Kinh số 112 – Giải Thích Kinh Sáu Thanh Tịnh
(Chabbisodhanasuttavaṇṇanā)Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Sáu Thanh Tịnh
98. Evamme sutanti Chabbisodhanasuttaṃ. Tattha khīṇā jātītiādīsu ekenāpi padena aññā byākatāva hoti, dvīhipi. Idha pana catūhi padehi aññabyākaraṇaṃ āgataṃ. Diṭṭhe diṭṭhavāditāti-ādīsu yāya cetanāya diṭṭhe diṭṭhaṃ meti vadati, sā diṭṭhe diṭṭhavāditā nāma. Sesapadesupi eseva nayo. Ayamanudhammoti ayaṃ sabhāvo. Abhinanditabbanti na kevalaṃ abhinanditabbaṃ, parinibbutassa panassa sabbopi khīṇāsavassa sakkāro kātabbo. Uttariṃ pañhoti sace panassa veyyākaraṇena asantuṭṭhā hotha, uttarimpi ayaṃ pañho pucchitabboti dasseti. Ito paresupi tīsu vāresu ayameva nayo.
98. Kinh Sáu Thanh Tịnh được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Trong đoạn “khīṇā jātīti…” (sanh đã tận, v.v.), chỉ cần một câu cũng đủ để tuyên bố bậc A‑la‑hán. Với hai câu cũng có thể. Nhưng trong bài Kinh này, sự tuyên bố chứng quả A‑la‑hán được trình bày bằng bốn câu. Cái gì đã thấy nói đã thấy: người có lời nói rằng đã nhìn thấy đối tượng, được coi là người có lời nói rằng đã thấy đối tượng đã được nhìn thấy, bằng Tư-cetanā nào thì Tư-cetanā ấy làm nhân để nói rằng: Ta đã thấy đối tượng đã được nhìn thấy. Ngay cả câu còn lại cũng có phương thức tương tự. Tùy Pháp: thực tính này. Cần phải khen ngợi: điều này không chỉ có nghĩa là nên hoan hỷ (với lời tuyên bố đó), mà còn phải thực hiện mọi sự tôn kính đối với vị đã lậu tận (khīṇāsava) khi vị ấy đã viên tịch (parinibbutassa). Một câu hỏi nữa: chỉ ra rằng: ‘Nếu các ông chưa hài lòng với lời giải đáp (veyyākaraṇa) của vị ấy, thì nên hỏi thêm câu hỏi này’. Trong cả 3 đoạn cả đoạn đầu từ đoạn này trở đi cũng có phương thức tương tự như.
99. Abalanti dubbalaṃ. Virāgunanti vigacchanasabhāvaṃ. Anassāsikanti assāsavirahitaṃ. Upāyūpādānāti taṇhādiṭṭhīnametaṃ adhivacanaṃ. Taṇhādiṭṭhiyo hi tebhūmakadhamme upentīti upāyā[1], upādiyantīti upādānā. Cetaso adhiṭṭhānābhinivesānusayātipi tāsaṃyeva nāmaṃ. Cittañhi taṇhādiṭṭhīhi sakkāyadhammesu tiṭṭhati adhitiṭṭhatīti[2] taṇhādiṭṭhiyo cetaso adhiṭṭhānā, tāhi taṃ abhinivisatīti abhinivesā, tāhiyeva taṃ anusetīti anusayāti vuccanti. Khayā virāgātiādīsu khayena virāgenāti attho. Sabbāni cetāni aññamaññavevacanāneva.
