Kinh số 111 – Giải Thích Kinh Bất Đoạn
(Anupadasuttavaṇṇanā)Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Bất Đoạn
93. Evamme sutanti anupadasuttaṃ. Tattha etadavocāti etaṃ[1] (paṭi. ma. 3.4) “paṇḍito”tiādinā nayena Dhammasenāpatisāriputtattherassa guṇakathaṃ avoca. Kasmā? avasesattheresu hi Mahāmoggallānattherassa iddhimāti guṇo pākaṭo, Mahākassapassa dhutavādoti, Anuruddhattherassa dibbacakkhukoti, Upālittherassa vinayadharoti, Revatattherassa jhāyī jhānābhiratoti, Ānandattherassa bahussutoti. Evaṃ tesaṃ tesaṃ therānaṃ te te guṇā pākaṭā, Sāriputtattherassa pana apākaṭā. Kasmā? Paññavato hi guṇā na sakkā akathitā jānituṃ. Iti Bhagavā “Sāriputtassa guṇe kathessāmī”ti sabhāgaparisāya sannipātaṃ āgamesi. Visabhāgapuggalānañhi santike vaṇṇaṃ kathetuṃ na vaṭṭati, te vaṇṇe kathiyamāne avaṇṇameva kathenti. Imasmiṃ pana divase therassa sabhāgaparisā sannipati, tassā sannipatitabhāvaṃ disvā satthā vaṇṇaṃ kathento imaṃ desanaṃ ārabhi.
93. Kinh Bất Đoạn được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, ‘etadavoca’ nói lời tán thán đức hạnh của Tướng quân Chánh pháp trưởng lão Sārīputta bằng cách thức như sau “bậc trí” này. Tại sao? Bởi vì trong số các vị trưởng lão còn lại như trưởng lão Mahāmoggallāna hiển lộ đức hạnh có thần thông, trưởng lão Mahākassapa hiển lộ về đức hạnh là vị hàng đầu về hạnh từ khước, trưởng lão Anuruddha hiển lộ về đức hạnh là vị có thiên nhãn, trưởng lão Upāli hiển lộ về đức hạnh là vị thủ trì Luật Tạng, trưởng lão Revata hiển lộ về đức hạnh là vị ưa thích trong thiền, trưởng lão Ānanda hiển lộ về đức hạnh là vị đa văn. Tất cả các vị trưởng lão ấy đều là những bậc được hiển lộ đức hạnh đó như thế như đã giải thích. Tuy nhiên, đức hạnh của trưởng lão vẫn chưa hiển lộ. Tại sao? Bởi vì tất cả mọi đức hạnh của trưởng lão vị có tuệ, (mà) bất kỳ ai cũng không thể biết bởi không được nói đến. Do nhân đã nói đức Thế Tôn đã khởi lên suy nghĩ như sau: “Ta sẽ thuyết về tất cả mọi đức hạnh của Sārīputta” nên mới đợi cho Hội Chúng đồng nhất với nhau. Việc thuyết về đức hạnh trong trú xứ của những người không đồng nhất hẳn không phải lẽ. Người không đồng nhất với nhau khi bất cứ ai nói lời tán thán (người khác) cũng chỉ nói lời ganh tỵ mà thôi. Cũng vào ngày hôm ấy Hội Chúng hợp nhất tụ họp cùng nhau, khi thấy Hội Chúng đã tụ họp lại, trong khi nói lời tán dương theo đúng sự thật mới bắt đầu thuyết Pháp thoại này.
Tattha paṇḍitoti dhātukusalatā āyatanakusalatā paṭiccasamuppādakusal atā ṭhānāṭṭhānakusalatāti imehi catūhi kāraṇehi paṇḍito. Mahāpaññotiādīsu mahāpaññādīhi samannāgatoti attho.
Ở đấy, là bậc trí: là bậc trí bởi 4 nguyên nhân này – (1) thiện xảo về giới-dhātu, (2) thiện xảo về xứ-āyatana, (3) thiện xảo về pháp tùy thuận duyên sanh, (4) thiện xảo về sự hợp lý và không hợp lý. Có tuệ vĩ đại: có nghĩa là vị thành tựu với tuệ vĩ đại.
Tatridaṃ mahāpaññādīnaṃ nānattaṃ — tattha katamā mahāpaññā? Mahante sīlakkhandhe pariggaṇhātīti mahāpaññā, mahante samādhikkhandhe, paññākkhandhe, vimuttikkhandhe, vimuttiñāṇadassanakkhandhe pariggaṇhātīti mahāpaññā, mahantāni ṭhānāṭṭhānāni, mahantā vihārasamāpattiyo, mahantāni ariyasaccāni, mahante satipaṭṭhāne, sammappadhāne, iddhipāde, mahantāni indriyāni, balāni, bojjhaṅgāni, mahante ariyamagge, mahantāni sāmaññaphalāni, mahantā abhiññāyo, mahantaṃ paramatthaṃ nibbānaṃ pariggaṇhātīti mahāpaññā.
Ở đây, đây là sự khác biệt của đại tuệ v.v… — Trong đó, thế nào là đại tuệ?
Tuệ được gọi là đại tuệ vì nó thấu triệt được những pháp vĩ đại:
- Thấu triệt các uẩn vĩ đại, gồm: Giới uẩn, Định uẩn, Tuệ uẩn, Giải thoát uẩn, và Giải thoát tri kiến uẩn.
- Thấu triệt các pháp môn vĩ đại, gồm: xứ và phi xứ (điều hợp lý và không hợp lý), các sự an trú và chứng đắc, các Thánh đế, các niệm xứ, các chánh cần, các thần túc, các căn, các lực, các giác chi, các Thánh đạo, các quả Sa-môn, và các thắng trí.
- Và thấu triệt được Niết-bàn, là pháp vô thượng và vĩ đại.
