Kinh số 01 – Giải Thích Kinh Pháp Môn Căn Bản

(Mūlapariyāyasuttavaṇṇanā)

Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Pháp Môn Căn Bản

Mūlapariyāyasuttavaṇṇanā

Giải Thích Kinh Pháp Môn Căn Bản

 

Giải Thích Evaṃ me sutaṃ

Giải Thích Từ Như Vầy – Evaṃ

  1. Yaṃ panetaṃ “evaṃ me sutan”tiādikaṃ nidānaṃ. Tattha evanti nipātapadaṃ. Metiādīni nāmapadāni. Ukkaṭṭhāyaṃ viharatīti ettha vīti upasaggapadaṃ, haratīti ākhyātapadanti iminā tāva nayena padavibhāgo veditabbo.

[1] Ở đây lời này ‘Evaṃ me sutaṃ [tôi đã nghe như vầy]’v.v, là lời mở đầu. Ở đó, evaṃ là phân từ. Me là danh từ. Ở đây, ukkaṭṭhāyaṃ viharati [sống ở ukkaṭṭhā]: bậc trí nên biết phân tích theo cách thức này trước, từ ‘vi’ là tiền tố, harati là động từ.

Atthato pana evaṃ-saddo tāva upamūpadesa-sampahaṃsana-garahaṇa vacanasampaṭiggahākāra-nidassanāvadhāraṇādi anekatthappabhedo. Tathāhesa — “evaṃ jātena maccena, kattabbaṃ kusalaṃ bahun”ti[1] evamādīsu upamāyaṃ āgato. “Evaṃ te abhikkamitabbaṃ, evaṃ te paṭikkamitabban”tiādīsu[2] upadese. “Evametaṃ bhagavā, evametaṃ sugatā”tiādīsu[3] sampahaṃsane. “Evamevaṃ panāyaṃ vasalī yasmiṃ vā tasmiṃ vā tassa muṇḍakassa samaṇakassa vaṇṇaṃ bhāsatī”tiādīsu[4] garahaṇe. “Evaṃ, bhanteti kho te bhikkhū bhagavato paccassosun”tiādīsu[5] vacanasampaṭiggahe. “Evaṃ byā kho ahaṃ, bhante, bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmī”tiādīsu[6] ākāre. “Ehi tvaṃ, māṇavaka, yena samaṇo Ānando tenupasaṅkama, upasaṅkamitvā mama vacanena samaṇaṃ ānandaṃ appābādhaṃ appātaṅkaṃ lahuṭṭhānaṃ balaṃ phāsuvihāraṃ puccha. “Subho māṇavo todeyyaputto bhavantaṃ ānandaṃ appābādhaṃ appātaṅkaṃ lahuṭṭhānaṃ balaṃ phāsuvihāraṃ pucchatī”ti. “Evañca vadehi, sādhu kira bhavaṃ ānando yena subhassa māṇavassa todeyyaputtassa nivesanaṃ, tenupasaṅkamatu anukampaṃ upādāyā”tiādīsu[7] nidassane. “Taṃ kiṃ maññatha, kālāmā, ime dhammā kusalā vā akusalā vāti? Akusalā, bhante. Sāvajjā vā anavajjā vāti? sāvajjā, bhante. Viññugarahitā vā viññuppasatthā vāti? Viññugarahitā, bhante. Samattā samādinnā ahitāya dukkhāya saṃvattanti no vā, kathaṃ vo ettha hotīti? Samattā, bhante, samādinnā ahitāya dukkhāya saṃvattanti, evaṃ no ettha hotī”tiādīsu[8] avadhāraṇe. Svāyamidha ākāra-nidassanāvadhāraṇesu daṭṭhabbo.

Theo ý nghĩa từ ‘evaṃ-như vầy’ có nhiều ý nghĩa khác biệt v.v, (1) sự so sánh, (2) sự khuyên bảo, (3) sự tán dương, (4) sự thóa mạ, (5) sự nhận lời, (6) trạng thái, (7) giới thiệu nội dung, (8) sự nhấn mạnh. Thật sự như vậy từ ‘evaṃ’ này đến trong ý nghĩa sự so sánh như trong câu như vầy – “tương tự như thế người đã được sanh ra trên đời nên tạo nhiều việc thiện.” Từ ‘evaṃ’ đến trong ý nghĩa sự khuyên bảo: “Ông nên bước tới như vậy, ông nên bước lui như vậy.” Từ ‘evaṃ’ đến trong ý nghĩa sự tán dương: “điều đó là như vậy bạch Thế Tôn, điều đó là như vậy bạch Thiện Thệ”. Từ ‘evaṃ’ đến trong ý nghĩa sự thóa mạ: “người nữ hạ tiện này đã nói lời tán thán Sa-môn trọc đầu ấy như vậy như vậy ở khắp mọi nơi.” Từ ‘evaṃ’ đến trong ý nghĩa sự nhận lời: “Thưa vâng, chư Tỳ khưu hoan hỷ thọ nhận lời nói của bạch Thế Tôn như vậy.” Từ ‘evaṃ’ đến trong ý nghĩa biểu thị trạng thái: “Này các đại đức, đúng như vậy. Theo như tôi hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng”. Từ ‘evaṃ’ đến trong ý nghĩa giới thiệu nội dung: “Nào, này cậu thanh niên trẻ, cậu hãy đi đến gặp Sa-môn Ānanda; sau khi đến hãy hỏi thăm Sa-môn Ānanda có được ít bệnh, ít mỏi mệt, có trạng thái nhẹ nhàng, có sự khỏe mạnh, sống thoải mái với lời của ta rằng: ‘Thanh niên Subha Todeyyaputta hỏi thăm ngài Ānanda có được ít bệnh, ít mỏi mệt, có trạng thái nhẹ nhàng, có sự khỏe mạnh, sống thoải mái.’ Và cậu hãy nói như vầy: ‘Thật tốt lành thay ngài Ānanda vì lòng thương xót hãy đi đến nơi cư ngụ của thanh niên Subha Todeyyaputta.” Từ ‘evaṃ’ đến trong ý nghĩa sự nhấn mạnh: “Các ông nghĩ thế nào, này các Kālāmā, các pháp này là thiện hay bất thiện? – Là bất thiện, bạch Thế Tôn. – Có lỗi lầm hay không có lỗi lầm?” – Có lỗi lầm, bạch Thế Tôn. – Bị người có trí quở trách hay không bị người có trí quở trách? – Bị người có trí quở trách, bạch Thế Tôn. –  Được thọ trì đầy đủ, có thể đưa đến sự bất hạnh, sự đau khổ hay không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào? – Được thọ trì đầy đủ, sẽ đưa đến sự bất hạnh, sự đau khổ, bạch Thế Tôn, như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy.” Nên hiểu từ ‘evaṃ’ này đây được sử dụng với ý nghĩa (6) biểu thị trạng thái, (7) giới thiệu nội dung, (8) sự nhấn mạnh.

Tattha ākāratthena evaṃ-saddena etamatthaṃ dīpeti, nānānayanipuṇaṃ-anekajjhāsayasamuṭṭhānaṃ, atthabyañjanasampannaṃ, vividhapāṭihāriyaṃ, dhammatthadesanāpaṭivedhagambhīraṃ, sabbasattānaṃ sakasakabhāsānurūpato sotapathamāgacchantaṃ tassa Bhagavato vacanaṃ sabbappakārena ko samattho viññātuṃ, sabbathāmena pana sotukāmataṃ janetvāpi ‘evaṃ me sutaṃ’ mayāpi ekenākārena sutanti.

Trong số 3 ý nghĩa đó với từ ‘evaṃ’ để biểu thị ý nghĩa ‘trạng thái – ākāra’ đại đức Ānanda muốn trình bày ý nghĩa này (rằng) – Lời dạy của đức Thế Tôn đó vi tế theo nhiều khía cạnh khác nhau, bắt nguồn từ vô số khuynh hướng của chúng sanh, đầy đủ về mặt ý nghĩa và văn cú, đề cập đến nhiều phương diện trừ diệt (chướng ngại), thâm sâu về pháp, ý nghĩa, sự thuyết giảng và sự giác ngộ truyền đến tai của mọi chúng sinh một cách thích hợp bằng ngôn ngữ của tất cả chúng sanh trên thế gian, những ai có thể hiểu được (ý nghĩa) ở mọi khía cạnh, những tôi thậm chí phải dốc hết toàn bộ sức lực khiến cho các chúng sanh khởi lên lòng mong muốn quyết tâm lắng nghe, thì Ngài nói rằng “tôi đã nghe như vầy, tôi đã nghe với trạng thái duy nhất như vậy”.

Nidassanatthena — “nāhaṃ sayambhū, na mayā idaṃ sacchikatan”ti attānaṃ parimocento — ‘evaṃ me sutaṃ’, ‘mayāpi evaṃ sutan’ti idāni vattabbaṃ sakalaṃ suttaṃ nidasseti.

Từ ‘evaṃ’ với ý nghĩa giới thiệu nội dung – Nidassana: Đại đức Ānanda trong khi giải thoát khỏi “cái tôi” của mình rằng “tôi không phải là người tạo ra những bài kinh, những bài kinh này tôi không thực hiện”, rồi Ngài giới thiệu toàn bộ bài kinh nên được thuật lại vào lúc này bằng câu ‘như vầy tôi nghe’, ‘chính tôi đã được nghe là như vầy’.

Avadhāraṇatthena “Etadaggaṃ, bhikkhave, mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ bahussutānaṃ yadidaṃ Ānando, satimantānaṃ, gatimantānaṃ, dhitimantānaṃ, upaṭṭhākānaṃ yadidaṃ ānando”ti[9] evaṃ bhagavatā, “āyasmā ānando atthakusalo dhammakusalo byañjanakusalo niruttikusalo pubbāparakusalo”ti[10] evaṃ dhammasenāpatinā ca pasatthabhāvānurūpaṃ attano dhāraṇabalaṃ dassento sattānaṃ sotukāmataṃ janeti “evaṃ me sutaṃ, tañca kho atthato vā byañjanato vā anūnamanadhikaṃ, evameva, na aññathā daṭṭhabban”ti.

Từ ‘evaṃ’ với ý nghĩa sự nhấn mạnh – Avadhāraṇa: Đại đức Ānanda đã cho thấy năng lực ghi nhớ của mình xứng đáng được khen ngợi (điều đó) đã được Đức Thế Tôn khen ngợi như vầy: “Này các Tỳ khưu, trong số các Tỳ khưu Thinh văn đệ tử của ta, thì đây là người đứng đầu trong số những vị đa văn – đó là Ānanda, người đứng đầu trong số những vị đầy đủ cử chỉ chân chánh, trong số những vị đầy đủ ức niệm, trong số những vị đầy đủ tính kiên trì, trong số những vị thị giả – đó là Ānanda”, và vị Tướng Quân Chánh Pháp cũng khen ngợi như thế: “Đại đức Ānanda thiện xảo về ý nghĩa, thiện xảo về pháp, thiện xảo về văn cú, thiện xảo về địa phương ngữ, thiện xảo về trình tự lời nói trước sau”. Đồng thời Ngài khiến cho tất cả chúng sanh trên thế gian khởi lên sự mong muốn được lắng nghe bằng câu nói “tôi đã nghe như vầy, và những gì tôi đã được nghe không hơn không kém (không hề thiếu sót) về mặt ý nghĩa, về mặt văn cú, là hoàn toàn như thế, không nên hiểu theo cách khác”.

Giải Thích Từ Tôi – Me

Me-saddo tīsu atthesu dissati. Tathā hissa — “gāthābhigītaṃ me abhojaneyyan”tiādīsu[11] mayāti attho. “Sādhu me, bhante, bhagavā saṅkhittena dhammaṃ desetū”tiādīsu[12] mayhanti attho. “Dhammadāyādā me, bhikkhave, bhavathā”tiādīsu[13] mamāti attho. Idha pana mayā sutanti ca, mama sutanti ca atthadvaye yujjati.

 Từ ‘tôi – me’ sử dụng trong 3 ý nghĩa. Thật vậy, từ ‘me’ đồng nghĩa với ‘mayā’ như trong câu: “Vật nhận được sau khi ngâm nga kệ ngôn, ta không nên thọ dụng”, từ ‘me’ đồng nghĩa với ‘mayhaṃ – đến tôi’ như trong câu: “Lành thay! bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn hãy thuyết pháp vắn tắt đến con”. Từ ‘me’ đồng nghĩa với ‘mama – của tôi’ như trong câu: “Này các Tỳ khưu, các ông hãy là người thừa tự Pháp của Ta”. Nhưng trong bài kinh này từ ‘me-tôi’ nên được sử dụng với 2 ý nghĩa là ‘mayā sutaṃ [tôi đã được nghe], và mama sutaṃ [việc lắng nghe của tôi].

Giải Thích Từ Sutaṃ – Đã Nghe

Sutanti ayaṃ suta-saddo saupasaggo ca anupasaggo ca — gamana vissuta kilinna upacitānuyoga sotaviññeyya sotadvārānusāra viññātādianekatthappabhedo. Tathā hissa “senāya pasuto”tiādīsu gacchantoti attho. “Sutadhammassa passato”tiādīsu[14] vissutadhammassāti attho. “Avassutā avassutassā”tiādīsu[15] kilinnākilinnassāti attho. “Tumhehi puññaṃ pasutaṃ anappakan”tiādīsu[16] upacitanti attho. “Ye jhānapasutā dhīrā”tiādīsu[17] jhānānuyuttāti attho. ‘Diṭṭhaṃ sutaṃ mutan’tiādīsu[18] sotaviññeyyanti attho. “Sutadharo sutasannicayo”tiādīsu[19] sotadvārānusāraviññātadharoti attho. Idha panassa sotadvārānusārena ‘upadhāritan’ti vā ‘upadhāraṇan’ti vāti attho. Me-saddassa hi ‘mayā’ti atthe sati ‘evaṃ mayā sutaṃ’ sotadvārānusārena upadhāritanti yujjati. ‘Mamā’ti atthe sati “evaṃ mama sutaṃ sotadvārānusārena upadhāraṇan”ti yujjati.

 Từ ‘suta – đã nghe’ có tiếp đầu ngữ và không có tiếp đầu ngữ phân chia được nhiều loại  chẳng hạn như (1) đang đi, (2) xuất hiện, (3) nhiễm dục vọng, (4) tích lũy, (5) ra sức nỗ lực, (6) cảnh thanh được nhận biết bằng nhĩ thức, (7) nhận biết thuận theo nhĩ môn. Thật vậy, từ ‘suta’ có ý nghĩa ‘đi’: “Quân lính đang đi”. Có ý nghĩa ‘xuất hiện’: “Vị có Pháp đã xuất hiện, vị đang thấy.” Có ý nghĩa ‘nhiễm dục vọng’: “Vị Tỳ khưu ni nhiễm dục vọng đã ưng thuận việc xúc chạm thân thể của người nam nhiễm dục vọng.” Có ý nghĩa ‘tích lũy’: “Phước báu được tạo ra bởi quý vị không phải là ít.” Có ý nghĩa ‘ra sức nỗ lực’: “người sáng trí nào chuyên chú tham thiền”, (tức là thường xuyên gắn bó trong thiền). Có ý nghĩa ‘cảnh thanh được nhận biết bằng nhĩ thức’: “Cảnh sắc được nhận biết bằng mắt, cảnh thanh được nhận biết bằng tai, các đối tượng được cảm nhận (tỷ, thiệt, thân)”, (tức là cảnh thành được nhận biết bằng nhĩ thức). Có ý nghĩa ‘nhận biết thuận theo nhĩ môn’: “Thọ trì những điều đã nghe, tích lũy những điều đã nghe”, (tức là Pháp được nhận biết thuận theo nhĩ môn). Nhưng trong bài kinh này từ ‘suta-đã nghe’ có nghĩa là ghi nhớ hoặc sự ghi nhớ bằng nhĩ môn. Từ ‘me-tôi’ đồng nghĩa với ‘mayā’ liên kết ý nghĩa như vầy “tôi đã được nghe như vầy” tức là ghi nhớ thuận theo nhĩ môn của tôi như vậy. Khi có ý nghĩa là ‘mama’ cũng liên kết ý nghĩa như vầy “việc lắng nghe của tôi là sự ghi nhớ thuận theo nhĩ môn của tôi như vậy”.

Giải Thích ‘Evaṃ me sutaṃ – Tôi đã nghe như vầy’

Evametesu tīsu padesu evanti sotaviññāṇādiviññāṇakiccanidassanaṃ. Meti vuttaviññāṇasamaṅgipuggalanidassanaṃ. Sutanti assavanabhāvapaṭikkhepato anūnādhikāviparītaggahaṇanidassanaṃ. Tathā evanti tassā sotadvārānusārena pavattāya viññāṇavīthiyā nānappakārena ārammaṇe pavattibhāvappakāsanaṃ. meti attappakāsanaṃ. Sutanti dhammappakāsanaṃ. Ayañhettha saṅkhepo — “nānappakārena ārammaṇe pavattāya viññāṇavīthiyā mayā na aññaṃ kataṃ, idaṃ pana kataṃ, ayaṃ dhammo suto”ti.

Trong cả 3 câu đã được trình bày thì ‘evaṃ – như vầy’ diễn giải phận sự của thức có Nhĩ Thức v.v. ‘Me – tôi’ biểu lộ cá nhân có sự toàn hảo về Thức như đã đề cập. ‘Sutaṃ – đã nghe’ biểu lộ sự tiếp nhận (ý nghĩa) không thiếu sót và không sai lệch vì phủ nhận tình trạng không thể nghe được. Cũng vậy ‘evaṃ – như vầy’ tuyên bố tính chất được vận hành trong các đối tượng với nhiều hình thức khác nhau thuận theo lộ trình của Thức diễn tiến thuận theo Nhĩ Môn ấy. ‘Me – tôi’ là từ tuyên bố bản thân. ‘Sutaṃ – đã nghe’ là từ tuyên bố pháp. Cũng trong Pāḷī này có ý nghĩa vắn tắt như vầy: – “Tôi đã không làm chuyện khác, nhưng tôi đã thực hiện việc này, tức là đã lắng nghe pháp này thuận theo lộ trình của Thức diễn tiến nơi đối tượng bằng nhiều hình thức khác nhau”.

Tathā evanti niddisitabbadhammappakāsanaṃ. Meti puggalappakāsanaṃ. Sutanti puggalakiccappakāsanaṃ. Idaṃ vuttaṃ hoti – “Yaṃ suttaṃ niddisissāmi, taṃ mayā evaṃ sutan”ti.

Trong cách đó, ‘evaṃ – như vầy’ là từ tuyên bố pháp nên được diễn giải. ‘Me – tôi’ từ tuyên bố đến cá nhân. ‘Sutaṃ – đã nghe’ là từ tuyên bố đến phận sự của cá nhân. Ở đây được nói là – “Tôi sẽ diễn giải bài kinh nào, thì bài kinh ấy tôi đã được nghe như vậy.”