99.Abalanti (không mạnh mẽ) nghĩa là dubbalaṃ (yếu ớt). Virāgu (ly tham) nghĩa là vigacchanasabhāvaṃ (có bản chất phai tàn/tan hoại). Anassāsikaṃ (không an ủi) nghĩa là assāsavirahitaṃ (không có sự an ủi). Upāya và Upādāna là tên gọi khác của tham ái và tà kiến. Thật vậy, tham ái và tà kiến được gọi là upāya (đường lối/phương tiện) vì chúng tiếp cận các pháp trong ba cõi, và được gọi là upādāna (chấp thủ) vì chúng bám víu vào các pháp ấy. Adhiṭṭhāna (sự quyết trú), abhinivesa (sự cố chấp) và anusaya (tùy miên/sự tiềm ẩn) của tâm cũng là tên gọi khác của chúng (tức là của tham ái và tà kiến). Bởi vì tâm, thông qua tham ái và tà kiến, đứng vững (adhiṭṭhāti) trong các pháp thuộc thân kiến (sakkāya), nên chúng được gọi là adhiṭṭhāna (sự quyết trú) của tâm. Vì tâm cố chấp (abhinivisati) vào đó cũng bởi chúng, nên chúng được gọi là abhinivesa (sự cố chấp). Và vì chúng ngấm ngầm (anuseti) trong đó, nên chúng được gọi là anusaya (tùy miên). Trong các cụm từ như khayā virāgā (do đoạn tận, do ly tham), ý nghĩa là khayena virāgena (do sự đoạn tận, do sự ly tham). Tất cả những thuật ngữ này đều là từ đồng nghĩa với nhau.
100. Pathavīdhātūti patiṭṭhānadhātu. Āpodhātūti ābandhanadhātu. Tejodhātūti paripācanadhātu. Vāyodhātūti vitthambhanadhātu. Ākāsadhātūti asamphuṭṭhadhātu. Viññāṇadhātūti vijānanadhātu. Na anattato[3] upagacchinti ahaṃ attāti attakoṭṭhāsena na upagamiṃ. Na ca pathavīdhātunissitanti pathavīdhātunissitā sesadhātuyo ca upādārūpañca arūpakkhandhā ca. Tepi hi nissitavatthurūpānaṃ pathavīdhātunissitattā ekena pariyāyena pathavīdhātunissitāva. Tasmā “na ca pathavīdhātunissitan”ti vadanto sesarūpārūpadhammepi attato na upagacchinti vadati. Ākāsadhātunissitapade pana avinibbhogavasena sabbampi bhūtupādārūpaṃ ākāsadhātunissitaṃ nāma, tathā taṃnissitarūpavatthukā arūpakkhandhā. Evaṃ idhāpi rūpārūpaṃ gahitameva hoti. Viññāṇadhātunissitapade pana sahajātā tayo khandhā cittasamuṭṭhānarūpañca viññāṇadhātunissitanti rūpārūpaṃ gahitameva hoti.
100. Nguyên tố làm cho vững trú gọi là địa giới. Nguyên tố trói buộc gọi là thủy giới. Nguyên tố làm cho ấm áp gọi là hỏa giới. Nguyên tố làm cho chuyển động gọi là phong giới. Nguyên tố không đụng chạm được gọi là hư không giới. Nguyên tố biết rõ gọi là thức giới. Cụm từ ‘không chấp thủ là tự ngã’ (Na anattato upagacchiṃ) có nghĩa là: tôi đã không chấp thủ (na upagamiṃ) theo khía cạnh của tự ngã (attakoṭṭhāsena) rằng ‘đây là tự ngã của ta’. Đối với câu ‘và không nương vào địa giới’ (na ca pathavīdhātunissitaṃ), cần hiểu là: các giới còn lại, sắc y sinh (upādārūpa) và các uẩn vô sắc (arūpakkhandhā) cũng đều nương vào địa giới. Bởi vì, theo một phương diện nào đó, các sắc vật làm nền tảng cho chúng cũng nương vào địa giới. Do đó, khi nói ‘không nương vào địa giới’, vị ấy cũng có ý nói rằng mình không chấp thủ các pháp sắc và vô sắc còn lại là tự ngã. Còn trong câu liên quan đến sự nương vào không giới (ākāsadhātunissitapade), do tính chất không thể tách rời (avinibbhogavasena), toàn bộ sắc đại chủng và sắc y sinh (bhūtupādārūpaṃ) đều được gọi là nương vào không giới. Tương tự như vậy, các uẩn vô sắc vốn có sắc vật làm nền tảng cũng được xem là nương vào không giới. Như thế, ở đây cả sắc và vô sắc đều đã được bao hàm (gahitameva hoti). Tương tự, trong câu liên quan đến sự nương vào thức giới (viññāṇadhātunissitapade), ba uẩn đồng sinh (sahajātā tayo khandhā) và sắc do tâm tạo (cittasamuṭṭhānarūpaṃ) được gọi là nương vào thức giới. Do đó, cả sắc và vô sắc ở đây cũng đều đã được bao hàm.
