra (Ṭhānametaṃ vijjati): có nghĩa là nguyên nhân đó có tồn tại. Ý nghĩa là: do thường kiến (sassatadiṭṭhi), người ấy (phàm phu) có thể chấp thủ bất kỳ pháp hữu vi nào trong ba cõi (tebhūmaka) là thường hằng. Các pháp hữu vi thuộc cõi thứ tư (tức Đạo và Quả Siêu thế) thì không thể trở thành đối tượng cho tà kiến hay các pháp bất thiện khác, bởi chúng có đặc tính chói sáng mạnh mẽ, giống như một hòn sắt nung đỏ cả ngày không thể là nơi cho loài ruồi bâu vào. Ý nghĩa trong các câu “xem một hành nào đó là lạc…” v.v., cũng nên được hiểu theo phương pháp này.
Sukhato upagaccheyyāti “ekantasukhī attā hoti arogo paraṃ maraṇā”ti (ma. ni. 3.21, 22) evaṃ attadiṭṭhivasena sukhato gāhaṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ. diṭṭhivippayuttacittena pana ariyasāvako pariḷāhābhibhūto pariḷāhavūpasamatthaṃ mattahatthiṃ parittāsito viya[4], Cokkhabrāhmaṇo viya[5] ca gūthaṃ kañci saṅkhāraṃ sukhato upagacchati. Attavāre kasiṇādipaṇṇattisaṅgahatthaṃ saṅkhāranti avatvā kañci dhammanti vuttaṃ. Idhāpi ariyasāvakassa catubhūmakavasena veditabbo, puthujjanassa tebhūmakavasena. Sabbavāresu ariyasāvakassāpi tebhūmakavaseneva paricchedo vaṭṭati. Yaṃ yañhi[6] puthujjano gaṇhāti, tato tato ariyasāvako gāhaṃ viniveṭheti[7]. Puthujjano hi yaṃ yaṃ niccaṃ sukhaṃ attāti gaṇhāti, taṃ taṃ ariyasāvako aniccaṃ dukkhaṃ anattāti gaṇhanto taṃ gāhaṃ viniveṭheti.
[Câu] Có thể xem là lạc (Sukhato upagaccheyya) được nói để chỉ sự chấp thủ một pháp là lạc do tác động của ngã kiến (attadiṭṭhi), như trong quan điểm: “Sau khi chết, tự ngã trở nên hoàn toàn an lạc, không bệnh tật” (Ma. ni. 3.21, 22).
Tuy nhiên, một vị Thánh đệ tử, với tâm không còn tương ưng với tà kiến (diṭṭhivippayuttacittena), vẫn có thể xem một pháp hữu vi nào đó là lạc. [Điều này xảy ra] khi vị ấy bị sự thiêu đốt (của phiền não) áp đảo và tìm cách làm dịu nó, giống như một con voi đang trong kỳ động dục bị hoảng sợ [lao vào vũng bùn], hay như Bà-la-môn Cokkha [tìm đến đống phân].
(Giải thích thêm: một bậc Thánh, dù không còn tà kiến, nhưng khi bị sự khổ não (“sự thiêu đốt”) của thế gian áp đảo, vẫn có thể tìm đến một sự an lạc tạm thời (ví dụ như một tầng thiền) để làm dịu đi, giống như con voi bị hoảng sợ lao vào vũng bùn hay Bà-la-môn Cokkha tìm đến đống phân để tìm sự khuây khoả.
Trong phần [kinh] nói về “tự ngã” (attā), từ bất kỳ pháp nào (kañci dhammaṃ) được dùng thay vì “bất kỳ hành nào” (kañci saṅkhāraṃ) là để bao gồm cả các pháp chế định (paṇṇatti) như biến xứ (kasiṇa), v.v. Ở đây cũng vậy, [khả năng] nên được hiểu là trong phạm vi bốn cõi đối với bậc Thánh đệ tử, và trong phạm vi ba cõi đối với phàm phu. Tuy nhiên, trong tất cả các trường hợp, việc phân định trong phạm vi ba cõi cũng phù hợp ngay cả đối với bậc Thánh đệ tử.
Thật vậy, bất cứ điều gì phàm phu chấp thủ, bậc Thánh đệ tử đều gỡ bỏ sự chấp thủ khỏi những điều đó. Bất cứ điều gì phàm phu chấp thủ là thường, lạc, ngã, thì bậc Thánh đệ tử, bằng cách nhận thức chính những điều đó là vô thường, khổ, vô ngã, đã tự mình thoát khỏi sự chấp thủ ấy.
128. Mātarantiādīsu janikāva mātā, janako pitā, manussabhūtova khīṇāsavo arahāti adhippeto. Kiṃ pana ariyasāvako aññaṃ jīvitā voropeyyāti? Etampi aṭṭhānaṃ. sacepi hi bhavantaragataṃ ariyasāvakaṃ attano ariyabhāvaṃ ajānantampi koci evaṃ vadeyya “imaṃ kunthakipillikaṃ jīvitā voropetvā sakalacakkavāḷagabbhe cakkavattirajjaṃ paṭipajjāhī”ti, neva so taṃ jīvitā voropeyya. Athāpi naṃ evaṃ vadeyya “sace imaṃ na ghātessasi, sīsaṃ te chindissāmā”ti. Sīsamevassa chindeyya, na ca so taṃ ghāteyya. Puthujjanabhāvassa pana mahāsāvajjabhāvadassanatthaṃ ariyasāvakassa ca baladīpanatthametaṃ vuttaṃ. Ayañhettha adhippāyo — sāvajjo puthujjanabhāvo, yatra hi nāma puthujjano mātughātādīnipi ānantariyāni karissati. mahābalo ca ariyasāvako, yo etāni kammāni na karotīti.
128.[Trong các tội như] giết mẹ, v.v., mẹ ở đây được hiểu là người mẹ đã sinh ra mình, cha là người cha đã sinh ra mình, và A-la-hán là một bậc Lậu tận mang thân người.
Vậy một bậc Thánh đệ tử có thể tước đoạt mạng sống của một chúng sinh khác không? Điều đó cũng là bất khả năng (aṭṭhānaṃ). Thật vậy, ngay cả khi một bậc Thánh đệ tử đã tái sinh sang một kiếp khác (bhavantaragata) và không còn nhớ mình là bậc Thánh, nếu có người bảo vị ấy rằng: “Hãy giết đàn kiến này đi, rồi ngài sẽ được làm Chuyển Luân Vương cai trị toàn vũ trụ”, vị ấy cũng sẽ không bao giờ tước đoạt mạng sống của chúng.
Hoặc nếu người đó nói: “Nếu ngài không giết chúng, chúng tôi sẽ chặt đầu ngài”. Vị ấy thà để cho đầu mình bị chặt, chứ nhất quyết không sát sinh.
Điều này được nói ra nhằm mục đích cho thấy tính chất đầy tội lỗi của trạng thái phàm phu, và đồng thời để làm nổi bật sức mạnh của bậc Thánh đệ tử. Ý nghĩa ở đây là: Trạng thái phàm phu thật đáng chê trách (sāvajjo), đến mức một phàm phu có thể phạm cả những tội ngũ nghịch như giết mẹ. Trái lại, bậc Thánh đệ tử có một sức mạnh vĩ đại (mahābalo), vì vị ấy không bao giờ làm những nghiệp đó.
Duṭṭhacittoti vadhakacittena paduṭṭhacitto. Lohitaṃ uppādeyyāti jīvamānakasarīre khuddakamakkhikāya pivanamattampi lohitaṃ uppādeyya. Saṅghaṃ bhindeyyāti samānasaṃvāsakaṃ samānasīmāya ṭhitaṃ pañcahi kāraṇehi saṅghaṃ bhindeyya. Vuttañhetaṃ “pañcahupāli ākārehi saṅgho bhijjati, kammena uddesena voharanto anussāvanena”ti (pari. 458).
[Cụm từ] Tâm ác độc (Duṭṭhacitto) có nghĩa là tâm đã trở nên bại hoại với ý định sát hại (vadhakacittena). Làm chảy máu [thân Phật] (Lohitaṃ uppādeyya) có nghĩa là làm chảy máu từ thân thể của [Đức Phật] khi Ngài còn tại thế, dù chỉ là một lượng máu đủ cho một con ruồi nhỏ uống. Gây chia rẽ Tăng đoàn (Saṅghaṃ bhindeyya) có nghĩa là chia rẽ một Tăng đoàn cùng cộng trú trong cùng một ranh giới, bằng một trong năm phương pháp.
Điều này đã được nói đến [trong Luật tạng]: “Này Upāli, Tăng đoàn bị chia rẽ bởi năm cách thức: do nghiệp sự (kamma), do việc tụng đọc (uddesa), do lời nói (vohāra), do sự xúi giục (anussāvana), và do việc phát thẻ (salākaggāha).” (Pari. 458).
Tattha kammenāti apalokanādīsu catūsu kammesu aññatarena kammena. Uddesenāti pañcasu pātimokkhuddesesu aññatarena uddesena. Voharantoti kathayanto, tāhi tāhi uppattīhi adhammaṃ dhammotiādīni aṭṭhārasa bhedakaravatthūni dīpento. Anussāvanenāti nanu tumhe jānātha mayhaṃ uccākulā pabbajitabhāvaṃ bahussutabhāvañca, mādiso nāma uddhammaṃ ubbinayaṃ Satthusāsanaṃ gāheyyāti cittampi uppādetuṃ tumhākaṃ yuttaṃ, kiṃ mayhaṃ Avīci nīluppalavanaṃ viya sītalo, kiṃ ahaṃ apāyato na bhāyāmītiādinā nayena kaṇṇamūle vacībhedaṃ katvā anussāvanena. Salākaggāhenāti evaṃ anussāvetvā tesaṃ cittaṃ upatthambhetvā anivattidhamme katvā “gaṇhatha imaṃ salākan”ti salākaggāhena.
Trong đó [năm cách thức gây chia rẽ Tăng đoàn]:
-
Do hành sự (kammena): có nghĩa là [chia rẽ] bằng cách thực hiện một trong bốn loại hành sự (tác pháp) của Tăng, chẳng hạn như apalokanakamma (tác pháp biểu quyết bằng cách thông báo), v.v.
-
Do việc tụng đọc (uddesena): có nghĩa là [chia rẽ] bằng một trong năm cách tụng đọc Giới bổn Pātimokkha.
-
Do lời nói (vohāranto): có nghĩa là khi nói, khi trình bày 18 điểm gây chia rẽ (bhedakaravatthu), chẳng hạn như tuyên bố điều phi pháp là Chánh pháp, v.v., dựa trên những lý do này hay lý do khác.
-
Do sự xúi giục (anussāvanena): có nghĩa là xúi giục bằng cách rỉ tai (kaṇṇamūle), dùng những lời lẽ chia rẽ theo kiểu: “Này quý vị, chẳng lẽ quý vị không biết sao? Tôi xuất thân từ dòng dõi cao quý, lại là bậc đa văn. Một người như tôi mà lại đi nắm giữ một giáo pháp sai trái, trái với Luật của Bậc Đạo Sư ư? Chẳng lẽ địa ngục A-tỳ (Avīci) đối với tôi lại mát mẻ như một khu rừng sen xanh sao? Chẳng lẽ tôi lại không sợ hãi các cõi khổ hay sao?”
-
Do việc phát thẻ (salākaggāhena): có nghĩa là sau khi đã xúi giục như vậy, làm cho tâm của các vị Tỳ kheo đó được củng cố và khiến họ trở nên kiên định không thay đổi (anivattidhamme katvā), rồi tiến hành cho phát thẻ và nói rằng: “Quý vị hãy nhận lấy thẻ này.”
Ettha ca kammameva uddeso vā pamāṇaṃ, vohārānussāvanasalākaggāhā pana pubbabhāgā. Aṭṭhārasavatthudīpanavasena hi voharantena tattha rucijananatthaṃ anussāvetvā salākāya gāhitāyapi abhinnova hoti saṅgho. Yadā pana evaṃ cattāro vā atirekā vā salākaṃ gāhetvā āveṇikaṃ kammaṃ vā uddesaṃ vā karonti, tadā saṅgho bhinno nāma hoti. Evaṃ diṭṭhisampanno puggalo saṅghaṃ bhindeyyāti netaṃ ṭhānaṃ vijjati. Ettāvatā mātughātādīni pañca ānantariyakammāni dassitāni honti, yāni puthujjano karoti, na ariyasāvako, tesaṃ āvibhāvatthaṃ —
Kammato dvārato ceva, kappaṭṭhitiyato tathā.
Pākasādhāraṇādīhi, viññātabbo vinicchayo.
Và ở đây, chỉ có hành sự (kamma) hoặc việc tụng đọc (uddesa) mới là yếu tố quyết định (pamāṇaṃ); còn việc nói năng (vohāra), sự xúi giục (anussāvana), và việc phát thẻ (salākaggāha) chỉ là những giai đoạn chuẩn bị (pubbabhāgā).
Thật vậy, ngay cả khi một người đã dùng lời nói để trình bày 18 vấn đề [gây chia rẽ], rồi xúi giục để tạo sự yêu thích nơi các vị khác, và rồi việc bỏ phiếu bằng thẻ đã được thực hiện, Tăng đoàn lúc ấy vẫn được xem là chưa bị chia rẽ (abhinnova hoti saṅgho).
Nhưng khi nào có một nhóm gồm bốn vị hoặc nhiều hơn, sau khi đã nhận thẻ, cùng nhau thực hiện một hành sự riêng (āveṇikaṃ kammaṃ) hoặc một buổi tụng đọc riêng (uddesaṃ), thì khi đó, Tăng đoàn mới được gọi là đã bị chia rẽ.
Một người đã thành tựu Chánh kiến (diṭṭhisampanno puggalo) mà lại có thể gây chia rẽ Tăng đoàn, điều đó là bất khả năng (netaṃ ṭhānaṃ vijjati).