Tathā evanti yassa cittasantānassa nānākārappavattiyā nānatthabyañjanaggahaṇaṃ hoti, tassa nānākāraniddeso. Evanti hi ayamākārapaññatti. Meti kattuniddeso. sutanti visayaniddeso. Ettāvatā nānākārappavattena cittasantānena taṃ samaṅgino kattu visayaggahaṇasanniṭṭhānaṃ kataṃ hoti.

Cũng thế ấy, ‘evaṃ – như vầy’ giải thích các biểu hiện trạng thái khác biệt sự liên tục của tâm là chủ thể tiếp nhận ý nghĩa và văn cú riêng biệt nhờ sự vận hành của nhiều trạng thái khác nhau. Thật vậy, ‘evaṃ – như vầy’ này là việc chế định trạng thái. ‘Me – tôi’ là từ giải thích đến người thực hiện. ‘Sutaṃ – đã nghe’ là từ diễn giải đến đối tượng. Chỉ chừng ấy được xem là dòng chảy tâm thức được vận hành theo nhiều phương diện khác nhau, thực hiện việc chấp nhận đối tượng của người thực hành có sự trọn vẹn nhờ vào dòng chảy của tâm đó.

Athavā evanti puggalakiccaniddeso. Sutanti viññāṇakiccaniddeso. Meti ubhayakiccayuttapuggalaniddeso. Ayaṃ panettha saṅkhepo, “mayā savanakiccaviññāṇasamaṅginā puggalena viññāṇavasena laddhasavanakiccavohārena sutan”ti.

Hoặc là ‘evaṃ – như vầy’ là từ chỉ phận sự của cá nhân. ‘Sutaṃ – đã nghe’ là từ chỉ đến phận sự của Thức. ‘Me – tôi’ là từ chỉ đến cá nhân liên kết đến cả hai phận sự. Hơn nữa cũng trong Pāḷī này có ý nghĩa vắn tắt như sau: “Tôi là hạng người phối hợp với Nhĩ Thức đã được nghe bằng ngôn ngữ chế định [vohāra] thông qua phận sự nghe [savanakicca] nhờ vào mãnh lực của Thức.

Tattha evanti ca meti ca saccikaṭṭhaparamatthavasena[20] avijjamānapaññatti. Kiñhettha taṃ paramatthato atthi, yaṃ evanti vā meti vā niddesaṃ labhetha? Sutanti vijjamānapaññatti. Yañhi taṃ ettha sotena upaladdhaṃ, taṃ paramatthato vijjamānanti.

Ở đây, ‘evaṃ – như vầy’ và ‘me – tôi’ là phi danh chơn chế định do tác động của bản chất thật sự [saccikaṭṭha] và bản chất tuyệt đối [paramattha] do trong Pāḷī này điều cần được giải nghĩa: ‘evaṃ – như vầy’ hay ‘me – tôi’ đó – nói theo bản thể tuyệt đối thì tồn tại như thế nào? ‘Sutaṃ – đã nghe’ là danh chơn chế định do đối tượng đạt được thông qua lộ Nhĩ, trong câu này đây nói đến bản thể tuyệt đối có tồn tại.

Tathā ‘evan’ti ca, meti ca, taṃ taṃ upādāya vattabbato upādāpaññatti. ‘Sutan’ti diṭṭhādīni upanidhāya vattabbato upanidhāpaññatti. Ettha ca evanti vacanena asammohaṃ dīpeti. na hi sammūḷho nānappakārapaṭivedhasamattho hoti. ‘Sutan’ti vacanena sutassa asammosaṃ dīpeti. Yassa hi sutaṃ sammuṭṭhaṃ hoti, na so kālantarena mayā sutanti paṭijānāti. Iccassa asammohena paññāsiddhi, asammosena pana satisiddhi. Tattha paññāpubbaṅgamāya satiyā byañjanāvadhāraṇasamatthatā, satipubbaṅgamāya paññāya atthapaṭivedhasamatthatā. tadubhayasamatthatāyogena atthabyañjanasampannassa dhammakosassa anupālanasamatthato dhammabhaṇḍāgārikattasiddhi.

Cũng thế ấy từ ‘evaṃ – như vầy’ và ‘me – tôi’ là dựa vào chế định [upādāpaññatti] do muốn đề cập đến đối tượng đó. ‘Sutaṃ – đã nghe’ là sự so sánh chế định [upanidhāpaññatti] do dẫn chứng đến đối tượng gồm có đối tượng đã nhìn thấy rồi v.v. Cũng trong Pāḷī này ‘evaṃ – như vầy’ ngài Ānanda diễn đạt sự không mê mờ, bởi vì người mê mờ thì không có khả năng thấu triệt được mọi khía cạnh sai biệt. ‘Sutaṃ – đã nghe’ ngài Ānanda diễn đạt sự không quên lãng lời đã được nghe. Bởi người không nhớ đến lời nói đã được nghe thì sau một thời gian (sẽ) không biết rõ rằng ‘tôi đã nghe’. Với trạng thái như vậy ngài Ānanda có sự thành tựu về trí tuệ với sự không mê mờ và có sự thành tựu về niệm với sự không quên lãng. Ở đây, Niệm có Tuệ dẫn dầu thì có khả năng ngăn chặn (ý nghĩa khác) bằng văn tự, Tuệ có Niệm dẫn đầu thì có khả năng thấu triệt bằng ý nghĩa. Với cả hai khả năng đó đại đức Ānanda thành tựu địa vị ‘bậc gìn giữ kho tàng Pháp Bảo’ bởi vì ngài có khả năng gìn giữ được kho tàng Giáo Pháp một cách trọn vẹn về ý nghĩa và văn tự.

Aparo nayo, evanti vacanena yoniso manasikāraṃ dīpeti. Ayoniso manasikaroto hi nānappakārapaṭivedhābhāvato. Sutanti vacanena avikkhepaṃ dīpeti, vikkhittacittassa savanābhāvato. Tathā hi vikkhittacitto puggalo sabbasampattiyā vuccamānopi “na mayā sutaṃ, puna bhaṇathā”ti bhaṇati. Yoniso manasikārena cettha attasammāpaṇidhiṃ pubbe ca katapuññataṃ sādheti, sammā appaṇihitattassa pubbe akatapuññassa vā tadabhāvato. avikkhepena saddhammassavanaṃ sappurisūpanissayañca sādheti. Na hi vikkhittacitto sotuṃ sakkoti, na ca sappurise anupassayamānassa savanaṃ atthīti.

Nói cách khác, ‘evaṃ – như vầy’ đại đức Ānanda diễn đạt với sự tác ý đúng đường lối. Bởi vì sự tác ý không đúng đường lối không thể thấu triệt được mọi khía cạnh sai biệt. ‘Sutaṃ – đã nghe’ đại đức Ānanda diễn đạt sự không phóng dật, bởi vì người có tâm phóng dật không thể tập trung lắng nghe. Thật vậy, hạng người có tâm phóng dật dù cho được nói trọn vẹn tất cả cũng vẫn nói rằng: “Tôi không được nghe, xin hãy nhắc lại”. Và ở đây, ngài Ānanda thành tựu việc đặt mình theo lẽ chánh và đã làm việc phước thiện trong quá khứ do sự tác ý đúng đường lối, bởi vì người không đặt mình theo lẽ chánh hoặc không từng làm việc phước thiện trong quá khứ sẽ không có sự tác ý đúng đường lối. Ngài thành tựu việc lắng nghe Chánh Pháp và việc nương tựa bậc Đại Nhân với sự không phóng dật, bởi vì người có tâm phóng dật không thể lắng tập trung lắng nghe và người không nương tựa bậc Đại Nhân thì cũng không được lắng nghe.

Aparo nayo, yasmā evanti yassa cittasantānassa nānākārappavattiyā nānatthabyañjanaggahaṇaṃ hoti, tassa nānākāraniddesoti vuttaṃ, so ca evaṃ bhaddako ākāro na sammāappaṇihitattano pubbe akatapuññassa vā hoti, tasmā evanti iminā bhaddakenākārena pacchimacakkadvayasampattimattano dīpeti. Sutanti savanayogena purimacakkadvayasampattiṃ. Na hi appatirūpadese vasato sappurisūpanissayavirahitassa vā savanaṃ atthi. Iccassa pacchimacakkadvayasiddhiyā āsayasuddhisiddhā hoti, purimacakkadvayasiddhiyā payogasuddhi, tāya ca āsayasuddhiyā adhigamabyattisiddhi, payogasuddhiyā āgamabyattisiddhi. Iti payogāsayasuddhassa āgamādhigamasampannassa vacanaṃ aruṇuggaṃ viya sūriyassa udayato yoniso manasikāro viya ca kusalakammassa arahati bhagavato vacanassa pubbaṅgamaṃ bhavitunti ṭhāne nidānaṃ ṭhapento — “evaṃ me sutan”tiādimāha.

Cách khác nữa, bởi tôi đã nói rồi ‘evaṃ – như vầy’ diễn giải về biểu hiện trạng thái khác nhau của sự diễn tiến của tâm làm chủ thể tiếp nhận ý nghĩa và văn tự sai biệt nhờ vận hành thông qua trạng thái khác nhau và trạng thái phát triển như này đây, không có nơi hạng người không đặt mình theo lẽ chánh hoặc không từng tạo phước thiện trong quá khứ, vì thế ‘evaṃ – như vầy’ này đại đức Ānanda biểu lộ 2 điều sau cùng thuộc pháp tăng trưởng điều lợi ích[21] của bản thân với trạng thái tiến hóa này. ‘Sutaṃ – đã nghe’ ngài biểu lộ sự thành tựu là 2 điều đầu tiên thuộc pháp tăng trưởng điều lợi ích của bản thân nhờ liên kết việc nghe, bởi vì người sống ở trú xứ không thích hợp, hoặc xa rời việc nương nhờ bậc Chân nhân dĩ nhiên không được lắng nghe. Với cách thức như thế, sự thanh tịnh của khuynh hướng là điều thành tựu đối với ngài do sự thành tựu 2 điều sau cùng thuộc pháp tăng trưởng điều lợi ích, sự thanh tịnh của sự tinh tấn là điều thành tựu do sự thành tựu của 2 điều đầu tiên thuộc pháp tăng trưởng điều lợi ích, và với sự thành tựu của khuynh hướng đó là điều thành tựu sự thiện xảo trong sự thấu triệt, với sự thanh tịnh của sự tinh tấn là điều thành tựu sự thiện xảo trong Pháp Học. Với cách thức như thế lời nói của đại đức Ānanda có sự nỗ lực và khuynh hướng thanh tịnh thành tựu trọn vẹn với Pháp Học và sự thấu triệt, phù hợp là lời nói khởi đầu của kim ngôn đức Thế Tôn tương tự sự ló dạng của ánh bình minh là điểm khởi đầu của mặt trời đang mọc lên và cũng tương tự như sự tác ý đúng đường lối là điểm khởi đầu của thiện nghiệp, vì lý do đó ngài Ānanda khi thiết lập phần duyên khởi ở vị trí phù hợp đã nói lời bắt đầu như sau – “Tôi đã nghe như vầy”.

Aparo nayo, ‘evan’ti iminā nānappakārapaṭivedhadīpakena vacanena attano atthapaṭibhānapaṭisambhidāsampattisabbhāvaṃ dīpeti. ‘Sutan’ti iminā sotabbappabhedapaṭivedhadīpakena dhammaniruttipaṭisambhidāsampattisabbhāvaṃ. ‘Evan’ti ca idaṃ yoniso manasikāradīpakaṃ vacanaṃ bhāsamāno — “ete mayā dhammā manasānupekkhitā, diṭṭhiyā suppaṭividdhā”ti dīpeti. ‘Sutan’ti idaṃ savanayogadīpakaṃ vacanaṃ bhāsamāno — “bahū mayā dhammā sutā dhātā vacasā paricitā”ti dīpeti. Tadubhayenāpi atthabyañjanapāripūriṃ dīpento savane ādaraṃ janeti. atthabyañjanaparipuṇṇañhi dhammaṃ ādarena assuṇanto mahatā hitā paribāhiro hotīti, tasmā ādaraṃ janetvā sakkaccaṃ ayaṃ dhammo sotabboti.

Cách khác nữa, bằng lời nói biểu thị sự thấu triệt có nhiều phương diện khác nhau ‘evaṃ – như vầy’ này ngài Ānanda diễn giải đến thực tính của sự thành tựu là sự phân tích ý nghĩa và sự phân tích phép biện giải của bản thân. Với lời nói diễn đạt đến sự thấu triệt phần của pháp thích hợp lắng nghe rằng ‘Sutaṃ – đã nghe’ này ngài Ānanda diễn giải đến thực tính của sự thành tựu là sự phân tích pháp và sự phân tích ngôn từ. Và ngài Ānanda trong khi nói lời nói diễn đạt sự tác ý đúng đường lối rằng ‘evaṃ – như vầy’ này để trình bày rằng: – “những pháp này được tôi suy xét bởi ý, khéo được thấu triệt bởi chánh kiến”. Trong khi nói lời nói diễn đạt liên kết với việc nghe rằng ‘Sutaṃ – đã nghe’ này để trình bày rằng: – “các Pháp là nhiều, tôi đã được nghe, được ghi nhớ, được thông thạo.” Trong khi trình bày sự thành tựu trọn vẹn ý nghĩa và văn tự, thậm chí cả 2 từ đó khiến cho khởi lên sự yêu thích trong việc nghe, bởi vì người không lắng nghe pháp trọn vẹn về ý nghĩa và văn tự với sự yêu thích thì còn rất xa mới có được lợi ích to lớn, vì lý do đó thiện nam tử cần phải làm cho khởi lên sự yêu thích nghe Pháp này bằng sự cung kính.

“Evaṃ me sutan”ti iminā pana sakalena vacanena āyasmā Ānando Tathāgatappaveditaṃ dhammaṃ attano adahanto asappurisabhūmiṃ atikkamati. sāvakattaṃ paṭijānanto sappurisabhūmiṃ okkamati. Tathā asaddhammā cittaṃ vuṭṭhāpeti, saddhamme cittaṃ patiṭṭhāpeti. “kevalaṃ sutamevetaṃ mayā, tasseva bhagavato vacanan”ti dīpento attānaṃ parimoceti, satthāraṃ apadisati, jinavacanaṃ appeti, dhammanettiṃ patiṭṭhāpeti.

Hơn nữa, với toàn bộ lời này ‘tôi đã nghe như vậy’ này ngài Ānanda không thiết lập pháp đã được công bố bởi đức Như Lai vì bản thân, vượt khỏi địa vị bậc không Chân nhân để tuyên bố bản thể bậc Thánh Thinh văn tiến vào địa vị bậc Chân nhân. Cũng thế ấy, làm cho tâm thoát khỏi điều không liên quan đến Chánh Pháp, khi trình bày rằng: “Toàn bộ điều được nghe bởi tôi, chính những điều đó hoàn toàn được nói bởi đức Thế Tôn,” gọi là thoát khỏi bản thân, dẫn chứng bậc Ðạo sư cao thượng, làm cho lời nói của đấng Chiến Thắng đằm thắm, được thiết lập vững chắc lối dẫn vào Chánh Pháp.

Apica “evaṃ me sutan”ti attanā uppāditabhāvaṃ appaṭijānanto purimavacanaṃ vivaranto — “sammukhā paṭiggahitamidaṃ mayā tassa bhagavato catuvesārajjavisāradassa dasabaladharassa āsabhaṭṭhānaṭṭhāyino sīhanādanādino sabbasattuttamassa dhammissarassa dhammarājassa dhammādhipatino dhammadīpassa dhammasaraṇassa saddhammavaracakkavattino sammāsambuddhassa vacanaṃ, na ettha atthe vā dhamme vā pade vā byañjane vā kaṅkhā vā vimati vā kātabbā”ti sabbesaṃ devamanussānaṃ imasmiṃ dhamme assaddhiyaṃ vināseti, saddhāsampadaṃ uppādeti. Tenetaṃ vuccati —

 “Vināsayati assaddhaṃ, saddhaṃ vaḍḍheti sāsane.

Evaṃ me sutamiccevaṃ, vadaṃ gotamasāvako”ti.

Và hơn nữa ‘tôi đã nghe như vầy’ trưởng lão đã phá tan sự thiếu đức tin vào Giáo pháp này của tất cả chư thiên và nhân loại, làm cho sự thành tựu đầy đủ đức tin được sanh khởi (bằng cách) đã không tự thừa nhận bài Kinh đó được tạo ra bởi mình, và đã phơi bày việc nghe trước (rằng) bài Kinh này tôi đã được nghe từ đức Thế Tôn: – “Phật ngôn này tôi được nhận lãnh chủ yếu từ đức Thế Tôn, vị ấy tự tín với bốn vô sở úy, duy trì mười Như Lai lực, giữ vị trí Ngưu Vương, gầm lên tiếng gầm sư tử, tối thượng hơn tất cả chúng sanh, là bậc Pháp chủ, là bậc Pháp vương, tôn kính giáo pháp như bậc hướng dẫn, có Pháp là ngọn đèn, có Pháp là nơi nương tựa, là vị đã chuyển vận bánh xe Diệu Pháp cao quý, là vị tự mình giác ngộ chân chánh, trong Phật ngôn này bất cứ ai cũng không nên hoài nghi hay nghi ngờ về ý nghĩa, về pháp, về câu hoặc về văn tự. Vì thế, ngài đã nói kệ ngôn này –

“Bậc Thinh văn của Ngài Gotama nói như sau: tôi đã được nghe như vầy, khiến sự bất tín được tiêu diệt, làm cho đức tin trong Phật giáo được tăng trưởng.”

Giải Thích ‘Ekaṃ samayaṃ – Một thuở nọ’

Ekanti gaṇanaparicchedaniddeso. Samayanti paricchinnaniddeso. Ekaṃ samayanti aniyamitaparidīpanaṃ. Tattha samayasaddo —

“Samavāye khaṇe kāle, samūhe hetudiṭṭhisu.

Paṭilābhe pahāne ca, paṭivedhe ca dissati”.

Tathā hissa — “appevanāma svepi upasaṅkameyyāma kālañca samayañca upādāyā”ti evamādīsu[22] samavāyo attho. “Ekova kho bhikkhave, khaṇo ca samayo ca brahmacariyavāsāyā”tiādīsu[23] khaṇo. “Uṇhasamayo pariḷāhasamayo”tiādīsu[24] kālo. “mahāsamayo pavanasmin”tiādīsu[25] samūho. “Samayopi kho te, Bhaddāli, appaṭividdho ahosi, bhagavā kho sāvatthiyaṃ viharati, bhagavāpi maṃ jānissati, Bhaddāli nāma bhikkhu satthusāsane sikkhāya aparipūrakārī’ti. ayampi kho, te Bhaddāli, samayo appaṭividdho ahosī”tiādīsu[26] hetu. “Tena kho pana samayena Uggahamāno paribbājako Samaṇamuṇḍikāputto samayappavādake tindukācīre ekasālake mallikāya ārāme paṭivasatī”tiādīsu[27] diṭṭhi.