101. Rūpe cakkhuviññāṇe cakkhuviññāṇaviññātabbesu dhammesūti ettha yaṃ atīte cakkhudvārassa āpāthaṃ āgantvā niruddhaṃ, yañca anāgate āpāthaṃ āgantvā nirujjhissati, yampi etarahi āgantvā niruddhaṃ, taṃ sabbaṃ rūpaṃ nāma. Yaṃ pana atītepi āpāthaṃ anāgantvā niruddhaṃ, anāgatepi anāgantvā nirujjhissati, etarahipi anāgantvā niruddhaṃ, taṃ cakkhuviññāṇaviññātabbadhammesu saṅgahitanti vutte Tipiṭakacūḷābhayatthero āha — “Imasmiṃ ṭhāne dvidhā karotha, upari chandovāre kinti karissatha, nayidaṃ labbhatī”ti. Tasmā tīsu kālesu āpāthaṃ āgataṃ vā anāgataṃ vā sabbampi taṃ rūpameva, cakkhuviññāṇasampayuttā pana tayo khandhā cakkhuviññāṇaviññātabbadhammāti veditabbā. Ayañhettha attho “cakkhuviññāṇena saddhiṃ viññātabbesu dhammesū”ti. Chandoti taṇhāchando. Rāgoti sveva rajjanavasena rāgo. Nandīti sveva abhinandanavasena nandī. Taṇhāti sveva taṇhāyanavasena taṇhā. sesadvāresupi eseva nayo.
101. Đối với sắc, đối với nhãn thức, trong các pháp được nhận thức bằng nhãn thức: Ở đây, có một cách giải thích được đưa ra: Bất kỳ sắc nào đã đi vào phạm vi của nhãn môn rồi diệt trong quá khứ, sắc nào sẽ đi vào phạm vi rồi diệt trong tương lai, và sắc nào đang đi vào rồi diệt ở hiện tại, tất cả những thứ đó được gọi là sắc. Còn những pháp nào không đi vào phạm vi của nhãn môn mà đã diệt trong quá khứ, sẽ diệt trong tương lai, và đang diệt ở hiện tại, thì những pháp đó được xếp vào nhóm “các pháp được biết bởi nhãn thức”. Nghe vậy, Trưởng lão Cūḷābhaya, bậc thông suốt Tam Tạng, đã nói rằng: “Nếu ở đây các vị chia (đối tượng) làm hai như vậy, thì sau này trong chương nói về Dục, các vị sẽ xử lý thế nào? Cách này không hợp lý.” Vì thế, (cần phải hiểu đúng như sau): Trong cả ba thời, bất kỳ đối tượng nào dù đã đi vào hay chưa đi vào phạm vi (của nhãn môn), tất cả đều được gọi là sắc. Còn ba uẩn (thọ, tưởng, hành) tương ưng với nhãn thức thì nên được biết là “các pháp được biết bởi nhãn thức”. Ý nghĩa ở đây chính là “các pháp được biết cùng với nhãn thức”. Chando (dục) chính là tham dục. Rāgo (ái luyến) cũng chính là nó, được gọi là rāga do có tính chất nhiễm trước. Nandī (sự hoan hỷ) cũng chính là nó, được gọi là nandī do có tính chất vui thích. Taṇhā (tham ái) cũng chính là nó, được gọi là taṇhā do có tính chất khao khát. Cách giải thích này cũng tương tự cho các môn (giác quan) còn lại.