Katamā puthupaññā? puthu nānākhandhesu ñāṇaṃ pavattatīti puthupaññā. Puthu nānādhātūsu, puthu nānā-āyatanesu, puthu nānā-atthesu, puthu nānāpaṭiccasamuppādesu, puthu nānāsuññatamanupalabbhesu, puthu nānā-atthesu, dhammesu, niruttīsu, paṭibhānesu, puthu nānāsīlakkhandhesu, puthu nānāsamādhi-paññā-vimutti-vimuttiñāṇadassanakkhandhesu, puthu nānāṭhānāṭṭhānesu, puthu nānāvihārasamāpattīsu, puthu nānāariyasaccesu, puthu nānāsatipaṭṭhānesu, sammappadhānesu, iddhipādesu, indriyesu, balesu, bojjhaṅgesu, puthu nānāariyamaggesu, sāmaññaphalesu, abhiññāsu, puthu nānājanasādhāraṇe dhamme samatikkamma paramatthe nibbāne ñāṇaṃ pavattatīti puthupaññā.
Thế nào là Quảng tuệ (puthupaññā)?
Trí tuệ được gọi là Quảng tuệ (trí tuệ rộng khắp) vì nó vận hành (pavattati) một cách sâu rộng (puthu) trên nhiều lĩnh vực đa dạng (nānā). Cụ thể, trí tuệ này vận hành trên:
- Các Uẩn, các Giới, các Xứ đa dạng.
- Các ý nghĩa (attha) đa dạng.
- Các pháp Duyên Khởi (paṭiccasamuppāda) đa dạng.
- Các pháp Tánh Không (suññata) vốn không thể nắm bắt (anupalabbha) đa dạng.
- Tứ Vô Ngại Giải (Paṭisambhidā), bao gồm: trí tuệ về ý nghĩa (attha), về pháp (dhamma), về ngôn từ (nirutti), và về biện tài (paṭibhāna).
- Các uẩn thanh tịnh đa dạng, gồm: Giới uẩn, Định uẩn, Tuệ uẩn, Giải thoát uẩn, và Giải thoát tri kiến uẩn.
- Các trường hợp Xứ và Phi xứ (điều có thể và không thể xảy ra) đa dạng.
- Các pháp An trú và Chứng đắc (các tầng thiền và quả vị) đa dạng.
- Các Thánh đế, các Niệm xứ, các Chánh cần, các Thần túc, các Căn, các Lực, các Giác chi, các Thánh đạo đa dạng.
- Các Quả vị Sa-môn và các Thắng trí (abhiññā) đa dạng.
Và hơn hết, trí tuệ này, sau khi đã vượt qua các pháp thông thường của phàm nhân (janasādhāraṇe dhamme samatikkamma), vận hành trong Niết-bàn, là pháp chân đế (paramattha) tối thượng.
Katamā hāsapaññā? idhekacco hāsabahulo vedabahulo tuṭṭhibahulo pāmojjabahulo sīlaṃ paripūreti, indriyasaṃvaraṃ paripūreti, bhojane mattaññutaṃ, jāgariyānuyogaṃ, sīlakkhandhaṃ, samādhikkhandhaṃ, paññākkhandhaṃ, vimuttikkhandhaṃ, vimuttiñāṇadassanakkhandhaṃ paripūretīti hāsapaññā. Hāsabahulo pāmojjabahulo ṭhānāṭṭhānaṃ paṭivijjhati, hāsabahulo vihārasamāpattiyo paripūretīti hāsapaññā, hāsabahulo ariyasaccāni paṭivijjhati. Satipaṭṭhāne, sammappadhāne, iddhipāde, indriyāni, balāni, bojjhaṅgāni, ariyamaggaṃ bhāvetīti hāsapaññā, hāsabahulo sāmaññaphalāni sacchikaroti, abhiññāyo paṭivijjhatīti hāsapaññā, hāsabahulo veda-tuṭṭhi-pāmojjabahulo paramatthaṃ nibbānaṃ sacchikarotīti hāsapaññā.
Thế nào là Tiếu tuệ (hāsapaññā)?
Ở đây, có người thực hành với tâm tràn đầy hoan hỷ (hāsa), hỷ lạc (veda), sự mãn nguyện (tuṭṭhi), và vui mừng (pāmojja). Vị ấy, trong trạng thái tinh thần vui vẻ đó:
- Làm viên mãn Giới hạnh, sự hộ trì các căn, sự tiết độ trong ăn uống, và sự chuyên tâm tỉnh thức.
- Làm viên mãn năm uẩn thanh tịnh: Giới uẩn, Định uẩn, Tuệ uẩn, Giải thoát uẩn, và Giải thoát tri kiến uẩn.
- Thấu triệt (paṭivijjhati) các trường hợp Xứ và Phi xứ (điều có thể và không thể xảy ra).
- Làm viên mãn các pháp An trú và Chứng đắc (các tầng thiền và quả vị).
- Thấu triệt các Thánh đế.
- Tu tập (bhāveti) 37 Phẩm trợ đạo, bao gồm: các Niệm xứ, các Chánh cần, các Thần túc, các Căn, các Lực, các Giác chi, và Thánh đạo.
- Tác chứng (sacchikaroti) các Quả vị Sa-môn và thấu triệt các Thắng trí (abhiññā).
Cuối cùng, vị ấy, với tâm tràn đầy hoan hỷ, hỷ lạc, mãn nguyện và vui mừng, tác chứng Niết-bàn, là pháp chân đế tối thượng.
