Kinh số 105 – Giải Thích Kinh Sunakkhatta
(Sunakkhattasuttavaṇṇanā)Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Thiện Tinh
55. Evamme sutanti sunakkhattasuttaṃ. Tattha Aññāti arahattaṃ. Byākatāti khīṇā jātītiādīhi catūhi padehi kathitā. Adhimānenāti appatte pattasaññino, anadhigate adhigatasaññino hutvā adhigataṃ amhehīti mānena byākariṃsu.
55. Kinh Sunakkhatta được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, vị A-ra-hán tên là Aññā. Đã tuyên bố: Añña là bậc A-ra-hán ngài đã nói bốn câu bắt đầu như sau: sanh đã tận. Do sự tự tin thái quá: những vị Tỳ khưu ấy trong khi không chứng đạt tưởng là đã chứng đạt, trong khi không chứng đắc tưởng là đã chứng đắc đã tuyên bố bởi lầm tưởng rằng chúng tôi đã chứng đắc.
56. evañc’ettha Sunakkhatta Tathāgatassa hotīti Sunakkhatta ettha etesaṃ bhikkhūnaṃ pañhabyākaraṇe — “idaṃ ṭhānaṃ etesaṃ avibhūtaṃ andhakāraṃ, tenime anadhigate adhigatasaññino, handa nesaṃ visodhetvā pākaṭaṃ katvā dhammaṃ desemī”ti, evañca Tathāgatassa hoti. Atha ca panidhekacce … pe … tassapi hoti aññathattanti Bhagavā paṭipannakānaṃ dhammaṃ deseti. Yattha pana icchācāre ṭhitā ekacce moghapurisā honti, tatra Bhagavā passati — “ime imaṃ pañhaṃ uggahetvā ajānitvāva jānantā viya appatte pattasaññino hutvā gāmanigamādīsu visevamānā vicarissanti, taṃ nesaṃ bhavissati dīgharattaṃ ahitāya dukkhāyā”ti evamassāyaṃ icchācāre ṭhitānaṃ kāraṇā paṭipannakānampi atthāya “dhammaṃ desissāmī”ti uppannassa cittassa aññathābhāvo hoti. Taṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ.
56. Sunakkhatta trong chuyện này đấng Như Lai có suy nghĩ như vầy: Này Sunakkhatta, trong trường hợp này, Như Lai có suy nghĩ thế này: Khi các vị Tỳ kheo kia tuyên bố về sở đắc của mình, Như Lai khởi lên ý nghĩ rằng: “Vấn đề này đối với họ vẫn chưa được tỏ tường, còn u ám. Vì thế, dù chưa chứng đắc, họ lại tưởng rằng mình đã chứng đắc. Vậy thì, Ta sẽ thuyết Pháp cho họ, làm cho vấn đề được trong sạch và hiển lộ rõ ràng.” Như Lai đã có suy nghĩ như vậy. Nhưng trong Pháp và Luật này có một số kẻ rồ dại -nt- không thể thay đổi khác được: Đức Thế Tôn thuyết Pháp cho những người đang thực hành. Nhưng đối với những kẻ ngu muội sống theo ham muốn riêng, Đức Thế Tôn thấy rằng: “Những kẻ này, sau khi học hỏi vấn đề này, dù không biết lại làm như biết, dù chưa đạt lại tưởng đã đạt, sẽ đi khắp các làng mạc, thị tứ mà rêu rao một cách sai lạc. Việc đó sẽ chỉ đem lại bất hạnh và khổ đau lâu dài cho chính họ.” Chính vì lý do có những kẻ sống theo ham muốn riêng này, mà ý định ban đầu của Như Lai là “Ta sẽ thuyết Pháp vì lợi ích của những người đang thực hành” đã có sự thay đổi. Để đề cập đến ý nghĩa đó ngài đã nói lời này.