102. Ahaṅkāramamaṅkāramānānusayāti ettha ahaṅkāro māno, mamaṅkāro taṇhā, sveva mānānusayo. Āsavānaṃ khayañāṇāyāti idaṃ pubbenivāsaṃ dibbacakkhuñca avatvā kasmā vuttaṃ? Bhikkhū lokiyadhammaṃ na pucchanti, lokuttarameva pucchanti, tasmā pucchitapañhaṃyeva kathento evamāha. Ekavissajjitasuttaṃ nāmetaṃ, Chabbisodhanantipissa nāmaṃ. Ettha hi cattāro vohārā pañca khandhā cha dhātuyo cha ajjhattikabāhirāni āyatanāni attano saviññāṇakakāyo paresaṃ saviññāṇakakāyoti ime cha koṭṭhāsā visuddhā, tasmā “chabbisodhaniyan”ti vuttaṃ. Parasamuddavāsittherā pana attano ca parassa ca viññāṇakakāyaṃ ekameva katvā catūhi āhārehi saddhinti cha koṭṭhāse vadanti.
102. Ngã – ngã sở – ngã tùy miên: Ở đây, ahaṅkāra (ngã chấp, “cái tôi làm”) chính là ngã mạn (māno); mamaṅkāra (sở hữu chấp, “cái của tôi”) chính là tham ái (taṇhā); và chính ngã mạn đó là mānānusayo (tùy miên ngã mạn). Tại sao, đức Thế Tôn không thuyết Túc mạng trí và Thiên nhãn trí nhưng trở lại thuyết về Lậu tận trí? Bởi vì chư Tỳ khưu không hỏi Pháp thuộc về Hiệp thế chỉ hỏi về Siêu thế, vì thế khi trả lời chỉ trả lời câu hỏi được hỏi mà thôi nên mới thuyết như vậy. Bài kinh này có tên là Ekavissajjitasuttaṃ (Kinh Một Lời Đáp) và cũng có tên là Chabbisodhanisuttaṃ (Kinh Sáu Pháp Thanh Lọc). Bởi vì trong kinh này, sáu nhóm pháp được làm cho trong sạch (visuddhā), đó là: 1) bốn cách nói (vohārā), 2) năm uẩn, 3) sáu giới, 4) sáu nội ngoại xứ, 5) thân có thức của mình, và 6) thân có thức của người khác. Vì vậy nó được gọi là “Sáu Pháp Thanh Lọc”. (Tuy nhiên,) các vị Trưởng lão Parasamuddavāsī (Trú Ngoài Biển) thì lại kể sáu nhóm bằng cách gộp ‘thân có thức của mình và của người khác’ làm một, và thêm vào ‘bốn loại vật thực’ (catūhi āhārehi).
Ime pana cha koṭṭhāsā “kiṃ te adhigataṃ, kinti te adhigataṃ, kadā te adhigataṃ, kattha te adhigataṃ, katame te kilesā pahīnā, katamesaṃ tvaṃ dhammānaṃ lābhī”ti (pārā. 198) evaṃ vinayaniddesapariyāyena sodhetabbā.
Hơn nữa, Sáu nhóm này cần được làm thanh lọc cho đúng đắn theo phương pháp được phân tích trong Luật như vầy: “Ngài đã chứng đắc điều gì? Ngài đã chứng đắc như thế nào? Ngài chứng đắc vào lúc nào? Ngài chứng đắc ở đâu? Các phiền não nào đã được ngài dứt bỏ? Ngài đã đạt được các Pháp nào?” (pārā. 198).
Ettha hi kiṃ te adhigatanti adhigamapucchā, jhānavimokkhādīsu sotāpattimaggādīsu vā kiṃ tayā adhigataṃ. Kinti te adhigatanti upāyapucchā. Ayañhi etthādhippāyo — kiṃ tayā aniccalakkhaṇaṃ dhuraṃ katvā adhigataṃ, dukkhānattalakkhaṇesu aññataraṃ vā, kiṃ vā samādhivasena abhinivisitvā, udāhu vipassanāvasena, tathā kiṃ rūpe abhinivisitvā, udāhu arūpe, kiṃ vā ajjhattaṃ abhinivisitvā, udāhu bahiddhāti. Kadā te adhigatanti kālapucchā, pubbaṇhamajjhanhikādīsu katarasmiṃ kāleti vuttaṃ hoti.