Katamā javanapaññā? Yaṃkiñci rūpaṃ atītānāgatapaccuppannaṃ … pe … yaṃ dūre santike vā, sabbaṃ rūpaṃ aniccato khippaṃ javatīti javanapaññā. Dukkhato khippaṃ … anattato khippaṃ javatīti javanapaññā. Yā kāci vedanā … pe … yaṃkiñci viññāṇaṃ atītānāgatapaccuppannaṃ … pe … sabbaṃ viññāṇaṃ aniccato dukkhato anattato khippaṃ javatīti javanapaññā. Cakkhu … pe … jarāmaraṇaṃ atītānāgatapaccuppannaṃ aniccato dukkhato anattato khippaṃ javatīti javanapaññā. Rūpaṃ atītānāgatapaccuppannaṃ aniccaṃ khayaṭṭhena, dukkhaṃ bhayaṭṭhena, anattā asārakaṭṭhenāti tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā rūpanirodhe nibbāne khippaṃ javatīti javanapaññā. Vedanā, saññā, saṅkhārā, viññāṇaṃ, cakkhu …pe… jarāmaraṇaṃ atītānāgatapaccuppannaṃ aniccaṃ khayaṭṭhena …pe… vibhūtaṃ katvā jarāmaraṇanirodhe nibbāne khippaṃ javatīti javanapaññā. Rūpaṃ atītānāgatapaccuppannaṃ …pe… viññāṇaṃ. Cakkhu …pe… jarāmaraṇaṃ atītānāgatapaccuppannaṃ aniccaṃ saṅkhataṃ paṭiccasamuppannaṃ khayadhammaṃ vayadhammaṃ virāgadhammaṃ nirodhadhammanti tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā jarāmaraṇanirodhe nibbāne khippaṃ javatīti javanapaññā.
Thế nào là Tốc tuệ (javanapaññā, cũng gọi Tiệp tuệ)?
- Đối với bất kỳ sắc nào thuộc quá khứ, vị lai hay hiện tại; dù ở xa hay ở gần, tuệ ấy mau lẹ (khippaṃ) “chạy thẳng tới” sự quán sát theo vô thường; mau lẹ quán theo khổ; mau lẹ quán theo vô ngã: đó gọi là Tốc tuệ.
- Đối với bất kỳ thọ nào … đối với bất kỳ thức nào thuộc quá khứ, vị lai hay hiện tại, tuệ ấy mau lẹ quán theo vô thường, theo khổ, theo vô ngã: đó gọi là Tốc tuệ.
- Đối với nhãn … cho đến lão–tử (jarāmaraṇa) thuộc quá khứ, vị lai hay hiện tại, tuệ ấy mau lẹ quán theo vô thường, theo khổ, theo vô ngã: đó gọi là Tốc tuệ.
Lại nữa:
- Sau khi cân nhắc, thẩm định, phân tích và làm hiển lộ rằng: sắc thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại là
• vô thường theo nghĩa hoại diệt (khayaṭṭhena),
• khổ theo nghĩa nguy hiểm/đáng sợ (bhayaṭṭhena),
• vô ngã theo nghĩa không có lõi thực chất (asārakaṭṭhena),
tuệ ấy mau lẹ hướng đến sự đoạn diệt của sắc, tức Niết-bàn: đó gọi là Tốc tuệ. - Tương tự như vậy, đối với thọ, tưởng, hành, thức; và đối với nhãn … cho đến lão–tử, sau khi cân nhắc, thẩm định, phân tích và làm hiển lộ rằng các pháp ấy là vô thường theo nghĩa hoại diệt … tuệ ấy mau lẹ hướng đến sự đoạn diệt của lão–tử nơi Niết-bàn: đó gọi là Tốc tuệ.
- Lại nữa, đối với sắc thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại … cho đến thức; và đối với nhãn … cho đến lão–tử, sau khi cân nhắc, thẩm định, phân tích và làm hiển lộ rằng các pháp ấy là:
• vô thường (anicca), hữu vi (saṅkhata), do duyên sinh (paṭiccasamuppanna),
• có tánh hoại (khayadhamma), có tánh diệt (vayadhamma), có tánh ly tham (virāgadhamma), có tánh đoạn diệt (nirodhadhamma),
tuệ ấy mau lẹ hướng đến sự đoạn diệt của lão–tử nơi Niết-bàn: đó gọi là Tốc tuệ.
Katamā tikkhapaññā? Khippaṃ kilese chindatīti tikkhapaññā. Uppannaṃ kāmavitakkaṃ nādhivāseti, uppannaṃ byāpādavitakkaṃ, uppannaṃ vihiṃsāvitakkaṃ, uppannuppanne pāpake akusale dhamme, uppannaṃ rāgaṃ, dosaṃ, mohaṃ, kodhaṃ, upanāhaṃ, makkhaṃ, paḷāsaṃ, issaṃ, macchariyaṃ, māyaṃ, sāṭheyyaṃ, thambhaṃ, sārambhaṃ, mānaṃ, atimānaṃ, madaṃ, pamādaṃ, sabbe kilese, sabbe duccarite, sabbe abhisaṅkhāre, sabbe bhavagāmikamme nādhivāseti pajahati vinodeti byantīkaroti anabhāvaṃ gametīti tikkhapaññā. Ekasmiṃ āsane cattāro ariyamaggā, cattāri sāmaññaphalāni, catasso paṭisambhidāyo, cha ca abhiññāyo adhigatā honti sacchikatā passitā paññāyāti tikkhapaññā.
Thế nào là Tuệ sắc bén (tikkhapaññā)? Tuệ ấy nhanh chóng chặt đứt các phiền não: đó gọi là Tuệ sắc bén.