Ekaṃ’ diễn giải về việc xác định tính đếm. ‘Samayaṃ’ trình bày về thời gian được xác định.  ‘Ekaṃ samaya’ trình bày về thời gian không chắc chắn. Từ ‘Samayaṃ’ trong từ ‘Ekaṃ samayaṃ’ đó –

“Xuất hiện với ý nghĩa: Đầy đủ, thời khắc, thời gian, sự hội họp, nguyên nhân, quan điểm; sự đạt được, việc đoạn trừ và sự thấu triệt”.

Thật như thế từ samaya có ý nghĩa samavāyo [dịp] trong câu: đầy đủ trong câu: “Có lẽ vào ngày mai dựa vào thời gian (thích hợp) và đầy đủ (điều kiện) chúng tôi có thể đi đến”  (dī. ni. 1.447). Có nghĩa khaṇa [thời khắc]: “Này chư Tỳ khưu chỉ có một cơ hội, thời khắc (thuận tiện) này để sống đời sống Phạm hạnh” (a. ni. 8.29). Có nghĩa kāla [thời gian]:lúc trời nóng nực, lúc trời oi bức” (pāci. 358). Có nghĩa sự hội họp [samūho]: “đông đảo (các tỳ khưu) trong khu rừng lớn” (dī. ni. 2.332). Có nghĩa hetu [nguyên nhân]: “Này Bhaddāli, nguyên nhân Ngài không thấu triệt, đức Thế Tôn đang cư trú trong Thành Sāvatthī, đức Thế Tôn sẽ biết ta rằng tỳ khưu tên Bhaddali không thực hành trọn vẹn học giới trong giáo pháp bậc Đạo Sư, này Bhaddāli nguyên nhân này (là nguyên nhân) mà ông không thấu triệt (Pháp)” (ma. ni. 2.135). Có nghĩa diṭṭhi [quan điểm, cái thấy]: “Lúc bấy giờ, du sĩ Uggāhamāna là con trai của Samaṇamuṇḍikā, trú ở vườn hoa lài có một hội trường (được xây dựng) để thảo luận học thuyết, có hàng cây tinduka bao quanh (ma. ni. 2.260).”

“Diṭṭhe dhamme ca yo attho, yo cattho samparāyiko.

Atthābhisamayā dhīro, paṇḍitoti pavuccatī”ti.[28]

Ādīsu paṭilābho. “Sammā mānābhisamayā antamakāsi dukkhassā”tiādīsu[29] pahānaṃ. “dukkhassa pīḷanaṭṭho saṅkhataṭṭho santāpaṭṭho vipariṇāmaṭṭho abhisamayaṭṭho”tiādīsu[30] paṭivedho. idha panassa kālo attho. Tena saṃvacchara utu māsaḍḍhamāsa ratti diva pubbaṇha majjhanhika sāyanha  paṭhamamajjhimapacchimayāma muhuttādīsu kālappabhedabhūtesu samayesu ekaṃ samayanti dīpeti.

Có ý nghĩa đạt được: “Bậc hiền nhân được gọi là bậc sáng trí do đạt được lợi ích ở đời hiện tại và lợi ích ở đời vị lai”.

Có nghĩa đoạn trừ: “Đã thực hiện việc chấm dứt khổ nhờ sự dứt trừ ngã mạn một cách đúng đắn”. Có nghĩa thấu triệt: “Có ý nghĩa áp bức, có ý nghĩa tạo tác, có ý nghĩa nóng nảy thay đổi, có ý nghĩa chuyển biến của khổ là ý nghĩa về sự lãnh hội”. Nhưng ở đây từ ‘Samayaṃ’ ấy có ý nghĩa là ‘thời gian’. Vì thế trưởng lão Ānanda đã diễn giải rằng: ‘ekaṃ samayaṃ’ trong số các ‘samayaṃ’ được phân loại riêng biệt theo thời gian như sau – năm, mùa, tháng, nửa tháng, ban đêm, ban ngày, buổi sáng, buổi trưa, buổi chiều, canh đầu, canh giữa, canh cuối và chốc lát.

Tattha kiñcāpi etesu saṃvaccharādīsu samayesu yaṃ yaṃ suttaṃ yamhi yamhi saṃvacchare utumhi māse pakkhe rattibhāge divasabhāge vā vuttaṃ, sabbaṃ taṃ therassa suviditaṃ suvavatthāpitaṃ paññāya. Yasmā pana “evaṃ me sutaṃ asukasaṃvacchare asukautumhi asukamāse asukapakkhe asukarattibhāge asukadivasabhāge vā”ti evaṃ vutte na sakkā sukhena dhāretuṃ vā uddisituṃ vā uddisāpetuṃ vā, bahu ca vattabbaṃ hoti, tasmā ekeneva padena tamatthaṃ samodhānetvā “ekaṃ samayan”ti āha.

Ekaṃ samayaṃ’ trong số các ‘samayaṃ’ gồm có năm v.v, ở bất kỳ bài kinh nào được đức Thế Tôn thuyết giảng trong năm, trong mùa, trong tháng, trong nửa tháng, vào ban đêm, hoặc vào ban ngày, tất cả điều đó trưởng lão đã khéo biết, khéo được xác định bằng trí tuệ, mặc dầu vậy bởi khi Ngài nói rằng ‘tôi đã nghe như vầy vào năm đó, vào mùa đó, vào tháng đó, vào nửa tháng đó, vào đêm đó, hoặc vào ngày đó”. Bất cứ ai cũng không thể ghi nhớ hoặc trình bày, hoặc khiến cho người khác diễn đạt được một cách dễ dàng, hay vấn đề cần phải nói nhiều. Vì vậy, trưởng lão Ānanda đã tổng hợp lại ý nghĩa đó thành một câu duy nhất và đã nói rằng “một thuở nọ”.

Ye vā ime gabbhokkantisamayo, jātisamayo, saṃvegasamayo, abhinikkhamanasamayo, dukkarakārikasamayo, māravijayasamayo, abhisambodhisamayo diṭṭhadhammasukhavihārasamayo, desanāsamayo, parinibbānasamayoti, evamādayo bhagavato devamanussesu ativiya pakāsā anekakālappabhedā eva samayā. Tesu samayesu desanāsamayasaṅkhātaṃ ekaṃ samayanti dīpeti. Yo cāyaṃ ñāṇakaruṇākiccasamayesu karuṇākiccasamayo, attahitaparahitapaṭipattisamayesu parahitapaṭipat tisamayo, sannipatitānaṃ karaṇīyadvayasamayesu dhammikathāsamayo desanāpaṭipattisamayesu desanāsamayo, tesupi samayesu aññataraṃ samayaṃ sandhāya “ekaṃ samaya”nti āha.

Lại nữa, ngài Ānanda diễn giải rằng ‘samayaṃ’ của đức Thế Tôn được chia thành nhiều thời khác nhau được xuất hiện nhiều trong chúng Chư thiên và toàn thể nhân loại v.v, chằng hạn như vào lúc nhập mẫu thai, vào lúc hạ sanh, vào lúc khởi lên sự động tâm, vào lúc ngài ra đi theo hạnh xuất ly, vào lúc thực hiện hành động khó thực hành, vào lúc chiến thắng Ma Vương, vào lúc giác ngộ, vào lúc thọ hưởng lạc hiện tại, vào lúc thuyết giảng Giáo Pháp, vào lúc viên tịch Nibbāna, những thời nào trong số những thời ấy trưởng lão trình bày rằng “một thuở nọ” là vào lúc thuyết giảng Giáo Pháp.

Ye vā ime gabbhokkantisamayo, jātisamayo, saṃvegasamayo, abhinikkhamanasamayo, dukkarakārikasamayo, māravijayasamayo, abhisambodhisamayo diṭṭhadhammasukhavihārasamayo, desanāsamayo, parinibbānasamayoti, evamādayo bhagavato devamanussesu ativiya pakāsā anekakālappabhedā eva samayā. Tesu samayesu desanāsamayasaṅkhātaṃ ekaṃ samayanti dīpeti. Yo cāyaṃ ñāṇakaruṇākiccasamayesu karuṇākiccasamayo, attahitaparahitapaṭipattisamayesu parahitapaṭipattisamayo, sannipatitānaṃ karaṇīyadvayasamayesu dhammikathāsamayo desanāpaṭipattisamayesu desanāsamayo, tesupi samayesu aññataraṃ samayaṃ sandhāya “ekaṃ samaya”nti āha.

Lại nữa, ngài Ānanda diễn giải rằng ‘samayaṃ’ của đức Thế Tôn được chia thành nhiều thời khác nhau được xuất hiện nhiều trong chúng Chư thiên và toàn thể nhân loại v.v, chằng hạn như vào lúc nhập mẫu thai, vào lúc hạ sanh, vào lúc khởi lên sự động tâm, vào lúc ngài ra đi theo hạnh xuất ly, vào lúc thực hiện hành động khó thực hành, vào lúc chiến thắng Ma Vương, vào lúc giác ngộ, vào lúc thọ hưởng lạc hiện tại, vào lúc thuyết giảng Giáo Pháp, vào lúc viên tịch Nibbāna, trong số các thời nào trong số những thời ấy trưởng lão trình bày rằng “một thuở nọ” là vào lúc thuyết giảng Giáo Pháp. Và lại nữa, trong các thời phận sự của trí [ñāṇakicca, nhận biết bốn đế] và phận sự của tâm bi [karuṇākicca, giúp chúng sanh thoát khỏi khổ] đây là thời phận sự của tâm bi này. Trong tất cả thời thực hành để mang lại lợi ích cho mình và thực hành để mang lại lợi ích cho người, đây là thời thực hành vì lợi ích cho người, trong các thời thời có hai việc nên làm khi tụ hội lại, đây là thời gian trao đổi về Giáo Pháp, trong tất cả thời của việc thuyết pháp và thực hành, đây là thời gian thuyết pháp, trưởng lão Ānanda đã nói rằng: “một thuở nọ” như vậy, ám chỉ đến ‘thời gian’ nào đó trong tất cả những ‘thời gian’ ấy.

Kasmā panettha yathā Abhidhamme “yasmiṃ samaye kāmāvacaran”ti[31] ca, ito aññesu ca suttapadesu — “Yasmiṃ samaye, bhikkhave, bhikkhu vivicceva kāmehī”ti[32] ca bhummavacananiddeso kato, Vinaye ca — “Tena samayena buddho bhagavā”ti[33] karaṇavacanena, tathā akatvā “ekaṃ samayan”ti upayogavacananiddeso katoti? Tattha tathā idha ca aññathā atthasambhavato. Tattha hi abhidhamme ito aññesu suttapadesu ca adhikaraṇattho bhāvena bhāvalakkhaṇattho ca sambhavati. Adhikaraṇañhi kālattho, samūhattho ca samayo, tattha tattha vuttānaṃ phassādidhammānaṃ khaṇasamavāyahetusaṅkhātassa ca samayassa bhāvena tesaṃ bhāvo lakkhīyati, tasmā tadatthajotanatthaṃ tattha bhummavacananiddeso kato.

Hơn nữa, trong bài kinh này tại sao ngài không sử dụng hình thức giống như trong Vi Diệu Pháp được ngài diễn giải bằng Định Sở Cách [Sattamīvibhatti] – ‘Yasmiṃ samaye kāmāvacaraṃ = Khi nào tâm Dục giới… và ở kinh khác từ Vi Diệu Pháp này cũng giảng giải với hình thức Định Sở Cách [Sattamīvibhatti] như sau: ‘Yasmiṃ samaye, bhikkhave, bhikkhu vivicceva kāmehi = khi nào, này các Tỳ khưu, vị Tỳ khưu tách ly khỏi các dục’; Và trong Tạng Luật ngài sử dụng hình thức Sử Dụng Cách [Tatiyāvibhatti] – ‘Tena samayena buddho bhagavā = Một thời đức Phật Thế Tôn’ mà lại sử dụng hình thức Đối Cách [Dutiyāvibhatti] ‘Ekaṃ samayaṃ = một thuở nọ.’ Bởi vì trong Vi Diệu Pháp và Luật có ý nghĩa như thế, còn trong Kinh lại có ý nghĩa khác. Thật vậy, trong Vi Diệu Pháp và trong Kinh khác từ Vi Diệu Pháp này thành tựu ý nghĩa adhikaraṇa (1 loại vị trí cách, dịch là trong) và có ý nghĩa bhāvena bhāvalakkhaṇa (tuyệt đối vị trí). Bởi vì adhikaraṇasamaya có ý nghĩa là thời gian và samaya có nghĩa là sự gom họp lại, được thuyết trong Vi Diệu Pháp và Kinh khác ngài xác định theo tính chất samaya bao gồm ‘thời khắc, sự tổng hợp và nguyên nhân’ bản thể của các pháp có Xúc v.v, do đó, để làm sáng tỏ ý nghĩa đó ngài mới giải thích theo hình thức Định Sở Cách [Sattamīvibhatti].

Vinaye ca hetuattho karaṇattho ca sambhavati. yo hi so sikkhāpadapaññattisamayo sāriputtādīhipi dubbiññeyyo, tena samayena hetubhūtena karaṇabhūtena ca sikkhāpadāni paññāpayanto sikkhāpadapaññattihetuñca apekkhamāno bhagavā tattha tattha vihāsi, tasmā tadatthajotanatthaṃ tattha karaṇavacanena niddeso kato.

Còn ở trong Luật hoàn thành có ý nghĩa ‘nguyên nhân’ và có ý nghĩa ‘do, bởi’. Thật vậy, đây là thời gian chế định những học giới, ngay cả trưởng lão Sāriputta v.v, cũng khó có thể hiểu được, đức Thế Tôn khi chế định tất cả các học giới vào thời điểm đó theo nguyên nhân [hetubhūta] và nguyên do [karaṇabhūta] đó, và suy xét đến nguyên nhân của việc chế định các học giới thì ngài đã an trú tại nơi đó, do đó, để làm sáng tỏ ý nghĩa như đã trình bày đó ngài đã thực hiện giải thích theo Sử Dụng Cách [Tatiyavibhatti] ở Luật đó.

Idha pana aññasmiñca evaṃ jātike accantasaṃyogattho sambhavati. Yañhi samayaṃ Bhagavā imaṃ aññaṃ vā suttantaṃ desesi, accantameva taṃ samayaṃ karuṇāvihārena vihāsi, tasmā tadatthajotanatthaṃ idha upayogavacananiddeso katoti.

Tenetaṃ vuccati —

“Taṃ taṃ atthamapekkhitvā, bhummena karaṇena ca.

Aññatra samayo vutto, upayogena so idhā”ti.

Còn trong Kinh này và bài Kinh khác có nhân khởi sanh như vậy hoàn thành với ý nghĩa là chấm dứt và xuyên suốt. Thật vậy, đức Thế Tôn thuyết giảng bài Kinh này hay bài Kinh khác vào thời điểm nào, ngài đã an trú với sự an trú của tâm bi trong suốt thời gian ấy, vì thế để làm sáng tỏ ý nghĩa ấy như đã trình bày ngài thực hiện giải thích theo cách thứ 2 [Dutiyāvibhatti – Đối Cách] trong Kinh này.

Cho nên ngài đã nói lên kệ ngôn liên quan như sau –

“Sau khi suy xét về ý nghĩa đó ngài đã nói từ ‘samaya’ trong Tạng khác (trong Tạng Vi Diệu Pháp) sử dụng theo cách thứ 7 [Sattamīvibhatti – Định Sở Cách] và (trong Tạng Luật) sử dụng theo cách thứ 3 [Tatiyāvibhatti – Sử Dụng Cách], còn ở đây (trong Tạng Kinh) từ samaya được nói theo cách thứ 2 [Dutiyāvibhatti – Đối Cách].

Porāṇā pana vaṇṇayanti — “tasmiṃ samaye”ti vā, “tena samayenā”ti vā, “ekaṃ samayan”ti vā, abhilāpamattabhedo esa, sabbattha bhummamevatthoti. Tasmā “ekaṃ samayan”ti vuttepi “ekasmiṃ samaye”ti attho veditabbo.

Nhưng một số tài liệu cổ giải thích rằng từ samaya chỉ khác biệt về ngôn từ sử dụng – “tasmiṃ samaye”, hoặc “tena samayenā”, hoặc “ekaṃ samayaṃ” mà thôi, cả 3 Tạng đều có ý nghĩa được sử dụng theo cách thứ 7 [(Sattamīvibhatti – Định Sở Cách), cho phép dịch là vào thời gian đó]. Vì thế, mặc dù ngài nói rằng ‘ekaṃ samayaṃ’ cũng nên hiểu rằng ‘ekasmiṃ samaye – Một thuở nọ’.

Giải Thích ‘Bhagavā – Đức Thế Tôn’

Bhagavāti garu. Garuñhi loke “bhagavā”ti vadanti. Ayañca sabbaguṇavisiṭṭhatāya sabbasattānaṃ garu, tasmā “bhagavā”ti veditabbo. Porāṇehipi vuttaṃ —

“Bhagavāti vacanaṃ seṭṭhaṃ, bhagavāti vacanamuttamaṃ.

Garu gāravayutto so, bhagavā tena vuccatī”ti.

Apica —

“Bhāgyavā bhaggavā yutto, bhagehi ca vibhattavā.

Bhattavā vantagamano, bhavesu bhagavā tato”ti. —

Imissā gāthāya vasenassa padassa vitthārato attho veditabbo. So ca visuddhimagge buddhānussatiniddese vuttoyeva.

Thế Tôn là thầy. Bởi vì các bậc trí gọi ‘thầy’ là ‘Thế Tôn’ ở trong đời này. Và đức Thế Tôn này cũng là thầy của tất cả chúng sanh, do là vị tối thượng nhất với tất cả mọi ân đức, do đó được gọi là ‘Thế Tôn’. Thậm chí cả các bậc tiền bối cũng nói rằng –

Thế Tôn là lời nói cao cả, Thế Tôn là lời nói cao thượng, vị ấy xứng đáng với sự cung kính ở địa vị là ‘thầy’; Do vậy, ngài được gọi là Thế Tôn”.

Và lại nữa –

“Thế Tôn là may mắn, bẻ gãy phiền não, có liên hệ với sự may mắn, và là người sở hữu những gì đã được phân tích, làm bạn với pháp, và đã nôn ra phiền não là pháp ô nhiễm vận hành trong các Hữu-Bhava”.

Từ ‘Thế Tôn’ này có ý nghĩa nên hiểu một cách chi tiết với mãnh lực của kệ ngôn này và ý nghĩa ấy tôi đã nói ở phần diễn giải tùy niệm Phật trong bộ Thanh Tịnh Đạo.

Giải Thích ‘Ekaṃ samayaṃ Bhagavā’

Ettāvatā cettha evaṃ me sutanti vacanena yathāsutaṃ dhammaṃ dassento bhagavato dhammakāyaṃ paccakkhaṃ karoti. Tena “nayidaṃ atikkantasatthukaṃ pāvacanaṃ, ayaṃ vo satthā”ti satthu adassanena ukkaṇṭhitaṃ janaṃ samassāseti.