Cho đến đây, năm loại Vô gián nghiệp (ānantariyakamma) như giết mẹ, v.v., đã được trình bày. Để làm rõ rằng những nghiệp này chỉ có phàm phu (puthujjana) mới làm, chứ bậc Thánh đệ tử (ariyasāvaka) thì không, [chú giải tóm tắt rằng]:
Việc phân tích [các nghiệp này] cần được hiểu rõ:
Theo phương diện hành động (Kammato),
Theo phương diện cửa [thân, khẩu, ý] (dvārato),
Theo phương diện thời gian tồn tại của quả báo trong một kiếp (kappaṭṭhitiyato),
Và theo các khía cạnh như quả báo chung, v.v. (Pākasādhāraṇādīhi).
Tattha kammato tāva — ettha hi manussabhūtasseva manussabhūtaṃ mātaraṃ vā pitaraṃ vā api parivattaliṅgaṃ jīvitā voropentassa kammaṃ ānantariyaṃ hoti, tassa vipākaṃ paṭibāhissāmīti sakalacakkavāḷaṃ mahācetiyappamāṇehi kañcanathūpehi pūretvāpi sakalacakkavāḷaṃ pūretvā nisinnabhikkhusaṅghassa mahādānaṃ datvāpi buddhassa bhagavato saṅghāṭikaṇṇaṃ amuñcanto vicaritvāpi kāyassa bhedā nirayameva upapajjati. Yo pana sayaṃ manussabhūto tiracchānabhūtaṃ mātaraṃ vā pitaraṃ vā, sayaṃ vā tiracchānabhūto manussabhūtaṃ, tiracchānoyeva vā tiracchānabhūtaṃ jīvitā voropeti, tassa kammaṃ ānantariyaṃ na hoti, bhāriyaṃ pana hoti, ānantariyaṃ āhacceva tiṭṭhati. Manussajātikānaṃ pana vasena ayaṃ pañho kathito.
Trước hết, xét về phương diện hành động (kammato):
Ở đây, chỉ khi một chúng sinh là người (manussabhūta) tước đoạt mạng sống của mẹ hoặc cha cũng là người – ngay cả khi người [mẹ hoặc cha] đó đã thay đổi giới tính (parivattaliṅgaṃ) – thì hành động đó mới trở thành nghiệp Vô gián.
Người đã phạm tội này, dù cho có nghĩ rằng “Ta sẽ ngăn chặn quả báo của nghiệp này” và làm những việc phước thiện to lớn đến đâu, chẳng hạn như:
- Lấp đầy toàn bộ cõi Ta-bà (sakalacakkavāḷaṃ) bằng những bảo tháp vàng lớn như những đại bảo tháp;
- Cúng dường đại thí đến Tăng đoàn đông đủ ngồi khắp cõi Ta-bà;
- Hoặc thậm chí đi theo không rời gấu áo Tăng-già-lê của Đức Thế Tôn;
…thì sau khi thân hoại mạng chung, người ấy vẫn chắc chắn tái sinh vào địa ngục.
Còn trường hợp một người là người mà lại tước đoạt mạng sống của mẹ hoặc cha là loài súc sinh; hoặc bản thân là súc sinh mà tước đoạt mạng sống của mẹ hoặc cha là người; hoặc cả hai đều là súc sinh mà tước đoạt mạng sống của nhau, thì nghiệp của người đó không phải là nghiệp Vô gián. Tuy nhiên, nó vẫn là một trọng nghiệp (bhāriyaṃ), có sức nặng chỉ đứng ngay sau nghiệp Vô gián (ānantariyaṃ āhacceva tiṭṭhati).
Vấn đề này được trình bày dựa trên trường hợp của những chúng sinh thuộc loài người.
Tattha eḷakacatukkaṃ saṅgāmacatukkaṃ coracatukkañca kathetabbaṃ. Eḷakaṃ māremīti abhisandhināpi hi eḷakaṭṭhāne ṭhitaṃ manusso manussabhūtaṃ mātaraṃ vā pitaraṃ vā mārento ānantariyaṃ phusati. Eḷakābhisandhinā pana mātāpitāabhisandhinā vā eḷakaṃ mārento ānantariyaṃ na phusati. Mātāpitāabhisandhinā mātāpitaro mārento phusateva. Eseva nayo itarasmimpi catukkadvaye. Yathā ca mātāpitūsu, evaṃ arahantepi etāni catukkāni veditabbāni.
Trong vấn đề này, cần phải bàn đến “Tứ đề về con dê” (eḷakacatukka), “Tứ đề về chiến trận” (saṅgāmacatukka), và “Tứ đề về tên trộm” (coracatukka).
[Ví dụ về Tứ đề về con dê]:
- Một người giết mẹ hoặc cha của mình (vốn là người) đang đứng ở vị trí của một con dê, ngay cả khi với ý định là “ta sẽ giết con dê”, thì vẫn phạm phải nghiệp Vô gián.
- Ngược lại, nếu người đó giết một con dê, dù với ý định giết dê hay nhầm tưởng đó là cha mẹ mình, thì không phạm nghiệp Vô gián.
- Còn khi giết cha mẹ với đúng ý định là giết cha mẹ, thì chắc chắn phạm tội.
Cách phân tích tương tự cũng được áp dụng cho hai Tứ đề còn lại [về chiến trận và tên trộm]. Và nên biết rằng, những Tứ đề này cũng được áp dụng tương tự đối với trường hợp sát hại một vị A-la-hán.
Manussārahantameva māretvā ānantariyaṃ phusati, na yakkhabhūtaṃ. Kammaṃ pana bhāriyaṃ, ānantariyasadisameva. Manussārahantassa ca puthujjanakāleyeva satthappahāre vā vise vā dinnepi yadi so arahattaṃ patvā teneva marati, arahantaghāto hotiyeva. Yaṃ pana puthujjanakāle dinnaṃ dānaṃ arahattaṃ patvā paribhuñjati, puthujjanasseva dinnaṃ hoti. Sesāriyapuggale mārentassa ānantariyaṃ natthi. Kammaṃ pana bhāriyaṃ, ānantariyasadisameva.
Chỉ khi giết một vị A-la-hán là người mới phạm nghiệp Vô gián, chứ không phải [A-la-hán] thuộc loài Dạ-xoa. Tuy nhiên, nghiệp đó vẫn là một trọng nghiệp (bhāriyaṃ), có sức nặng tương đương nghiệp Vô gián (ānantariyasadisa).
Đối với một vị A-la-hán là người, ngay cả khi người khác ra tay sát hại (bằng vũ khí hoặc thuốc độc) vào lúc vị ấy vẫn còn là phàm phu, nhưng nếu sau đó vị ấy chứng quả A-la-hán rồi mới chết vì vết thương đó, thì hành động ấy vẫn cấu thành tội giết A-la-hán.
Ngược lại, vật thí mà một người cúng dường khi vị ấy còn là phàm phu, dù sau đó vị ấy chứng quả A-la-hán rồi mới thọ dụng, thì phước báu vẫn chỉ được tính là cúng dường cho một phàm phu.
Việc sát hại các bậc Thánh khác [như Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm] không phải là nghiệp Vô gián. Tuy nhiên, đó vẫn là một trọng nghiệp, có sức nặng tương đương nghiệp Vô gián.
Lohituppāde Tathāgatassa abhejjakāyatāya[8] parūpakkamena cammacchedaṃ katvā lohitapaggharaṇaṃ nāma natthi. sarīrassa pana antoyeva ekasmiṃyeva ṭhāne lohitaṃ samosarati. Devadattena paviddhasilato bhijjitvā gatā sakalikāpi[9] Tathāgatassa pādantaṃ pahari, pharasunā pahaṭo viya pādo antolohitoyeva ahosi. Tathā karontassa ānantariyaṃ hoti. Jīvako pana Tathāgatassa ruciyā satthakena cammaṃ chinditvā tamhā ṭhānā duṭṭhalohitaṃ nīharitvā phāsumakāsi, tathā karontassa puññakammameva hoti.
Đối với tội làm chảy máu thân Phật (Lohituppāda), do thân thể của Như Lai là bất khả xâm phạm (abhejjakāya), nên không thể có chuyện một người dùng tác động từ bên ngoài làm rách da và khiến máu chảy ra. Thay vào đó, máu chỉ tụ lại tại một điểm ở bên trong thân thể.
Ngay cả mảnh đá vỡ ra từ tảng đá do Devadatta lăn xuống cũng chỉ làm tổn thương mu bàn chân của Như Lai; bàn chân của Ngài chỉ bị bầm máu ở bên trong, giống như bị rìu sắc đánh phải. Hành động như vậy của Devadatta đã cấu thành nghiệp Vô gián.
Ngược lại, khi y sĩ Jīvaka, với sự đồng ý của Như Lai (ruciyā), dùng dao phẫu thuật rạch da để lấy máu độc ra, làm cho Ngài được an ổn, thì hành động đó hoàn toàn là một nghiệp phước (puññakamma).
Atha ye ca parinibbute tathāgate cetiyaṃ bhindanti, bodhiṃ chindanti dhātumhi upakkamanti, tesaṃ kiṃ hotīti? Bhāriyaṃ kammaṃ hoti ānantariyasadisaṃ. Sadhātukaṃ pana thūpaṃ vā paṭimaṃ vā bādhamānaṃ bodhisākhaṃ chindituṃ vaṭṭati. Sacepi tattha nilīnā sakuṇā cetiye vaccaṃ pātenti, chindituṃ vaṭṭatiyeva. Paribhogacetiyato hi sarīracetiyaṃ mahantataraṃ. Cetiyavatthuṃ bhinditvā gacchantaṃ bodhimūlampi chinditvā harituṃ vaṭṭati. Yā pana bodhisākhā bodhigharaṃ bādhati, taṃ geharakkhaṇatthaṃ chindituṃ na labhati, bodhiatthañhi gehaṃ, na gehatthāya bodhi[10]. Āsanagharepi eseva nayo. Yasmiṃ pana āsanaghare dhātu nihitā hoti, tassa rakkhaṇatthāya bodhisākhaṃ chindituṃ vaṭṭati. Bodhijagganatthaṃ ojoharaṇasākhaṃ vā pūtiṭṭhānaṃ vā chindituṃ vaṭṭatiyeva, Bhagavato sarīrapaṭijaggane viya puññampi hoti.
(Hỏi): Vậy, đối với những người phá hủy bảo tháp, chặt cây Bồ-đề, hoặc xâm hại Xá-lợi sau khi Như Lai đã nhập Niết-bàn, họ sẽ phạm nghiệp gì?
(Đáp): Đó là một trọng nghiệp, có sức nặng tương đương nghiệp Vô gián.
Tuy nhiên, có những quy định cụ thể:
- Được phép cắt tỉa một nhánh cây Bồ-đề nếu nó đang gây hại cho một bảo tháp chứa Xá-lợi (sadhātukaṃ thūpaṃ) hoặc một pho tượng Phật.
- Cũng được phép chặt [nhánh cây] nếu chim chóc đậu trên đó và phóng uế xuống bảo tháp.
- Lý do là vì Bảo tháp Xá-lợi (sarīracetiya) thì quan trọng hơn Bảo tháp vật dụng (paribhogacetiya, bao gồm cả cây Bồ-đề).
- Được phép cắt bỏ cả rễ cây Bồ-đề nếu nó mọc lan ra và làm nứt vỡ nền móng của bảo tháp.
Ngược lại, có những điều không được phép:
- Nếu một nhánh cây Bồ-đề làm hư hại ngôi nhà Bồ-đề (bodhighara), thì không được phép cắt nhánh cây đó để bảo vệ ngôi nhà. Lý do là: ngôi nhà được xây dựng vì cây Bồ-đề, chứ cây Bồ-đề không tồn tại vì ngôi nhà.
- Nguyên tắc này cũng áp dụng cho nhà thờ phụng bảo tọa (āsanaghara).
Tuy nhiên, có một ngoại lệ:
- Nếu bên trong ngôi nhà thờ phụng bảo tọa đó có tôn trí Xá-lợi, thì được phép cắt nhánh cây Bồ-đề để bảo vệ ngôi nhà ấy (vì lúc này là bảo vệ Xá-lợi).
- Để chăm sóc cây Bồ-đề, được phép cắt tỉa những nhánh hút nhựa (ojoharaṇasākhaṃ) hoặc những chỗ bị mục nát (pūtiṭṭhānaṃ). Hành động này còn sinh ra phước báu, tương tự như việc chăm sóc kim thân của Đức Thế Tôn khi Ngài tại thế.
Saṅghabhede sīmaṭṭhakasaṅghe asannipatite visuṃ parisaṃ gahetvā katavohārānussāvana-salākaggāhassa kammaṃ vā karontassa, uddesaṃ vā uddisantassa bhedo ca hoti ānantariyakammañca. Samaggasaññāya pana vaṭṭatīti kammaṃ karontassa bhedova hoti, na ānantariyakammaṃ, tathā navato ūnaparisāyaṃ. Sabbantimena paricchedena navannaṃ janānaṃ yo saṅghaṃ bhindati, tassa ānantariyakammaṃ hoti. Anuvattakānaṃ adhammavādīnaṃ mahāsāvajjakammaṃ. dhammavādino pana anavajjā.
Khi Tăng chúng trong cùng một giới trường (sīma) chưa hội họp, một người [chủ mưu] tập hợp một nhóm riêng (visuṃ parisaṃ), sau khi đã thực hiện các hành vi nói năng, xúi giục và phát thẻ, tiến hành một hành sự riêng hoặc một buổi tụng đọc [Giới bổn] riêng, thì khi đó, cả sự chia rẽ (bhedo) và nghiệp Vô gián (ānantariyakamma) đều thành lập.