58. Lokāmisādhimuttoti vaṭṭāmisa-kāmāmisa-lokāmisabhūtesu pañcasu kāmaguṇesu adhimutto tanninno taggaruko tappabbhāro. Tappatirūpīti kāmaguṇasabhāgā. Āneñjapaṭisaṃyuttāyāti āneñjasamāpattipaṭisaṃyuttāya. Saṃseyyāti katheyya. Āneñjasaṃyojanena hi kho visaṃyuttoti āneñjasamāpattisaṃyojanena visaṃsaṭṭho. Lokāmisādhimuttoti evarūpo hi lūkhacīvaradharo mattikāpattaṃ ādāya attano sadisehi[1] katipayehi saddhiṃ paccantajanapadaṃ gacchati, gāmaṃ piṇḍāya paviṭṭhakāle manussā disvā “mahāpaṃsukulikā āgatā”ti yāgubhattādīni sampādetvā sakkaccaṃ dānaṃ denti, bhattakicce niṭṭhite anumodanaṃ sutvā — “Svepi, bhante, idheva piṇḍāya pavisathā”ti vadanti. Alaṃ upāsakā, ajjāpi vo bahūnaṃ dinnanti. Tena hi, bhante, antovassaṃ idha vaseyyāthāti adhivāsetvā vihāramaggaṃ pucchitvā vihāraṃ gacchanti. Tattha senāsanaṃ gahetvā pattacīvaraṃ paṭisāmenti. Sāyaṃ eko āvāsiko te bhikkhū pucchati “kattha piṇḍāya caritthā”ti? Asukagāmeti. Bhikkhāsampannāti? Āma evarūpā nāma manussānaṃ saddhā hoti. “ajjeva nu kho ete edisā, niccampi edisā”ti? Saddhā te manussā niccampi edisā, te nissāyeva ayaṃ vihāro vaḍḍhatīti. Tato te paṃsukulikā punappunaṃ tesaṃ vaṇṇaṃ kathenti, divasāvasesaṃ kathetvā rattimpi kathenti. Ettāvatā icchācāre ṭhitassa sīsaṃ nikkhantaṃ hoti udaraṃ phālitaṃ[2]. Evaṃ lokāmisādhimutto veditabbo.
58. Người thiên về vật chất thế gian: Là người có tâm hướng về, nghiêng về, đặt nặng và xuôi theo năm thứ dục lạc, vốn là mồi nhử của thế gian, mồi nhử của dục ái, và mồi nhử của vòng luân hồi. Phù hợp cho vật chất thế gian ấy: có (năm) loại dục là thực tính-sabhāva. Liên hệ đến bất động: liên hệ thiền chứng bất động (chỉ cho ba tầng thiền Vô sắc đầu tiên, riêng bài kinh này chỉ cho 2 tầng thiền Vô sắc đầu tiên). Saṃseyya: nên nói. Đã thoát khỏi sự trói buộc của Bất Động Định: (Điều này có nghĩa là) người ấy không còn bị ràng buộc bởi sự dính mắc vào tầng thiền Bất Động. Người thiên về vật chất thế gian: Có vị Tỳ kheo mang vẻ ngoài khổ hạnh, đắp y phấn tảo thô ráp, mang bình bát bằng đất, cùng với vài vị giống mình đi đến một vùng biên địa. Khi họ vào làng khất thực, người dân thấy vậy liền nói với nhau: “Các vị đại tu sĩ hạnh phấn tảo đã đến!”, rồi họ chuẩn bị cháo, cơm và các vật thực khác, cung kính dâng cúng.
Sau khi các vị ấy dùng bữa xong và đọc lời tùy hỷ, dân làng thưa:
“Bạch các ngài, ngày mai cũng xin mời các ngài vào đây khất thực.”
(Vị Tỳ kheo đáp):
“Thôi đủ rồi, các vị thí chủ. Hôm nay các vị đã cúng dường nhiều rồi.”
“Bạch ngài, nếu vậy, xin các ngài hãy an cư mùa mưa tại đây.”
Sau khi nhận lời, họ hỏi đường rồi đi đến tịnh xá. Tại đó, họ nhận chỗ ở rồi cất y bát.
Buổi chiều, một vị Tỳ kheo thường trú hỏi họ:
“Các ngài đã đi khất thực ở đâu?”
“Ở ngôi làng kia.”
“Vật thực có dồi dào không?”
“Có chứ. Lòng tin của dân làng ở đó quả là như vậy.”
“Họ chỉ mới có đức tin như hôm nay, hay lúc nào cũng vậy?”
“Họ là những người có đức tin, lúc nào cũng vậy. Tịnh xá này phát triển được là nhờ vào họ cả đấy.”