Trong trường hợp này ngài đã chứng đắc điều gì? Là câu hỏi về sự chứng đắc; tức hỏi rằng: trong các tầng thiền, các quả vị giải thoát, hay các Thánh đạo như Tu-đà-hoàn, ngài đã chứng đắc được gì? Ngài đã chứng đắc như thế nào? Là câu hỏi về phương pháp. Ý nghĩa là: Ngài đã lấy đề mục vô thường làm trọng tâm (dhuraṃ katvā) để chứng đắc, hay lấy một trong hai đề mục khổ và vô ngã? Ngài đã hướng tâm (abhinivisitvā) theo sức mạnh của định, hay theo sức mạnh của tuệ quán? Tương tự, ngài đã hướng tâm vào sắc, hay vào vô sắc? Hướng tâm vào bên trong (ajjhattaṃ), hay vào bên ngoài (bahiddhā)? Ngài chứng đắc vào lúc nào? Là câu hỏi về thời gian; tức là vào buổi sáng, buổi trưa, hay một thời điểm nào khác?
Kattha te adhigatanti okāsapucchā, kismiṃ okāse, kiṃ rattiṭṭhāne divāṭṭhāne rukkhamūle maṇḍape katarasmiṃ vā vihāreti vuttaṃ hoti. Katame te kilesā pahīnāti pahīnakilese pucchati, kataramaggavajjhā tava kilesā pahīnāti vuttaṃ hoti.
Ngài chứng đắc ở đâu? Là câu hỏi về không gian; tức là ở nơi nào: tại trú xứ ban đêm, trú xứ ban ngày, dưới gốc cây, trong một cái lều, hay tại một tịnh xá nào? Các phiền não nào đã được ngài dứt bỏ? Là câu hỏi về các phiền não đã đoạn trừ; tức là những phiền não nào cần được đoạn trừ bởi Đạo lộ nào (Sơ Đạo, Nhị Đạo…) đã được ngài đoạn tận?
Katamesaṃ tvaṃ dhammānaṃ lābhīti paṭiladdhadhammapucchā, paṭhamamaggādīsu katamesaṃ tvaṃ dhammānaṃ lābhīti vuttaṃ hoti.
Ngài đã đạt được các Pháp nào? Là câu hỏi về các pháp đã đạt được; tức là trong các pháp như Sơ Đạo quả v.v., ngài đã thành tựu được pháp nào?
Tasmā idāni cepi koci bhikkhu uttarimanussadhammādhigamaṃ byākareyya, na so ettāvatāva sakkātabbo. Imesu pana chasu ṭhānesu sodhanatthaṃ vattabbo “kiṃ te adhigataṃ, kiṃ jhānaṃ udāhu vimokkhādīsu aññataran”ti? Yo hi yena adhigato dhammo, so tassa pākaṭo hoti. sace “idaṃ nāma me adhigatan”ti vadati, tato “kinti te adhigatan”ti pucchitabbo. Aniccalakkhaṇādīsu kiṃ dhuraṃ katvā, aṭṭhatiṃsāya vā ārammaṇesu rūpārūpājjhattabahiddhādibhedesu vā dhammesu kena mukhena abhinivisitvāti? yo hi yassābhiniveso, so tassa pākaṭo hoti.
Vì thế, ngày nay, nếu có vị Tỳ kheo nào tuyên bố đã chứng đắc Pháp Thượng Nhân, vị ấy không nên được kính trọng chỉ vì lời nói đó. Cần phải thẩm tra để làm trong sạch sáu điểm này. Phải hỏi: “Ngài đã chứng đắc điều gì? Là thiền định, hay một trong các quả vị giải thoát…?” Bởi vì, pháp nào đã được một người chứng đắc, pháp đó sẽ rất rõ ràng đối với chính người đó. Nếu vị ấy nói: “Tôi đã chứng đắc pháp này…”, thì phải hỏi tiếp: “Ngài đã chứng đắc như thế nào?”. (Tức là) ngài đã lấy đề mục nào trong số vô thường, khổ, vô ngã làm trọng tâm? Đã hướng tâm theo cách nào trong ba mươi tám đề mục thiền, trong các pháp thuộc sắc/vô sắc, trong/ngoài…? Bởi vì cách thức mà một người hướng tâm đến (abhiniveso) sẽ rất rõ ràng đối với chính người đó.