Tuy nhiên, có các trường hợp ngoại lệ:
- Nếu một người thực hiện [hành sự riêng] với nhận thức sai lầm rằng Tăng chúng vẫn hòa hợp (samaggasaññāya), thì hành động đó chỉ cấu thành sự chia rẽ, chứ không phải nghiệp Vô gián.
- Tương tự, nếu [hành động ly khai] được thực hiện với một nhóm có ít hơn chín vị, thì đó cũng chỉ là sự chia rẽ, không phải nghiệp Vô gián.
Theo định nghĩa tối thiểu, chỉ người chủ mưu chia rẽ một Tăng đoàn có từ chín vị trở lên mới phạm nghiệp Vô gián, những người theo phe phi pháp (adhammavādī) thì phạm trọng tội (mahāsāvajjakammaṃ), còn những người theo phe Chánh pháp (dhammavādino) thì vô tội.
Tattha navannameva saṅghabhede idaṃ suttaṃ — “ekato Upāli cattāro honti, ekato cattāro, navamo anussāveti, salākaṃ gāheti ‘ayaṃ dhammo ayaṃ vinayo idaṃ satthusāsanaṃ, idaṃ gaṇhatha, imaṃ rocethā’ti, evaṃ kho, Upāli, saṅgharāji ceva hoti saṅghabhedo ca. navannaṃ vā, Upāli, atirekanavannaṃ vā saṅgharāji ceva hoti saṅghabhedo cā”ti (cūḷava. 351). Etesu pana pañcasu saṅghabhedo vacīkammaṃ, sesāni kāyakammānīti. Evaṃ kammato viññātabbo vinicchayo.
Trong việc chia rẽ Hội Chúng cả 9 vị ấy thì bài Kinh này là chứng cứ – “Này Upāli, một bên có bốn vị, một bên có bốn vị, và người thứ chín là người xúi giục và phát thẻ, tuyên bố rằng: ‘Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời giáo huấn của bậc Đạo Sư. Hãy nhận lấy điều này, hãy tán thành điều này.’ Này Upāli, như vậy là có sự rạn nứt trong Tăng đoàn (saṅgharāji) và có cả sự chia rẽ Tăng đoàn (saṅghabhedo). Này Upāli, sự rạn nứt và sự chia rẽ Tăng đoàn xảy ra với một nhóm có chín vị hoặc hơn chín vị.” (Cūḷavagga, 351). Hơn nữa trong số 5 vô gián nghiệp ấy thì chia rẽ tăng chúng là khẩu nghiệp, còn lại là thân nghiệp. Việc phân tích theo phương diện hành động (kammato) nên được hiểu như vậy.
Dvāratoti sabbāneva cetāni kāyadvāratopi vacīdvāratopi samuṭṭhahanti. Purimāni panettha cattāri āṇattikavijjāmayapayogavasena vacīdvārato samuṭṭhahitvāpi kāyadvārameva pūrenti, saṅghabhedo hatthamuddāya bhedaṃ karontassa kāyadvārato samuṭṭhahitvāpi vacīdvārameva pūretīti. Evamettha dvāratopi viññātabbo vinicchayo.
Xét về phương diện môn (dvāra): Tất cả năm nghiệp này đều có thể khởi sinh từ cả thân môn và khẩu môn.
- Bốn nghiệp đầu (giết cha, mẹ, A-la-hán, làm Phật chảy máu): Các nghiệp này có thể khởi sinh từ khẩu môn (ví dụ, thông qua việc ra lệnh cho người khác giết, hoặc dùng thần chú để sát hại), nhưng chúng được xem là hoàn tất tại thân môn, vì hành động cuối cùng là một hành vi vật lý.
- Tội chia rẽ Tăng đoàn: Ngược lại, ngay cả khi một người thực hiện việc chia rẽ bằng một cử chỉ tay (hatthamuddā), hành động này khởi sinh từ thân môn, nhưng lại được xem là hoàn tất tại khẩu môn, vì bản chất của việc chia rẽ là một lời tuyên bố, một sự phát biểu ly khai.
Việc phân tích theo phương diện “môn” nên được hiểu như vậy.
Kappaṭṭhitiyatoti saṅghabhedoyeva cettha kappaṭṭhitiyo. Saṇṭhahante hi[11] kappe kappavemajjhe vā saṅghabhedaṃ katvā kappavināseyeva muccati. Sacepi hi sveva kappo vinassissatīti ajja saṅghabhedaṃ karoti, sveva muccati, ekadivasameva niraye paccati. Evaṃ karaṇaṃ pana natthi. Sesāni cattāri kammāni[12] ānantariyāneva honti, na kappaṭṭhitiyānīti evamettha kappaṭṭhitiyatopi viññātabbo vinicchayo.
Xét về phương diện thời gian tồn tại của quả báo trong một kiếp: Trong năm nghiệp này, chỉ có tội chia rẽ Tăng đoàn là có quả báo kéo dài suốt một kiếp (kappaṭṭhitiya).
Thật vậy, một người gây chia rẽ Tăng đoàn vào lúc kiếp đang an trụ hoặc giữa kiếp, thì sẽ chỉ thoát khỏi [cảnh khổ ở địa ngục A-tỳ] vào đúng lúc kiếp đó hoại diệt.
- Thậm chí, nếu một người gây chia rẽ Tăng đoàn vào hôm nay, với suy nghĩ rằng “ngày mai kiếp sẽ hoại diệt”, thì người ấy cũng sẽ được giải thoát vào ngày mai. Người đó chỉ phải chịu khổ trong địa ngục đúng một ngày.
- Tuy nhiên, một trường hợp [hy hữu] như vậy không bao giờ xảy ra.
Bốn nghiệp còn lại chỉ là nghiệp Vô gián (ānantariya), chứ không phải là nghiệp trường kiếp (kappaṭṭhitiya). Việc phân tích theo phương diện thời gian tồn tại của quả báo nên được hiểu như vậy.
Pākatoti yena ca pañcape’tāni kammāni katāni honti, tassa saṅghabhedoyeva paṭisandhivasena vipaccati, sesāni “ahosikammaṃ, nāhosi kammavipāko”ti evamādīsu saṅkhyaṃ gacchanti. Saṅghassa bhedābhāve lohituppādo, tadabhāve arahantaghāto, tadabhāve ca sace pitā sīlavā hoti, mātā dussīlā, no vā tathā sīlavatī, pitughāto paṭisandhivasena vipaccati. Sace mātāpitughāto, dvīsupi sīlena vā dussīlena vā samānesu mātughātova paṭisandhivasena vipaccati. Mātā hi dukkarakārinī bahūpakārā ca puttānanti evamettha pākatopi viññātabbo vinicchayo.
Xét về phương diện thứ tự trổ quả: Nếu một người phạm cả năm nghiệp Vô gián này, thì chỉ có tội chia rẽ Tăng đoàn là sẽ trổ quả dưới dạng quyết định cảnh giới tái sinh (paṭisandhivasena vipaccati). Các nghiệp còn lại sẽ được xếp vào loại nghiệp vô hiệu (ahosikamma), tức là chúng không còn cơ hội để cho quả báo tái sinh.
Thứ tự ưu tiên trổ quả như sau:
- Nếu không có tội chia rẽ Tăng đoàn, thì tội làm Phật chảy máu sẽ trổ quả.
- Nếu không có cả hai tội trên, thì tội giết A-la-hán sẽ trổ quả.
- Nếu không có ba tội trên, và người đó phạm tội giết cả cha lẫn mẹ:
- Nếu người cha có giới hạnh và người mẹ thì không, tội giết cha sẽ trổ quả.
- Ngược lại, nếu người mẹ có giới hạnh hơn, tội giết mẹ sẽ trổ quả.
- Nếu cả cha và mẹ có giới hạnh ngang bằng nhau (dù là cùng có giới hay cùng không có giới), thì tội giết mẹ sẽ trổ quả để quyết định cảnh giới tái sinh.
Lý do là vì người mẹ là người đã làm những điều vô cùng khó làm (dukkarakārinī) và là người có công ơn to lớn đối với con cái. Việc phân tích theo phương diện thứ tự trổ quả nên được hiểu như vậy.
Sādhāraṇādīhīti purimāni cattāri sabbesampi gahaṭṭhapabbajitānaṃ sādhāraṇāni. saṅghabhedo pana “na kho, Upāli bhikkhunī, saṅghaṃ bhindati, na sikkhamānā, na sāmaṇero, na sāmaṇerī, na upāsako, na upāsikā saṅghaṃ bhindati, bhikkhu kho, Upāli, pakatatto samānasaṃvāsako samānasīmāyaṃ ṭhito saṅghaṃ bhindatī”ti (cūḷava. 351) vacanato vuttappakārassa bhikkhunova hoti, na aññassa, tasmā asādhāraṇo. Ādisaddena sabbepi te dukkhavedanāsahagatā dosamohasampayuttā cāti evamettha sādhāraṇādīhipi viññātabbo vinicchayo.
Xét về tính phổ quát:
- Bốn nghiệp đầu tiên (giết cha, mẹ, A-la-hán, làm Phật chảy máu) là nghiệp phổ quát (sādhāraṇa), tức là chung cho tất cả mọi người, từ tại gia đến xuất gia.
- Riêng tội chia rẽ Tăng đoàn là nghiệp không phổ quát (asādhāraṇa), vì theo kinh văn đã dạy, nó chỉ có thể được thực hiện bởi một vị Tỳ-khưu hội đủ các điều kiện sau:
“Này Upālī, Tỳ khưu ni không chia rẽ hội chúng, cô ni tập sự không chia rẽ hội chúng, Sa-di không chia rẽ hội chúng, Sa-di ni không chia rẽ hội chúng, nam cư sĩ không chia rẽ hội chúng, nữ cư sĩ không chia rẽ hội chúng. Này Upāli, vị tỳ khưu ni bình thường là vị có sự đồng cộng trú, đứng chung ranh giới có thể chia rẽ Hội Chúng.” (cūḷava. 351).
Do đó, tội này không phải là nghiệp của những người khác.
Từ “v.v.” (ādi) trong tiêu đề Sādhāraṇādīhi còn chỉ đến các đặc tính chung khác: tất cả năm nghiệp này đều có tâm sở tương ưng với thọ khổ (dukkhavedanāsahagata), và được câu hữu với sân và si (dosamohasampayuttā). Việc phân tích theo tính phổ quát và các đặc tính chung nên được hiểu như vậy.
Aññaṃ satthāranti “ayaṃ me satthā satthukiccaṃ kātuṃ asamattho”ti bhavantarepi aññaṃ titthakaraṃ “ayaṃ me satthā”ti evaṃ gaṇheyya, netaṃ ṭhānaṃ vijjatīti attho.
“Tôn một vị Thầy khác” (Aññaṃ satthāran’ti): Câu này giải thích cho một trong những điều không thể xảy ra đối với một bậc Thánh (người đã thành tựu Chánh kiến).
Nghĩa là: Không thể có trường hợp một người đã thành tựu Chánh kiến (tức một bậc Thánh) lại có thể khởi lên suy nghĩ rằng: “Vị Thầy của ta (Đức Phật) không đủ năng lực làm Thầy”, và rồi, dù là trong một kiếp sống tương lai (bhavantarepi), lại đi chấp nhận một vị đạo sư ngoại đạo khác và tôn làm Thầy của mình. Một sự kiện như vậy là không thể xảy ra.
129. Ekissā lokadhātuyāti dasasahassilokadhātuyā. Tīṇi hi khettāni jātikhettaṃ āṇākhettaṃ visayakhettaṃ. Tattha jātikhettaṃ nāma dasasahassī lokadhātu. Sā hi Tathāgatassa mātukucchiokkamanakāle nikkhamanakāle sambodhikāle dhammacakkappavattane āyusaṅkhārossajjane parinibbāne ca kampati. koṭisatasahassacakkavāḷaṃ pana āṇākhettaṃ nāma. āṭānāṭiya-moraparitta-dhajaggaparitta-ratanaparittādīnañhi ettha āṇā vattati. Visayakhettassa pana parimāṇaṃ natthi. buddhānañhi “yāvatakaṃ ñāṇaṃ tāvatakaṃ neyyaṃ, yāvatakaṃ neyyaṃ tāvatakaṃ ñāṇaṃ, ñāṇapariyantikaṃ neyyaṃ neyyapariyantikaṃ ñāṇan”ti (paṭi. ma. 3.5) vacanato avisayo nāma natthi.
129. “Trong một thế giới duy nhất”: có nghĩa là trong mười ngàn thế giới-hệ (dasasahassilokadhātu).
Có ba loại lãnh vực (khetta): Lãnh vực Sanh thành (jātikhetta), Lãnh vực Uy quyền (āṇākhetta), và Lãnh vực Trí tuệ (visayakhetta).
- Lãnh vực Sanh thành: Được gọi là mười ngàn thế giới-hệ. Thật vậy, lãnh vực này rung chuyển vào những thời điểm trọng đại của Đức Như Lai: khi Ngài nhập thai, khi Ngài xuất gia, khi Ngài thành tựu giác ngộ, khi Ngài chuyển bánh xe Pháp, khi Ngài xả bỏ thọ hành, và khi Ngài nhập Vô dư Niết-bàn.
- Lãnh vực Uy quyền: Được gọi là một trăm ngàn koti (một triệu triệu) thế giới-chuyển luân (cakkavāḷa). Uy lực của các bài kinh hộ trì như Āṭānāṭiya Paritta, Mora Paritta (Kinh Chim Công), Dhajagga Paritta (Kinh Ngọn Cờ), Ratana Paritta (Kinh Châu Báu)… đều có hiệu lực trong phạm vi này.
- Lãnh vực Trí tuệ: Phạm vi này thì vô hạn lượng. Thật vậy, không có gì nằm ngoài phạm vi đối tượng của trí tuệ chư Phật, như đã được nói trong kinh văn: “Phạm vi của trí tuệ đến đâu, phạm vi của đối tượng có thể biết đến đó; phạm vi của đối tượng có thể biết đến đâu, phạm vi của trí tuệ đến đó. Đối tượng biết có trí tuệ làm giới hạn, và trí tuệ có đối tượng biết làm giới hạn.” (Paṭisambhidāmagga 3.5).