Vị ấy không dung dưỡng các tầm đã khởi: dục tầm (kāmavitakka), sân tầm (byāpādavitakka), hại tầm (vihiṃsāvitakka); cũng không dung dưỡng bất kỳ pháp ác, bất thiện nào vừa khởi. Đối với tham ái (rāga), sân (dosa), si (moha), phẫn nộ (kodha), hằn học/oán hiềm (upanāha), vong ân/khinh giảm công đức (makkha), ác ý/hiềm hận (paḷāsa), ganh tị (issā), bỏn xẻn (macchariya), dối trá (māyā), xảo quyệt/giả dối (sāṭheyya), bướng bỉnh/cứng đầu (thambha), hung hăng/hiếu thắng (sārambha), ngã mạn (māna), tự cao (atimāna), tự mãn/say đắm (mada), phóng dật/buông lung (pamāda) — toàn bộ các phiền não, mọi ác hạnh (duccarita), mọi hành tạo tác (abhisaṅkhāra), mọi nghiệp dẫn đến hữu (bhavagāmikamma) — vị ấy không dung dưỡng, mà từ bỏ, xua tan, diệt tận, khiến chúng đi đến không hiện hữu: đó gọi là Tuệ sắc bén.
Trong một lần an tọa, bốn Thánh đạo, bốn Quả Sa-môn, Tứ Vô Ngại Giải (paṭisambhidā), và sáu Thắng trí (abhiññā) được chứng đạt, được tác chứng, được thấy và được biết bằng trí: đó gọi là Tuệ sắc bén.
Katamā nibbedhikapaññā? idhekacco sabbasaṅkhāresu ubbegabahulo hoti uttāsabahulo ukkaṇṭhanabahulo aratibahulo anabhiratibahulo bahimukho na ramati sabbasaṅkhāresu, anibbiddhapubbaṃ appadālitapubbaṃ lobhakkhandhaṃ nibbijjhati padāletīti nibbedhikapaññā. Anibbiddhapubbaṃ appadālitapubbaṃ dosakkhandhaṃ, mohakkhandhaṃ, kodhaṃ, upanāhaṃ … pe … sabbe bhavagāmikamme nibbijjhati padāletīti nibbedhikapaññā.
Thế nào là tuệ thấu triệt (nibbedhikapaññā)?
- Ở đây, có người đối với tất cả các hành hữu vi thường hay dao động/bồn chồn, khiếp sợ, chán ngán, bất hỷ, không hứng thú; quay lưng lại, không còn hoan hỷ nơi các hành. Vị ấy xuyên phá và chẻ toạc khối tham (lobhakkhandha) vốn trước đây chưa từng bị xuyên phá, chưa từng bị chẻ toạc: đó gọi là tuệ thấu triệt.
- Tương tự, vị ấy xuyên phá và chẻ toạc khối sân (dosakkhandha), khối si (mohakkhandha), phẫn nộ (kodha), oán hận (upanāha) … v.v., cho đến tất cả các nghiệp đưa đến hữu (sabbe bhavagāmikamme): đó gọi là tuệ thấu triệt.
Anupadadhammavipassananti samāpattivasena vā jhānaṅgavasena vā anupaṭipāṭiyā dhammavipassanaṃ vipassati, evaṃ vipassanto addhamāsena arahattaṃ patto. Mahāmoggallānatthero pana sattahi divasehi. Evaṃ santepi Sāriputtatthero Mahāpaññavantataro. Mahāmoggallānatthero hi sāvakānaṃ sammasanacāraṃ yaṭṭhikoṭiyā uppīḷento viya ekadesameva sammasanto satta divase vāyamitvā arahattaṃ patto. Sāriputtatthero ṭhapetvā Buddhānaṃ Paccekabuddhānañca sammasanacāraṃ sāvakānaṃ sammasanacāraṃ nippadesaṃ sammasi. Evaṃ sammasanto addhamāsaṃ vāyami. Arahattañca kira patvā aññāsi — “Ṭhapetvā Buddhe ca Paccekabuddhe ca añño sāvako nāma paññāya mayā pattabbaṃ pattuṃ samattho nāma na bhavissatī”ti. Yathā hi puriso veḷuyaṭṭhiṃ gaṇhissāmīti mahājaṭaṃ veḷuṃ disvā jaṭaṃ chindantassa papañco bhavissatīti antarena hatthaṃ pavesetvā sampattameva yaṭṭhiṃ mūle ca agge ca chinditvā ādāya pakkameyya, so kiñcāpi paṭhamataraṃ gacchati, yaṭṭhiṃ pana sāraṃ vā ujuṃ vā na labhati. Aparo ca tathārūpameva veṇuṃ disvā “sace sampattaṃ yaṭṭhiṃ gaṇhissāmi, sāraṃ vā ujuṃ vā na labhissāmī”ti kacchaṃ bandhitvā mahantena satthena veṇujaṭaṃ chinditvā sārā ceva ujū ca yaṭṭhiyo uccinitvā ādāya pakkameyya. Ayaṃ kiñcāpi pacchā gacchati, yaṭṭhiyo pana sārā ceva ujū ca labhati. Evaṃsampadamidaṃ veditabbaṃ imesaṃ dvinnaṃ therānaṃ padhānaṃ[2].
Quán pháp nối tiếp (Anupada-dhamma-vipassanā): Nghĩa là quán các pháp theo thứ lớp, hoặc theo con đường các tầng định (samāpatti), hoặc theo các chi thiền (jhānaṅga). Khi tuệ quán như vậy, vị ấy trong nửa tháng chứng đắc A‑la‑hán. Còn Trưởng lão Mahāmoggallāna thì trong bảy ngày.
Dẫu vậy, Trưởng lão Sāriputta vẫn bậc đại trí vượt trội. Quả thật, Trưởng lão Mahāmoggallāna, trong khi khảo sát (sammasana) chỉ một phần (ekadesa) — tựa như chỉ ấn vào một đầu gậy (yaṭṭhikoṭiyā uppīḷento viya) — đã nỗ lực bảy ngày và chứng A‑la‑hán. Còn Trưởng lão Sāriputta, trừ lối thẩm sát của chư Phật và Độc Giác Phật, thì đối với lối thẩm sát của hàng Thinh văn, Ngài quán xét một cách toàn phần, không bỏ sót (nippadesa). Quán xét như vậy, Ngài nỗ lực nửa tháng. Lại nữa, được thuật rằng sau khi chứng A‑la‑hán, Ngài biết: “Ngoại trừ chư Phật và chư Độc Giác Phật, sẽ không có vị Thinh văn nào khác có thể bằng trí tuệ đạt được điều ta đã đạt.”