Sace pana “ayaṃ nāma me abhiniveso, evaṃ mayā adhigatan”ti vadati, tato “kadā te adhigatan”ti pucchitabbo, “kiṃ pubbaṇhe, udāhu majjhanhikādīsu aññatarasmiṃ kāle”ti? sabbesañhi attanā adhigatakālo pākaṭo hoti. Sace “amukasmiṃ nāma me kāle adhigatan”ti vadati, tato “kattha te adhigatan”ti pucchitabbo, “kiṃ divāṭṭhāne, udāhu rattiṭṭhānādīsu aññatarasmiṃ okāse”ti? sabbesañhi attanā adhigatokāso pākaṭo hoti. Sace “amukasmiṃ nāma me okāse adhigatan”ti vadati, tato “katame te kilesā pahīnā”ti pucchitabbo, “kiṃ paṭhamamaggavajjhā, udāhu dutiyādimaggavajjhā”ti? sabbesañhi attanā adhigatamaggena pahīnakilesā pākaṭā honti.
Nếu vị ấy nói: “Đây là cách tôi đã hướng tâm, tôi đã chứng đắc như vậy”, thì phải hỏi tiếp: “Ngài chứng đắc khi nào?”, “Vào buổi sáng, hay buổi trưa…?” Bởi vì thời gian chứng đắc của mỗi người đều rõ ràng với chính họ. Nếu vị ấy nói: “Tôi chứng đắc vào thời điểm đó…”, thì phải hỏi tiếp: “Ngài chứng đắc ở đâu?”, “Tại trú xứ ban ngày, hay ban đêm…?” Bởi vì nơi chốn chứng đắc của mỗi người đều rõ ràng với chính họ. Nếu vị ấy nói: “Tôi chứng đắc tại nơi đó…”, thì phải hỏi tiếp: “Những phiền não nào đã được ngài đoạn trừ?”, “Là những phiền não được đoạn trừ bởi Sơ Đạo, hay bởi Nhị Đạo…?” Bởi vì các phiền não được đoạn trừ bởi Đạo lộ mà mình chứng đắc đều rõ ràng với chính người đó.
Sace “ime nāma me kilesā pahīnā”ti vadati, tato “katamesaṃ tvaṃ dhammānaṃ lābhī”ti pucchitabbo, “kiṃ sotāpattimaggassa, udāhu sakadāgāmimaggādīsu aññatarassā”ti? sabbesañhi attanā adhigatadhammo pākaṭo hoti. sace “imesaṃ nāmāhaṃ dhammānaṃ lābhī”ti vadati, ettāvatāpissa vacanaṃ na saddhātabbaṃ. Bahussutā hi uggahaparipucchākusalā bhikkhū imāni cha ṭhānāni sodhetuṃ sakkonti. Imassa bhikkhuno āgamanapaṭipadā sodhetabbā, yadi āgamanapaṭipadā na sujjhati, “imāya paṭipadāya lokuttaradhammā nāma na labbhantī”ti apanetabbo.
Nếu vị ấy nói: “Tôi đã đoạn trừ những phiền não này…”, thì phải hỏi tiếp: “Ngài đã thành tựu những pháp nào?”, “Là Tu-đà-hoàn Đạo, hay Tư-đà-hàm Đạo…?” Bởi vì pháp mà mình đã thành tựu đều rõ ràng với chính người đó. Nếu vị ấy nói: “Tôi đã thành tựu những pháp này”, chừng ấy vẫn chưa đủ để tin lời nói của vị ấy. Bởi vì, những vị Tỳ kheo đa văn, khéo léo trong việc học hỏi và tra vấn vẫn có thể thanh lọc (trả lời trôi chảy) sáu điểm này. (Do đó), cần phải thẩm tra con đường thực hành (paṭipadā) và giáo điển (āgamana) của vị Tỳ kheo này. Nếu con đường thực hành của vị ấy không trong sạch, thì nên bác bỏ (lời tuyên bố đó) với lý do: “Với pháp hành này, không thể nào chứng đắc được Pháp Siêu Thế”.