Từ đó, nhóm Tỳ kheo khổ hạnh kia cứ lặp đi lặp lại lời tán thán về những người dân ấy. Họ nói suốt phần còn lại của ban ngày, và nói cả vào ban đêm.
Chỉ với chừng ấy thôi, cái ‘đầu’ (ẩn giấu) của kẻ sống theo ham muốn đã lộ ra, và ‘cái bụng’ (tham lam) đã phình to.
Nên hiểu về người có tâm thiên về vật chất thế gian là như vậy.
59. Idāni āneñjasamāpattilābhiṃ adhimānikaṃ dassento ṭhānaṃ kho panetanti-ādimāha. Āneñjādhimuttassāti kilesasiñcanavirahitāsu heṭṭhimāsu chasu samāpattīsu adhimuttassa tanninnassa taggaruno tappabbhārassa. Se pavutteti taṃ pavuttaṃ. Cha samāpattilābhino hi adhimānikassa pañcakāmaguṇāmisabandhanā patitapaṇḍupalāso viya upaṭṭhāti. Tenetaṃ vuttaṃ.
59. Bây giờ, để thuyết hạng người đạt được thiền chứng bất động mà lầm tưởng mới nói rằng: “Trường hợp này được biết đến v.v.” Đối với người thiên về thiền chứng bất động: Đây là người có tâm hướng về, đặt nặng và xuôi theo sáu tầng định ở dưới, vốn là những trạng thái không còn sự lay động của phiền não. Đã được lìa khỏi: đã được lìa khỏi. Đối với một người kiêu mạn đã chứng đắc sáu tầng định, sự trói buộc của năm thứ mồi nhử dục lạc hiện ra trước mắt vị ấy chỉ giống như một chiếc lá vàng đã rơi rụng khỏi cuống. Vì lý do này đã thuyết lời ấy.
60. idāni ākiñcaññāyatanasamāpatti lābhino adhimānikassa nighaṃsaṃ dassetuṃ ṭhānaṃ kho panātiādimāha. Tattha dvedhā bhinnāti majjhe bhinnā. Appaṭisandhikāti khuddakā muṭṭhipāsāṇamattā jatunā vā silesena vā allīyāpetvā paṭisandhātuṃ sakkā. Mahantaṃ pana kuṭāgārappamāṇaṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ. Se bhinneti taṃ bhinnaṃ. Upari samāpattilābhino hi heṭṭhāsamāpatti dvedhābhinnā selā viya hoti, taṃ samāpajjissāmīti cittaṃ na uppajjati. Tenetaṃ vuttaṃ.
60. Bây giờ, để chỉ ra trường hợp một người kiêu mạn (ngộ nhận) đã chứng đắc Thiền Vô Sở Hữu Xứ, mới nói: “trường hợp này được biết đến v.v.” Ở đấy, bị vỡ ra làm hai: bị vỡ ở giữa. Không thể hàn gắn lại được: Những hòn đá nhỏ bằng nắm tay (muṭṭhipāsāṇamattā) thì còn có thể dùng nhựa cây hay keo dán lại được. Nhưng ở đây, lời này được nói ra là nhắm đến một tảng đá lớn bằng cả một ngôi nhà có mái nhọn (kuṭāgārappamāṇaṃ). Se bhinne bao gồm bhinnaṃ dịch là nó đã bị vỡ ra. Đối với một người đã chứng đắc tầng thiền cao hơn (upari samāpattilābhino), tầng thiền ở dưới (heṭṭhāsamāpatti) đối với vị ấy cũng giống như một tảng đá đã vỡ làm đôi: tâm niệm muốn nhập lại tầng thiền đó sẽ không còn khởi lên nữa. Nên mới nói những lời đó.
61. Idāni nevasaññānāsaññāyatanalābhino adhimānikassa ca nighaṃsaṃ dassento ṭhānaṃ kho panātiādimāha. Tattha se vanteti taṃ vantaṃ. Aṭṭhasamāpattilābhino hi heṭṭhāsamāpattiyo vantasadisā hutvā upaṭṭhahanti, puna samāpajjissāmīti cittaṃ na uppajjati. Tenetaṃ vuttaṃ.