Ví như một người muốn lấy gậy tre. Thấy một bụi tre rậm rạp, nghĩ rằng “nếu chặt cả bụi thì sẽ rườm rà, mất công”, bèn luồn tay vào giữa, chộp lấy cây gậy với tầm tay, chặt gốc và ngọn rồi mang đi. Người ấy tuy đi trước, nhưng cây gậy thu được không chắc lõi, cũng không thẳng. Một người khác, thấy bụi tre như vậy, nghĩ rằng “nếu chỉ chộp lấy thứ trong tầm tay thì sẽ không được gậy chắc và thẳng”, bèn siết chặt thắt lưng, dùng dao lớn phát sạch bụi tre rối, lựa những cây gậy vừa chắc lõi vừa thẳng rồi mang đi. Người này tuy đi sau, nhưng lại được gậy chắc và thẳng. Trường hợp nỗ lực của hai Trưởng lão nên được hiểu tương tự như vậy.
Evaṃ pana addhamāsaṃ vāyamitvā Dhammasenāpati Sāriputtatthero Sūkarakhataleṇadvāre bhāgineyyassa Dīghanakhaparibbājakassa Vedanāpariggahasuttante desiyamāne Dasabalaṃ bījayamāno ṭhito desanānusārena ñāṇaṃ pesetvā pabbajitadivasato pannarasame divase sāvakapāramiñāṇassa matthakaṃ patvā sattasaṭṭhi ñāṇāni paṭivijjhitvā soḷasavidhaṃ paññaṃ anuppatto.
Và nữa, sau khi tinh tấn nửa tháng, Trưởng lão Sāriputta — bậc Tướng quân Chánh pháp — khi Thế Tôn đang thuyết giảng Kinh Quán Thọ (Vedanāpariggaha Sutta) cho du sĩ Dīghanakha (cháu của Ngài) tại cửa động Sūkarakhata, Ngài đứng quạt cho bậc Thập Lực, hướng trí theo đúng mạch bài pháp; đến ngày thứ mười lăm kể từ ngày xuất gia, đạt đến tột đỉnh trí ba‑la‑mật của bậc Thinh văn, thấu triệt sáu mươi bảy loại trí, và chứng đạt mười sáu thứ bậc tuệ.
Tatridaṃ, bhikkhave, Sāriputtassa anupadadhammavipassanāyāti yā anupadadhammavipassanaṃ vipassatīti anupadadhammavipassanā vuttā, tatra anupadadhammavipassanāya sāriputtassa idaṃ hoti. Idāni vattabbaṃ taṃ taṃ vipassanākoṭṭhāsaṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ.
Này chư Tỳ khưu, sau đây là về pháp Quán Pháp Nối Tiếp (Anupada-dhamma-vipassanā) của Tôn giả Sāriputta.
Pháp môn này được gọi là ‘Quán Pháp Nối Tiếp’ vì [hành giả] thực hành quán sát các pháp theo một thứ tự nối tiếp. Đối với pháp quán đó, đây là trường hợp của Tôn giả Sāriputta. Những điều sắp được trình bày sau đây được nói ra chính là để đề cập đến từng phần trong tiến trình tuệ quán (vipassanā) ấy.
94. Paṭhame jhāneti ye paṭhame jhāne antosamāpattiyaṃ dhammā. Tyāssāti te assa. Anupadavavatthitā hontīti anupaṭipāṭiyā vavatthitā paricchinnā ñātā viditā honti. Kathaṃ? Thero hi te dhamme olokento abhiniropanalakkhaṇo vitakko vattatīti jānāti. Tathā anumajjanalakkhaṇo vicāro, pharaṇalakkhaṇā pīti, sātalakkhaṇaṃ sukhaṃ, avikkhepalakkhaṇā cittekaggatā, phusanalakkhaṇo phasso, vedayitalakkhaṇā vedanā, sañjānanalakkhaṇā saññā, cetayitalakkhaṇā cetanā, vijānanalakkhaṇaṃ viññāṇaṃ, kattukamyatālakkhaṇo chando, adhimokkhalakkhaṇo adhimokkho, paggāhalakkhaṇaṃ vīriyaṃ, upaṭṭhānalakkhaṇā sati, majjhattalakkhaṇā upekkhā, anunayamanasikāralakkhaṇo manasikāro vattatīti jānāti. Evaṃ jānaṃ abhiniropanaṭṭhena vitakkaṃ sabhāvato vavatthapeti … pe … anunayamanasikāraṇaṭṭhena manasikāraṃ sabhāvabhāvato vavatthapeti. Tena vuttaṃ “tyāssa dhammā anupadavavatthitā hontī”ti.
94. Trong Sơ thiền: Những Pháp nào trong Sơ thiền, tức là ở bên trong thiền chứng. Tyāssā tách thành te assa: Những Pháp ấy mà trưởng lão Sārīputta này (đã xác định được theo tuần tự). Được Sārīputta xác định theo tuần tự: các pháp ấy được phân định tuần tự; được xác định rành rẽ, giới hạn rõ, được biết và được hiểu rõ theo đúng thứ lớp. Bằng cách nào?
Vì Trưởng lão, khi quán sát các pháp ấy, biết rằng:
- Tầm (vitakka) đang vận hành, có đặc tướng đặt (tâm) lên đối tượng.