Và ở đây chỉ bấy nhiêu bằng lời nói sau ‘tôi đã nghe như vầy’ đại đức Ānanda trong khi thuyết Pháp như đã được nghe, làm cho Pháp thân [Dhammakāya] của đức Thế Tôn được hiển lộ. Với những lời ấy ngài đã làm cho đại chúng, những người bất mãn do không nhìn thấy bậc Đạo Sư được nhẹ nhõm rằng: “Lời dạy của đức Phật là Pháp và Luật này (không phải) có bậc Ðạo Sư đã viên tịch mà chính Pháp thân này là bậc Đạo Sư của các ông”.

Ekaṃ samayaṃ bhagavāti vacanena tasmiṃ samaye bhagavato avijjamānabhāvaṃ dassento rūpakāyaparinibbānaṃ sādheti. Tena “evaṃvidhassa nāma ariyadhammassa desako dasabaladharo vajirasaṅghāta samānakāyo sopi bhagavā parinibbuto, kena aññena jīvite āsā janetabbā”ti jīvitamadamattaṃ janaṃ saṃvejeti, saddhamme cassa ussāhaṃ janeti.

Với lời nói “một thời đức Thế Tôn” ngài Ānanda khi bày tỏ rằng đức Thế Tôn không có mặt vào thời điểm ấy, coi như là tuyên bố việc viên tịch Nibbāna của Sắc Thân. Vì lý do ấy ngài Ānanda làm cho đại chúng, những người đam mê vào sự sống khởi lên sự động tâm và làm cho sanh khởi sự nỗ lực trong Chánh Pháp đối với đại chúng ấy (rằng) – “Ngay cả đức Thế Tôn, vị ấy có sắc thân tựa như khối kim cương, nắm giữ mười Như Lai lực, tuyên thuyết pháp các bậc Thánh có tên như vậy, (nhưng) ngài vẫn phải viên tịch Nibbāna, người khác ai có thể tạo ra sự hy vọng trong sự sống khiến nó sanh khởi được”.

Evanti ca bhaṇanto desanāsampattiṃ niddisati. Me sutanti sāvakasampattiṃ. ekaṃ samayanti kālasampattiṃ. Bhagavāti desakasampattiṃ.

Và trưởng lão khi nói rằng ‘như vầy’ xem như diễn giải đến sự thành tựu thuyết giảng. ‘Tôi đã nghe’ – sự thành tựu của vị Thánh đệ tử. ‘Một thuở nọ’ – sự thành tựu về thời gian. ‘Thế Tôn’ – sự thành tựu của người thuyết pháp.

Nguồn Gốc Của Từ Ukkaṭṭhāyā

Ukkaṭṭhāyaṃ viharatīti ettha ukkāti dīpikā, tañca nagaraṃ “maṅgaladivaso sukhaṇo sunakkhattaṃ mā atikkamī”ti rattimpi ukkāsu ṭhitāsu māpitattā ukkaṭṭhāti vuccati. daṇḍadīpikāsu jāletvā dhārīyamānāsu māpitattāti vuttaṃ hoti, tassaṃ ukkaṭṭhāyaṃ. samīpatthe cetaṃ bhummavacanaṃ. Viharatīti avisesena iriyāpathadibbabrahmāriyavihāresu aññataravihārasamaṅgiparidīpanametaṃ. idha pana ṭhānagamananisinnasayanappabhedesu riyāpathesu aññatarairiyāpathasamāyogaparidīpanaṃ. tena ṭhitopi gacchantopi nisinnopi sayānopi bhagavā viharaticceva veditabbo. so hi bhagavā ekaṃ iriyāpathabādhanaṃ aññena iriyāpathena vicchinditvā aparipatantaṃ attabhāvaṃ harati pavatteti, tasmā viharatīti vuccati.

Ukkā trong từ ukkaṭṭhāyaṃ viharatī [trú tại ukkaṭṭhā] này – muốn đề cập đến ngọn đuốc và thành phố đó được gọi là ukkaṭṭhā, do người dân thành phố đã cùng nhau giơ cao ngọn đuốc được làm vào ban đêm với hy vọng rằng (đây là) ngày lành, thời khắc may mắn, thời tiết tốt lành đừng để (thời khắc này) trôi qua. Ngài giải thích rằng: vì thành phố đó, người dân trong thành sau khi thắp lên ngọn đuốc có ánh sáng đã được làm cố định tại vị trí ở gần thành tên là Ukkaṭṭhā đó. Ukkaṭṭhāyaṃ là Định Sở Cách [sattamīvibhatti] với ý nghĩa gần. Viharati này là từ diễn đạt việc hội tụ đầy đủ của việc an trú, sống nhờ vào việc thay đổi các oai nghi, sống như chư Thiên, sống như Phạm thiên và sống như bậc Thánh nhân, từng cách sống không có sự khác biệt. Nhưng trong trường hợp này là trình bày liên quan đến một trong bốn oai nghi là đi, đứng, ngồi và nằm. Do đức Thế Tôn đang đứng, hay đang đi, hay đang ngồi, hay đang nằm nên hiểu rằng – là đang an trú với tất cả các oai nghi. Thật vậy, đức Thế Tôn, vị ấy đã ngăn chặn sự đau nhức từ một oai nghi với một oai nghi, là sắc thân được duy trì không cho suy giảm, cho nên Ngài gọi là an trú.

Nguồn Gốc Rừng Subhagavana

Subhagavaneti ettha subhagattā subhagaṃ, sundarasirikattā sundarakāmattā cāti vuttaṃ hoti. tassa hi vanassa sirisampattiyā manussā annapānādīni ādāya divasaṃ tattheva chaṇasamajjaussave karontā bhogasukhaṃ anubhonti, sundarasundare cettha kāme patthenti “puttaṃ labhāma, dhītaraṃ labhāmā”ti, tesaṃ taṃ tatheva hoti, evaṃ taṃ sundarasirikattā sundarakāmattā ca subhagaṃ. Apica bahujanakantatāyapi subhagaṃ. vanayatīti vanaṃ, attasampadāya sattānaṃ bhattiṃ kāreti, attani sinehaṃ uppādetīti attho. vanute iti vā vanaṃ, nānāvidhakusuma-gandhasammodamattakokilādivihaṅgamābhirutehi mandamālutacalitarukkhasākhāviṭapapallavapalāsehi ca “etha maṃ paribhuñjathā”ti sabbapāṇino yācati viyāti attho. subhagañca taṃ vanañcāti subhagavanaṃ. Tasmiṃ subhagavane. Vanañca nāma ropimaṃ, sayaṃjātanti duvidhaṃ. tattha veḷuvanajetavanādīni ropimāni. andhavanamahāvanāñjanavanādīni sayaṃ jātāni. idampi sayaṃjātanti veditabbaṃ.

Ở đây, khu rừng tên là Subhaga bởi vẻ đẹp, (tức là) sự tuyệt mỹ và vì có những thứ có thể được ước muốn tốt đẹp. Cũng bởi vẻ đẹp của khu rừng ấy, mọi người cùng nhau mang thức ăn và nước uống v.v, ăn uống, du ngoạn, vui chơi ở khu rừng ấy suốt cả ngày, và ước muốn những thứ mà họ mong cầu ở tại nơi đó, cầu xin cho tôi được con trai, con gái, và những thứ mong cầu đó đều được toại nguyện, khu rừng đó được gọi là subhaga bởi sự tuyệt mỹ và có những thứ có thể được mong cầu tốt đẹp như đã giải thích. Hơn nữa, được gọi là Subhaga, bởi vì hầu hết mọi người đều bị mê hoặc bởi nó, được gọi là vana (rừng) vì nó có nghĩa rằng tất cả các loài động vật đều ưa thích, là làm cho động vật say mê với chính khu rừng ấy. (tức là) khiến khởi lên sự thương mến trong chính nó. hoặc, gọi là vana (rừng) vì kêu gọi, (tức là) giống như kêu gọi muôn thú bằng tiếng kêu của các loài chim, chẳng hạn như chim kokilā v.v, (đến đây) nơi thưởng thức mùi hương của các loài hoa khác nhau và với những cành lá già, lá non rung rinh xào xạc vì gió nhè nhẹ: (như nói rằng) ‘hãy đến, đến ăn và đến thưởng thức’, khu rừng ấy cũng vậy, do vẻ đẹp, cho nên được gọi là Subhagavana, trong khu rừng Subhaga đó. Có 2 loại rừng là rừng nhân tạo và rừng tự nhiên. Trong 2 loại rừng, rừng nhân tạo như rừng Veḷuvana và rừng Jetavaṇa v.v, Còn rừng tự nhiên như rừng Andhavana, rừng Mahāvana và rừng Añjanavana v.v, Ngay cả rừng Subhaga này cũng nên biết rằng đó là rừng tự nhiên.

Sālarājamūleti ettha sālarukkhopi sāloti vuccati. yathāha “seyyathāpi, bhikkhave, gāmassa vā nigamassa vā avidūre mahantaṃ sālavanaṃ, tañcassa eḷaṇḍehi sañchannan”ti (ma. ni. 1.225) “antarena yamakasālānan”ti ca (dī. ni. 2.195) vanappatijeṭṭhakarukkhopi. yathāha —

“Taveva deva vijite, tavevuyyānabhūmiyā.

Ujuvaṃsā mahāsālā, nīlobhāsā manoramā”ti.[34]

 Ở đây, gần cây sālā vương, Ngài cũng gọi là cây sālā. Như đức Thế Tôn nói rằng: “Này các tỳ khưu, có một khu rừng sālā rộng lớn không xa làng hay thị trấn, và khu rừng sālā rộng lớn ấy bị các cây leo y lan bao phủ (ma. ni. 1.225).” và nói rằng “giữa hai cây sālā (dī. ni. 2.195)”, và cả cây to lớn nhất Ngài gọi là cây cổ thụ [vanappati]. Như đức Thế Tôn nói rằng:

Tâu bệ hạ, ở lãnh địa của chính bệ hạ, trong khu đất thuộc vườn thượng uyển của chính bệ hạ, có những cây sālā vương, giống cây có thân thẳng, có tán màu xanh lục, làm thích ý (jā. 2.19.4)”.

Yo koci rukkhopi. yathāha “atha kho taṃ, bhikkhave, māluvabījaṃ aññatarasmiṃ sālamūle nipateyyā”ti (ma. ni. 1.469). Idha pana vanappatijeṭṭhakarukkho adhippeto. Rājasaddo panassa tameva jeṭṭhakabhāvaṃ sādheti. yathāha “suppatiṭṭhitassa kho brāhmaṇa dhammika nigrodharājassā”ti (a. ni. 6.54). Tattha dvedhā samāso, sālānaṃ rājātipi sālarājā, sālo ca so jeṭṭhakaṭṭhena rājā ca itipi sālarājā. mūlanti samīpaṃ. ayañhi mūlasaddo, “mūlāni uddhareyya, antamaso usiranāḷimattānipī”tiādīsu (a. ni. 4.195) mūlamūle dissati. “lobho akusalamūlan”tiādīsu (dī. ni. 3.305) asādhāraṇahetumhi. “yāva majjhanhike kāle chāyā pharati, nivāte paṇṇāni patanti, ettāvatā rukkhamūlan”tiādīsu samīpe. idha pana samīpe adhippeto, tasmā sālarājassa samīpeti evamettha attho daṭṭhabbo.

Mặc dù bất kỳ loại cây nào cũng có thể được gọi là cây cổ thụ. Như Đức Thế Tôn đã nói: “Này các tỳ khưu, khi ấy một hạt giống cây leo rơi dưới gốc một cây sālā (ma. ni. 1.469)”. Nhưng ở đây Ngài có ý muốn lấy cái cây lớn nhất, được gọi là cây cổ thụ. Còn ‘sālā vương’ chính cây ấy thành tựu tính chất loại cây to lớn nhất. Như đã nói “này Bà-la-môn người an trú trong Pháp cũng…của cây đa to tớn đứng vững vàng kể cả ở những nơi khác” (a. ni. 6.54). Sālarājamūla – gần cây sālā vương đó được chia thành 2 hợp thể [samāsa – (chaṭṭhītappurisa – sở hữu cách tương thuộc)], sālānaṃ rājā: vua của các loài cây, cho nên mới gọi là sālā vương, và là visesanapubbapada – kammadhāraya (thành phần thứ hai bổ nghĩa cho thành phần thứ nhất) sālo ca so jeṭṭhakaṭṭhena rājā ca: và cây sālā đó là vua bởi ý nghĩa to lớn nhất, cho nên mới gọi là sālā vương. từ mūlaṃ có nghĩa là gần. Từ mūlaṃ này xuất hiện với ý nghĩa mūlamūle [gốc rễ]: ‘ngươi hãy nhổ lên các rễ, kể cả các rễ phụ và rễ con (a. ni. 4.195). Nhân căn bản đặc thù [asādhāraṇahetu]: “tham là căn bản của bất thiện (dī. ni. 3.305)”. Mūlaṃ với ý nghĩa samīpa [gần]: “Vào buổi trưa bóng cây đổ xuống phủ thân, vì thế bóng (của cây) sẽ che phủ thân cây vào buổi trưa và những chiếc lá rơi xuống vào lúc trời yên lặng gió Bóng cây sẽ che phủ lấy thân cây, và những chiếc lá sẽ rơi xuống gần gần gốc cây.” Trong trường hợp này từ mūla ngài có ý muốn nói đến ý nghĩa ‘gần’, bởi thế nên biết ý nghĩa sālarājamūle – gần cây sālā vương này như vậy, ở gần cây sālā vương.

Tattha siyā — yadi tāva bhagavā ukkaṭṭhāyaṃ viharati, “subhagavane sālarājamūle”ti na vattabbaṃ, atha tattha viharati, “ukkaṭṭhāyan”ti na vattabbaṃ, na hi sakkā ubhayattha ekaṃ samayaṃ viharitunti. na kho panetaṃ evaṃ daṭṭhabbaṃ.

Ở đó nên có câu hỏi rằng – nếu đức Thế Tôn trú ở thành ukkaṭṭhā trước, không nên nói rằng ngài trú ở gần cây sālā vương trong rừng Subhaga. Nếu ngài an trú ở gần cây sālā vương trong rừng Subhaga đó, cũng không nên nói rằng ngài an trú trong thành Ukkaṭṭhā. Bởi vì Ngài không thể ngự trong cùng một thời điểm ở 2 nơi được.

Nanu avocumha “samīpatthe cetaṃ bhummavacanan”ti. Tasmā yathā gaṅgāyamunādīnaṃ samīpe goyūthāni carantāni “gaṅgāya caranti, yamunāya carantī”ti vuccanti, evamidhāpi yadidaṃ ukkaṭṭhāya samīpe subhagavanaṃ sālarājamūlaṃ, tattha viharanto vuccati “ukkaṭṭhāyaṃ viharati subhagavane sālarājamūle”ti. gocaragāmanidassanatthañhissa ukkaṭṭhāvacanaṃ, pabbajitānurūpanivāsaṭṭhānanidassanatthaṃ sesavacanaṃ.

Câu đó không nên hiểu như thế, chúng ta đã nói không phải rồi sao, Định Sở Cách [Sattamīvibhatti] trong ý nghĩa ‘gần’. Bởi vậy, đàn bò khi đi quanh quẩn gần bờ sông  Gaṅgā và sông Yamuna v.v, được gọi là đi loanh quanh gần bờ sông Gaṅgā và gần bờ sông Yamuna thế nào, thì ngay cả trương hợp này cũng như thế đó, đức Thế Tôn khi ngự trong rừng Subhaga gần thành Ukkaṭṭhā (và) chỗ đó gần cây sālā vương Ngài cũng gọi là trú ngụ gần cây sālā vương trong rừng Subhaga ở gần thành Ukkaṭṭhā. Từ Ukkaṭṭhā là một từ có nghĩa muốn nói đến hành xứ – gocaragāma. Đến từ khu rừng Subhaga là từ muốn đề cập đến trú xứ thích hợp đối với người xuất gia. Trong 2 từ đó, trưởng lão Ānanda bày tỏ lòng bi mẫn của mình đối với gia chủ của đức Thế Tôn, bằng cách đề cập đến thành phố Ukkaṭṭhā biểu lộ thể hiện  lòng bi mẫn đối với các bậc xuất gia, bằng cách xác định đến khu rừng Subhaga.

Tattha ukkaṭṭhākittanena āyasmā ānando bhagavato gahaṭṭhānuggahakaraṇaṃ dasseti, subhagavanādikittanena pabbajitānuggahakaraṇaṃ. Tathā purimena paccayaggahaṇato attakilamathānuyogavivajjanaṃ, pacchimena vatthukāmappahānato kāmasukhallikānuyogavivajjanupāyadassanaṃ. purimena ca dhammadesanābhiyogaṃ, pacchimena vivekādhimuttiṃ. purimena karuṇāya upagamanaṃ, pacchimena paññāya apagamanaṃ. purimena sattānaṃ hitasukhanipphādanādhimuttataṃ, pacchimena parahitasukhakaraṇe nirupalepanaṃ. purimena dhammikasukhāpariccāganimittaṃ phāsuvihāraṃ, pacchimena uttarimanussadhammānuyoganimittaṃ . purimena manussānaṃ upakārabahulataṃ, pacchimena devānaṃ. purimena loke jātassa loke saṃvaḍḍhabhāvaṃ, pacchimena lokena anupalittataṃ. purimena “ekapuggalo, bhikkhave, loke uppajjamāno uppajjati bahujanahitāya bahujanasukhāya lokānukampāya atthāya hitāya sukhāya devamanussānaṃ. katamo ekapuggalo, tathāgato arahaṃ sammāsambuddho”ti (a. ni. 1.170) vacanato yadatthaṃ bhagavā uppanno, tadatthaparinipphādanaṃ, pacchimena yattha uppanno, tadanurūpavihāraṃ. bhagavā hi paṭhamaṃ lumbinivane, dutiyaṃ bodhimaṇḍeti lokiyalokuttarāya uppattiyā vaneyeva uppanno, tenassa vaneyeva vihāraṃ dassetīti evamādinā nayenettha atthayojanā veditabbā.