Imesu pana tīsu khettesu ṭhapetvā imaṃ cakkavāḷaṃ aññasmiṃ cakkavāḷe Buddhā uppajjantīti suttaṃ natthi, na uppajjantīti pana atthi. Tīṇi piṭakāni vinayapiṭakaṃ suttantapiṭakaṃ abhidhammapiṭakaṃ, tisso saṅgītiyo Mahākassapattherassa saṅgīti, Yasattherassa saṅgīti, Moggaliputtatissattherassa saṅgītīti. imā tisso saṅgītiyo āruḷhe tepiṭake buddhavacane imaṃ cakkavāḷaṃ muñcitvā aññattha buddhā uppajjantīti suttaṃ natthi, na uppajjantīti pana atthi.
Hơn nữa, trong ba lãnh vực này, không có một bài kinh nào nói rằng chư Phật khởi sanh ở một thế giới-chuyển luân khác ngoài thế giới này. Ngược lại, chỉ có kinh văn khẳng định rằng các Ngài không khởi sanh [ở nơi khác].
Trong toàn bộ Phật ngôn thuộc Tam Tạng—Tạng Luật, Tạng Kinh, và Tạng Abhidhamma—vốn đã được xác lập qua ba kỳ kiết tập của Trưởng lão Mahākassapa, Trưởng lão Yasa, và Trưởng lão Moggaliputtatissa, cũng không hề có một bài kinh nào nói rằng: “Ngoài thế giới-chuyển luân này, chư Phật còn khởi sanh ở nơi khác”. Ngược lại, chỉ có kinh văn khẳng định rằng các Ngài không khởi sanh [ở nơi khác] mà thôi.
Apubbaṃ acarimanti apure apacchā. ekato na uppajjanti, pure vā pacchā vā uppajjantīti vuttaṃ hoti. Tattha hi bodhipallaṅke bodhiṃ appatvā na uṭṭhahissāmīti nisinnakālato paṭṭhāya yāva mātukucchismiṃ paṭisandhiggahaṇaṃ, tāva pubbeti na veditabbaṃ. Bodhisattassa hi paṭisandhiggahaṇena dasasahassacakkavāḷakampaneneva khettapariggaho kato, aññassa buddhassa uppatti nivāritāva hoti. Parinibbānakālato paṭṭhāya yāva sāsapamattā dhātu tiṭṭhati, tāva pacchāti na veditabbaṃ. Dhātūsu hi ṭhitāsu Buddhā ṭhitāva honti. tasmā etthantare aññassa buddhassa uppatti nivāritāva hoti. dhātuparinibbāne pana jāte aññassa buddhassa uppatti na nivāritā.
Đồng thời (không trước không sau): có nghĩa là [hai vị Phật] không sanh khởi cùng một lúc (ekato na uppajjanti). Điều này có nghĩa là một vị chỉ khởi sanh sau khi [giáo pháp của] vị trước đã hoàn toàn kết thúc.
Việc phân định này được hiểu như sau:
- Giai đoạn “trước” (pubbe): Khoảng thời gian này không được tính là bắt đầu từ lúc Bồ-tát ngồi dưới bảo tọa Bồ-đề với lời đại nguyện: “Ta sẽ không đứng dậy nếu chưa chứng đắc giác ngộ”. Thay vào đó, nó được tính ngay từ khoảnh khắc Bồ-tát nhập thai, làm rung động mười ngàn thế giới-hệ. Ngay từ lúc đó, Ngài đã ấn định lãnh địa giáo hóa của mình, và sự xuất hiện của một vị Phật khác đã được ngăn chặn.
- Giai đoạn “sau” (pacche): Khoảng thời gian này không được tính là kết thúc ngay lúc Đức Phật nhập Niết-bàn. Thay vào đó, nó kéo dài cho đến khi viên Xá-lợi cuối cùng, dù chỉ nhỏ bằng hạt cải, còn tồn tại. Bởi vì, khi Xá-lợi còn, Đức Phật được xem là vẫn còn hiện hữu. Do đó, trong khoảng thời gian này, sự xuất hiện của một vị Phật khác vẫn bị ngăn chặn.
Chỉ khi nào sự kiện Xá-lợi-hoàn-toàn-biến-mất (dhātuparinibbāna) xảy ra, thì sự xuất hiện của một vị Phật khác mới không còn bị ngăn chặn nữa.
Tīṇi hi antaradhānāni nāma pariyattiantaradhānaṃ, paṭivedhāntaradhānaṃ, paṭipattiantaradhānanti. Tattha pariyattīti tīṇi piṭakāni. Paṭivedhoti saccapaṭivedho. paṭipattīti paṭipadā. Tattha paṭivedho ca paṭipatti ca hotipi na hotipi. Ekasmiñhi kāle paṭivedhadharā[13] bhikkhū bahū honti, eso bhikkhu puthujjanoti aṅguliṃ pasāretvā dassetabbo hoti. Imasmiṃyeva dīpe ekavāre puthujjanabhikkhu nāma nāhosi. Paṭipattipūrikāpi kadāci bahū honti kadāci appā. Iti paṭivedho ca paṭipatti ca hotipi na hotipi, sāsanaṭṭhitiyā pana pariyatti pamāṇaṃ.
Thật vậy, có ba sự biến mất (antaradhāna) của Giáo pháp:
- Sự biến mất của Pháp học (pariyatti-antaradhāna)
- Sự biến mất của Pháp thành (paṭivedha-antaradhāna)
- Sự biến mất của Pháp hành (paṭipatti-antaradhāna)
Trong đó:
- Pháp học chính là Tam Tạng.
- Pháp thành chính là sự thấu triệt Tứ Thánh Đế.
- Pháp hành chính là con đường thực hành (Giới, Định, Tuệ).
Trong ba loại này, Pháp thành và Pháp hành có lúc tồn tại, có lúc không (hotipi na hotipi).
- Ví dụ, có những thời kỳ mà các vị Tỳ-khưu đã chứng đắc (Pháp thành) nhiều đến nỗi, không thể tìm thấy một vị Tỳ-khưu nào là phàm nhân để mà chỉ tay vào nói rằng “vị này là phàm nhân”. Thậm chí, đã có lúc trên chính hòn đảo này (Tích Lan), không hề có một vị Tỳ-khưu nào là phàm nhân cả.
- Tương tự, những vị viên mãn Pháp hành có lúc rất nhiều, có lúc lại rất ít.
Vì Pháp thành và Pháp hành có thể thịnh suy như vậy, nên Pháp học (kinh điển) mới chính là thước đo cho sự tồn tại của Giáo pháp.
Paṇḍito hi tepiṭakaṃ sutvā dvepi pūreti. Yathā amhākaṃ Bodhisatto Āḷārassa santike pañcābhiññā satta ca samāpattiyo nibbattetvā nevasaññānāsaññāyatanasamāpattiyā parikammaṃ pucchi, so na jānāmīti āha. Tato Udakassa santikaṃ gantvā adhigataṃ visesaṃ saṃsandetvā nevasaññānāsaññāyatanassa parikammaṃ pucchi, so ācikkhi, tassa vacanasamanantarameva mahāsatto taṃ sampādesi, evameva paññavā bhikkhu pariyattiṃ sutvā dvepi pūreti. tasmā pariyattiyā ṭhitāya sāsanaṃ ṭhitaṃ hoti.
Bởi vì một bậc trí, sau khi đã học thông Pháp học (Tam Tạng), sẽ có thể viên mãn cả Pháp hành và Pháp thành. Ví như Bồ-tát của chúng ta, sau khi đã chứng đắc năm Thắng trí và bảy tầng Thiền chứng tại trú xứ của đạo sĩ Āḷāra, Ngài đã hỏi về cách chứng đắc tầng thiền Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, nhưng đạo sĩ Āḷāra đáp rằng mình không biết. Sau đó, Bồ-tát đến trú xứ của đạo sĩ Udaka, trình bày lại sở đắc của mình và hỏi về cách thực hành để đạt đến tầng thiền Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ. Vị đạo sĩ này đã chỉ dạy, và ngay khi nghe xong, Bồ-tát đã lập tức thành tựu tầng thiền ấy.
Cũng vậy, một vị Tỳ-khưu có trí tuệ, sau khi học thông Pháp học, cũng sẽ viên mãn cả Pháp hành và Pháp thành. Do đó, khi Pháp học còn tồn tại, Giáo pháp được xem là còn tồn tại.
Yadā pana sā antaradhāyati, tadā paṭhamaṃ Abhidhammapiṭakaṃ nassati. Tattha Paṭṭhānaṃ sabbapaṭhamaṃ antaradhāyati, anukkamena pacchā Dhammasaṅgaho, tasmiṃ antarahite itaresu dvīsu piṭakesu ṭhitesu sāsanaṃ ṭhitameva hoti. Tattha Suttantapiṭake antaradhāyamāne paṭhamaṃ Aṅguttaranikāyo ekādasakato paṭṭhāya yāva ekakā antaradhāyati, tadanantaraṃ Saṃyuttanikāyo cakkapeyyālato paṭṭhāya yāva oghataraṇā antaradhāyati, tadanantaraṃ Majjhimanikāyo indriyabhāvanato paṭṭhāya yāva mūlapariyāyā antaradhāyati, tadanantaraṃ Dīghanikāyo dasuttarato paṭṭhāya yāva brahmajālā antaradhāyati. Ekissāpi dvinnampi gāthānaṃ pucchā addhānaṃ gacchati, sāsanaṃ dhāretuṃ na sakkoti sabhiyapucchā (su. ni. sabhiyasuttaṃ) viya āḷavakapucchā (su. ni. āḷavakasuttaṃ; saṃ. ni. 1.246) viya ca. Etā kira kassapabuddhakālikā antarā sāsanaṃ dhāretuṃ nāsakkhiṃsu.
Khi Pháp học bắt đầu biến mất, Tạng Abhidhamma sẽ biến mất trước tiên.
- Trong đó, bộ Paṭṭhāna (Vị Trí) biến mất đầu tiên, rồi tuần tự cho đến bộ Dhammasaṅgaṇī (Pháp Tụ) là cuối cùng.
- Khi Tạng Abhidhamma đã biến mất, nhưng hai tạng còn lại vẫn còn, Giáo pháp vẫn được xem là tồn tại.
Tiếp theo, Tạng Kinh (Suttanta) sẽ biến mất.
- Trong đó, Aṅguttara Nikāya (Tăng Chi Bộ) biến mất trước, theo thứ tự từ chương 11 pháp ngược về chương 1 pháp.
- Sau đó đến Saṃyutta Nikāya (Tương Ưng Bộ), từ phần Cakka Peyyāla ngược về kinh Oghataraṇa.
- Tiếp đến là Majjhima Nikāya (Trung Bộ), từ kinh Indriyabhāvanā ngược về kinh Mūlapariyāya.
- Cuối cùng là Dīgha Nikāya (Trường Bộ), từ kinh Dasuttara ngược về kinh Brahmajāla.
- Ngay cả khi chỉ còn một câu hỏi về một hoặc hai câu kệ tồn tại, nó cũng không đủ sức để duy trì Giáo pháp, giống như câu hỏi của Sabhiya (su. ni. Kinh Sabhiya) hay câu hỏi của Āḷavaka (su. ni. Kinh Āḷavaka; saṃ. ni. 1.246). Tương truyền rằng, những câu hỏi này vốn là những gì còn sót lại từ thời Đức Phật Kassapa, nhưng (chỉ riêng chúng) cũng đã không thể duy trì được Giáo pháp (của thời đó).
Dvīsu pana piṭakesu antarahitesupi Vinayapiṭake ṭhite sāsanaṃ tiṭṭhati, parivārakhandhakesu antarahitesu ubhatovibhaṅge ṭhite ṭhitameva hoti. Ubhatovibhaṅge antarahite mātikāya ṭhitāyapi ṭhitameva hoti. mātikāya antarahitāya Pātimokkhapabbajjaupasampadāsu ṭhitāsu sāsanaṃ tiṭṭhati. Liṅgamaddhānaṃ gacchati, setavatthasamaṇavaṃso pana Kassapabuddhakālato paṭṭhāya sāsanaṃ dhāretuṃ nāsakkhi. Pacchimakassa pana saccapaṭivedhato pacchimakassa sīlabhedato ca paṭṭhāya sāsanaṃ osakkitaṃ nāma hoti. Tato paṭṭhāya aññassa Buddhassa uppatti na vāritāti.
Khi cả hai tạng trên đã biến mất, nhưng Tạng Luật (Vinaya) vẫn còn, Giáo pháp vẫn được xem là tồn tại.
- Khi phần Parivāra (Tập Yếu) và các Khandhaka (Chương) biến mất, nhưng Ubhatovibhaṅga (Luật Phân Tích của hai bộ) vẫn còn, Giáo pháp vẫn tồn tại.
- Khi Ubhatovibhaṅga biến mất, nhưng Mātikā (Đề mục) vẫn còn, Giáo pháp vẫn tồn tại.
- Khi Mātikā biến mất, nhưng Pātimokkha (Giới Bổn), các nghi thức xuất gia và thọ cụ túc giới vẫn còn, Giáo pháp vẫn được xem là tồn tại.
Sau đó, chỉ còn hình tướng (liṅga) của Sa-môn tồn tại được một thời gian. Tuy nhiên, dòng dõi các Sa-môn chỉ còn mặc y trắng (nhưng không giữ giới) đã không thể duy trì được Giáo pháp, như đã từng xảy ra vào cuối thời Đức Phật Kassapa.