- Tứ (vicāra), có đặc tướng “xoa, chà” (duy trì sự áp sát đối tượng).
- Hỷ (pīti), có đặc tướng thấm nhuần, lan tỏa.
- Lạc (sukha), có đặc tướng khả ý, êm dịu.
- Nhất tâm (cittekaggatā), có đặc tướng không tán loạn.
- Xúc (phassa), có đặc tướng chạm.
- Thọ (vedanā), có đặc tướng bị cảm nhận.
- Tưởng (saññā), có đặc tướng ghi dấu/nhận biết tướng.
- Tư/ý chí (cetanā), có đặc tướng chủ ý, tác thành.
- Thức (viññāṇa), có đặc tướng nhận thức, phân biệt.
- Dục/chí muốn làm (chanda), có đặc tướng ưa muốn thực hiện.
- Thắng giải/quyết định (adhimokkha), có đặc tướng quyết đoán, ấn quyết.
- Tinh tấn (vīriya), có đặc tướng nỗ lực, nâng đỡ.
- Niệm (sati), có đặc tướng hiện tiền, ghi nhớ/đặt trước mặt.
- Xả (upekkhā), có đặc tướng trung dung/quân bình.
- Tác ý (manasikāra), có đặc tướng đưa dẫn tâm theo đối tượng.
Biết như vậy, vị ấy phân định tầm theo tự tánh là “đặt (tâm) lên [đối tượng]” … cho đến phân định tác ý theo tự tánh là “đưa dẫn (tâm)”. Vì vậy mới nói: “Đối với vị ấy, các pháp ấy được phân định tuần tự.”
Viditā uppajjantīti uppajjamānā viditā pākaṭāva hutvā uppajjanti. Viditā upaṭṭhahantīti tiṭṭhamānāpi viditā pākaṭāva hutvā tiṭṭhanti. Viditā abbhatthaṃ gacchantīti nirujjhamānāpi viditā pākaṭāva hutvā nirujjhanti. Ettha pana taṃñāṇatā ceva ñāṇabahutā[3] ca mocetabbā. Yathā hi teneva aṅgulaggena taṃ aṅgulaggaṃ na sakkā phusituṃ, evameva teneva cittena tassa cittassa uppādo vā ṭhiti vā bhaṅgo vā na sakkā jānitunti. Evaṃ tāva taṃñāṇatā mocetabbā. Yadi pana dve cittāni ekato uppajjeyyuṃ, ekena cittena ekassa uppādo vā ṭhiti vā bhaṅgo vā sakkā bhaveyya jānituṃ. Dve pana phassā vā vedanā vā saññā vā cetanā vā cittāni vā ekato uppajjanakāni nāma natthi, ekekameva uppajjati. Evaṃ ñāṇabahutā[4] mocetabbā. Evaṃ sante kathaṃ? Mahātherassa antosamāpattiyaṃ soḷasa dhammā viditā pākaṭā hontīti. Vatthārammaṇānaṃ pariggahitatāya. Therena hi vatthu ceva ārammaṇañca pariggahitaṃ, tenassa tesaṃ dhammānaṃ uppādaṃ āvajjantassa uppādo pākaṭo hoti, ṭhānaṃ āvajjantassa ṭhānaṃ pākaṭaṃ hoti, bhedaṃ āvajjantassa bhedo pākaṭo hoti. Tena vuttaṃ “viditā uppajjanti viditā upaṭṭhahanti viditā abbhatthaṃ gacchantī”ti. Ahutvā sambhontīti iminā udayaṃ passati. Hutvā paṭiventīti iminā vayaṃ passati.
Biết rõ khi khởi lên: Khi đang khởi sinh, các pháp ấy khởi sinh trong trạng thái đã được biết rõ, hiện rõ ràng. Biết rõ khi an trú: Khi đang an trú, các pháp ấy an trú đã được biết rõ, hiện rõ ràng. Biết rõ khi biến mất: Khi đang diệt, các pháp ấy diệt trong trạng thái đã được biết rõ, hiện rõ ràng.
Tại đây, cần loại trừ hai quan niệm: “biết bằng chính tâm ấy” và “có nhiều tâm đồng thời”. Vì như không thể chạm vào đầu ngón tay ấy bằng chính đầu ngón tay ấy, cũng vậy, không thể bằng chính tâm đó mà biết sự sanh khởi, an trú hay hoại diệt của chính tâm ấy. Do vậy, phải loại trừ quan niệm “biết bằng chính tâm ấy”.
Nếu hai tâm có thể đồng thời khởi lên, thì với một tâm có thể biết sự sanh khởi, an trú hay hoại diệt của tâm kia. Nhưng hoàn toàn không có hai xúc, hai thọ, hai tưởng, hai tư hay hai tâm đồng thời khởi lên; chúng chỉ khởi lên từng cái một. Do vậy, phải loại trừ quan niệm “nhiều tâm đồng thời”.
Vậy thì biết bằng cách nào? Đối với Đại Trưởng lão, ngay trong định ấy, mười sáu pháp trở nên được biết rõ, hiện rõ ràng, vì căn (sở y) và đối tượng đã được thâu nắm. Do Trưởng lão đã thâu nắm cả căn và đối tượng, nên:
- Khi hướng tâm quán sát sự sanh khởi của các pháp ấy, thì sự sanh khởi hiện rõ.
- Khi hướng tâm quán sát sự an trú, thì sự an trú hiện rõ.
- Khi hướng tâm quán sát sự hoại biệt, thì sự hoại biệt hiện rõ.
Bởi vậy mới nói: “Được biết rõ khi khởi lên, được biết rõ khi an trú, được biết rõ khi biến mất.” “Trước chưa có rồi sanh khởi” là thấy phần sinh (udaya); “đã có rồi diệt mất” là thấy phần diệt (vaya).