61. để chỉ ra trường hợp một người kiêu mạn (ngộ nhận) đã chứng đắc Thiền Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, mới nói: “trường hợp này được biết đến v.v.” Ở đây, câu “Se vante” có nghĩa là “nó đã được nôn ra” (taṃ vantaṃ). Thật vậy, đối với một người đã chứng đắc tám tầng thiền chứng (Aṭṭhasamāpattilābhino), các tầng thiền ở dưới (heṭṭhāsamāpattiyo) đối với vị ấy cũng giống như đồ đã nôn ra (vantasadisā): tâm niệm muốn nhập lại các tầng thiền đó sẽ không còn khởi lên nữa. Nên mới nói những lời đó.
62. Idāni khīṇāsavassa nighaṃsaṃ dassento ṭhānaṃ kho panātiādimāha. Tattha se ucchinnamūleti so ucchinnamūlo. Upari samāpattilābhino hi heṭṭhāsamāpatti mūlacchinnatālo viya upaṭṭhāti, taṃ samāpajjissāmīti cittaṃ na uppajjati. Tenetaṃ vuttaṃ.
62. Bây giờ, để chỉ ra trường hợp của bậc Lậu Tận, mới nói: “trường hợp này được biết đến v.v.”. Ở đây, câu “Se ucchinnamūle” có nghĩa là “nó đã bị chặt đứt tận gốc rễ” (so ucchinnamūlo). Thật vậy, đối với bậc Lậu Tận, tầng thiền ở dưới (heṭṭhāsamāpatti) đối với vị ấy cũng giống như một cây thốt nốt đã bị chặt đứt tận gốc (mūlacchinnatālo viya): tâm niệm muốn nhập lại tầng thiền đó sẽ không còn khởi lên nữa.. Nên mới nói những lời đó.
63. Ṭhānaṃ kho panāti pāṭiyekko anusandhi. Heṭṭhā hi samāpattilābhino adhimānikassapi khīṇāsavassapi nighaṃso kathito, sukkhavipassakassa pana adhimānikassapi khīṇāsavassapi na kathito. Tesaṃ dvinnampi nighaṃsaṃ dassetuṃ imaṃ desanaṃ ārabhi. Taṃ pana paṭikkhittaṃ. Samāpattilābhino hi adhimānikassa nighaṃse kathite sukkhavipassakassapi adhimānikassa kathitova hoti, samāpattilābhino ca khīṇāsavassa kathite sukkhavipassakakhīṇāsavassa kathitova hoti. Etesaṃ pana dvinnaṃ bhikkhūnaṃ sappāyāsappāyaṃ kathetuṃ imaṃ desanaṃ ārabhi.
63. Trường hợp này được biết đến v.v.: là một sự liên kết riêng biệt. Trong các phần trước, sự từ bỏ (nighaṃso) đã được nói đến cho cả người kiêu mạn (adhimānikassa) và bậc Lậu Tận (khīṇāsavassa) thuộc nhóm người đã chứng đắc các tầng thiền (samāpattilābhino). Tuy nhiên, sự từ bỏ này lại chưa được nói đến một cách rõ ràng cho người kiêu mạn và bậc Lậu Tận thuộc nhóm hành giả thuần quán (sukkhavipassakassa).
Có phải Đức Phật bắt đầu bài pháp này là để chỉ ra sự từ bỏ cho cả hai nhóm hành giả đó (người đắc thiền và người thuần quán) không?
Nhưng quan điểm đó bị bác bỏ. Bởi vì:
Khi sự từ bỏ của một người đắc thiền kiêu mạn được nói đến, thì sự từ bỏ của một hành giả thuần quán kiêu mạn cũng được xem như đã được nói đến rồi.
Và khi sự từ bỏ của một bậc Lậu Tận có đắc thiền được nói đến, thì sự từ bỏ của một bậc Lậu Tận thuần quán cũng được xem như đã được nói đến rồi.
Đúng hơn là, Đức Phật bắt đầu bài pháp này là để nói về điều thích hợp (sappāya) và không thích hợp (asappāya) cho hai hạng Tỳ-kheo này (tức là người còn kiêu mạn và bậc đã Lậu Tận, bất kể họ thuộc nhóm nào).