Giáo pháp được xem là đã chấm dứt hoàn toàn (osakkitaṃ) kể từ thời điểm của người cuối cùng thấu triệt chân lý (Pháp thành) và người cuối cùng phá giới (Pháp hành). Kể từ đó, sự xuất hiện của một vị Phật khác mới không còn bị ngăn trở nữa.
Tīṇi parinibbānāni nāma kilesaparinibbānaṃ khandhaparinibbānaṃ dhātuparinibbānanti. Tattha kilesaparinibbānaṃ Bodhipallaṅke ahosi, khandhaparinibbānaṃ Kusinārāyaṃ, dhātuparinibbānaṃ anāgate bhavissati. Sāsanassa kira osakkanakāle imasmiṃ Tambapaṇṇidīpe dhātuyo sannipatitvā Mahācetiyaṃ gamissanti, Mahācetiyato Nāgadīpe Rājāyatanacetiyaṃ, tato Mahābodhipallaṅkaṃ gamissanti, nāgabhavanatopi devalokatopi brahmalokatopi dhātuyo Mahābodhipallaṅkameva gamissanti. Sāsapamattāpi dhātu antarā na nassissati. Sabbā dhātuyo Mahābodhipallaṅke rāsibhūtā suvaṇṇakkhandho viya ekagghanā hutvā chabbaṇṇarasmiyo vissajjessanti, tā dasasahassilokadhātuṃ pharissanti.
Có ba loại Niết-bàn (parinibbāna):
- Phiền não Niết-bàn (kilesaparinibbāna): Sự tịch diệt hoàn toàn các phiền não.
- Ngũ uẩn Niết-bàn (khandhaparinibbāna): Sự tịch diệt hoàn toàn của ngũ uẩn.
- Xá-lợi Niết-bàn (dhātuparinibbāna): Sự biến mất hoàn toàn của Xá-lợi.
Trong đó:
- Phiền não Niết-bàn đã diễn ra tại bảo tọa Bồ-đề.
- Ngũ uẩn Niết-bàn đã diễn ra tại thành Kusinārā.
- Xá-lợi Niết-bàn sẽ diễn ra trong tương lai.
Tương truyền rằng, vào thời kỳ Giáo pháp hoại diệt, toàn bộ Xá-lợi trên hòn đảo Tambapaṇṇi (Tích Lan) này sẽ quy tụ lại và đi đến Đại Bảo tháp (Mahācetiya). Từ đó, chúng sẽ đi đến Bảo tháp Rājāyatana ở Nāgadīpa, rồi từ đó đi đến chính bảo tọa Đại Bồ-đề. Toàn bộ Xá-lợi từ long cung, thiên giới, và cả phạm thiên giới cũng sẽ quy tụ về chính bảo tọa Đại Bồ-đề. Không một viên Xá-lợi nào, dù chỉ nhỏ bằng hạt cải, sẽ bị thất lạc trên đường.
Tất cả Xá-lợi sẽ kết tụ lại thành một khối duy nhất tại bảo tọa Đại Bồ-đề, rực sáng như một khối vàng ròng, và phóng ra hào quang sáu màu. Hào quang ấy sẽ lan tỏa khắp mười ngàn thế giới-hệ.
Tato dasasahassacakkavāḷe devatā yo sannipatitvā “ajja Satthā parinibbāyati, ajja sāsanaṃ osakkati, pacchimadassanaṃ dāni idaṃ amhākan”ti Dasabalassa parinibbutadivasato mahantataraṃ kāruññaṃ karissanti. Ṭhapetvā anāgāmikhīṇāsave avasesā sakabhāvena saṇṭhātuṃ na sakkhissanti. Dhātūsu tejodhātu uṭṭhahitvā yāva brahmalokā uggacchissati, sāsapamattāyapi dhātuyā sati ekajālāva bhavissati, dhātūsu pariyādānaṃ gatāsu pacchijjissati. Evaṃ mahantaṃ ānubhāvaṃ dassetvā dhātūsu antarahitāsu sāsanaṃ antarahitaṃ nāma hoti. Yāva evaṃ na anantaradhāyati, tāva acarimaṃ nāma hoti. Evaṃ apubbaṃ acarimaṃ uppajjeyyunti netaṃ ṭhānaṃ vijjati.
Khi ấy, chư thiên từ khắp mười ngàn thế giới-chuyển luân sẽ tụ hội lại và than khóc với nỗi bi thương còn lớn hơn cả ngày Đức Phật nhập Niết-bàn rằng: “Hôm nay, Bậc Đạo Sư nhập Niết-bàn lần cuối cùng! Hôm nay, Giáo pháp chấm dứt! Đây là lần cuối cùng chúng ta được nhìn thấy (dấu tích của Ngài)!”
Ngoại trừ các bậc Thánh Bất Lai và A-la-hán, các chúng sinh còn lại sẽ không thể giữ nổi bình tĩnh (trước nỗi bi thương).
Một ngọn lửa (Hỏa đại) sẽ phát khởi từ chính khối Xá-lợi và bốc cao đến tận cõi Phạm thiên. Chừng nào dù chỉ một viên Xá-lợi nhỏ bằng hạt cải còn tồn tại, ngọn lửa vẫn sẽ cháy thành một khối duy nhất. Chỉ khi toàn bộ Xá-lợi đã cháy hết, ngọn lửa mới tắt lịm.
Sau khi đã thể hiện uy lực vĩ đại như vậy, toàn bộ Xá-lợi sẽ biến mất, và Giáo pháp lúc đó được xem là đã hoàn toàn biến mất. Chừng nào sự kiện này chưa diễn ra, thì vẫn được gọi là “chưa phải cuối cùng” (acariman).
Vì vậy, trường hợp [hai vị Phật] khởi sanh đồng thời—không trước, không sau—là điều không thể xảy ra.
Kasmā pana apubbaṃ acarimaṃ na uppajjantīti. Anacchariyattā. Buddhā hi acchariyamanussā. Yathāha — “ekapuggalo, bhikkhave, loke uppajjamāno uppajjati acchariyamanusso, katamo ekapuggalo? Tathāgato arahaṃ sammāsambuddho”ti (a. ni. 1.171-174).
Vậy tại sao (chư Phật) không sanh lên (đồng thời) không trước không sau? Bởi vì điều đó không kỳ diệu. Bởi chư Phật là những bậc phi thường. Như Ngài đã nói rằng– “Một người, này các Tỳ khưu, khi xuất hiện ở đời, là xuất hiện một người phi thường. Một người ấy là ai? Chính là đức Thế Tôn, bậc A-ra-hán, Chánh đẳng Chánh giác.” (a. ni. 1.171-174);
Yadi ca dve vā cattāro vā aṭṭha vā soḷasa vā ekato uppajjeyyuṃ, na acchariyā bhaveyyuṃ. Ekasmiñhi vihāre dvinnaṃ cetiyānampi lābhasakkāro uḷāro na hoti bhikkhūpi bahutāya na acchariyā jātā, evaṃ buddhāpi bhaveyyuṃ. Tasmā na uppajjanti.
Và nếu như chư Phật có thể sanh lên cùng lúc – hai vị, bốn vị, tám vị, mười sáu vị, thì (điều đó) sẽ khiến họ trở thành (nhân vật) không phi thường. Thật vậy, ngay cả hai ngôi Bảo điện trong cùng một tự viện, có lợi lộc và sự cung kính là không cao quý, và cả các vị Tỳ khưu cũng không phi thường bởi có rất nhiều, ngay cả chư Phật cũng trở thành như vậy. Chính vì thế (chư Phật) không sanh lên (đồng thời).
Desanāya ca visesābhāvato. Yañhi satipaṭṭhānādibhedaṃ dhammaṃ eko deseti, aññena uppajjitvāpi sova desetabbo siyā. Tato na acchariyo siyā, ekasmiṃ pana dhammaṃ desente desanāpi acchariyā hoti.
Ngoài ra, (chư Phật không xuất hiện đồng thời) vì sự thuyết giảng không có khác biệt. Thật vậy, một vị Phật thuyết pháp nào được phân chia theo thể loại có sự thiết lập niệm v.v, thì ngay khi một vị Phật khác xuất hiện chính chính pháp ấy cũng có thể thuyết giảng tương tự. Vì thế, điều đó không còn là phi thường. Nhưng chỉ khi có một vị thuyết pháp thì chính pháp thoại (ấy) cũng trở nên phi thường.
Vivādābhāvato ca. Bahūsu ca Buddhesu uppajjantesu bahūnaṃ ācariyānaṃ antevāsikā viya “amhākaṃ Buddho pāsādiko, amhākaṃ buddho madhurassaro lābhī puññavā”ti vivadeyyuṃ, tasmāpi evaṃ na uppajjanti. Apicetaṃ kāraṇaṃ milindaraññā puṭṭhena Nāgasenattherena vitthāritameva. Vuttañhi (mi. pa. 5.1.1) —
Bên cạnh đó, (chư Phật không xuất hiện đồng thời) để tránh sự tranh luận. Thật vậy, khi nhiều vị Phật sanh lên đồng thời thì chư Tỳ khưu có thể tranh luận với nhau rằng: “Đức Phật của chúng ta thật đáng tịnh tín, đức Phật của chúng ta có giọng nói ngọt ngào, có lợi đắc, và có nhiều phước báu!” (Điều này) cũng giống như các học trò của nhiều vị thầy. Vì lý do ấy (chư Phật) không sanh lên đồng thời. Cho nên, khi đại đức Nāgasena bị đức vua Milinda hỏi, Ngài đã giải thích cặn kẽ về vấn đề này. Bởi vì việc ấy đã được đề cập (mi. pa. 5.1.1) —
“Tattha, bhante Nāgasena, bhāsitampetaṃ Bhagavatā: ‘Aṭṭhānametaṃ, bhikkhave, anavakāso, yaṃ ekissā lokadhātuyā dve arahanto sammāsambuddhā apubbaṃ acarimaṃ uppajjeyyuṃ, netaṃ ṭhānaṃ vijjatī’ti. desentā ca, bhante Nāgasena, sabbepi Tathāgatā sattatiṃsa bodhipakkhiya dhamme desenti, kathayamānā ca cattāri ariyasaccāni kathenti, sikkhāpentā ca tīsu sikkhāsu sikkhāpenti, anusāsamānā ca appamādapaṭipattiyaṃ anusāsanti. Yadi, bhante Nāgasena, sabbesampi Tathāgatānaṃ ekā desanā[14] ekā kathā ekā sikkhā ekā anusiṭṭhi, kena kāraṇena dve Tathāgatā ekakkhaṇe nuppajjanti? Ekenapi tāva Buddhuppādena ayaṃ loko obhāsajāto. Yadi dutiyo Buddho bhaveyya, dvinnaṃ pabhāya ayaṃ loko bhiyyosomattāya obhāsajāto bhaveyya. Ovadamānā ca dve Tathāgatā sukhaṃ ovadeyyuṃ, anusāsamānā ca sukhaṃ anusāseyyuṃ, tattha me kāraṇaṃ brūhi, yathāhaṃ nissaṃsayo bhaveyyanti.
Đức vua Milinda hỏi: “Thưa ngài Nāgasena, điều này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến: ‘Này các tỳ khưu, điều này là không hợp lý và không có cơ sở, là việc hai bậc A-ra-hán, Chánh đẳng Chánh giác có thể sanh lên không trước không sau trong cùng một thế giới, sự kiện này không được biết đến’ Thưa ngài Nāgasena, trong khi thuyết giảng tất cả các đức Như Lai đều thuyết giảng ba mươi bảy Pháp trợ phần giác ngộ, trong khi giảng giải đều giảng giải bốn Chân Lý cao thượng, trong khi huấn luyện đều huấn luyện về ba sự học tập, trong khi chỉ dạy đều chỉ dạy sự thực hành về không xao lãng. Thưa ngài Nāgasena, nếu tất cả các đức Như Lai đều có sự thuyết giảng thống nhất, sự giảng giải thống nhất, sự huấn luyện thống nhất, sự chỉ dạy thống nhất, vì lý do gì hai đức Như Lai không sanh lên trong cùng một thời điểm? Bởi vì với việc sanh lên của vị Phật dù chỉ một vị thế gian này được phát sáng, nếu có thêm vị Phật thứ nhì, với hai luồng ánh sáng thế gian này có thể được phát sáng nhiều hơn thế nữa. Và hai đức Như Lai, trong khi giáo giới có thể giáo giới một cách thoải mái, trong khi chỉ dạy, có thể chỉ dạy một cách thoải mái. Về việc này, xin đại đức hãy nói cho trẫm lý do, để trẫm có thể dứt khỏi sự nghi ngờ.”
Ayaṃ mahārāja dasasahassī lokadhātu ekabuddhadhāraṇī, ekasseva tathāgatassa guṇaṃ dhāreti, yadi dutiyo buddho uppajjeyya, nāyaṃ dasasahassī lokadhātu dhāreyya, caleyya kampeyya nameyya onameyya vinameyya vikireyya vidhameyya viddhaṃseyya, na ṭhānamupagaccheyya.
Đại đức Nāgasena đáp – “Tâu đại vương, mười ngàn thế giới này, có sự nâng đỡ chỉ một vị Phật, nâng đỡ đức hạnh của chỉ một đức Như Lai. Nếu vị Phật thứ nhì sanh lên, mười ngàn thế giới này không thể nâng đỡ, có thể lay động, rúng động, nghiêng qua, hạ thấp xuống, uốn cong, phân tán, tiêu tan, tiêu hoại, đưa đến không thể trú vững được.