 Ở đó, trưởng lão Ānanda trình bày sự từ bỏ việc gắn bó vào lối tu ép xác – attakilamathānuyoga, do chấp nhận các món vật dụng bằng lời ukkaṭṭhā, chỉ ra sự từ bỏ việc gắn bó với sự say đắm các dục – kāmasukhallikānuyoga bằng cách từ bỏ các đối tượng dục lạc với từ sau [Subhakavana], Ngài đã thể hiện sự tinh tấn của mình trong việc thuyết Pháp với từ đầu tiên, biểu lộ căn tánh hướng đến sự viễn ly với từ sau, biểu thị sự đến gần với lòng bi mẫn bằng từ đầu tiên, tiếp cận với tuệ đức với từ sau. Trình bày tính chất mà Ngài có khuynh hướng hướng đến sự lợi ích và sự an lạc cho tất cả chúng sanh bằng từ đầu tiên. Khi mang lại lợi ích và hạnh phúc cho người khác Ngài không mong cầu được đền đáp với từ sau. Trình bày về sự sống an ổn sự hy sinh của hạnh phúc chân chánh là dấu hiệu bằng từ đầu tiên, với sự gắn bó Pháp thượng nhân là dấu hiệu bằng từ sau. Sự hỗ trợ lớn lao cho đa số nhân loại bằng từ đầu tiên, đối với tất cả chư Thiên bằng từ sau. Trình bày sự đã được sinh ra trên thế gian rồi trưởng thành (về mọi mặt) trên thế gian bằng từ đầu tiên, người không dính mắc trong thế gian bằng từ sau. Ngài trưởng lão Ānanda trình bày những lợi ích làm nhân dẫn đến sự xuất hiện của đức Thế Tôn đó được thành tựu bằng Pāḷī rằng: “một người, này chư tỳ khưu, khi xuất hiện ở đời, sự xuất hiện đem lại hạnh phúc cho đa số, an lạc cho đa số, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài người. Một người ấy là ai? Chính là đức Thế Tôn, bậc A-ra-hán, Chánh đẳng Chánh giác (a. ni. 1.170).” Bày tỏ sự an trú thích hợp ở nơi mà đức Thế Tôn đã sanh ra bằng từ sau. Nên biết sự liên kết ý nghĩa trong câu yadatthaṃ bhagavā uppanno tadanurūpavihāraṃ đó theo phương thức được bắt đầu rằng đức Thế Tôn xuất hiện ở Hiệp Thế và Siêu Thế là lần đầu tiên xuất hiện tại vườn Lumbinī, lần thứ hai giác ngộ dưới cây Bodhi. Do đó, trưởng lão Ānanda trình bày chỗ an trú của đức Thế Tôn đó trong tất cả khu rừng.

Tatrāti desakālaparidīpanaṃ. tañhi yaṃ samayaṃ viharati, tatra samaye. yasmiñca sālarājamūle viharati, tatra sālarājamūleti dīpeti. Bhāsitabbayutte vā desakāle dīpeti. na hi bhagavā ayutte dese kāle vā dhammaṃ bhāsati. “Akālo kho tāva bāhiyā”ti (udā. 10) ādicettha sādhakaṃ. Khoti padapūraṇamatte avadhāraṇe ādikālatthe vā nipāto. bhagavāti lokagarudīpanaṃ. bhikkhūti kathāsavanayuttapuggalavacanaṃ. Apicettha, “bhikkhakoti bhikkhu, bhikkhācariyaṃ ajjhupagatoti bhikkhū”tiādinā (pārā. 45) nayena vacanattho veditabbo. āmantesīti ālapi abhāsi sambodhesīti ayamettha attho. aññatra pana ñāpanepi hoti. yathāha “āmantayāmi vo, bhikkhave, paṭivedayāmi vo, bhikkhave”ti. pakkosanepi. yathāha “ehi tvaṃ bhikkhu mama vacanena sāriputtaṃ āmantehī”ti (a. ni. 9.11).

Từ tatra là từ trình bày nơi chốn và thời gian, (tức là) đức Thế Tôn an trú trong thời nào, trưởng lão Ānanda trình bày nơi chốn và thời gian ấy trong thời ấy và an trú ở nơi gần cây sālā vương nào ở nơi gần cây sālā ấy, lại nữa, (Ngài) chỉ ra nơi chốn và thời gian cần thiết trình bày. Quả thật, đức Thế Tôn không thuyết Pháp ở khu vực hoặc thời gian không phù hợp, cũng trong trường hợp này có lời như sau: ‘Này Bāhiya, giờ không phải là thời điểm thích hợp’ ở đây là phương tiện để hoàn thành. Từ kho là phân từ với ý nghĩa padapūraṇamatte [làm cho từ được đầy đủ], trong ý nghĩa avadhāraṇa [ngăn chặn ý nghĩa khác], trong ý nghĩa ādikāla [thời gian sơ khởi]. Bhagavā là lời giải thích rằng đức Thế Tôn là thầy của nhân loại. Từ tỳ khưu là từ nói đến hạng người đáng được nghe thuyết Pháp. Lại nữa, trong từ tỳ khưu này nên biết rằng ý nghĩa của từ theo cách sau – gọi là tỳ khưu bởi ý nghìa là người xin ăn (tức là) gọi tỳ khưu bởi ý nghĩa là vị đi khất thực, vị chấp nhận việc đi khất thực (pārā. 45). Āmantesi: đã gọi là đã nói bởi trong trường hợp này có ý nghĩa như vầy nhắc nhở để cảm nhận (còn) trong trường hợp khác được sử dụng với ý nghĩa là ñāpana [cho biết]. Như đức Thế Tôn đã nói rằng: “Này chư tỳ khưu, Như Lai nhắc nhở các ông, này chư tỳ khưu, Như Lai tuyên bố cho các ông biết như vậy.” với ý nghĩa gọi như Ngài đã thuyết rằng “này chư tỳ khưu, ông hãy đến, hãy đi gọi tỳ khưu Sārīputta theo lời của Như Lai (a. ni. 9.11).

Bhikkhavoti āmantanākāradīpanaṃ. tañca bhikkhanasīlatādiguṇayogasiddhattā vuttaṃ. bhikkhanasīlatāguṇayuttopi hi bhikkhu bhikkhanadhammatāguṇayuttopi. bhikkhane sādhukāritāguṇayuttopīti saddavidū maññanti. tena ca nesaṃ bhikkhanasīlatādiguṇayogasiddhena vacanena hīnādhikajanasevitaṃ vuttiṃ pakāsento uddhatadīnabhāvaniggahaṃ karoti. bhikkhavoti iminā ca karuṇāvipphārasommahadayanayananipātapubbaṅgamena vacanena te attano mukhābhimukhe karoti. teneva ca kathetukamyatādīpakena vacanena nesaṃ sotukamyataṃ janeti. teneva ca sambodhanaṭṭhena sādhukaṃ savanamanasikārepi ne niyojeti. sādhukasavanamanasikārāyattā hi sāsanasampatti.

Từ bhikkhavo là từ bày tỏ biểu lộ việc ‘gọi mời’. Thật vậy từ đó đã được đức Thế Tôn thuyết vì đã thành tựu từ việc liên kết với đức hạnh [guṇa] là tính chất người hành khất (của chư tỳ khưu ấy). Bởi vậy (các nhà ngôn ngữ học) cho rằng vị tỳ khưu liên kết với đức hạnh là tính chất người hành khất, gọi là người liên kết với đức hạnh có tính chất là người hành khất theo luật lệ chung v.v. là người liên kết với đức hạnh là tính chất của người hành khất thường nói lời tùy hỷ ‘lành thay’ trong việc đi xin ăn. Với lời nói đã thành tựu từ việc liên kết với đức hạnh, chẳng hạn như tính chất người đi xin ăn v.v, của chư tỳ khưu ấy, đó gọi là đức Thế Tôn tuyên thuyết phận sự nên thực hành (của chư tỳ khưu đó), mà người bậc cao và người bậc thấp đã từng chế ngự sự kiêu căng và sự trì trệ (của các ông), đức Thế Tôn thuyết gọi chư tỳ khưu ấy quay mặt về phía Ngài bằng cách nhìn, với trái tim mát mẻ với dòng chảy của lòng bi mẫn là sự dẫn đầu. Ngài làm cho các tỳ khưu khởi lên mong muốn lắng nghe bằng những lời nói hiển lộ nội dung Ngài muốn chỉ dạy ấy, và tập hợp các tỳ khưu đó ngay cả khi khéo léo chú tâm lắng nghe đến những lời mà Ngài mong muốn nhắc nhở (chư tỳ khưu) cảm nhận điều đó, bởi vì sự thành tựu về ân đức cao thượng [guṇasampatti] của những lời dạy căn bản liên quan đến việc khéo chú tâm lắng nghe. Nếu có một câu hỏi rằng tại sao khi chư Thiên và nhân loại khác xuất hiện, mới cho gọi chư tỳ khưu đến. Đáp: bởi chư tỳ khưu là bậc tăng trưởng phát triển nhất, tối thượng nhất, ở gần và sống đầy đủ mọi thời, (tức là) bài pháp thoại của đức Thế Tôn chung cho tất cả hội chúng và chư tỳ khưu gọi là tăng trưởng phát triển nhất trong hội chúng, bởi (chư tỳ khưu) các Ngài hiện diện trước những hội chúng khác; gọi là tối thượng nhất bởi muốn đặt mục tiêu trở thành vị xuất gia trước tiên, thực hành theo bậc Đạo Sư và tín thọ mọi lời dạy của Ngài, gọi là ở gần bởi vì khi ngồi ở nơi đó; gọi là ở trong hội chúng của bậc Đạo Sư; gọi là sống cùng nhau mọi thời do du hành gần hội chúng bậc Đạo Sư. Và lại nữa, chư tỳ khưu ấy gọi là vật chứa đựng của pháp thoại, vì đem lại sự thực hành theo (lời dạy) mà đức Thế Tôn đã thuyết, và bởi vì là một người đặc biệt. Ngoài ra, những thời thuyết Pháp này đức Thế Tôn thuyết giảng cụ thể cho chính nhóm tỳ khưu đó. Do đó, Ngài mới cho gọi chư tỳ khưu đó với biểu hiện [ākāra] như vậy.

Aparesupi devamanussesu vijjamānesu kasmā bhikkhūyeva āmantesīti ce. jeṭṭhaseṭṭhāsannasadāsannihitabhāvato. sabbaparisasādhāraṇā hi bhagavato dhammadesanā. parisāya ca jeṭṭhā bhikkhū, paṭhamuppannattā. seṭṭhā, anagāriyabhāvaṃ ādiṃ katvā satthucariyānuvidhāyakattā sakalasāsanapaṭiggāhakattā ca. āsannā, tattha nisinnesu satthusantikattā. sadāsannihitā, satthusantikāvacarattāti. Apica te dhammadesanāya bhājanaṃ, yathānusiṭṭhaṃ paṭipattisabbhāvato. Visesato ca ekacce bhikkhūyeva sandhāya ayaṃ desanātipi te eva āmantesi.

Trong câu đó, có câu hỏi được đặt ra, vì lợi ích gì đức Thế Tôn khi thuyết giảng Pháp, (Ngài) cho mời chư tỳ khưu đến trước, không thuyết pháp ngay? Đáp: để cho niệm sanh khởi, bởi vì chư tỳ khưu một số đang suy nghĩ đến vấn đề khác, một số (đã ngồi) nhưng tâm bị xao lãng phóng dật, một số (ngồi) quán xét pháp, một số ngồi tác ý đến nghiệp xứ, khi đức Thế Tôn cho gọi chư tỳ khưu ấy (trước) trình bày Pháp, chư tỳ khưu ấy không thể xác định được rằng pháp thoại này có gì là nhân, là duyên, Ngài thuyết để sanh khởi nhân gì, được lấy sai trái, hoặc không thể tiếp nhận nhân đó, để nhắc nhở sự ghi nhớ của chư tỳ khưu đó đức Thế Tôn gọi chư tỳ khưu trước rồi sau đó mới thuyết Pháp.

Bhadanteti gāravavacanametaṃ, satthuno paṭivacanadānaṃ vā, apicettha bhikkhavoti vadamāno bhagavā te bhikkhū ālapati. bhadanteti vadamānā te bhagavantaṃ paccālapanti. tathā bhikkhavoti bhagavā ābhāsati. bhadanteti te paccābhāsanti. bhikkhavoti paṭivacanaṃ dāpeti, bhadanteti paṭivacanaṃ denti. Te bhikkhūti ye bhagavā āmantesi. Bhagavato paccassosunti bhagavato āmantanaṃ paṭiassosuṃ, abhimukhā hutvā suṇiṃsu sampaṭicchiṃsu paṭiggahesunti attho. Bhagavā etadavocāti bhagavā etaṃ idāni vattabbaṃ sakalaṃ suttaṃ avoca.

Từ Bhadante là lời nói thể hiện sự kính trọng hoặc là đáp lại câu hỏi của bậc Đạo Sư. Hơn nữa, trong trường hợp này đức Thế Tôn nói rằng Bhikkhavo là (Ngài) gọi chư tỳ khưu ấy đến, chư tỳ khưu ấy khi đáp ‘bhadante’ nghĩa là chấp nhận lời của đức Thế Tôn. Lại nữa, đức Thế Tôn cho mời gọi (tỳ khưu) rằng ‘bhikkhavo’, chư tỳ khưu đáp lời ‘bhadante’. Te bhikkhū: nhóm tỳ khưu ấy khi đức Thế Tôn cho gọi đến. Từ bhagavo paccassosuṃ: (chư tỳ khưu ấy) đáp lời đức Thế Tôn, (tức là) xoay mặt hướng về là hướng tâm tiếp nhận, đã chấp nhận (lời dạy đó). Bhagavā etadavoca: đức Thế Tôn đã thuyết toàn bộ Kinh cần nói trong ngay lúc này.

Ettāvatā ca yaṃ āyasmatā ānandena kamalakuvalayujjalavimalasādurasasalilāya pokkharaṇiyā sukhāvataraṇatthaṃ nimmalasilātalaracanavilāsasobhitaratanasopānaṃ vippakiṇṇamuttātalasadisavālikākiṇṇapaṇḍarabhūmibhāgaṃ titthaṃ viya suvibhattabhittivicitravedikāparikkhittassa nakkhattapathaṃ phusitukāmatāya viya, vijambhitasamussayassa pāsādavarassa sukhārohaṇatthaṃ dantamaya-saṇhamuduphalaka-kañcanalatāvinaddha- maṇigaṇappabhāsamudayujjalasobhaṃ sopānaṃ viya, suvaṇṇavalayānūpurādisaṅghaṭṭanasaddasammissitakathitahasitamadhurassaragehajanavicaritassa uḷāraissariyavibhavasobhitassa mahāgharassa sukhappavesanatthaṃ suvaṇṇarajatamaṇimuttāpavāḷādijutivissaravijjotita-suppatiṭṭhitavisāladvārabāhaṃ mahādvāraṃ viya ca atthabyañjanasampannassa buddhānaṃ desanāñāṇagambhīrabhāvasaṃsūcakassa imassa suttassa sukhāvagāhaṇatthaṃ kāladesadesakavatthuparisāpadesapaṭimaṇḍitaṃ nidānaṃ bhāsitaṃ, tassa atthavaṇṇanā samattā.

Bất kỳ duyên khởi nào được tô điểm bằng thời gian, địa điểm, người trình bày, câu chuyện, hội chúng và quốc độ giống như bến nước có một vùng đất trắng tinh phân tán những hạt cát, như mặt đất được rải đầy ngọc trai. Có một cầu thang bằng ngọc đã được làm chói lóa bằng phiến đá cẩm thạch không chút bụi bẩn, để dễ dàng bước vào hồ nước trong sáng với bông sen xanh, hoa sen trắng, có nước tinh khiết, hương vị thơm mát; giống như một cầu thang tinh xảo được hoàn thiện bằng ngà voi, xinh đẹp lấp lánh phát ra từ ánh sáng rực rỡ của vòng ngọc ma-ni được xâu bằng dây vàng, để thuận tiện bước vào trong tòa lâu đài, có vách ngăn được sắp xếp cân đối, và bị chặn bởi vách tường được trang trí sặc sỡ (dường như) có thể di chuyển, giống như muốn được bay cao như đường đi của các vì sao; giống như một cổng lớn với một ô cửa được khéo lắp đặt, nguy nga tráng lệ bằng vàng, bạc, ngọc trai và ngọc san hô, để thuận tiện đi vào dinh thự lộng lẫy với nhiều của cải tài sản, đó là một nơi hỗn loạn với những người nói và cười, cùng với âm thanh du dương hòa với âm thanh của những chiếc vòng vàng được sắp xếp ngay ngắn. Điều mà trưởng lão Ānanda đã nói, việc giải thích ý nghĩa về duyên khởi [nidāna] được kết thúc hoàn mãn bằng cách như vậy.

Suttanikkhepavaṇṇanā [Giải Thích Sơ Lược Bài Kinh]

Idāni “sabbadhammamūlapariyāyaṃ vo”tiādinā nayena bhagavatā nikkhittassa suttassa vaṇṇanāya okāso anuppatto. sā panesā suttavaṇṇanā yasmā suttanikkhepaṃ vicāretvā vuccamānā pākaṭā hoti, tasmā suttanikkhepaṃ tāva vicārayissāma. cattāro hi suttanikkhepā attajjhāsayo parajjhāsayo pucchāvasiko aṭṭhuppattikoti.

Bây giờ, đã đến thời điểm giảng giải bài Kinh mà đức Thế Tôn đưa ra thuyết giảng theo phương cách sau ‘sabbadhammamūlapariyāyaṃ [pháp môn căn bản của tất cả pháp]’. Cũng việc giải thích bài Kinh này đây, khi đã suy xét về nhân thiết lập bài Kinh đã nói (lời giải thích) sẽ làm sáng tỏ (hơn) vì thế tôi sẽ mô tả nhân thiết lập bài Kinh trước. Thật vậy có bốn nguyên nhân để thiết thiết lập bài kinh –  (1) Attajjhāsaya: diễn biến theo khuynh hướng cá nhân. (2) Parajjhāsaya: diễn biến theo khuynh hướng của người khác. (3) Pucchāvasika: diễn biến do tác động của việc hỏi. (4) Aṭṭhuppattikoti: diễn tiến theo nhân sanh khởi.

Tattha yāni suttāni Bhagavā parehi anajjhiṭṭho kevalaṃ attano ajjhāsayeneva kathesi; seyyathidaṃ, ākaṅkheyyasuttaṃ, vatthasuttaṃ, mahāsatipaṭṭhānaṃ, mahāsaḷāyatanavibhaṅgasuttaṃ, ariyavaṃsasuttaṃ, sammappadhānasuttantahārako, iddhipādaindriyabalabojjhaṅgamaggaṅgasuttantahārakoti evamādīni; tesaṃ attajjhāsayo nikkhepo.

Trong các nguyên nhân đó những bài Kinh nào mà người khác không thỉnh cầu, đức Thế Tôn thuyết giảng toàn bộ dựa theo khuynh hướng của cá nhân; đó là, Kinh Ước Nguyện [Ākaṅkheyyasutta], Kinh Ví Dụ Tấm Vải [Vatthasuttaṃ], Đại Kinh Thiết Lập Niệm [Mahāsatipaṭṭhāna], Kinh Đại Kinh Phân Biệt Sáu Xứ [Mahāsaḷāyatanavibhaṅgasutta], Kinh Truyền Thống Bậc Thánh [Ariyavaṃsasutta], và phần của Kinh Tứ Chánh Cần, phần của Kinh Tứ Như Ý Túc, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Giác Chi, Và Bát Chánh Đạo v.v, những bài Kinh đó gọi là có nhân được thiết lập dựa theo khuynh hướng của cá nhân.