Tattha siyā — puthujjanassa tāva ārammaṇaṃ asappāyaṃ hotu, khīṇāsavassa kathaṃ asappāyanti. Yadaggena puthujjanassa asappāyaṃ, tadaggena khīṇāsavassāpi asappāyameva. Visaṃ nāma jānitvā khāditampi ajānitvā khāditampi visameva. Na hi khīṇāsavenapi “ahaṃ khīṇāsavo”ti asaṃvutena bhavitabbaṃ. Khīṇāsavenapi yuttapayutteneva bhavituṃ vaṭṭati.
Ở đây, có thể có câu hỏi rằng: “Đối với phàm nhân (puthujjana), một đề mục (như tầng thiền thấp) không còn thích hợp nữa, điều đó thì cứ cho là vậy đi. Nhưng tại sao nó lại không thích hợp (asappāya) đối với một bậc Lậu Tận (khīṇāsava)?”
Trả lời: Theo phương diện nào nó không thích hợp cho phàm nhân, thì theo chính phương diện đó nó cũng không thích hợp cho cả bậc Lậu Tận.
Ví dụ: Một thứ gọi là chất độc (visaṃ), dù người ta biết mà ăn hay không biết mà ăn, thì nó vẫn là chất độc.
Thật vậy, một bậc Lậu Tận không nên sống không phòng hộ (asaṃvutena) với ý nghĩ rằng: “Ta là bậc Lậu Tận rồi (nên không cần cẩn trọng nữa)”. Ngay cả một bậc Lậu Tận cũng cần phải sống một cách chuyên cần, thận trọng (yuttapayuttena) mới là điều thích hợp.
64. Tattha samaṇenāti buddhasamaṇena. Chandarāgabyāpādenāti so avijjāsaṅkhāto visadoso chandarāgena ca byāpādena ca ruppati kuppati. Asappāyānīti avaḍḍhikarāni ārammaṇāni. Anuddhaṃseyyāti soseyya milāpeyya. Saupādisesanti sagahaṇasesaṃ, upāditabbaṃ gaṇhitabbaṃ idha[3] upādīti vuttaṃ. Analañca te antarāyāyāti jīvitantarāyaṃ te kātuṃ asamatthaṃ. Rajosūkanti rajo ca vīhisukādi ca sūkaṃ. Asu ca visadosoti[4] so ca visadoso. Tadubhayenāti yā sā asappāyakiriyā ca yo visadoso ca, tena ubhayena. Puthuttanti mahantabhāvaṃ.
64. Ở đấy, vị Sa-môn gồm Sa-môn là đức Phật. Bởi tham muốn và sân hận: tác hại của chất độc (visadoso) được gọi là vô minh (avijjāsaṅkhāto) ấy bị khuấy động, bị làm cho biến dạng (ruppati kuppati) bởi tham muốn (chandarāgena) và sân hận (byāpādena). Không thích hợp: Đối tượng không làm tăng trưởng tâm. Có thể làm hại: Có thể làm tàn, làm cho khô héo. Vẫn còn sót lại chút ít: còn lại phần để nắm giữ (sagahaṇasesaṃ). Ở đây, cái nắm giữ, chấp thủ (upāditabbaṃ gaṇhitabbaṃ) được gọi là ‘upādi’ (dư sót, nền tảng của sự thủ). Đã không còn nguy hiểm: không thể gây nguy hiểm đến mạng sống của ông. Bụi và gai nhọn: bụi bẩn và gai nhọn như gai của hạt lúa, vv.. Những thứ dơ bẩn và sự tác hại của chất độc: gồm sự tác hại của chất độc. Do cả hai điều ấy: tức là bởi cả hai thứ, bao gồm hành động không thích hợp (asappāyakiriyā) và tác hại của chất độc (visadoso). Trạng thái lở loét: trở thành vết thương to lớn.
Evameva khoti ettha saupādānasalluddhāro viya appahīno avijjāvisadoso daṭṭhabbo, asappāyakiriyāya ṭhitabhāvo viya chasu dvāresu asaṃvutakālo, tadubhayena vaṇe puthuttaṃ gate maraṇaṃ viya sikkhaṃ paccakkhāya hīnāyāvattanaṃ, maraṇamattaṃ dukkhaṃ viya aññatarāya garukāya saṃkiliṭṭhāya āpattiyā āpajjanaṃ daṭṭhabbaṃ. Sukkapakkhepi imināva nayena opammasaṃsandanaṃ veditabbaṃ.
