Kinh số 114 – Giải Thích Kinh Nên Hành Trì, Không Nên Hành Trì
(Sevitabbāsevitabbasuttavaṇṇanā)Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Nên Hành Trì, Không Nên Hành Trì
109. Evamme sutanti sevitabbāsevitabbasuttaṃ. Tattha tañca aññamaññaṃ kāyasamācāranti aññaṃ sevitabbaṃ kāyasamācāraṃ, aññaṃ asevitabbaṃ vadāmi, sevitabbameva kenaci pariyāyena asevitabbanti, asevitabbaṃ vā sevitabbanti ca na vadāmīti attho. Vacīsamācārādīsu eseva nayo. Iti bhagavā sattahi padehi mātikaṃ ṭhapetvā vitthārato avibhajitvāva desanaṃ niṭṭhāpesi. Kasmā? Sāriputtattherassa okāsakaraṇatthaṃ.
109. Kinh Nên Hành Trì, Không Nên Hành Trì được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, (khi Đức Thế Tôn nói) về thân hành này và thân hành kia, Ngài muốn nói rằng: “Ta tuyên bố có loại thân hành nên thực hành, và có loại thân hành không nên thực hành”. Ý nghĩa là: Ta không hề nói rằng một thân hành vốn nên thực hành, vì một lý do nào đó, lại trở thành không nên thực hành; hay một thân hành vốn không nên thực hành lại trở thành nên thực hành. Đối với khẩu hành, ý hành v.v… cũng theo phương pháp tương tự. Như vậy, Đức Thế Tôn sau khi thiết lập bảy đề mục cương yếu (mātika), đã kết thúc bài pháp mà không phân tích chi tiết. Tại sao? Để tạo cơ hội cho Ngài Trưởng lão Sāriputta (thuyết giảng rộng rãi).
113. Manosamācāre micchādiṭṭhisammādiṭṭhiyo diṭṭhipaṭilābhavasena visuṃ aṅgaṃ hutvā ṭhitāti na gahitā.
113. Trong ý hành: tà kiến và chánh kiến đã không được kể đến, bởi vì chúng đã là một chi phần riêng biệt trong mục “sự thành tựu về tri kiến” (diṭṭhipaṭilābha).
114. cittuppāde akammapathappattā[1] abhijjhādayo veditabbā.
114. Trong sự sanh khởi của tâm, cần phải hiểu rằng tham ái (abhijjhā) v.v… là những (trạng thái tâm) chưa đạt đến mức độ nghiệp đạo (kamma-patha).[2]
(Ghi chú: Tức là chúng mới chỉ là những ý niệm, những tâm sở bất thiện khởi lên, chưa đủ cường độ để cấu thành một nghiệp hoàn chỉnh có thể cho quả trong tương lai).
115. Saññāpaṭilābhavāre abhijjhāsahagatāya saññāyātiādīni kāmasaññādīnaṃ dassanatthaṃ vuttāni.
115. Trong phần về “sự thành tựu về tưởng” (Saññāpaṭilābha), những câu như “tưởng câu hữu với tham ái” (abhijjhāsahagatāya saññāya) v.v… được nói đến nhằm mục đích chỉ rõ về các loại tưởng như dục tưởng (kāmasaññā) v.v…
117. Sabyābajjhanti sadukkhaṃ. Apariniṭṭhitabhāvāyāti bhavānaṃ apariniṭṭhitabhāvāya. Ettha ca sabyābajjhattabhāvā nāma cattāro honti. Puthujjanopi hi yo tenattabhāvena bhavaṃ pariniṭṭhāpetuṃ na sakkoti, tassa paṭisandhito paṭṭhāya akusalā dhammā vaḍḍhanti, kusalā dhammā ca parihāyanti, sadukkhameva attabhāvaṃ abhinibbatteti nāma. Tathā sotāpannasakadāgāmianāgāmino. Puthujjanādayo tāva hontu, anāgāmī kathaṃ sabyābajjhaṃ attabhāvaṃ abhinibbatteti, kathañcassa akusalā dhammā abhivaḍḍhanti, kusalā dhammā parihāyantīti. Anāgāmīpi hi suddhāvāse nibbatto uyyānavimānakapparukkhe oloketvā “aho sukhaṃ aho sukhan”ti udānaṃ udāneti, anāgāmino bhavalobho bhavataṇhā appahīnāva honti, tassa appahīnataṇhatāya akusalā vaḍḍhanti nāma, kusalā parihāyanti nāma, sadukkhameva attabhāvaṃ abhinibbatteti, apariniṭṭhitabhavoyeva hotīti veditabbo.