Yāni pana “paripakkā kho Rāhulassa vimuttiparipācaniyā dhammā; yaṃnūnāhaṃ Rāhulaṃ uttariṃ āsavānaṃ khaye vineyyan”ti[35]; eEvaṃ paresaṃ ajjhāsayaṃ khantiṃ manaṃ abhinīhāraṃ bujjhanabhāvañca avekkhitvā parajjhāsayavasena kathitāni; Seyyathidaṃ, Cūḷarāhulovādasuttaṃ, Mahārāhulovādasuttaṃ, Dhammacakkappavattanaṃ, Dhātuvibhaṅgasuttanti evamādīni; tesaṃ parajjhāsayo nikkhepo.

Hơn nữa, những bài Kinh nào đức Thế Tôn thuyết do tác động khuynh hướng của người khác, sau khi quan sát khuynh hướng sự mong mỏi, sự ưa thích, nguyện vọng và tính chất giác ngộ của người khác như vầy rằng: “Pháp làm cho sự giải thoát của Rāhula trở nên chín mùi, vậy Ta hãy hướng dẫn Rāhula thêm nữa pháp diệt trừ các lậu hoặc (saṃ. ni. 4.121).” Chẳng hạn như: Tiểu Kinh Giáo Giới Rāhula [Cūḷarāhulovāda], Đại Kinh Giáo Giới Rāhula [Mahārāhulovāda], Kinh Chuyển Pháp Luân [Dhammacakkappavattana], Kinh Phân Tích Giới [Dhātuvibhaṅga],; những bài Kinh đó gọi là có nhân được thiết lập dựa theo khuynh hướng của người khác.

Bhagavantaṃ pana upasaṅkamitvā catasso parisā, cattāro vaṇṇā, nāgā, supaṇṇā, gandhabbā, asurā, yakkhā, mahārājāno, tāvatiṃsādayo devā, mahābrahmāti evamādayo — “bojjhaṅgā bojjhaṅgā”ti, bhante, vuccanti[36]. “Nīvaraṇā nīvaraṇā”ti, bhante, vuccanti; “ime nu kho, bhante, pañcupādānakkhandhā”. “Kiṃ sūdha vittaṃ purisassa seṭṭhan”tiādinā[37] nayena pañhaṃ pucchanti. Evaṃ puṭṭhena bhagavatā yāni kathitāni bojjhaṅgasaṃyuttādīni, yāni vā panaññānipi devatāsaṃyutta-mārasaṃyutta-brahmasaṃyutta-sakkapañha-cūḷavedalla-mahāvedalla-sāmaññaphala-āḷavaka-sūciloma-kharalomasuttādīni; tesaṃ pucchāvasiko nikkhepo.

Lại nữa, khi bốn hội chúng, bốn giai cấp, các loài rồng, Nhân-điểu, Càn-thát-bà, A-tu-la, Dạ-xoa, Tứ đại Thiên vương, chư Thiên cõi trời Đao lợi v.v, Đại Phạm thiên sau khi đến gần đức Thế Tôn và hỏi những câu hỏi theo phương cách như sau – “Kính bạch đức Thế Tôn được gọi là ‘Các chi phần giác ngộ, các chi phần giác ngộ’. Kính bạch ngài, được gọi là ‘các pháp ngăn che, các pháp ngăn che’. “Như vậy, kính bạch đức Thế Tôn sự chấp thủ vào năm uẩn trong đời này”. “Điều gì là tài sản quý giá nhất của loài người”. Khi được hỏi như vậy, đức Thế Tôn thuyết giảng về Tương Ưng Giác Chi v.v, hoặc các bài Kinh khác như Tương Ưng Chư Thiên, Tương Ưng Ác Ma, Tương Ưng Phạm Thiên, Kinh Ðế Thích Sở Vấn, Kinh Tiểu Phương Quảng [Cūḷavedalla], Kinh Đại Phương Quảng [Mahāvedalla], Kinh Sa-môn Quả, Kinh Āḷavaka, Kinh Sūciloma, Kinh Kharaloma v.v, những bài Kinh đó gọi là có nhân được thiết lập do tác động của việc hỏi.

Yāni pana tāni uppannaṃ kāraṇaṃ paṭicca kathitāni, seyyathidaṃ — Dhammadāyādaṃ, Cūḷasīhanādaṃ, Candūpamaṃ, Puttamaṃsūpamaṃ, Dārukkhandhūpamaṃ, Aggikkhandhūpamaṃ, Pheṇapiṇḍūpamaṃ, Pāricchattakūpamanti evamādīni; tesaṃ aṭṭhuppattiko nikkhepo.

Lại nữa, ở đây những bài Kinh nào mà đức Thế Tôn dựa vào lý do đã khởi lên rồi mới thuyết giảng, chẳng hạn như: Kinh Dhammadāyāda, Kinh Cūḷasīhanāda, Kinh Candūpama, Kinh Puttamaṃsūpama, Kinh Dārukkhandhūpama, Kinh Aggikkhandhūpama, Kinh Pheṇapiṇḍūpama, Kinh Pāricchattakūpama; Những bài kinh đó gọi là có nhân được thiết lập dựa vào nhân sanh khởi.

Evamimesu catūsu nikkhepesu imassa suttassa aṭṭhuppattiko nikkhepo. aṭṭhuppattiyañhi idaṃ bhagavatā nikkhittaṃ. katarāya aṭṭhuppattiyā? Pariyattiṃ nissāya uppanne māne.

Trong bốn nguyên nhân đã nêu ra như đã giải thích ở trên, bài Kinh Pháp Môn Căn Bản này có nhân được thiết lập dựa vào nhân sanh khởi. Bài Kinh này đức Thế Tôn đã thuyết giảng dựa vào nhân sanh khởi. Nhân sanh khởi như thế nào? Bởi ngã mãn [māna] đã khởi sanh do dựa vào pháp học.

Ngã Mạn Sanh Khởi Do Dựa Vào Pháp Học

Pañcasatā kira brāhmaṇā tiṇṇaṃ vedānaṃ pāragū aparabhāge bhagavato dhammadesanaṃ sutvā kāmesu ādīnavaṃ nekkhamme ca ānisaṃsaṃ sampassamānā bhagavato santike pabbajitvā nacirasseva sabbaṃ buddhavacanaṃ uggaṇhitvā pariyattiṃ nissāya mānaṃ uppādesuṃ “yaṃ yaṃ bhagavā katheti, taṃ taṃ mayaṃ khippameva jānāma, bhagavā hi tīṇi liṅgāni cattāri padāni satta vibhattiyo muñcitvā na kiñci katheti, evaṃ kathite ca amhākaṃ gaṇṭhipadaṃ nāma natthī”ti. te bhagavati agāravā hutvā tato paṭṭhāya bhagavato upaṭṭhānampi dhammassavanampi abhiṇhaṃ na gacchanti. bhagavā tesaṃ taṃ cittacāraṃ ñatvā “abhabbā ime imaṃ mānakhilaṃ anupahacca maggaṃ vā phalaṃ vā sacchikātun”ti tesaṃ sutapariyattiṃ nissāya uppannaṃ mānaṃ aṭṭhuppattiṃ katvā desanākusalo bhagavā mānabhañjanatthaṃ sabbadhammamūlapariyāyanti desanaṃ ārabhi.

Được biết rằng, năm trăm bà-la-môn là những vị thông thạo ba bộ Vệ Đà, sau khi lắng nghe Giáo Pháp của đức Thế Tôn đã nhận thấy sự nguy hiểm trong các dục lạc và lợi ích trong xuất ly, (vị ấy) đã xuất gia trong hội chúng của đức Thế Tôn. Không bao lâu  (những vị ấy) đã học xong toàn bộ lời của Đức Phật và do nương vào sở học những vị ấy  khởi lên sự kiêu mạn. Họ suy nghĩ: “bất cứ điều gì đức Thế Tôn nói, điều đó chúng ta hiểu biết nhanh chóng.” Bởi vì, đức Thế Tôn không nói bất cứ điều gì mà không vào trong phạm vi của ba tánh [liṅga], bốn loại thuật ngữ [pada] và bảy biến cách [vibhatti], khi Ngài thuyết như vậy không có gì trong những điều ngài nói mà chúng tôi không hiểu. Do đó chư tỳ khưu ấy không có sự kính trọng nơi đức Thế Tôn, từ đó họ không thường đi đến phục vụ hoặc không đến lắng nghe Giáo Pháp. Đức Thế Tôn biết tâm của chư tỳ khưu ấy, Ngài nghĩ rằng điều đó không thể giúp họ chứng đắc đạo hoặc quả chừng nào cột trụ kiêu mạn chưa được nhổ lên khỏi tâm của chư tỳ khưu ấy, ngã mạn đã sanh khởi do nương vào việc học của chư tỳ khưu là nguyên nhân để khởi sự, mới bắt đầu thuyết giảng rằng: đức Thế Tôn là vị khéo thuyết ‘pháp môn căn bản trong tất cả các pháp’ vì mục đích phá vỡ kiêu mạn của chư tỳ khưu đó.

Ý Nghĩa Của Mūlapariyāya và Dhamma

Tattha sabbadhammamūlapariyāyanti sabbesaṃ dhammānaṃ mūlapariyāyaṃ. Sabbesanti anavasesānaṃ. Anavasesavācako hi ayaṃ sabba-saddo. So yena yena sambandhaṃ gacchati, tassa tassa anavasesataṃ dīpeti. Yathā, “sabbaṃ rūpaṃ aniccaṃ sabbā vedanā aniccā sabbasakkāyapariyāpannesu dhammesū”ti. Dhamma-saddo panāyaṃ pariyatti-sacca-samādhi-paññā-pakati-sabhāvasuññatā-puññāpatti-ñeyyādīsu dissati. “Idha bhikkhu dhammaṃ pariyāpuṇāti suttaṃ geyyan”tiādīsu (a. ni. 5.73) hi dhammasaddo pariyattiyaṃ vattati. “diṭṭhadhammo viditadhammo”tiādīsu (dī. ni. 1.299) saccesu. “evaṃ dhammā te bhagavanto”tiādīsu samādhimhi.

“yassete caturo dhammā, vānarinda yathā tava.

saccaṃ dhammo dhiti cāgo, diṭṭhaṃ so ativattatī”ti. —

ādīsu (jā. 1.1.57) paññāya.

Ở đó, sabbadhammamūlapariyāyaṃ: pháp môn căn bản của tất cả các Pháp. sabbesaṃ [của tất cả]: không có dư sót. Thật vậy, từ sabba [tất cả] này biểu thị sự không dư sót, từ sabba trình bày những thứ liên hệ nhau không dư sót, tương tự như trong câu sau: tất cả sắc là vô thường, tất cả thọ là vô thường, trong số các pháp hệ thuộc đến toàn bộ thân thể”. Còn từ dhamma này xuất hiện trong từ v.v, (1) Pháp học, (2) chân lý, (3) định, (4) tuệ, (5) bản chất, (6) thực tính, (7) không tánh – suññatā, (8) phước báu, (9) sự phạm tội, (10) điều nên hiểu biết – neyya v.v, từ Dhamma xuất hiện với ý nghĩa Pháp học như trong câu sau: “Ở đây, vị tỳ khưu trong Pháp và Luật này học tập trọn vẹn Pháp như khế kinh, ứng tụng v.v…”(a. ni. 5.73); trong nghĩa chân lý: “Pháp nào mà bậc trí đã thấy, đã biết Pháp.”(dī. ni. 1.299); trong nghĩa định: “Các đức Thế Tôn đó có những pháp như thế”.

Với ý nghĩa trí tuệ: Này khỉ chúa, người nào có bốn đức tính này, giống như ngài đã có là: chân thật, trí tuệ, nghị lực, và xả thí, người ấy vượt trội quyền lực đối thủ. (jā. 1.1.57)”

“jātidhammā jarādhammā, atho maraṇadhammino”tiādīsu pakatiyaṃ. “kusalā dhammā”tiādīsu (dha. sa. 1ṭikamātikā) sabhāve. “tasmiṃ kho pana samaye dhammā hontī”tiādīsu (dha. sa. 121) suññatāyaṃ. “dhammo suciṇṇo sukhamāvahātī”tiādīsu (jā. 1.10.102) puññe. “dve aniyatā dhammā”tiādīsu (pārā. 443) āpattiyaṃ. “sabbe dhammā sabbākārena buddhassa bhagavato ñāṇamukhe āpāthaṃ āgacchantī”tiādīsu ñeyye. idha panāyaṃ sabhāve vattati. tatrāyaṃ vacanattho — attano lakkhaṇaṃ dhārentīti dhammā. mūla-saddo vitthārito eva. idha panāyaṃ asādhāraṇahetumhi daṭṭhabbo.

Với ý nghĩa bản chất: “Có sự sanh thuộc về bản chất, có sự già thuộc về bản chất, và có sự già thuộc về bản chất”; Trong nghĩa thực tính: “Chư Pháp thiện” (dha. sa. 1-ṭikamātikā); Với ý nghĩa không tánh:Một thời các pháp tồn tại như vậy. (dha. sa. 121)”; Với ý nghĩa phước báu: “Pháp khéo được thực hành [khéo huân tập] đem lại sự an lạc” (jā. 1.10.102); Với ý nghĩa sự phạm tội:Hai pháp bất định” (pārā. 443); và với ý nghĩa điều nên hiểu biết:Tất cả các pháp đều đi đến phạm vi ở trong tầm trí tuệ của đức Phật Thế Tôn với mọi biểu hiện.” Nhưng trong trường hợp này từ Dhamma xuất hiện theo nghĩa các pháp thực tính.  Ở đây nghĩa của từ đó như sau: “thực tính nào gìn giữ đặc tính riêng của chính nó, thức tính đó gọi là Pháp”. Từ mūla [gốc, căn bản] Ngài đã giải thích chi tiết. Ở đây, từ mūla [gốc, căn bản] nên biết với ý nghĩa nhân riêng biệt [asādhāraṇahetu].

Pariyāyasaddo “madhupiṇḍikapariyāyoti naṃ dhārehī”tiādīsu (ma. ni. 1.205) desanāyaṃ vattati. “atthi khvesa brāhmaṇa, pariyāyo, yena maṃ pariyāyena sammā vadamāno vadeyya akiriyavādo samaṇo gotamo”tiādīsu (pārā. 3) kāraṇe. “kassa nu kho, ānanda, ajja pariyāyo bhikkhuniyo ovaditun”tiādīsu (ma. ni. 3.398) vāre. idha pana kāraṇepi desanāyampi vattati. tasmā “sabbadhammamūlapariyāyan”ti ettha sabbesaṃ dhammānaṃ asādhāraṇahetusaññitaṃ kāraṇanti vā sabbesaṃ dhammānaṃ kāraṇadesananti vā evaṃ attho daṭṭhabbo. neyyatthattā cassa suttassa, na catubhūmakāpi sabhāvadhammā sabbadhammāti veditabbā. sakkāyapariyāpannā pana tebhūmakā dhammāva anavasesato veditabbā, ayamettha adhippāyoti.

Từ pariyāya xuất hiện với ý nghĩa sự giảng dạy như trong câu: “Hãy ghi nhớ bài Kinh ấy là sự giảng dạy về cái bánh mật.”(ma. ni. 1.205); với ý nghĩa lý do: “Này Bà-la-môn, thật sự có lý do nào mà với lý do ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về Ta thì có thể nói rằng: ‘Sa-môn Gotama thuyết về không hành động.”(pārā. 3); với ý nghĩa vāra [phiên, lượt]: ‘Này Ānanda, hôm nay đến phiên ai giáo giới Tỳ khưu ni?” (ma. ni. 3.398); Ở đây, từ pariyāya được sử dụng với ý nghĩa lý dosự giảng dạy. Cho nên, từ pariyāya trong từ sabbadhammamūlapariyāya nên biết ý nghĩa như vầy: Lý do được biết đến là nhân riêng biệt của tất cả các pháp, hoặc sự thuyết giảng là lý do của tất cả các pháp. Nhưng kinh này phải được giải thích cẩn thận. Lại nữa, tất cả thực tính pháp mặc dầu có trong bốn cõi [bhūmi] không nên hiểu rằng gọi là tất cả các pháp bởi vì bài Kinh đó có ý nghĩa cần được chỉ dẫn, nhưng thực tính pháp chỉ vận hành trong 3 cõi gồm có trong thân kiến nên biết rằng tất cả các pháp không dư sót. Ở đây, trong trường hợp này là ý nghĩa đã nói.

Voti ayaṃ vo-saddo paccattaupayogakaraṇasampadānasāmivacanapadapūraṇesu dissati. “kacci pana vo, anuruddhā, samaggā sammodamānā”tiādīsu (ma. ni. 1.326) hi paccatte dissati. “gacchatha, bhikkhave, paṇāmemi vo”tiādīsu (ma. ni. 2.157) upayoge. “na vo mama santike vatthabban”tiādīsu (ma. ni. 2.157) karaṇe. “vanapatthapariyāyaṃ vo, bhikkhave, desessāmī”tiādīsu (ma. ni. 1.190) sampadāne. “sabbesaṃ vo, sāriputta, subhāsitan”tiādīsu (ma. ni. 1.345) sāmivacane. “ye hi vo ariyā parisuddhakāyakammantā”tiādīsu (ma. ni. 1.35) padapūraṇamatte. idha panāyaṃ sampadāne daṭṭhabbo.

Từ ‘vo’ này được sử dụng với ý nghĩa chủ cách, đối cách, sử dụng cách, chỉ định cách, sở thuộc cách và padapūraṇa [làm cho từ được đầy đủ]. Từ vo sử dụng với ý nghĩa chủ cách: “Này Anuruddha, các ông có sống hòa hợp, hoan hỷ với nhau.”(ma. ni. 1.326); sử dụng với ý nghĩa đối cách: “Các ông hãy đi, này chư tỳ khưu, Như Lai đuổi các ông.” (ma. ni. 2.157); sử dụng với ý nghĩa sử dụng cách: “các ông không nên ở gần Như Lai.”(ma. ni. 2.157); sử dụng với ý nghĩa chỉ định cách: “Này chư tỳ khưu, Như Lai sẽ thuyết giảng vanapatthapariyāya [Kinh khu rừng] cho các ông.”(ma. ni. 1.190); sử dụng với ý nghĩa sở thuộc cách: “Này Sārīputta và Moggallāna, đây là lời khéo nói của tất cả các ông.”(ma. ni. 1.345); sử dụng với ý nghĩa làm cho câu đầy đủ: “Bậc Thánh Nhân nào có thân nghiệp được thanh tịnh.”(ma. ni. 1.35); Ở đây, từ ‘vo’ nên biết rằng được sử dụng với ý nghĩa chỉ định cách.