Yathā, mahārāja, nāvā ekapurisasandhāraṇī bhaveyya. Ekasmiṃ purise abhirūḷhe sā nāvā samupādikā bhaveyya. Atha dutiyo puriso āgaccheyya tādiso āyunā vaṇṇena vayena pamāṇena kisathūlena sabbaṅgapaccaṅgena, so taṃ nāvaṃ abhirūheyya. Apinu sā mahārāja, nāvā dvinnampi dhāreyyāti? Na hi, bhante, caleyya kampeyya nameyya onameyya vinameyya vikireyya vidhameyya viddhaṃseyya, na ṭhānamupagaccheyya, osīdeyya udaketi. Evameva kho, mahārāja, ayaṃ dasasahassī lokadhātu ekabuddhadhāraṇī, ekasseva tathāgatassa guṇaṃ dhāreti, yadi dutiyo buddho uppajjeyya, nāyaṃ dasasahassī lokadhātu dhāreyya, caleyya … pe … na ṭhānamupagaccheyya.
Tâu đại vương, giống như chiếc thuyền là có sự nâng đỡ một người, khi có một người bước lên thì có thể đạt được sự yên ổn. Khi người thứ hai đi đến có cùng tuổi tác, vóc dáng, thọ mạng, kích thước, ốm mập, toàn bộ tứ chi lớn nhỏ tương đương người kia, rồi người ấy có thể bước lên chiếc thuyền ấy. Tâu đại vương, phải chăng chiếc thuyền ấy cũng có thể nâng đỡ cả hai người?” – “Thưa ngài, không đúng. Nó có thể lay động, rúng động, nghiêng qua, hạ thấp xuống, uốn cong, phân tán, tiêu tan, tiêu hoại, tiến đến việc bị hoại diệt, có thể chìm xuống nước.” – “Tâu đại vương, tương tự y như thế mười ngàn thế giới này, có sự nâng đỡ chỉ một vị Phật, nâng đỡ đức hạnh của chỉ một đức Như Lai. Nếu vị Phật thứ hai sanh lên, mười ngàn thế giới này không thể nâng đỡ, có thể lay động, rúng động, nghiêng qua, tiêu hoại…nt…, đưa đến không thể trú vững được.
Yathā vā pana mahārāja puriso yāvadatthaṃ bhojanaṃ bhuñjeyya chādentaṃ yāvakaṇṭhamabhipūrayitvā, so dhāto pīṇito paripuṇṇo nirantaro tandikato anonamitadaṇḍajāto punadeva tattakaṃ bhojanaṃ bhuñjeyya, apinu kho, mahārāja, puriso sukhito bhaveyyāti? Na hi, bhante, sakiṃ bhuttova mareyyāti. Evameva kho, mahārāja, ayaṃ dasasahassī lokadhātu ekabuddhadhāraṇī … pe … na ṭhānamupagaccheyyāti.
Tâu đại vương, hoặc là giống như người nam ăn thức ăn theo như ý thích. Người ấy, sau khi chứa đầy món ăn được ưa thích đến tận cổ họng, được thỏa mãn, căng phồng, đầy ứ, không còn chỗ chứa, bị làm mệt, tựa như cây gậy cứng đờ, rồi lại ăn thức ăn chừng ấy thêm lần nữa. Tâu đại vương, phải chăng người nam ấy có thể có được thoải mái?” “Thưa ngài, không thể được. Đã được ăn một lần thôi cũng có thể chết.” – “Tâu đại vương, tương tự y như thế mười ngàn thế giới này, có sự nâng đỡ chỉ một vị Phật, …nt…, đưa đến không thể trú vững được.”
Kiṃ nu kho, bhante Nāgasena, atidhammabhārena pathavī calatīti? Idha, mahārāja, dve sakaṭā ratanaparipūritā bhaveyyuṃ yāva mukhasamā. Ekasmā sakaṭato ratanaṃ gahetvā ekasmiṃ sakaṭe ākireyyuṃ, apinu kho taṃ, mahārāja, sakaṭaṃ dvinnampi sakaṭānaṃ ratanaṃ dhāreyyāti? Na hi, bhante, nābhipi tassa phaleyya, arāpi tassa bhijjeyyuṃ, nemipi tassa opateyya, akkhopi tassa bhijjeyyāti. Kiṃ nu kho, mahārāja, atiratanabhārena sakaṭaṃ bhijjatīti? Āma, bhanteti. Evameva kho, mahārāja, atidhammabhārena pathavī calatīti.
Thưa ngài Nāgasena, phải chăng với gánh nặng Giáo Pháp quá tải quả đất lay động? Tâu đại vương, ở đây hai chiếc xe hàng có thể được chứa đầy châu báu đến ngang miệng, sau khi lấy châu báu từ một chiếc xe hàng rồi đổ vào chiếc xe hàng kia. Tâu đại vương, phải chăng chiếc xe kéo ấy có thể chứa đựng châu báu của hai chiếc xe kéo? – Thưa ngài, không thể được. Thậm chí ở trục bánh xe của nó có thể nứt, ngay cả các cây căm của nó cũng có thể bị gãy, kể cả vành bánh xe của nó cũng có thể sụm xuống, trục xe của nó có thể bị gãy. – Tâu đại vương, phải chăng chiếc xe hàng bị gãy đổ với gánh nặng châu báu quá tải? – Thưa ngài, đúng vậy. Tâu đại vương, tương tợ y như thế quả đất lay động với gánh nặng Giáo Pháp quá tải.
Apica mahārāja imaṃ kāraṇaṃ buddhabalaparidīpanāya osāritaṃ, aññampi tattha abhirūpaṃ kāraṇaṃ suṇohi, yena kāraṇena dve sammāsambuddhā ekakkhaṇe nuppajjanti. yadi, mahārāja, dve sammāsambuddhā ekakkhaṇe uppajjeyyuṃ, tesaṃ parisāya vivādo uppajjeyya — “tumhākaṃ buddho amhākaṃ buddho”ti ubhatopakkhajātā bhaveyyuṃ. Yathā, mahārāja, dvinnaṃ balavāmaccānaṃ parisāya vivādo uppajjeyya ‘tumhākaṃ amacco amhākaṃ amacco’ti ubhatopakkhajātā honti, Evameva kho, mahārāja, yadi, dve sammāsambuddhā ekakkhaṇe uppajjeyyuṃ, tesaṃ parisāya vivādo uppajjeyya ‘tumhākaṃ buddho amhākaṃ buddho’ti ubhatopakkhajātā bhaveyyuṃ. idaṃ tāva, mahārāja, ekaṃ kāraṇaṃ, yena kāraṇena dve sammāsambuddhā ekakkhaṇe nuppajjanti.
Tâu đại vương, hơn nữa lý do này được đưa ra để làm rõ năng lực của vị Phật. Xin đại vương hãy lắng nghe lý do xác đáng khác nữa cho trường hợp ấy, mà vì lý do ấy hai vị Chánh đẳng Chánh giác không thể sanh lên trong cùng một thời điểm: Tâu đại vương, nếu hai vị Chánh đẳng Chánh giác sanh lên trong cùng một thời điểm, sự tranh cãi giữa hội chúng của hai vị ấy có thể sanh khởi: ‘Phật của các vị, Phật của chúng tôi,’ rồi có thể bị sanh ra hai nhóm. Tâu đại vương, giống như sự tranh cãi giữa hội chúng của hai vị quan đại thần có quyền lực có thể sanh khởi: ‘Quan đại thần của các vị, quan đại thần của chúng tôi,’ rồi bị sanh ra hai nhóm. Tâu đại vương, tương tự y như thế nếu hai vị Chánh đẳng Chánh giác sanh lên trong cùng một thời điểm, sự tranh cãi giữa hội chúng của hai vị ấy có thể sanh khởi: ‘Phật của các vị, Phật của chúng tôi,’ rồi có thể bị sanh ra hai nhóm. Tâu đại vương, đây còn là một lý do, mà vì lý do ấy hai vị Chánh đẳng Chánh giác không thể sanh lên trong cùng một thời điểm.
Aparampi, mahārāja, uttariṃ kāraṇaṃ suṇohi, yena kāraṇena dve sammāsambuddhā ekakkhaṇe nuppajjanti. Yadi, mahārāja, dve sammāsambuddhā ekakkhaṇe uppajjeyyuṃ, aggo buddhoti yaṃ vacanaṃ, taṃ micchā bhaveyya. Jeṭṭho buddhoti yaṃ vacanaṃ, taṃ micchā bhaveyya. Seṭṭho buddhoti, visiṭṭho buddhoti, uttamo buddhoti, pavaro buddhoti, asamo buddhoti, asamasamo buddhoti, appaṭisamo buddhoti, appaṭibhāgo buddhoti, appaṭipuggalo buddhoti yaṃ vacanaṃ, taṃ micchā bhaveyya. Idampi kho tvaṃ, mahārāja, kāraṇaṃ atthato sampaṭiccha, yena kāraṇena dve sammāsambuddhā ekakkhaṇe nuppajjanti.
Tâu đại vương, xin đại vương hãy lắng nghe thêm lý do khác nữa, mà vì lý do ấy hai vị Chánh đẳng Chánh giác không sanh lên trong cùng một thời điểm. Tâu đại vương, nếu hai vị Chánh đẳng Chánh giác có thể sanh lên trong cùng một thời điểm, thì lời nói rằng: ‘Đức Phật là cao cả’ có thể là sai trái, thì lời nói rằng: ‘Đức Phật là lớn nhất’ có thể là sai trái, thì lời nói rằng: ‘Đức Phật là hạng nhất’ có thể là sai trái, thì lời nói rằng: Đức Phật là nổi bật, đức Phật là tối thượng, đức Phật là cao quý, đức Phật là không người sánh bằng, đức Phật là không kẻ tương đương, đức Phật là không người đối xứng, đức Phật là không kẻ so sánh, đức Phật là không người đối thủ, (điều đó) có thể là sai trái. Tâu đại vương, xin đại vương hãy chấp nhận theo chính lý do này, bởi ý nghĩa đây cũng là lý do mà hai vị Chánh đẳng Chánh giác không thể sanh lên trong cùng một thời điểm.
Apica kho mahārāja buddhānaṃ bhagavantānaṃ sabhāvapakati esā, yaṃ ekoyeva buddho loke uppajjati. kasmā kāraṇā? mahantatāya sabbaññubuddhaguṇānaṃ. Aññampi mahārāja yaṃ loke mahantaṃ, taṃ ekaṃyeva hoti. pathavī, mahārāja, mahantī, sā ekāyeva. Sāgaro mahanto, so ekoyeva. Sineru girirājā mahanto, so ekoyeva. Ākāso mahanto, so ekoyeva. Sakko mahanto, so ekoyeva. Māro mahanto, so ekoyeva. Brahmā mahanto, so ekoyeva. Tathāgato arahaṃ sammāsambuddho mahanto, so ekoyeva lokasmiṃ. Yattha te uppajjanti, tattha aññassa okāso na hoti. Tasmā, mahārāja, tathāgato arahaṃ sammāsambuddho ekoyeva lokasmiṃ uppajjatīti. Sukathito, bhante Nāgasena, pañho opammehi kāraṇehī”ti.
Tâu đại vương, thêm nữa tính chất tự nhiên về bản thể của chư Phật Thế Tôn là chỉ một vị Phật sanh lên ở thế gian. Bởi vì lý do gì? Bởi vì tính chất vĩ đại về các đức hạnh của đức Phật Toàn Tri. Tâu đại vương, vật khác cũng là vĩ đại ở thế gian, vật ấy là chỉ có một. Tâu đại vương, quả đất là vĩ đại (bởi) nó chỉ có một. Biển cả là vĩ đại (bởi) nó chỉ có một. Núi Chúa Sineru là vĩ đại (bởi) nó chỉ có một. Không gian là vĩ đại (bởi) nó chỉ có một. Vua trời Sakka là vĩ đại (bởi) vị ấy chỉ có một. Ma Vương là vĩ đại (bởi) vị ấy chỉ có một. Đại Phạm Thiên là vĩ đại (bởi) vị ấy chỉ có một ở thế gian. Đức Như Lai, bậc A-ra-hán, Chánh đẳng Chánh giác là vĩ đại, bởi ngài chỉ có một mà thôi. Nơi nào những vị ấy sanh lên, thì những người khác không còn cơ hội (sanh ra) ở nơi đó. Vì thế, Tâu đại vương, Đức Như Lai, bậc A-ra-hán, Chánh đẳng Chánh giác ở thế gian chỉ có một vị.” “Thưa ngài Nāgasena, câu hỏi đã được ngài khéo được giảng giải bằng các lý lẽ (được mang lại), với ví dụ so sánh.
Ekissā lokadhātuyāti ekasmiṃ cakkavāḷe. Heṭṭhā imināva padena dasacakkavāḷasahassāni gahitāni tānipi[15], ekacakkavāḷeneva paricchindituṃ vaṭṭanti. Buddhā hi uppajjamānā imasmiṃyeva cakkavāḷe uppajjanti, uppajjanaṭṭhāne pana vārite ito aññesu cakkavāḷesu nuppajjantīti vāritameva hoti.
Trong cùng một thế giới: ở đây có nghĩa là “trong cùng một thế giới-chuyển luân (cakkavāḷa)”. Mặc dù ở đoạn trước, cụm từ này được dùng để chỉ mười ngàn thế giới-hệ, nhưng trong trường hợp này, nó cũng có thể được hiểu trong phạm vi chỉ một thế giới-chuyển luân duy nhất. Bởi vì chư Phật chỉ khởi sanh trong chính thế giới-chuyển luân này. Do đó, một khi nơi khởi sanh này đã bị ngăn trở (bởi một vị Phật đang tại thế), thì điều đó cũng đồng nghĩa với việc các Ngài bị ngăn trở khởi sanh ở các thế giới-chuyển luân khác, vì vốn dĩ các Ngài không khởi sanh ở đó.
Apubbaṃ acarimanti ettha cakkaratanapātubhāvato pubbe pubbaṃ, tasseva antaradhānato pacchā carimaṃ. Tattha dvidhā cakkaratanassa antaradhānaṃ hoti, cakkavattino kālaṃkiriyato vā pabbajjāya vā. antaradhāyamānañca pana taṃ kālaṃkiriyato vā pabbajjato vā sattame divase antaradhāyati, tato paraṃ cakkavattino pātubhāvo avārito.