117. Sabyābajjhaṃ: (có phiền não/tổn hại) có nghĩa là sadukkhaṃ (có khổ). Apariniṭṭhitabhāvāya: Ở đây, có bốn loại người được gọi là có sự hiện hữu cá nhân bị vướng mắc (sabyābajjhattabhāvā).
Thật vậy, bất kỳ ai, dù là phàm nhân, không thể chấm dứt các kiếp sống bằng chính sự hiện hữu cá nhân đó, thì kể từ lúc tái sanh, các pháp bất thiện của người ấy tăng trưởng và các pháp thiện bị suy giảm; đây được gọi là (người) tạo ra một kiếp sống chỉ có khổ đau. Các bậc Thánh Nhập Lưu, Nhất Lai và Bất Lai cũng tương tự như vậy.
(Tuy nhiên, có thể có câu hỏi rằng:) Hãy tạm gác lại trường hợp của phàm nhân và các bậc Thánh hữu học khác, làm thế nào mà một vị Bất Lai lại tạo ra một kiếp sống có vướng mắc? Và làm thế nào mà các pháp bất thiện của vị ấy lại tăng trưởng, còn các pháp thiện lại suy giảm?
(Giải thích rằng:) Ngay cả một vị Bất Lai, khi đã sanh về cõi Tịnh Cư, nhìn vào cây Như Ý (kapparukkha) trong vườn trời hay cung điện và thốt lên lời cảm hứng: “Ôi, an lạc thay! Ôi, an lạc thay!”, thì sự tham luyến trong hữu (bhavalobho), ái dục trong hữu (bhavataṇhā) của vị Bất Lai ấy vẫn chưa được đoạn trừ hoàn toàn. Chính vì lòng ái dục chưa được đoạn trừ đó, nên mới nói rằng các pháp bất thiện tăng trưởng, các pháp thiện suy giảm. Vị ấy tạo ra một kiếp sống vẫn còn khổ đau (vi tế), và cần phải được hiểu là người có kiếp sống chưa được chấm dứt.
Abyābajjhanti adukkhaṃ. Ayampi catunnaṃ janānaṃ vasena veditabbo. Yo hi puthujjanopi tenattabhāvena bhavaṃ pariniṭṭhāpetuṃ sakkoti, puna paṭisandhiṃ na gaṇhāti, tassa paṭisandhiggahaṇato paṭṭhāya akusalā parihāyanti, kusalāyeva vaḍḍhanti, adukkhameva attabhāvaṃ nibbatteti, pariniṭṭhitabhavoyeva nāma hoti. Tathā sotāpannasakadāgāmianāgāmino. Sotāpannādayo tāva hontu, puthujjano kathaṃ abyābajjhāttabhāvaṃ nibbatteti, kathañcassa akusalaparihāniādīni hontīti. Puthujjanopi pacchimabhaviko tenattabhāvena bhavaṃ pariniṭṭhāpetuṃ samattho hoti. Tassa Aṅgulimālassa viya ekenūnapāṇasahassaṃ ghātentassāpi attabhāvo abyābajjhoyeva nāma, bhavaṃ pariniṭṭhāpetiyeva nāma. Akusalameva hāyati, vipassanameva gabbhaṃ gaṇhāpeti nāma.
Không có tổn hại: không có khổ đau. Điều này cũng nên được hiểu qua bốn loại người.
Thật vậy, bất kỳ ai, dù là phàm nhân, có thể chấm dứt các kiếp sống bằng chính sự hiện hữu cá nhân đó và không còn tái sanh nữa, thì kể từ khi thọ sanh (lần cuối), các pháp bất thiện của người ấy suy giảm, chỉ có các pháp thiện tăng trưởng. Vị ấy tạo ra một kiếp sống không có khổ đau, và được gọi là người có kiếp sống đã được chấm dứt hoàn toàn. Các bậc Thánh Nhập Lưu, Nhất Lai và Bất Lai cũng tương tự như vậy.
(Tuy nhiên, có thể có câu hỏi rằng:) Hãy tạm gác lại trường hợp của các bậc Thánh, làm thế nào một phàm nhân lại có thể tạo ra một kiếp sống không vướng mắc? Và làm thế nào mà người ấy có được sự suy giảm của các pháp bất thiện v.v…?