Bhikkhaveti patissavena abhimukhībhūtānaṃ punālapanaṃ. Desessāmīti desanāpaṭijānanaṃ. idaṃ vuttaṃ hoti, bhikkhave, sabbadhammānaṃ mūlakāraṇaṃ tumhākaṃ desessāmi, dutiyena nayena kāraṇadesanaṃ tumhākaṃ desessāmīti. Taṃ suṇāthāti tamatthaṃ taṃ kāraṇaṃ taṃ desanaṃ mayā vuccamānaṃ suṇātha. sādhukaṃ manasi karothāti ettha pana sādhukaṃ sādhūti ekatthametaṃ. ayañca sādhu saddo āyācana-sampaṭicchana-sampahaṃsana-sundara-daḷhīkammādīsu dissati. “sādhu me bhante bhagavā, saṃkhittena dhammaṃ desetū”tiādīsu (saṃ. ni. 4.95) hi āyācane dissati. “sādhu, bhanteti kho so bhikkhu bhagavato bhāsitaṃ abhinanditvā anumoditvā”tiādīsu (ma. ni. 3.86) sampaṭicchane. “sādhu, sādhu sāriputtā”tiādīsu (dī. ni. 3.349) sampahaṃsane.

Này chư tỳ khưu: là sự lập lại một lời thỉnh mời các tỳ khưu ở trước mặt Thế Tôn để lắng nghe. Ta sẽ thuyết: là nói để cho biết sẽ thuyết Pháp. Được nói như vầy, chư tỳ khưu, Ta sẽ thuyết căn bản của tất cả Pháp cho các ông, Ta sẽ thuyết về duyên cớ là nhân theo cách thứ hai đến các ông.  Hãy lắng nghe điều đó: Các ông hãy lắng nghe ý nghĩa đó là nhân ấy, bao gồm cả lời thuyết giảng đó mà Ta sẽ nói. Hãy khéo léo tác ý [sādhukaṃ manasikarohi]: Hơn nữa, từ ‘sādhukaṃ’ và ‘sādhu’ này có cùng một ý nghĩa. Bởi vì từ ‘sādhu’ được sử dụng với nhiều ý nghĩa như lời thỉnh cầu, sự nhận lãnh, làm vui lòng, tốt đẹp và làm cho chắc chắn v.v. Từ sādhu được sử dụng với ý nghĩa lời thỉnh cầu: “Kính bạch đức Thế Tôn, cầu xin đức Thế Tôn thuyết Pháp vắn tắt cho con.”(saṃ. ni. 4.95); sử dụng với ý nghĩa sự nhận lãnh: “Chư tỳ khưu ấy hoan hỷ tín thọ lời dạy của đức Thế Tôn, lành thay đức Thế Tôn.” (ma. ni. 3.86); sử dụng với ý nghĩa làm vui lòng: “lành thay, lành thay này Sārīputta.”(dī. ni. 3.349);

“Sādhu dhammarucī rājā, sādhu paññāṇavā naro.

Sādhu mittānamaddubbho, pāpassākaraṇaṃ sukhan”ti.

Ādīsu (jā. 2.18.101) sundare. “tena hi, brāhmaṇa, sādhukaṃ suṇāhī”tiādīsu (a. ni. 5.192) sādhukasaddoyeva daḷhīkamme, āṇattiyantipi vuccati. Idhāpi ayaṃ ettheva daḷhīkamme ca āṇattiyañca attho veditabbo. Sundaratthepi vattati. Daḷhīkaraṇatthena hi daḷhamimaṃ dhammaṃ suṇātha suggahitaṃ gaṇhantā. Āṇattiatthena mama āṇattiyā suṇātha. sundaratthena sundaramimaṃ bhaddakaṃ dhammaṃ suṇāthāti evaṃ dīpitaṃ hoti.

Sử dụng với ý nghĩa tốt đẹp: “Lành thay vị vua yêu thích với pháp! Lành thay con người có trí tuệ [sử dụng trí tuệ trong đạo lộ chân chánh]! Lành thay người không làm hại bạn bè! Không làm điều ác là hạnh phúc.” (jā. 2.18.101); Từ sādhuka cũng tương tự, sử dụng với ý nghĩa làm cho chắc chắn: “Này Bà-la-môn nếu vậy, ông hãy lắng nghe cho thật kỹ.”(a. ni. 5.192); Chính từ ấy một số vị dịch ‘làm cho chắc chắn’ là ‘mệnh lệnh’. Ở trong trường hợp này nên hiểu rằng: vừa được dịch là ‘làm cho chắc chắn, và cũng được dịch là ‘mệnh lệnh’. Ngay cả dịch là ‘tốt đẹp’ cũng thích hợp. Thật vậy, được dịch với ý nghĩa ‘làm cho chắc chắn’ để làm sáng tỏ ý nghĩa sau: ‘Hãy lắng nghe Pháp này cho thật kỹ lưỡng, nắm lấy một cách khéo léo.’ Được dịch với ý nghĩa ‘mệnh lệnh’ để làm sáng tỏ ý nghĩa sau: ‘Hãy lắng nghe Pháp theo mệnh lệnh của ta’. Được dịch với ý nghĩa ‘tốt đẹp’ để làm sáng tỏ ý nghĩa sau: ‘Hãy lắng nghe Pháp này thật kỹ lưỡng, để đạt được lời lẽ rành mạch.’

Manasi karothāti āvajjetha, samannāharathāti attho, avikkhittacittā hutvā nisāmetha citte karothāti adhippāyo. Idānettha taṃ suṇāthāti sotindriyavikkhepavāraṇametaṃ. Sādhukaṃ manasi karothāti manasikāre daḷhīkammaniyojanena manindriyavikkhepavāraṇaṃ. purimañcettha byañjanavipallāsaggāhavāraṇaṃ, pacchimaṃ atthavipallāsaggāhavāraṇaṃ. Purimena ca dhammassavane niyojeti, pacchimena sutānaṃ dhammānaṃ dhāraṇūpaparikkhādīsu. Purimena ca sabyañjano ayaṃ dhammo, tasmā savanīyoti dīpeti. Pacchimena sāttho, tasmā manasi kātabboti. sādhukapadaṃ vā ubhayapadehi yojetvā yasmā ayaṃ dhammo dhammagambhīro desanāgambhīro ca, tasmā suṇātha sādhukaṃ, yasmā atthagambhīro paṭivedhagambhīro ca, tasmā sādhukaṃ manasi karothāti evaṃ yojanā veditabbā.

Hãy tác ý: nghĩa là hãy tập trung, gom tâm lại, giải thích rằng có tâm không bị tản mạn, hãy lắng nghe, có ý muốn nói thực hiện ở trong tâm. Hơn nữa, ở đây hãy lắng nghe điều ấy này (trong mệnh lệnh) là việc ngăn ngừa sự xao lãng của nhĩ quyền. Hãy khéo tác ý điều ấy là việc ngăn ngừa sự xao lãng của ý quyền với sự kết hợp vững chắc trong sự tác ý. Và ở đây, câu đầu tiên (biểu lộ) sự cản trở nắm lấy văn tự sai lạc, còn câu sau (biểu lộ) sự cản trở nắm lấy ý nghĩa sai lạc. Và với câu đầu tiên khích lệ trong việc lắng nghe Giáo Pháp, với câu sau khích lệ để cho ghi nhớ và suy xét Pháp đã nghe. Và với câu đầu làm sáng tỏ rằng: Pháp này có sự thành tựu về văn tự, vì thế cần phải lắng nghe. Với câu sau – có sự thành tựu về ý nghĩa, vì thế cần phải khéo tác ý. Hoặc, từ sādhuka cần phải liên kết với cả 2 [‘hãy khéo tác ý – sādhukaṃ suṇāti, sādhukaṃ manasikarohi’], bởi vi Pháp này có sự thâm sâu về Pháp và có sự sâu sắc về lời giảng, do đó ‘các ông hãy khéo tác ý’; và bởi vì Pháp này có sự sâu sắc về ý nghĩa và thâm sâu về Pháp Thành, cho nên ‘các ông hãy khéo tác ý’; nên liên kết ý nghĩa như thế.

Bhāsissāmīti desessāmi. “Taṃ suṇāthā”ti ettha paṭiññātaṃ desanaṃ na saṃkhittatova desessāmi, apica kho vitthāratopi naṃ bhāsissāmīti vuttaṃ hoti, saṅkhepavitthāravācakāni hi etāni padāni. yathāha vaṅgīsatthero —

“Saṃkhittenapi deseti, vitthārenapi bhāsati.

Sāḷikāyiva nigghoso, paṭibhānaṃ udīrayī”ti. (saṃ. ni. 1.214).

Bhāsissāmi [Ta sẽ nói]: Như Lai sẽ thuyết giảng, tức là Như Lai sẽ không thuyết vắn tắt Pháp thoại đã được tuyên bố như vầy: “các ông hãy lắng nghe vấn đề ấy.” Và lại nữa, có lời giải thích như sau: Ta sẽ nói vấn đề đó một cách rộng rãi. Do đó, trưởng lão Vaṅgīsa đã nói như sau:

Dầu trưởng lão Sārīputta thuyết giảng vắn tắt, hay thuyết giảng chi tiết đi nữa, thì âm thanh của ngài đều ngân vang tựa như là tiếng chim sāḷikā, vị ấy đã nói lên tài hùng biện. (saṃ. ni. 1.214).

Evaṃ vutte ussāhajātā hutvā evaṃ bhanteti kho te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ satthu vacanaṃ sampaṭicchiṃsu, paṭiggahesunti vuttaṃ hoti. Atha nesaṃ bhagavā etadavoca etaṃ idāni vattabbaṃ idha bhikkhavotiādikaṃ sakalaṃ suttaṃ avoca. Tattha idhāti desāpadese nipāto. svāyaṃ katthaci lokaṃ upādāya vuccati. yathāha — “idha tathāgato loke uppajjatī”ti (dī. ni. 1.190). katthaci sāsanaṃ. yathāha — “idheva, bhikkhave, samaṇo, idha dutiyo samaṇo”ti (a. ni. 4.241). katthaci okāsaṃ. yathāha —

“Idheva tiṭṭhamānassa, devabhūtassa me sato.

Punarāyu ca me laddho, evaṃ jānāhi mārisāti” (dī. ni. 2.369).

Khi nói như vậy chư tỳ khưu đó khởi lên sự nỗ lực để tiếp thâu lời Phật dạy, chấp nhận là tiếp nhận lời dạy của bậc Đạo Sư rằng: như vậy, bạch Thế Tôn. Sau đó, đức Thế Tôn đã thuyết lời này, là đã thuyết toàn bộ bài kinh này, là phải thuyết tiếp tục (bài Kinh) bắt đầu như sau: idha bhikkhave [ở đây này chư tỳ khưu]. Ở đây, idha trong từ idha bhikkhave ấy là phân từ, sử dụng với ý nghĩa nói đến địa phương. Idha này đây một vài chỗ nói đề cập đến thế gian. Như đã được nói trong câu sau: Như Lai xuất hiện ở thế gian này.” (dī. ni. 1.190); Một vài chỗ nói đề cập đến Giáo Pháp, như đã được nói trong câu sau: “Này chư tỳ khưu, chính trong Giáo Pháp này có Sa-môn thứ nhất, có Sa-môn thứ hai trong Giáo Pháp này.” (a. ni. 4.241); Một vài chỗ nói đề cập đến hư không, như đã được nói trong câu sau:

“Khi ta có trạng thái vị Thiên nhân, đang đứng ở tại hư không ấy, và ta đã có được tuổi thọ lần nữa, ngài hãy biết như vậy.” (dī. ni. 2.369);

Katthaci padapūraṇamattameva. yathāha “idhāhaṃ — bhikkhave, bhuttāvī assaṃ pavārito”ti (ma. ni. 1.30). idha pana lokaṃ upādāya vuttoti veditabbo.

Một vài chỗ ‘chỉ làm cho câu được đầy đủ’ như đã được nói trong câu sau: ‘Này chư tỳ khưu, Như Lai đã thọ dụng xong, khước từ vật thực [dâng thêm].” (ma. ni. 1.30); Nhưng ‘idha’ trong trường hợp này nên biết rằng: Ngài nói đề cập đến ‘thế gian’.

  1. Bhikkhaveti yathāpaṭiññātaṃ desanaṃ desetuṃ puna bhikkhū ālapati. ubhayenāpi, bhikkhave, imasmiṃ loketi vuttaṃ hoti. assutavā puthujjanoti ettha pana āgamādhigamābhāvā ñeyyo assutavā iti. yassa hi khandhadhātuāyatanasaccapaccayākārasatipaṭṭhānādīsu uggahaparipucchāvinicchayarahitattā maññanāpaṭisedhako neva āgamo, paṭipattiyā adhigantabbassa anadhigatattā neva adhigamo atthi. so āgamādhigamābhāvā ñeyyo assutavā iti. svāyaṃ —

Puthūnaṃ jananādīhi, kāraṇehi puthujjano.

Puthujjanantogadhattā, puthuvāyaṃ jano iti.

[2] Này chư tỳ khưu: đức Thế Tôn gọi chư tỳ khưu đến lần nữa để thuyết giảng như đã  được thừa nhận. Cả 2 từ Ngài đã giải thích rằng ‘này chư tỳ khưu, ở đời này.’ Lại nữa, ở đây assutavā puthujjano [có kẻ phàm nhân không lắng nghe], phàm nhân là vị ấy cần được nhận thức, do không có sự hiểu biết về pháp học [agama], không lắng nghe do không có sự thực hành pháp [adhigama]. Kẻ phàm nhân nào không có sự hiểu biết về pháp học để diệt tận vô minh do có sự ngăn chặn biểu hiện của ngã mạn, đã từ bỏ việc học, hỏi và sự phân biệt các uẩn, xứ, giới, đế, lý duyên khởi và các sự thiết lập niệm v.v…, [khandha-dhātu-āyatana-sacca-paccayākāra-satipaṭṭhāna] và cũng không có những thành tựu về pháp hành bởi vì vị ấy không thành tựu pháp đáng được thành tựu do việc thực hành. Kẻ phàm nhân ấy được gọi là ‘cần được nhận thức’ do không có pháp học, không lắng nghe do không có pháp hành.

Người được gọi là kẻ phàm nhân bởi những lý do sau: sản sinh ra các phiền não dày đặc, hơn nữa người này được gọi là phàm nhân bởi bị nhận chìm trong phiền não dày đặc.

So hi puthūnaṃ nānappakārānaṃ kilesādīnaṃ jananādīhi kāraṇehi puthujjano. yathāha — puthu kilese janentīti puthujjanā, puthu avihatasakkāyadiṭṭhikāti puthujjanā, puthu satthārānaṃ mukhamullokikāti puthujjanā, puthu sabbagatīhi avuṭṭhitāti puthujjanā, puthu nānābhisaṅkhāre abhisaṅkharontīti puthujjanā, puthu nānāoghehi vuyhantīti puthujjanā, puthu nānāsantāpehi santappantīti puthujjanā, puthu nānāpariḷāhehi paridayhantīti puthujjanā, puthu pañcasu kāmaguṇesu rattā giddhā gadhitā mucchitā ajjhosannā laggā lagitā palibuddhāti puthujjanā, puthu pañcahi nīvaraṇehi āvuṭā nivutā ovutā pihitā paṭicchannā paṭikujjitāti puthujjanāti (mahāni. 51). puthūnaṃ vā gaṇanapathamatītānaṃ ariyadhammaparammukhānaṃ nīcadhammasamācārānaṃ janānaṃ antogadhattāpi puthujjanā. puthu vā ayaṃ, visuṃyeva saṅkhaṃ gato, visaṃsaṭṭho sīlasutādiguṇayuttehi ariyehi janotipi puthujjano. evametehi “assutavā puthujjano”ti dvīhipi padehi yete —

Duve puthujjanā vuttā, buddhenādiccabandhunā.

Andho puthujjano eko, kalyāṇeko puthujjanoti. —

Thật vậy, người ấy được gọi là phàm nhân bởi nhiều nguyên nhân như vẫn còn phiền não dày đặc khởi lên dưới nhiều hình thức v.v. Như Ngài Dhammasaṃgāhaka đã nói rằng: Gọi là kẻ phàm nhân bởi ý nghĩa là người làm sản sinh ra các phiền não khác nhau. Gọi là kẻ phàm nhân bởi ý nghĩa là người có về nhận thức sai trái về thân chưa được phá tan. Gọi là kẻ phàm nhân bởi ý nghĩa là người tin theo nhiều vị thầy khác nhau. Gọi là kẻ phàm nhân bởi ý nghĩa là người chưa được ra khỏi mọi cảnh giới tái sanh khác nhau. Gọi là kẻ phàm nhân bởi ý nghĩa là người tạo ra các sự tạo tác khác nhau. Gọi là kẻ phàm nhân bởi ý nghĩa là người bị các dòng lũ khác nhau cuốn trôi đi. Gọi là kẻ phàm nhân bởi ý nghĩa là người bị nóng đốt bởi nhiều sự nóng đốt đa dạng. Gọi là kẻ phàm nhân bởi ý nghĩa là người bị thiêu đốt bởi nhiều sự bực bội đa dạng. Gọi là kẻ phàm nhân bởi ý nghĩa là người bị luyến ái, bị quyến rũ, bị buộc trói, bị mê đắm, bị kẹt lại, bị dính vào, bị vướng vào, bị cột lại trong năm loại dục đa dạng. Gọi là kẻ phàm nhân bởi ý nghĩa là người bị năm pháp ngăn che đa dạng buộc chặt, bị che đậy, bị giữ kín, bị đậy kín bị nhận chìm.” (mahāni. 51). Lại nữa, gọi là kẻ phàm nhân bởi vì trong vô số hạng người không thể kể xiết sống thực hành theo Pháp hạ liệt và quay mặt (chống lại) Pháp của bậc thánh. Lại nữa, gọi là kẻ phàm nhân bởi ý nghĩa là người này được tính khác biệt không liên hệ đến các bậc thánh, phối hợp với những đức hạnh như giới, nghe nhiều v.v. Với 2 câu này assutavā puthujjano [có kẻ phàm nhân không lắng nghe], như đã nói, thì trong số 2 hạng phàm nhân được nói đến –

Đức Phật, đấng quyến thuộc của mặt trời, đã thuyết giảng về hai hạng phàm nhân là một hạng phàm nhân tối trí và một hạng phàm nhân sáng trí,

Dve puthujjanā vuttā. tesu andhaputhujjano vutto hotīti veditabbo. ariyānaṃ adassāvītiādīsu ariyāti ārakattā kilesehi, anaye nairiyanato, aye iriyanato, sadevakena ca lokena araṇīyato buddhā ca paccekabuddhā ca buddhasāvakā ca vuccanti, buddhā eva vā idha ariyā. yathāha “sadevake, bhikkhave, loke … pe … tathāgato ariyoti vuccatī”ti (saṃ. ni. 5.1098). sappurisāti ettha pana paccekabuddhā tathāgatasāvakā ca “sappurisā”ti veditabbā. te hi lokuttaraguṇayogena sobhanā purisāti sappurisā. sabbeva vā ete dvedhāpi vuttā. buddhāpi hi ariyā ca sappurisā ca, paccekabuddhā buddhasāvakāpi. yathāha —

Yo ve kataññū katavedi dhīro, Kalyāṇamitto daḷhabhatti ca hoti.