Anupāyoti rāgavasena anupagamano hutvā. Anapāyoti paṭighavasena anapagato. anissitoti taṇhādiṭṭhinissayehi anissito. Appaṭibaddhoti chandarāgena abaddho. Vippamuttoti kāmarāgato vippamutto. Visaṃyuttoti catūhi yogehi sabbakilesehi vā visaṃyutto. Vimariyādīkatenāti nimmariyādīkatena. Cetasāti evaṃvidhena cittena viharati.
Không vui mừng: không đạt đến do tác động của ái luyến. Không bất mãn: không lùi tránh/không xua đuổi do tác động của phẫn nộ. Không bị tham ái và tà kiến dựa vào: Không kết hợp do nương tựa vào tham ái và nương tựa vào tà kiến. Không bị trói buộc: Không bị dục vọng và ái luyến trói buộc. Đã được thoát khỏi: Đã được thoát khỏi ái dục. Đã tách rời ra: Đã tách khỏi bốn sự ràng buộc hoặc tất cả phiền não. Đã được làm trở thành không còn giới hạn: Bởi đã làm cho không có giới hạn. Có tâm: an trú với tâm như thế.
Tattha dve mariyādā kilesamariyādā ca ārammaṇamariyādā ca. Sace hissa antosamāpattiyaṃ pavatte soḷasa dhamme ārabbha rāgādayo uppajjeyyuṃ, kilesamariyādā tena[5] katā[6] bhaveyya, tesu panassa ekopi na uppannoti kilesamariyādā natthi. Sace panassa antosamāpattiyaṃ pavatte soḷasa dhamme āvajjantassa ekacce āpāthaṃ nāgaccheyyuṃ[7]. Evamassa ārammaṇamariyādā bhaveyyuṃ[8]. Te panassa soḷasa dhamme āvajjantassa āpāthaṃ anāgatadhammo nāma natthīti ārammaṇamariyādāpi natthi.
Giới hạn trong cụm từ ‘đã được làm trở thành không còn giới hạn’ đó có hai loại: (1) giới hạn do phiền não và (2) giới hạn do đối tượng.
Nếu nơi vị Trưởng lão, ngay trong phần nội định, đối với mười sáu pháp đang vận hành, các phiền não như tham v.v. khởi lên, thì như vậy gọi là có “giới hạn do phiền não”. Nhưng nơi ngài, ngay cả một cũng không khởi; nên không có giới hạn do phiền não.
Lại nữa, nếu khi ngài hướng tâm đến mười sáu pháp ấy mà có pháp nào đó không rơi vào tầm nhận biết (không vào āpātha), thì sẽ là “giới hạn do đối tượng”. Nhưng đối với ngài, khi hướng tâm đến mười sáu pháp ấy, không có pháp nào không lọt vào tầm; nên cũng không có giới hạn do đối tượng.
Aparāpi dve mariyādā vikkhambhanamariyādā ca samucchedamariyādā ca. Tāsu samucchedamariyādā upari āgamissati, imasmiṃ pana ṭhāne vikkhambhanamariyādā adhippetā. Tassa vikkhambhitapaccanīkattā natthīti vimariyādikatena cetasā viharati.
Còn có hai loại nữa:
Giới hạn do áp chế (vikkhambhana‑mariyādā).
Giới hạn do đoạn trừ (samuccheda‑mariyādā).
Trong hai loại ấy, “giới hạn do đoạn trừ” sẽ được nói đến ở phần sau; ngay tại đây là nói đến “giới hạn do áp chế”.
Vì các pháp đối nghịch đã bị áp chế nên chúng vắng mặt; do vậy, ngài an trú với tâm đã được làm cho không còn giới hạn (vimariyādīkatenā cetasā viharati).
Uttari nissaraṇanti ito uttari nissaraṇaṃ. Aññesu ca suttesu “uttari nissaraṇan”ti nibbānaṃ vuttaṃ, idha pana anantaro viseso adhippetoti veditabbo. Tabbahulīkārāti tassa pajānanassa bahulīkaraṇena. Atthitvevassa hotīti tassa therassa atthītiyeva daḷhataraṃ hoti. Iminā nayena sesavāresupi attho veditabbo.
Sự thoát ra cao hơn: sự xuất ly cao hơn nữa, sự giải thoát vượt trội hơn từ cái này. Trong các kinh khác, “uttari nissaraṇaṃ” được nói là Niết-bàn, nhưng ở đây cần hiểu là chỉ sự khác biệt kế tiếp (tầng thiền cao hơn). Do làm cho sự hiểu biết được sung mãn: do tu tập thường xuyên cái biết ấy. Đối với vị ấy, điều ấy càng trở nên vững chắc: đối với vị Trưởng lão ấy, (nhận thức) “vẫn còn có” trở nên vững chắc hơn. Cần hiểu ý nghĩa theo cách này trong các phần còn lại.
Dutiyavāre pana sampasādanaṭṭhena sampasādo. Sabhāvato vavatthapeti.
Trong phần thứ hai, sampasādo (tịnh tín/nội tĩnh) được gọi như vậy theo nghĩa làm cho trong sáng. (Ngài) xác định (các pháp) theo thực tính của chúng.
Catutthavāre upekkhāti sukhaṭṭhāne vedanupekkhāva. Passaddhattā cetaso anābhogoti yo so “yadeva tattha sukhan”ti cetaso ābhogo, etenetaṃ oḷārikamakkhāyatīti evaṃ passaddhattā cetaso anābhogo vutto, tassa abhāvāti attho. Satipārisuddhīti parisuddhāsatiyeva. Upekkhāpi pārisuddhiupekkhā.