Tương tự y như thế: Tương tự như vậy, ở đây cần được hiểu như sau:
Tác hại của chất độc vô minh chưa được đoạn trừ được xem như là việc rút mũi tên nhưng vẫn còn sót lại dư chất (của độc).
Khoảng thời gian không phòng hộ sáu căn được xem như là trạng thái thực hiện một hành động không thích hợp.
Việc từ bỏ học giới, quay về đời sống thấp kém được xem như là cái chết xảy ra khi vết thương trở nên nghiêm trọng do cả hai yếu tố trên.
Việc phạm phải một tội nào đó nặng nề, ô nhiễm được xem như là nỗi khổ tương đương với cái chết.
Đối với phần Pháp Trắng , cũng nên biết sự so sánh đối chiếu của ví dụ này theo cùng một phương pháp.
65. Satiyā etaṃ adhivacananti ettha sati paññāgatikā. Lokikāya paññāya lokikā hoti, lokuttarāya lokuttarā. Ariyāyetaṃ paññāyāti parisuddhāya vipassanāpaññāya.
65. Niệm trong cụm từ ‘đó là tên gọi của niệm’ này là loại đi đôi với tuệ. Khi đi với tuệ thế gian (lokikāya paññāya), thì nó (niệm) là thế gian (lokikā). Khi đi với tuệ siêu thế (lokuttarāya), thì nó (niệm) là siêu thế (lokuttarā). Tuệ của bậc Thánh có nghĩa là với tuệ minh sát đã được thanh tịnh.
Idāni khīṇāsavassa balaṃ dassento so vatātiādimāha. Tattha saṃvutakārīti pihitakārī. Iti viditvā nirupadhīti evaṃ jānitvā kilesupadhipahānā nirupadhi hoti, nirupādānoti attho. Upadhisaṅkhaye vimuttoti upadhīnaṃ saṅkhayabhūte nibbāne ārammaṇato vimutto. Upadhisminti kāmupadhismiṃ. Kāyaṃ upasaṃharissatīti kāyaṃ allīyāpessati. Idaṃ vuttaṃ hoti — taṇhakkhaye nibbāne ārammaṇato vimutto khīṇāsavo pañca kāmaguṇe sevituṃ, kāyaṃ vā upasaṃharissati cittaṃ vā uppādessatīti netaṃ ṭhānaṃ vijjati. Sesaṃ sabbattha uttānatthamevāti.
Bây giờ, khi thuyết giảng sức mạnh của bậc Lậu Tận mới thuyết rằng: Hẳn nhiên vị Tỳ khưu ấy v.v. Trong câu đó, Người hành động có phòng hộ: có nghĩa là người đã đóng lại (các căn). Biết như vầy…không còn nền tảng gây khổ: Do đã biết như vậy, vị ấy trở nên không còn nền tảng gây khổ (nirupadhi) vì đã đoạn trừ các nền tảng vốn là phiền não (kilesupadhi). Điều này cũng có nghĩa là, vị ấy không còn chấp thủ (nirupādāno) nữa. Có sự giải thoát nhờ diệt tận nền tảng của khổ: Vị ấy được giải thoát nhờ lấy Niết-bàn làm đối tượng (ārammaṇato vimutto), bởi vì Niết-bàn chính là trạng thái đoạn tận hoàn toàn các nền tảng gây khổ (upadhīnaṃ saṅkhayabhūte nibbāne). Trong nền tảng của khổ: tức là trong nền tảng của dục lạc . Sẽ đem thân đến gần: tức là sẽ để cho thân dính mắc vào (dục lạc). Điều này được nói ý là: Bậc Lậu Tận, người đã được giải thoát nhờ lấy Niết-bàn (nơi đoạn tận tham ái) làm đối tượng, mà lại có thể đem thân đến gần hoặc khởi lên tâm ý để hưởng thụ năm dục lạc — trường hợp này không thể xảy ra (netaṃ ṭhānaṃ vijjati).
Từ còn lại ở các câu đều đơn giản.
Giải Thích Kinh Sunakkhatta Kết Thúc.