Không trước không sau (đối với Chuyển Luân Vương) được định nghĩa như sau:
- Giai đoạn “trước” được tính từ trước khi Bảo luân (cakkaratana) xuất hiện.
- Giai đoạn “sau” được tính từ sau khi Bảo luân ấy biến mất.
Sự biến mất của Bảo luân xảy ra theo hai cách: do vị Chuyển Luân Vương băng hà, hoặc do Ngài xuất gia. Bảo luân sẽ biến mất vào ngày thứ bảy kể từ khi nhà vua băng hà hoặc xuất gia. Kể từ sau thời điểm đó, sự xuất hiện của một vị Chuyển Luân Vương khác sẽ không còn bị ngăn trở.
Kasmā pana ekacakkavāḷe dve cakkavattino nuppajjantīti. vivādupacchedato acchariyabhāvato cakkaratanassa mahānubhāvato ca. Dvīsu hi uppajjantesu “amhākaṃ rājā mahanto amhākaṃ rājā mahanto”ti vivādo uppajjeyya. Ekasmiṃ dīpe cakkavattīti ca ekasmiṃ dīpe cakkavattīti ca anacchariyā bhaveyyuṃ[16]. Yo cāyaṃ cakkaratanassa dvisahassadīpaparivāresu catūsu mahādīpesu issariyānuppadānasamattho mahānubhāvo, so parihāyetha. Iti vivādupacchedato acchariyabhāvato cakkaratanassa mahānubhāvato ca na ekacakkavāḷe dve uppajjanti.
Vậy tại sao hai vị Chuyển Luân Vương không thể cùng khởi sanh trong một thế giới-chuyển luân?
Câu trả lời là vì ba lý do: (1) để tránh tranh chấp, (2) để duy trì tính chất phi thường, và (3) vì uy lực của chính Bảo luân.
- Tránh tranh chấp: Nếu hai vị cùng xuất hiện, tranh chấp sẽ khởi lên khi người dân của mỗi vị đều tuyên bố: “Vua của chúng ta mới là vĩ đại!”
- Duy trì tính phi thường: Sự kiện “một vị Chuyển Luân Vương trong một thế giới” sẽ không còn là điều phi thường, kỳ diệu nữa.
- Uy lực của Bảo luân: Uy lực vĩ đại của Bảo luân—vốn có khả năng mang lại quyền thống trị trên cả bốn đại châu cùng hai ngàn tiểu châu vây quanh—sẽ bị suy giảm.
Vì vậy, để tránh tranh chấp, để duy trì tính phi thường, và vì uy lực của Bảo luân, hai vị Chuyển Luân Vương không cùng khởi sanh trong một thế giới-chuyển luân.
130. Yaṃ itthī assa arahaṃ sammāsambuddhoti ettha tiṭṭhatu tāva sabbaññuguṇe nibbattetvā lokuttāraṇasamattho[17] buddhabhāvo, paṇidhānamattampi itthiyā na sampajjati.
Manussattaṃ liṅgasampatti, hetu satthāradassanaṃ.
Pabbajjā guṇasampatti, adhikāro ca chandatā.
aṭṭhadhammasamodhānā, abhinīhāro samijjhatīti. (bu. vaṃ. 2.59) —
130. Trong câu người nữ có thể trở thành bậc A-ra-hán, Chánh đẳng Chánh giác: hãy tạm gác lại Phật quả tối thượng, tức là trạng thái có khả năng cứu độ thế gian sau khi đã viên mãn tuệ giác Toàn Tri. Chỉ riêng việc phát khởi đại nguyện (paṇidhāna) thôi cũng đã không thể thành tựu đối với một người nữ.
Sự phát nguyện vĩ đại (abhinīhāra) chỉ thành tựu khi hội đủ tám yếu tố sau:
- Là người (Manussattaṃ)
- Có thân nam giới (liṅgasampatti)
- Có nhân duyên để chứng đắc A-la-hán trong chính kiếp đó (hetu)
- Được gặp một vị Phật tại thế (satthāradassanaṃ)
- Được xuất gia (Pabbajjā)
- Thành tựu các công đức (như thiền định, thắng trí) (guṇasampatti)
- Có sự tích lũy công đức nền tảng (adhikāro)
- Có ý chí và quyết tâm mãnh liệt (chandatā)
(Trích Buddhavamsa – Phật Sử, 2.59)
Imāni hi paṇidhānasampattikāraṇāni. Iti paṇidhānampi sampādetuṃ asamatthāya itthiyā kuto buddhabhāvoti “aṭṭhānametaṃ anavakāso yaṃ itthī assa arahaṃ sammāsambuddho”ti vuttaṃ. Sabbākāraparipūro ca puññussayo sabbākāraparipūrameva attabhāvaṃ nibbattetīti purisova arahaṃ hoti sammāsambuddho.
Đây chính là những nhân duyên để thành tựu sự phát nguyện. Như vậy, một người nữ vốn không thể hội đủ điều kiện để phát khởi đại nguyện, thì làm sao có thể đạt đến Phật quả? Vì lý do đó, kinh văn mới nói rằng: “Việc một người nữ trở thành bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác là điều không thể xảy ra, là phi cơ sở”.
Hơn nữa, sự tích lũy công đức viên mãn về mọi phương diện sẽ tạo ra một thân tướng cũng viên mãn về mọi phương diện. Và vì lý do đó, chỉ có nam nhân mới trở thành bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác.
Yaṃ itthī rājā assa cakkavattītiādīsupi yasmā itthiyā kosohitavatthaguyhatādīnaṃ abhāvena lakkhaṇāni na paripūrenti, itthiratanābhāvena sattaratanasamaṅgitā na sampajjati, sabbamanussehi ca adhiko attabhāvo na hoti, tasmā “aṭṭhānametaṃ anavakāso yaṃ itthī rājā assa cakkavattī”ti vuttaṃ. Yasmā ca sakkattādīni tīṇi ṭhānāni uttamāni, itthiliṅgañca hīnaṃ, tasmā tassā sakkattādīnipi paṭisiddhāni.
Khi một nữ nhân có thể thành vị Chuyển luân vương: Điều này không thể xảy ra, bởi vì một người nữ không thể viên mãn các tướng tốt của bậc Đại nhân, do thiếu các đặc điểm như “bộ phận sinh dục được bao bọc trong lớp vỏ” (kosohitavatthaguyha)[18] v.v. Hơn nữa, họ không thể sở hữu đủ Bảy báu (Sattaratana), vì bản thân họ không thể có được “Nữ bảo” (Itthiratana). Thân tướng của họ cũng không được xem là vượt trội hơn tất cả mọi người. Vì những lý do đó, kinh văn mới nói rằng: “Việc một người nữ trở thành Chuyển Luân Vương là điều không thể xảy ra, là phi cơ sở.”
Tương tự, các địa vị như Vua Trời Đế-thích (Sakka) là những địa vị tối thượng, trong khi thân tướng nữ nhân bị xem là thấp kém hơn. Do đó, việc một người nữ đạt đến các địa vị ấy cũng bị loại trừ.
Nanu ca yathā itthiliṅgaṃ, evaṃ purisaliṅgampi brahmaloke natthi? Tasmā “yaṃ puriso brahmattaṃ kareyya, ṭhānametaṃ vijjatī”tipi na vattabbaṃ siyāti. No na vattabbaṃ. Kasmā? idha purisassa tattha nibbattanato. Brahmattanti hi mahābrahmattaṃ adhippetaṃ. Itthī ca idha jhānaṃ bhāvetvā kālaṃ katvā brahmapārisajjānaṃ sahabyataṃ upapajjati, na mahābrahmānaṃ, puriso pana tattha na uppajjatīti na vattabbo. Samānepi cettha ubhayaliṅgābhāve purisasaṇṭhānāva brahmāno, na itthisaṇṭhānā, tasmā suvuttamevetaṃ.
[Vấn]: Nhưng chẳng phải rằng, ở cõi Phạm thiên không chỉ không có thân tướng nữ, mà cũng không có cả thân tướng nam hay sao? Nếu vậy, lẽ ra cũng không nên nói rằng “Việc một nam nhân trở thành Phạm thiên là điều có thể xảy ra” chứ?
[Đáp]: Không, không nên nói như vậy. Tại sao? Bởi vì một nam nhân (từ cõi người này) có thể tái sanh vào cõi đó (với địa vị Đại Phạm thiên).
Ở đây, “bản thể Phạm thiên” (brahmattanti) được muốn nói đến là địa vị Đại Phạm thiên (mahābrahmattaṃ). Một người nữ, sau khi tu tập thiền định ở đời này và qua đời, chỉ có thể tái sanh làm tùy tùng trong cõi Phạm Chúng thiên (Brahmapārisajja), chứ không thể trở thành Đại Phạm thiên. Trong khi đó, không thể nói rằng một nam nhân không thể tái sanh vào cõi Đại Phạm thiên.
Hơn nữa, mặc dù ở cõi Phạm thiên không có sự phân biệt giới tính sinh học, nhưng các vị Phạm thiên vẫn hiện khởi với hình tướng của nam nhân, chứ không phải hình tướng của nữ nhân. Vì thế, lời dạy trên là hoàn toàn hợp lý.
131. Kāyaduccaritassātiādīsu yathā nimbabījakosātakībījādīni madhuraphalaṃ na nibbattenti, asātaṃ amadhurameva nibbattenti, evaṃ kāyaduccaritādīni madhuravipākaṃ na nibbattenti, amadhurameva vipākaṃ nibbattenti. Yathā ca ucchubījasālibījādīni madhuraṃ sādurasameva phalaṃ nibbattenti, na asātaṃ kaṭukaṃ, evaṃ kāyasucaritādīni madhurameva vipākaṃ nibbattenti, na amadhuraṃ. Vuttampi cetaṃ —
“yādisaṃ vapate bījaṃ, tādisaṃ harate phalaṃ.
kalyāṇakārī kalyāṇaṃ, pāpakārī ca pāpakan”ti. (saṃ. ni. 1.256).
Tasmā “aṭṭhānametaṃ anavakāso yaṃ kāyaduccaritassā”tiādi vuttaṃ.
131. Thân ác hành v.v, giống như hạt nimba rất đắng và hạt kosātakī không thể sản sinh ra được trái cây có hương vị ngọt ngào, chỉ tạo ra được trái cây có vị không ngọt ngào, không đáng ưa thích như thế nào, thì thân ác hạnh cũng như thế ấy, v.v… không thể cho quả ngọt sanh khởi, chỉ cho quả không ngọt ngào sanh khởi. Và giống như giống mía và giống gạo sāli v.v. cho sản sinh ra kết quả (cây mía và lúa gạo) có hương vị ngọt ngào, không tạo ra kết quả không đáng hài lòng, cay đắng, không ngọt thế nào thì thân thiện hành cũng tạo ra kết quả ngọt ngào như thế đó, không thể tạo ra kết quả không đáng hài lòng, không tốt sanh khởi. Điều này chính đã được nói rằng —
Gieo hạt giống như thế nào thì mang lại kết quả như thế ấy.
Người làm lành thấy điều lành, và người làm ác thấy điều ác. (saṃ. ni. 1.256).
Vì thế mới nói rằng: “Điều mà hạng người thành tựu với thân ác hành sau khi thân hoại chung được sanh vào thiện thú là thiên giới (điều ấy) là không hợp lý và không có cơ sở.”
Kāyaduccaritasamaṅgītiādīsu samaṅgīti pañcavidhā samaṅgitā āyūhanasamaṅgitā cetanāsamaṅgitā kammasamaṅgitā vipākasamaṅgitā, upaṭṭhānasamaṅgitāti. Tattha kusalākusalakammāyūhanakkhaṇe āyūhanasamaṅgitāti vuccati. Tathā cetanāsamaṅgitā. Yāva pana arahattaṃ na pāpuṇanti, tāva sabbepi sattā pubbe upacitaṃ vipākārahaṃ kammaṃ sandhāya “kammasamaṅgino”ti vuccanti, esā kammasamaṅgitā. Vipākasamaṅgitā vipākakkhaṇeyeva veditabbā. Yāva pana sattā arahattaṃ na pāpuṇanti, tāva nesaṃ tato tato cavitvā niraye tāva uppajjamānānaṃ aggijālalohakumbhiādīhi upaṭṭhānākārehi nirayo, gabbhaseyyakattaṃ āpajjamānānaṃ mātukucchi, devesu uppajjamānānaṃ kapparukkhavimānādīhi upaṭṭhānākārehi devalokoti evaṃ uppattinimittaṃ upaṭṭhāti, iti nesaṃ iminā uppattinimittaupaṭṭhānena aparimuttatā upaṭṭhānasamaṅgitā nāma. Sā calati sesā niccalā. Niraye hi upaṭṭhitepi devaloko upaṭṭhāti, devaloke upaṭṭhitepi nirayo upaṭṭhāti, manussaloke upaṭṭhitepi tiracchānayoni upaṭṭhāti, tiracchānayoniyā ca upaṭṭhitāyapi manussaloko upaṭṭhātiyeva.
Từ “người hội đủ/gắn liền” (samaṅgī), như trong cụm từ “người hội đủ thân ác hạnh”, có thể được hiểu theo năm loại “sự gắn liền” (samaṅgitā) sau:
- Sự gắn liền ở giai đoạn tạo tác nghiệp (āyūhanasamaṅgitā)
- Sự gắn liền với các tác ý (cetanāsamaṅgitā)
- Sự gắn liền với nghiệp (đã tạo) (kammasamaṅgitā)
- Sự gắn liền với quả dị thục (vipākasamaṅgitā)
- Sự gắn liền với cảnh giới hiện khởi (lúc lâm chung) (upaṭṭhānasamaṅgitā)
Giải thích:
-
(1, 2) Vào thời điểm đang tích lũy nghiệp thiện hoặc bất thiện, đó được gọi là sự gắn liền ở giai đoạn tạo tác và sự gắn liền với tác ý.