Trong phần thứ tư, upekkhā ở đây chính là thọ-xả thay thế cho lạc thọ. Passaddhattā cetaso anābhogo: do tâm đã được khinh an nên không còn nỗ lực của tâm – tức là không còn sự nỗ lực thô của tâm vốn có trong câu “bất cứ lạc nào có ở đó”; điều này được nói là “không nỗ lực của tâm do khinh an”, nghĩa là sự vắng mặt của (nỗ lực thô) ấy. Satipārisuddhī: chính là niệm thanh tịnh. Xả cũng là xả thanh tịnh.
95. Sato vuṭṭhahatīti satiyā samannāgato ñāṇena sampajāno hutvā vuṭṭhāti. Te dhamme samanupassatīti yasmā nevasaññānāsaññāyatane buddhānaṃyeva anupadadhammavipassanā hoti, na sāvakānaṃ, tasmā ettha kalāpavipassanaṃ dassento evamāha.
95. Có niệm xuất khỏi: nghĩa là ra khỏi (định) với niệm đầy đủ và với trí rõ biết (sampajāna). Quán xét những Pháp đó: Bởi vì ở Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chỉ chư Phật mới có minh sát “tuần tự theo từng pháp” (anupada‑dhamma‑vipassanā), không phải các bậc Thinh văn; nên ở đây là nêu “minh sát theo nhóm/cụm” (kalāpa‑vipassanā), vì thế mới nói như vậy.
Paññāya cassa disvā āsavā parikkhīṇā hontīti maggapaññāya cattāri saccāni disvā cattāro āsavā khīṇā honti. Sāriputtattherassa samathavipassanaṃ yuganaddhaṃ āharitvā arahattaṃ pattavāropi atthi, nirodhasamāpattisamāpannavāropi. Arahattaṃ pattavāro idha gahito, nirodhaṃ pana ciṇṇavasitāya aparāparaṃ samāpajjissatīti vadanti.
Các lậu hoặc được đoạn tận do đã thấy bằng tuệ: Do nhìn thấy được bốn Chân Lý bằng Đạo tuệ (nên) cả bốn lậu hoặc đã được cạn kiệt. Trưởng lão Sārīputta có lúc chứng A-la-hán bằng cách kết hợp chỉ và quán (samathavipassanaṃ yuganaddhaṃ), cũng có lúc nhập Diệt thọ tưởng định. Ở đây nói về lúc chứng A-la-hán; còn về Diệt định, các vị nói rằng ngài sẽ nhập đi nhập lại do đã thuần thục tự tại (ciṇṇa-vasitā).
Tatthassa yasmiṃ kāle nirodhasamāpatti sīsaṃ hoti, nirodhassa vāro āgacchati, phalasamāpatti gūḷhā hoti. Yasmiṃ kāle phalasamāpatti sīsaṃ hoti, phalasamāpattiyā vāro āgacchati, nirodhasamāpatti gūḷhā hoti. Jambudīpavāsino therā pana vadanti “Sāriputtatthero samathavipassanaṃ yuganaddhaṃ āharitvā anāgāmiphalaṃ sacchikatvā nirodhaṃ samāpajji, nirodhā vuṭṭhāya arahattaṃ patto”ti. Te dhammeti antosamāpattiyaṃ pavatte tisamuṭṭhānikarūpadhamme, heṭṭhā nevasaññānāsaññāyatanasamāpattiyaṃ pavattadhamme vā. tepi hi imasmiṃ vāre vipassitabbadhammāva, tasmā te vā vipassatīti dassetuṃ idaṃ vuttanti veditabbaṃ.
Trong trường hợp đó, khi nào Diệt định là chủ đạo, lúc ấy đến lượt Diệt định, còn Quả định thì ẩn tàng. Khi nào Quả định là chủ đạo, lúc ấy đến lượt Quả định, còn Diệt định thì ẩn tàng. Nhưng các Trưởng lão ở Jambudīpa nói: “Trưởng lão Sārīputta kết hợp chỉ-quán, chứng Bất lai quả rồi nhập Diệt định; xuất khỏi Diệt định mới chứng A-la-hán.”
“Các pháp ấy” là: các sắc pháp do ba nhân sinh khởi trong nội định, hoặc các pháp đã vận hành trước đó trong Phi tưởng phi phi tưởng xứ định. Vì những pháp này cũng cần được quán xét trong giai đoạn này, nên cần hiểu rằng: (đoạn này) được nói để chỉ ra ngài quán xét các pháp ấy.
97. Vasippattoti ciṇṇavasitaṃ patto. Pāramippattoti nipphattiṃ patto. Orasoti-ādīsu thero bhagavato ure nibbattasaddaṃ sutvā jātoti oraso. Mukhena pabhāvitaṃ saddaṃ sutvā jātoti mukhato jāto. Dhammena pana jātattā nimmitattā dhammajo dhammanimmito, dhammadāyassa ādiyanato dhammadāyādo, āmisadāyassa anādiyanato no āmisadāyādoti veditabbo. Sesaṃ sabbattha uttānamevāti.
97. Vị đạt đến sự thiện xảo: Vị đạt đến tính chất của người tinh thông, thiện xảo. Đạt đến ba-la-mật: là vị đã đạt đến sự thành tựu. Con chánh tông của đức Phật v.v, gọi là con chánh tông bởi sanh ra do lắng nghe âm thanh được phát ra từ ngực của đức Thế Tôn. Sanh ra từ miệng do sanh ra nhờ vào việc nghe âm thanh được phát ra từ miệng. Hơn nữa, nên biết rằng: là người được sanh ra từ Pháp, được tạo ra từ Giáo Pháp do được sanh ra, được tạo ra từ Giáo Pháp; là người thừa tự Giáo Pháp: bởi nắm giữ phần được chia là Pháp, không thừa tự tài vật do không nắm giữ phần được chia là vật chất. Từ còn lại trong các câu đều đơn giản.
Giải Thích Kinh Bất Đoạn Kết Thúc