Yadi panassa āgamanapaṭipadā sujjhati, “dīgharattaṃ tīsu sikkhāsu appamatto jāgariyamanuyutto catūsu paccayesu alaggo ākāse pāṇisamena cetasā viharatī”ti paññāyati, tassa bhikkhuno byākaraṇaṃ paṭipadāya saddhiṃ saṃsandati sameti. “Seyyathāpi nāma Gaṅgodakaṃ Yamunodakena saddhiṃ saṃsandati sameti, evameva supaññattā tena bhagavatā sāvakānaṃ nibbānagāminī paṭipadā saṃsandati sameti nibbānañca paṭipadā cā”ti (dī. ni. 2.296) vuttasadisaṃ hoti.
Nhưng nếu con đường thực hành của vị ấy trong sạch, được biết đến là: “Vị này trong thời gian dài đã không xao lãng trong Tam Học, chuyên cần tinh tấn, không dính mắc vào bốn món vật dụng, sống với tâm bình đẳng như hư không”, thì lời tuyên bố của vị Tỳ kheo ấy tương xứng và hòa hợp với pháp hành của mình. Điều này cũng giống như lời dạy: “Như nước sông Hằng hòa hợp và chảy cùng nước sông Yamunā thế nào, cũng vậy, con đường đưa đến Niết-bàn mà Đức Thế Tôn đã khéo giảng dạy cho các đệ tử cũng hòa hợp và tương xứng với Niết-bàn, tức Niết-bàn và Đạo lộ là một.” (dī. ni. 2.296).
Apica kho ettakenāpi sakkāro na kātabbo. Kasmā? Ekaccassa hi puthujjanassāpi sato khīṇāsavapaṭipattisadisā paṭipadā hoti. Tasmā so bhikkhu tehi tehi upāyehi uttāsetabbo. Khīṇāsavassa nāma asaniyāpi matthake patamānāya bhayaṃ vā chambhitattaṃ vā lomahaṃso vā na hoti, puthujjanassa appamattakenāpi hoti.
Tuy nhiên, ngay cả với chừng ấy cũng chưa nên vội cung kính. Tại sao? Vì có trường hợp một người dù còn là phàm phu (puthujjana) nhưng lại có pháp hành tương tự như pháp hành của bậc Lậu tận. Vì thế, vị Tỳ kheo đó cần được thử thách bằng nhiều phương cách để làm cho hoảng sợ (uttāsetabbo). Bởi vì, một bậc Lậu tận, dù cho có sét đánh trên đầu cũng không có sự sợ hãi, kinh hoàng hay rụng rời chân tay; trong khi một người phàm thì chỉ cần một lý do nhỏ nhặt cũng có thể sinh tâm hoảng sợ.
Tatrimāni vatthūni — Dīghabhāṇakābhayatthero kira ekaṃ piṇḍapātikaṃ pariggahetuṃ asakkonto daharassa saññaṃ adāsi. So taṃ nhāyamānaṃ Kalyāṇīnadīmukhadvāre nimujjitvā pāde aggahesi. Piṇḍapātiko kumbhīloti saññāya mahāsaddamakāsi, tadā naṃ puthujjanoti sañjāniṃsu. Candamukhatissarājakāle pana mahāvihāre Saṅghatthero khīṇāsavo dubbalacakkhuko vihāreyeva acchi. Rājā theraṃ pariggaṇhissāmīti bhikkhūsu bhikkhācāraṃ gatesu appasaddo upasaṅkamitvā sappo viya pāde aggahesi. Thero silāthambho viya niccalo hutvā ko etthāti āha? Ahaṃ, bhante, Tissoti. Sugandhaṃ vāyasi no Tissāti? Evaṃ khīṇāsavassa bhayaṃ nāma natthīti.