-
(3) Chừng nào chưa chứng đắc quả vị A-la-hán, mọi chúng sanh đều được gọi là “người gắn liền với nghiệp” (kammasamaṅgino), vì họ luôn mang theo các nghiệp đã tích lũy từ trước và sẵn sàng cho quả. Đây là sự gắn liền với nghiệp.
-
(4) Sự gắn liền với quả dị thục cần được hiểu là xảy ra ngay tại thời điểm quả (vipāka) trổ sanh.
-
(5) Chừng nào chúng sanh chưa chứng đắc A-la-hán, thì lúc lâm chung, cảnh giới của kiếp sau (uppattinimitta) sẽ hiện khởi trước tâm. Đây là sự gắn liền với cảnh giới hiện khởi. Cụ thể:
- Đối với người sắp sanh vào địa ngục, cảnh tượng như ngọn lửa, nồi sắt sôi (lohakumbhī)… sẽ hiện ra.
- Đối với chúng sanh sắp thai sanh, cảnh tượng trong bụng mẹ sẽ hiện ra.
- Đối với người sắp sanh lên cõi trời, cảnh tượng như cây ước (kapparukkha), thiên cung… sẽ hiện ra.
Việc chúng sanh chưa thoát khỏi sự hiện khởi của các cảnh giới tái sanh này được gọi là sự gắn liền với cảnh giới hiện khởi.
Loại gắn liền thứ năm này thì dao động, không cố định (calā), trong khi bốn loại còn lại thì bất động, cố định (niccalā).
Điều này có nghĩa là (đối với loại thứ năm), ngay cả khi cảnh giới địa ngục đang hiện khởi, cảnh giới chư thiên vẫn có thể xen vào hiện khởi; hoặc khi cảnh giới chư thiên đang hiện khởi, cảnh giới địa ngục vẫn có thể xen vào. Tương tự, khi cảnh giới loài người đang hiện khởi, cảnh giới súc sanh vẫn có thể xen vào, và ngược lại.
Tatridaṃ vatthu — Soṇagiripāde kira Acelavihāre[19] Soṇatthero nāma eko dhammakathiko, tassa pitā Sunakhajīviko ahosi. Thero taṃ paṭibāhantopi saṃvare ṭhapetuṃ asakkonto “mā nassi jarako”ti[20] mahallakakāle akāmakaṃ pabbājesi. Tassa gilānaseyyāya nipannassa nirayo upaṭṭhāti, Soṇagiripādato mahantā mahantā sunakhā āgantvā khāditukāmā viya samparivāresuṃ. So mahābhayabhīto — “Vārehi, tāta Soṇa, vārehi, tāta Soṇā”ti āha. Kiṃ mahātherāti. Na passasi tātāti taṃ pavattiṃ ācikkhi. Soṇatthero — “kathañhi nāma mādisassa pitā niraye nibbattissati, patiṭṭhā’ssa[21] bhavissāmī”ti sāmaṇerehi nānāpupphāni āharāpetvā cetiyaṅgaṇabodhiyaṅgaṇesu talasantharaṇapūjaṃ āsanapūjañca kāretvā pitaraṃ mañcena cetiyaṅgaṇaṃ āharitvā mañce nisīdāpetvā — “ayaṃ mahāthera-pūjā tumhākaṃ atthāya katā ‘ayaṃ me bhagavā duggatapaṇṇākāro’ti vatvā bhagavantaṃ vanditvā cittaṃ pasādehī”ti āha. So mahāthero pūjaṃ disvā tathā karonto cittaṃ pasādesi, tāvadevassa devaloko upaṭṭhāsi, nandanavana-cittalatāvana-missakavana-phārusakavanavimānāni ceva nāṭakāni ca parivāretvā ṭhitāni viya ahesuṃ. So “apetha apetha Soṇā”ti āha. Kimidaṃ therāti? Etā te, tāta, mātaro āgacchantīti. Thero “saggo upaṭṭhito mahātherassā”ti cintesi. Evaṃ upaṭṭhānasamaṅgitā calatīti veditabbā. Etāsu samaṅgitāsu idha āyūhanacetanākammasamaṅgitāvasena kāyaduccaritasamaṅgītiādi vuttaṃ.
Đây là câu chuyện minh họa cho điều đó:
Tương truyền, tại tu viện Acela dưới chân núi Soṇagiri, có một vị trưởng lão Pháp sư tên là Soṇa. Cha của ngài sống bằng nghề nuôi chó săn (Sunakhajīviko). Dù trưởng lão Soṇa cố gắng khuyên can, ông vẫn không thể giúp cha mình sống trong sự thu thúc giới luật. Vì vậy, ngài nghĩ: “Đừng để lão già này phải chịu cảnh đoạ lạc”, rồi cho cha xuất gia vào lúc tuổi già, dù ông không hề muốn.
Khi người cha lâm bệnh nằm trên giường, cảnh giới địa ngục liền hiện khởi. Những con chó to lớn từ chân núi Soṇagiri kéo đến, vây quanh như thể muốn cắn xé ông. Vô cùng kinh hãi, ông la lớn: “Soṇa con ơi, đuổi chúng đi! Đuổi chúng đi!”
Trưởng lão hỏi: “Có chuyện gì vậy, thưa cha?”
Người cha đáp: “Con không thấy sao?” rồi kể lại toàn bộ sự việc đang diễn ra (chứ không phải giấc mơ).
Trưởng lão Soṇa liền nghĩ: “Làm sao cha của một người như ta lại có thể tái sanh vào địa ngục được? Ta phải là chỗ nương tựa cho ông.” Ngài liền sai các vị Sa-di đi hái nhiều loại hoa, tổ chức một buổi cúng dường bằng cách trải hoa trên sân bảo tháp và sân cây bồ-đề. Sau đó, ngài cho người dùng giường khiêng cha đến sân bảo tháp, đặt ông ngồi trên giường rồi nói:
“Thưa cha, buổi lễ cúng dường này là làm vì lợi ích của cha. Xin cha hãy nhìn vào bảo tháp, tâm niệm rằng: ‘Đây là lễ vật nhỏ mọn của một người khốn cùng dâng lên Đức Thế Tôn’, rồi hãy đảnh lễ và làm cho tâm mình trong sạch, tịnh tín.”
Người cha nhìn buổi lễ cúng dường và làm theo lời dặn, tâm ông liền trở nên tịnh tín. Ngay lập tức, cảnh giới chư thiên hiện khởi thay thế. Các khu vườn trời như Nandanavana, Cittalatāvana, Missakavana, Phārusakavana cùng các thiên cung và các vũ nữ thiên tiên hiện ra như đang vây quanh ông.
Lúc này, ông lại nói: “Tránh ra! Các con tránh ra đi, Soṇa!”
Trưởng lão hỏi: “Đây là gì vậy, thưa cha?”
Ông đáp: “Các bà mẹ của con (ý nói các nữ thí chủ) đang đến kìa!”
Trưởng lão liền hiểu ra: “Cảnh giới chư thiên đã hiện khởi với cha ta rồi.”
Nên biết rằng, sự gắn liền với cảnh giới hiện khởi (upaṭṭhānasamaṅgitā) là thứ có thể dao động, thay đổi như vậy.
(Kết luận:) Trong các loại “sự gắn liền” đã nêu, Chú giải nói rằng cụm từ “người hội đủ thân ác hạnh” được hiểu chủ yếu dựa trên ba loại đầu: sự gắn liền ở giai đoạn tạo tác, sự gắn liền với tác ý, và sự gắn liền với nghiệp (đã tạo).
132. Evaṃ vutte āyasmā Ānandoti “evaṃ bhagavatā imasmiṃ sutte vutte thero ādito paṭṭhāya sabbasuttaṃ samannāharitvā evaṃ sassirikaṃ katvā desitasuttassa nāma bhagavatā nāmaṃ na gahitaṃ. Handassa nāmaṃ gaṇhāpessāmī”ti cintetvā bhagavantaṃ etadavoca.
132. Khi đức Thế Tôn nói như vậy tôn giả Ānanda: sau khi tổng hợp lại toàn bộ bài kinh từ đầu, đã nhận thấy rằng Đức Thế Tôn đã trình bày một bài pháp huy hoàng và trọn vẹn như vậy, nhưng lại chưa đặt tên cho bài kinh. Ngài bèn nghĩ: “Được rồi, ta sẽ thỉnh cầu Đức Thế Tôn ban cho một cái tên”, và vì vậy, ngài đã bạch với Đức Thế Tôn lời ấy.
Tasmā tiha tvantiādīsu ayaṃ atthayojanā —
Bởi chính nguyên nhân đó: có sự gắn kết ý nghĩa như sau –
Ānanda, yasmā imasmiṃ dhammapariyāye “aṭṭhārasa kho imā, Ānanda, dhātuyo, cha imā, Ānanda, dhātuyo”ti evaṃ bahudhātuyo vibhattā, tasmā tiha tvaṃ imaṃ dhammapariyāyaṃ bahudhātukotipi naṃ dhārehi. Yasmā panettha dhātuāyatanapaṭiccasamuppādaṭṭhānāṭṭhānavasena cattāro parivaṭṭā kathitā, tasmā catuparivaṭṭotipi naṃ dhārehi. Yasmā ca ādāsaṃ olokentassa mukhanimittaṃ viya imaṃ dhammapariyāyaṃ olokentassa ete dhātuādayo atthā pākaṭā honti, tasmā dhammādāsotipi naṃ dhārehi. Yasmā ca yathā nāma parasenamaddanā yodhā saṅgāmatūriyaṃ paggahetvā parasenaṃ pavisitvā sapatte madditvā attano jayaṃ gaṇhanti, evameva kilesasenamaddanā[22] yogino idha vuttavasena vipassanaṃ paggahetvā kilese madditvā attano arahattajayaṃ gaṇhanti, tasmā amatadundubhītipi naṃ dhārehi. Yasmā ca yathā saṅgāmayodhā pañcāvudhaṃ gahetvā parasenaṃ viddhaṃsetvā jayaṃ gaṇhanti, evaṃ yoginopi idha vuttaṃ vipassanāvudhaṃ gahetvā kilesasenaṃ viddhaṃsetvā arahattajayaṃ gaṇhanti. Tasmā anuttaro saṅgāmavijayotipi naṃ dhārehīti.
Đức Phật dạy: “Này Ānanda,
-
Vì trong pháp môn này, Như Lai đã phân tích rất nhiều loại giới (dhātu) như: ‘Này Ānanda, có mười tám giới’, ‘Này Ānanda, có sáu giới’… nên ông hãy ghi nhớ pháp môn này là Kinh Đa Giới (Bahudhātuka Sutta).
-
Vì ở đây, bốn vòng phân tích (cattāro parivaṭṭā) đã được giảng giải, bao gồm: giới, xứ, duyên khởi, và các trường hợp có thể/không thể xảy ra, nên ông hãy ghi nhớ pháp môn này là Bốn Vòng Phân Tích (Catuparivaṭṭa).
-
Và này Ānanda, ví như người soi gương thấy rõ mặt mình thế nào, thì người quán xét pháp môn này cũng thấy rõ các pháp như giới v.v… cũng vậy. Vì thế, ông hãy ghi nhớ pháp môn này là Pháp Kính (Dhammādāsa – Tấm Gương của Chánh Pháp).
-
Lại nữa, ví như các chiến binh giương cao tiếng trống trận, xông vào quân địch, đè bẹp đối phương và giành lấy chiến thắng cho mình thế nào, thì cũng vậy, các hành giả diệt trừ đạo quân phiền não, sau khi phát khởi tuệ minh sát (vipassanā) theo lời dạy trong kinh này, sẽ đè bẹp phiền não và giành lấy chiến thắng A-la-hán cho mình. Vì thế, ông hãy ghi nhớ pháp môn này là Trống Bất Tử (Amatadundubhi).
-
Và này Ānanda, ví như người lính ra trận cầm lấy năm loại vũ khí, tiêu diệt quân địch và giành chiến thắng thế nào, thì cũng vậy, các hành giả cầm lấy vũ khí là tuệ minh sát được giảng trong kinh này, sẽ tiêu diệt đạo quân phiền não và giành lấy chiến thắng A-la-hán. Vì thế, ông hãy ghi nhớ pháp môn này là Chiến Thắng Vô Thượng (Anuttaro Saṅgāmavijayo).”
Giải Thích Kinh Đa Giới Kết Thúc.
[1] Ka. – Upasattākāro
[2] Sī. – Tucchasāsanaṃ
[3] Sī. saṅkhāresu, I. Sattasaṅkhāresu
[4] Sī. – mattahatthi parittāsito viya, Syā. – mattahatthiṃ parittasito viya
[5] Sī. – Cokkhabrāhmaṇo, Syā. – Pokkharabrāhmaṇo viya ca
[6] Sī. – Syā. – Yañhi yaṃ
[7] Sī. – viniveṭheti
[8] Ka. – Abhejjakāyaṃ tāva
[9] Ka. – Sakkhalikāpi, Syā. – pappaṭikāpi
[10] Syā. – Bodhi-atthaṃ hi gehaṃ, na gehatthaṃ bodhi
[11] Ka. – Saṃvatte hi
[12] Sī. Syā. – Karaṇaṃ
[13] Sī. – Paṭivedhakarā
[14] Sī. Syā. – Ekuddeso
[15] Sī. Syā. – Gahitāni
[16] Sī. Syā. – Anacchariyo bhaveyyā
[17] Syā. – Lokuttaralābhasamattho
[18] Tướng mã âm tàng một trong ba mươi hai tướng của bậc Đại Nhân
[19] Sī. – Pacelivihāre
[20] Sī. Syā. Varākatipi
[21] Ka. – Patiṭṭhamassa, Syā. – patiṭṭhānassa
[22] Sī. – Kilesamaddanā