(Giải thích rằng:) Một phàm nhân ở kiếp sống cuối cùng (pacchimabhavika) cũng có khả năng chấm dứt vòng luân hồi bằng chính kiếp sống đó. Đối với người như vậy, giống như trường hợp của Ngài Aṅgulimāla, dù đã giết đến một ngàn người thiếu một, kiếp sống của ngài vẫn được gọi là không có vướng mắc, và được xem là đã chấm dứt các kiếp sống. (Bởi vì) chỉ có bất thiện pháp là suy giảm, và được gọi là chính tuệ minh sát đã thành hình (vipassanā đã được thụ thai).
119. Cakkhuviññeyyantiādīsu yasmā ekaccassa tasmiṃyeva rūpe rāgādayo uppajjanti, abhinandati assādeti, abhinandanto assādento anayabyasanaṃ pāpuṇāti, ekaccassa nuppajjanti, nibbindati virajjati, nibbindanto virajjanto nibbutiṃ pāpuṇāti, tasmā “tañca aññamaññan”ti na vuttaṃ. Esa nayo sabbattha.
119. Đối với các pháp do mắt nhận biết (cakkhuviññeyya) v.v…, bởi vì đối với cùng một sắc pháp ấy, ở một số người thì tham ái v.v… khởi sanh, họ hoan hỷ, thưởng thức; và khi hoan hỷ, thưởng thức, họ đi đến chỗ bất hạnh và tai họa. Nhưng ở một số người khác, (tham ái) không khởi sanh, họ nhàm chán, ly tham; và khi nhàm chán, ly tham, họ đạt đến sự tịch tịnh (Nibbāna). Chính vì lý do đó, Đức Thế Tôn đã không nói theo cấu trúc “có loại này (nên theo đuổi) và có loại kia (nên từ bỏ)” [như đã nói với các hành động]. Phương pháp này cũng tương tự cho tất cả (các giác quan còn lại).
Evaṃ vitthārena atthaṃ ājāneyyunti ettha ke Bhagavato imassa bhāsitassa atthaṃ ājānanti, ke na ājānantīti? ye tāva imassa suttassa Pāḷiñca aṭṭhakathañca uggaṇhitvā takkarā na honti, yathāvuttaṃ anulomapaṭipadaṃ na paṭipajjanti, te na ājānanti nāma. Ye pana takkarā honti, yathāvuttaṃ anulomapaṭipadaṃ paṭipajjanti, te ājānanti nāma. Evaṃ santepi sapaṭisandhikānaṃ tāva dīgharattaṃ hitāya sukhāya hotu, appaṭisandhikānaṃ kathaṃ hotīti. Appaṭisandhikā anupādānā viya jātavedā parinibbāyanti, kappasatasahassānampi[3] accayena tesaṃ puna dukkhaṃ nāma natthi. iti ekaṃsena tesaṃyeva dīgharattaṃ hitāya sukhāya hoti. sesaṃ sabbattha uttānamevāti.
Nên hiểu toàn bộ ý nghĩa…một cách chi tiết như vầy: ai là người hiểu được ý nghĩa lời dạy này của Đức Thế Tôn, và ai là người không hiểu?
Những người nào dù đã học thuộc Pāli và Chú giải của kinh này nhưng không phải là người hành động tương xứng (takkarā), không thực hành theo con đường thuận ứng đã được dạy, những người đó được gọi là không hiểu. Còn những người nào là người hành động tương xứng, thực hành theo con đường thuận ứng đã được dạy, những người đó được gọi là hiểu.
Dù vậy, (có thể hỏi rằng): Cứ cho là (pháp này) mang lại lợi ích và an lạc lâu dài cho những người còn phải tái sanh, vậy nó mang lại (lợi ích và an lạc) cho những người không còn tái sanh nữa như thế nào?
(Giải rằng:) Những người không còn tái sanh sẽ đạt đến viên mãn tịch tịnh (parinibbāyanti) giống như ngọn lửa tắt lịm vì hết nhiên liệu (anupādānā viya jātavedā). Ngay cả sau khi một trăm ngàn đại kiếp trôi qua, khổ đau cũng không bao giờ còn khởi lên nơi các vị ấy nữa. Vì vậy, một cách chắc chắn, chính các vị ấy mới là người có được lợi ích và an lạc lâu dài. Từ còn lại ở các câu đều dễ hiểu.
Giải Thích Kinh Nên Hành Trì, Không Nên Hành Trì Kết Thúc