Ở đây có những câu chuyện sau: Được biết, Trưởng lão Dīghabhāṇaka Abhaya, khi không thể kiểm chứng được một vị Tỳ kheo sống hạnh khất thực, đã ra hiệu cho một vị Sa-di. Khi vị Tỳ kheo khất thực kia đang tắm, vị Sa-di đã lặn xuống nước ở cửa sông Kalyāṇī và túm lấy chân ông. Vị Tỳ kheo khất thực, vì tưởng là cá sấu (kumbhīlo), đã hét lên một tiếng thật lớn. Do đó, mọi người biết rằng vị ấy vẫn còn là phàm phu. Lại nữa, vào thời vua Candamukha Tissa, vị Trưởng lão của Tăng đoàn tại Đại Tịnh Xá (Mahāvihāra) là một bậc Lậu tận nhưng có thị lực yếu (dubbalacakkhuko), nên ngài thường ở lại trong tịnh xá. Nhà vua nghĩ: “Ta sẽ kiểm chứng vị Trưởng lão”, nên đã đợi lúc các Tỳ kheo đi khất thực, rồi nhẹ nhàng (appasaddo) tiến đến và bất ngờ túm lấy chân ngài như một con rắn. Vị Trưởng lão, bất động như một cột đá, hỏi rằng: “Ai đó?” Nhà vua đáp: “Bạch ngài, là con, Tissa.” Trưởng lão nói: “Này Tissa, ngài tỏa hương thơm đấy chứ?” Như vậy đó, đối với bậc Lậu tận, thực sự không có sự sợ hãi.
Ekacco pana puthujjanopi atisūro hoti nibbhayo. So rañjanīyena ārammaṇena pariggaṇhitabbo. Vasabharājāpi hi ekaṃ theraṃ pariggaṇhamāno ghare nisīdāpetvā tassa santike badarasāḷavaṃ maddamāno nisīdi[4]. Mahātherassa kheḷo cali, tato therassa puthujjanabhāvo āvibhūto. Khīṇāsavassa hi rasataṇhā nāma suppahīnā, dibbesupi rasesu nikanti nāma na hoti. Tasmā imehi upāyehi pariggahetvā sacassa bhayaṃ vā chambhitattaṃ vā lomahaṃso vā rasataṇhā vā uppajjati, na tvaṃ arahāti apanetabbo. sace pana abhīrū acchambhī anutrāsī hutvā sīho viya nisīdati, dibbārammaṇepi nikantiṃ na janeti. Ayaṃ bhikkhu sampannaveyyākaraṇo samantā rājarājamahāmattādīhi pesitaṃ sakkāraṃ arahatīti.
Tuy nhiên, có một số phàm phu lại rất dũng cảm và không sợ hãi. Người như vậy cần được kiểm chứng bằng một đối tượng hấp dẫn (rañjanīyena ārammaṇena). Vua Vasabha, khi muốn kiểm chứng một vị Trưởng lão, đã mời ngài ngồi trong cung điện, rồi chính nhà vua ngồi gần đó và tự tay trộn một món gỏi táo dại (badarasāḷavaṃ). Nước bọt của vị Đại Trưởng lão đã ứa ra (kheḷo cali). Từ đó, phàm tánh của vị Trưởng lão bị lộ rõ. Bởi vì đối với bậc Lậu tận, tham ái vị (rasataṇhā) đã được hoàn toàn đoạn trừ, ngay cả đối với những hương vị của cõi trời cũng không có sự yêu thích. Vì thế, sau khi đã kiểm chứng bằng những phương pháp này, nếu vị (Tỳ kheo) kia có sự sợ hãi, kinh hoàng, rụng rời chân tay, hoặc tham ái đối với vị nảy sinh, thì nên bác bỏ lời tuyên bố của vị ấy rằng: “Ngài không phải là A-la-hán”. Nhưng nếu vị ấy không sợ hãi, không kinh hoàng, không run rẩy, ngồi vững như một con sư tử, và không khởi lên sự yêu thích ngay cả với đối tượng của cõi trời, thì (nên kết luận rằng): “Vị Tỳ kheo này có lời tuyên bố hoàn hảo, xứng đáng nhận được sự cúng dường được gửi đến từ khắp nơi bởi các vua chúa và đại thần.”
Giải Thích Kinh Sáu Thanh Tịnh Kết Thúc