Dukhitassa sakkacca karoti kiccaṃ, Tathāvidhaṃ sappurisaṃ vadantī”ti. (jā. 2.17.78).

Nên biết rằng Ngài có ý muốn nói đến hạng phàm nhân thiểu trí. Từ ariya [Thánh nhân] trong từ ariyānaṃ adassāvī [không thấy pháp của bậc Thánh] Ngài có ý muốn nói đến đức Phật Toàn Giác, đức Phật Độc Giác, và chư Thánh thinh văn đệ tử của đức Phật bởi các Ngài là bậc đã xa lìa phiền nào, không đi vào con đường xa đọa, đi đến đạo lộ phát triển, và (đạo lô đó) người nhân loại cả chư thiên cần phải đi theo. Hơn nữa, bậc Thánh nhân trong trường hợp này chính là đức Phật. Như đức Phật thuyết rằng: “Này chư tỳ khưu, Như Lai, Ngài gọi là Thánh nhân trong thế giới loài người và thế giới chư Thiên v.v, (saṃ. ni. 5.1098). Lại nữa, ở đây đức Phật Độc Giác và chư Thánh thinh văn đệ tử của Như Lai phải biết rằng là bậc Chân Nhân trong từ sappurisā này, thật vậy đức Phật-độc-giác v.v, đó gọi là sobhaṇapurisa [người chói sáng]. Bởi vì phối hợp với ân đức siêu thế, cho nên mới được gọi là bậc Chân Nhân. Lại nữa, tất cả bậc Chân Nhân, Ngài chia thành 2 nhóm. Thật vậy, đức Phật Toàn Giác, hay đức Phật Độc Giác và chu Thinh văn đệ tử của đức Phật đều là bậc Thánh và bậc Chân Nhân. Như Ngài đã nói rằng:

Người nào là bậc sáng trí, người tri ân và biết báo ân, người bạn tốt lành có sự thân thiện vững chắc; người làm phận sự cẩn trọng (trợ giúp) đối với kẻ bị đau khổ, các bậc trí nói người như thế là bậc Chân Nhân. (jā. 2.17.78).

Kalyāṇamitto daḷhabhatti ca hotīti ettāvatā hi buddhasāvako vutto, kataññutādīhi paccekabuddhā buddhāti. idāni yo tesaṃ ariyānaṃ adassanasīlo, na ca dassane sādhukārī, so ariyānaṃ adassāvīti veditabbo. so ca cakkhunā adassāvī ñāṇena adassāvīti duvidho, tesu ñāṇena adassāvī idha adhippeto. maṃsacakkhunā hi dibbacakkhunā vā ariyā diṭṭhāpi adiṭṭhāva honti. tesaṃ cakkhūnaṃ vaṇṇamattaggahaṇato, na ariyabhāvagocarato. soṇasiṅgālādayopi ca cakkhunā ariye passanti. na ca te ariyānaṃ dassāvino.

Chỉ với chừng ấy lời ‘kalyāṇamitto daḷhabhatti ca hoti [là người bạn tốt lành, và có lòng nhiệt tình bền vững]’ Ngài có ý muốn nói đến chư Thánh Thinh Văn đệ tử của đức Phật, kataññutā [người tri ân] v.v, ngài muốn đề cập đến đức Phật Toàn Giác, và đức Phật Độc Giác. Bây giờ, người nào không có thói quen quan sát bậc Thánh và không hoan hỷ trong việc nhìn thấy các Ngài, người đó nên biết rằng: không có thói quen quan sát các bậc Thánh và việc nhìn thấy đó được chia làm 2 là không nhìn thấy bằng mắt, không nhìn thấy bằng trí. Trong 2 việc cách nhìn đó thỉ ở đây Ngài muốn nói đến ‘việc không nhìn thấy bằng trí’. Thật vậy, mặc dù vị ấy nhìn thấy các bậc Thánh bằng mắt thịt hoặc bằng thiên nhãn, thì cũng không được gọi là nhìn thấy. Bởi vì con mắt này chỉ nắm lấy hình tướng bên ngoài của các bậc Thánh, không phải nắm bắt bản thể bậc Thánh làm đối tượng.  Ngay cả chó nhà, chó rừng nhìn thấy các bậc Thánh bằng hai mắt, nhưng mà chó nhà v.v, đó cũng không phải là nhìn thấy các bậc Thánh.

Tatridaṃ vatthu – cittalapabbatavāsino kira khīṇāsavattherassa upaṭṭhāko vuḍḍhapabbajito ekadivasaṃ therena saddhiṃ piṇḍāya caritvā therassa pattacīvaraṃ gahetvā piṭṭhito āgacchanto theraṃ pucchi ‘‘ariyā nāma, bhante, kīdisā’’ti. Thero āha ‘‘idhekacco mahallako ariyānaṃ pattacīvaraṃ gahetvā vattapaṭipattiṃ katvā sahacarantopi neva ariye jānāti, evaṃ dujjānā, āvuso, ariyā’’ti. Evaṃ vuttepi so neva aññāsi. Tasmā na cakkhunā dassanaṃ dassanaṃ, ñāṇena dassanameva dassanaṃ. Yathāha ‘‘kiṃ te, vakkali, iminā pūtikāyena diṭṭhena, yo kho, vakkali , dhammaṃ passati, so maṃ passatī’’ti (saṃ. ni. 3.87). Tasmā cakkhunā passantopi ñāṇena ariyehi diṭṭhaṃ aniccādilakkhaṇaṃ apassanto ariyādhigatañca dhammaṃ anadhigacchanto ariyakaradhammānaṃ ariyabhāvassa ca adiṭṭhattā ‘‘ariyānaṃ adassāvī’’ti veditabbo.

Đây là câu chuyện minh họa: Kể rằng vị thị giả của trưởng lão đã đoạn tận lậu hoặc đang trú ngụ tại Cittalapabbata, vị xuất gia lúc tuổi về già. Một hôm, trong khi đi khất thực cùng với trưởng lão, vị ấy cầm lấy bình bát và y phục của thầy đi theo phía sau, đã hỏi rằng: “Bạch ngài, hạng người như thế nào được gọi là bậc Thánh?” – Trưởng lão đáp rằng: “Một số người trong đời này là người già cầm lấy bình bát và y phục của trưởng lão đang làm các bổn phận nên làm, đi với một bậc Thánh nhân, cũng không biết bậc Thánh. Này con, thật khó để nhận biết các bậc thánh.” Dù cho vị trưởng lão nói thế, vị thị giả vẫn không hiểu. Bởi thế, việc thấy bằng mắt không gọi là thấy, chỉ có việc thấy bằng trí mới gọi là thấy. Như đức Phật thuyết rằng: “Này Vakkali, lợi ích gì với cái thân hôi thối này mà ông nhìn thấy? Này Vakkali, người nào nhìn thấy Pháp, người đó được gọi là nhìn thấy Như Lai” (saṃ. ni. 3.87). Do vậy, mặc dù người nhìn thấy các bậc Thánh bằng mắt, nhưng không thấy Tam tướng có tướng vô thường v.v, mà các bậc Thánh đã nhìn thấy bằng trí tuệ và không chứng ngộ các pháp mà các bậc thánh đã chứng ngộ, nên biết rằng không nhìn thấy các bậc Thánh nhân bởi vì các pháp làm cấu thành một Thánh nhân vẫn không được thấy và bản thể của bậc Thánh mà người đó vẫn không nhìn thấy.

Ariyadhammassa akovidoti satipaṭṭhānādibhede ariyadhamme akusalo. Ariyadhamme avinītoti ettha pana –

Duvidho vinayo nāma, ekamekettha pañcadhā;

Abhāvato tassa ayaṃ, ‘‘avinīto’’ti vuccati.

Ariyadhammassa akovido [không thuần thục pháp các bậc Thánh] nghĩa là không thiện xảo trong pháp của các bậc Thánh được chia chẻ thành sự thiết lập của niệm v.v, Ở đây,

Gọi là Luật có 2 loại, mỗi phần (trong 2 loại ấy) được chia thành năm. Bởi không có 2 Luật này nên ngài gọi là không rèn luyện.

Ayañhi saṃvaravinayo pahānavinayoti duvidho vinayo. Ettha ca duvidhepi vinaye ekameko vinayo pañcadhā bhijjati. Saṃvaravinayopi hi sīlasaṃvaro satisaṃvaro ñāṇasaṃvaro khantisaṃvaro vīriyasaṃvaroti pañcavidho. Pahānavinayopi tadaṅgapahānaṃ vikkhambhanapahānaṃ samucchedapahānaṃ paṭippassaddhipahānaṃ nissaraṇapahānanti pañcavidho.

Luật này có hai loại: sự thu thúc bằng giới luật sự đoạn trừ do nhổ bỏ. Mỗi phần trong hai loại luật này lại chia thành năm. Sự thu thúc bằng giới luật là sự thu thúc bằng giới, sự thu thúc bằng niệm, sự thu thúc bằng trí, sự thu thúc do kham nhẫn và sự thu thúc do nỗ lực. Và sự đoạn trừ do nhổ bỏ cũng có 5 tương tự: sự từ bỏ do thay thế, sự đoạn trừ do chế ngự,  sự từ bỏ nhờ đoạn trừ , sự từ bỏ nhờ an tịnh và sự từ bỏ nhờ giải thoát.

Tattha ‘‘iminā pātimokkhasaṃvarena upeto hoti samupeto’’ti (vibha. 511) ayaṃ sīlasaṃvaro. ‘‘Rakkhati cakkhundriyaṃ cakkhundriye saṃvaraṃ āpajjatī’’ti (dī. ni. 1.213; ma. ni. 1.295; saṃ. ni. 4.239; a. ni. 3.16) ayaṃ satisaṃvaro.

‘‘Yāni sotāni lokasmiṃ, (ajitāti bhagavā)

Sati tesaṃ nivāraṇaṃ;

Sotānaṃ saṃvaraṃ brūmi,

Paññāyete pidhīyare’’ti. (su. ni. 1041);

Ở đây “Vị tỳ khưu đạt đến hoàn toàn bằng sự thu thúc của giới bổn Pātimokkha” (vibha. 511), đây gọi là sự thu thúc bằng giới; “Vị tỳ khưu hộ trì nhãn quyền, vị ấy đạt đến sự thu thúc trong nhãn quyền” (dī. ni. 1.213; ma. ni. 1.295; saṃ. ni. 4.239; a. ni. 3.16) đây là sự thu thúc bằng niệm;

Đức Thế Tôn dạy rằng: “Này Ajita, những dòng nước [tham ái] nào hiện hữu trong thế giới, niệm là phương tiện dùng để ngăn dòng chảy đó. Như Lai nói niệm là sự ngăn chặn các dòng nước. Dòng chảy đó được đoạn trừ bằng tuệ” (su. ni. 1041), đây gọi là sự thu thúc bằng trí.

‘‘Khamo hoti sītassa uṇhassā’’ti (ma. ni. 1.23; a. ni. 4.114; 6.58) ayaṃ khantisaṃvaro. ‘‘Uppannaṃ kāmavitakkaṃ nādhivāsetī’’ti (ma. ni. 1.26; a. ni. 4.114; 6.58) ayaṃ vīriyasaṃvaro. Sabbopi cāyaṃ saṃvaro yathāsakaṃ saṃvaritabbānaṃ vinetabbānañca kāyaduccaritādīnaṃ saṃvaraṇato ‘‘saṃvaro’’, vinayanato ‘‘vinayo’’ti vuccati. Evaṃ tāva saṃvaravinayo pañcadhā bhijjatīti veditabbo.

“Vị tỳ khưu kham nhẫn từ cái lạnh và cái nóng” (ma. ni. 1.23; a. ni. 4.114; 6.58) đây là sự thu thúc do kham nhẫn. “Vị tỳ khưu ngăn chặn sự suy tầm về dục đã sanh (không sanh khởi)” (ma. ni. 1.26; a. ni. 4.114; 6.58) đây là sự thu thúc do tin tấn. Tất cả sự thu thúc này được gọi là ‘thu thúc, chế ngự’ bởi là phương tiện chế ngự các uế hạnh về thân và các uế hạnh về lời v.v, mà bản thân cần phải chế ngự theo bổn phận của chính mình và gọi là luật bởi vì là phương tiện diệt tận các uế hạnh về thân và các uế hạnh về lời v.v, cần phải diệt trừ theo phận sự của chính mình. Như vậy sự thu thúc bằng giới luật được chia thành năm phần như đã giải thích trước.

Tathā yaṃ nāmarūpaparicchedādīsu vipassanāñāṇesu paṭipakkhabhāvato dīpālokeneva tamassa, tena tena vipassanāñāṇena tassa tassa anatthassa pahānaṃ. Seyyathidaṃ, nāmarūpavavatthānena sakkāyadiṭṭhiyā, paccayapariggahena ahetuvisamahetudiṭṭhīnaṃ, tasseva aparabhāgena kaṅkhāvitaraṇena kathaṃkathībhāvassa, kalāpasammasanena ‘‘ahaṃ mamā’’ti gāhassa, maggāmaggavavatthānena amagge maggasaññāya, udayadassanena ucchedadiṭṭhiyā, vayadassanena sassatadiṭṭhiyā, bhayadassanena sabhaye abhayasaññāya, ādīnavadassanena assādasaññāya, nibbidānupassanāya abhiratisaññāya, muccitukamyatāñāṇena amuccitukamyatāya, upekkhāñāṇena anupekkhāya, anulomena dhammaṭṭhitiyaṃ nibbāne ca paṭilomabhāvassa, gotrabhunā saṅkhāranimittaggāhassa pahānaṃ, etaṃ tadaṅgapahānaṃ nāma.

Trong những loại từ bỏ này, có bằng minh sát tuệ đó vì là pháp đối nghịch, trong trí về minh sát có trí phân biệt danh sắc v.v, giống như bóng tối được xua tan khi ánh sáng của ngọn đèn xuất hiện. Như vậy thân kiến được từ bỏ bằng sự xác định danh và sắc, từ bỏ vô nhân kiến và hữu nhân kiến không tương đồng bằng việc xác định các duyên, từ bỏ sự hoài nghi bằng sự vượt qua sự nghi ngờ, đó cũng chính là phần kế tiếp của việc xác định duyên; từ bỏ sự chấp thủ rằng ‘ta’ và ‘của ta’ bằng việc quán chiếu về các nhóm [tổng hợp sắc, bọn sắc, kalāpa], từ bỏ suy tưởng đạo trong phi đạo bằng việc xác định về đạo và phi đạo, từ bỏ đoạn kiến bằng cái thấy về sự sinh khởi, từ bỏ thường kiến bằng việc quán chiếu thấy sự biến hoại, tưởng về không sợ hãi trong sự sợ hãi bằng sự quán xét thấy sự sợ hãi, tưởng về sự thích thú hoan hỷ (được từ bỏ) bằng việc quán xét thấy lỗi lầm, tưởng về sự vui thích (được từ bỏ) bằng việc quán xét về sự nhàm chán, từ bỏ sự không muốn giải thoát bằng trí muốn giải thoát, từ bỏ sự không buông xả bằng trí về xả, từ bỏ sự diễn tiến trái ngược về sự hiện diện của các pháp và trái nghịch với với Niết Bàn bằng trí thuận dòng, từ bỏ sự nắm bắt tướng của các hành bằng trí chuyển tộc. Đây được gọi là sự từ bỏ do thay thế.

Yaṃ pana upacārappanābhedena samādhinā pavattibhāvanivāraṇato ghaṭappahāreneva udakapiṭṭhe sevālassa tesaṃ tesaṃ nīvaraṇādidhammānaṃ pahānaṃ, etaṃ vikkhambhanapahānaṃ nāma.

Sự từ bỏ các pháp ngăn che đó, v.v… bằng năng lực chế ngự của định được chia thành cận định hoặc an chỉ định vì ngăn chặn sự diễn tiến của các pháp ngăn che. Tựa như việc tách rời rong rêu trên bề mặt nước bằng cách đập mạnh vào mặt nước với cái bình, đây gọi là sự từ bỏ do chế ngự.

Yaṃ catunnaṃ ariyamaggānaṃ bhāvitattā taṃtaṃmaggavato attano attano santāne ‘‘diṭṭhigatānaṃ pahānāyā’’tiādinā (dha. sa. 277) nayena vuttassa samudayapakkhikassa kilesagaṇassa accantaṃ appavattibhāvena pahānaṃ, idaṃ samucchedapahānaṃ nāma. Yaṃ pana phalakkhaṇe paṭippassaddhattaṃ kilesānaṃ, etaṃ paṭippassaddhipahānaṃ nāma. Yaṃ sabbasaṅkhatanissaṭattā pahīnasabbasaṅkhataṃ nibbānaṃ etaṃ nissaraṇapahānaṃ nāma. Sabbampi cetaṃ pahānaṃ yasmā cāgaṭṭhena pahānaṃ, vinayanaṭṭhena vinayo, tasmā ‘‘pahānavinayo’’ti vuccati. Taṃtaṃpahānavato vā tassa tassa vinayassa sambhavatopetaṃ ‘‘pahānavinayo’’ti vuccati. Evaṃ pahānavinayopi pañcadhā bhijjatīti veditabbo.

 Còn việc từ bỏ phiền não trong căn tánh của chính mình, thuộc về một phần tập khởi [samudaya] được đức Thế Tôn thuyết theo cách sau: ‘Sự diệt trừ đối với các khuynh hướng tà kiến’ (dha. sa. 277), của một nhóm phiền não không thể trở lại diễn tiến nữa một cách tuyệt đối của hành giả có đạo [chứng đắc đạo] đó, do đã phát triển bốn Thánh đạo, đây gọi là sự từ bỏ do giải thoát. Lại nữa, tất cả phiền não đã được vắng lặng ở sát-na quả, đó được gọi là sự từ bỏ do an tịnh. Niết Bàn đó (được gọi là) đã đoạn tận tất cả pháp hữu vi, đã thoát khỏi tất cả pháp do duyên sanh, đó gọi là sự từ bỏ do giải thoát. Bởi thế, tất cả sự từ bỏ gọi là sự đoạn trừ với ý nghĩa dứt bỏ, và gọi là luật với ý nghĩa nhổ bỏ, do đó Ngài gọi là sự đoạn trừ do nhổ bỏ. Hơn nữa, và cũng do việc đoạn trừ phiền não, làm khởi lên sự nhổ bỏ [phiền não] đó bằng tất cả sự đoạn trừ, ngài gọi là sự đoạn trừ do nhổ bỏ. Nên biết rằng ‘sự đoạn trừ do nhổ bỏ’ được chia thành năm phần như vậy.

Evamayaṃ saṅkhepato duvidho, bhedato ca dasavidho vinayo bhinnasaṃvarattā pahātabbassa ca appahīnattā yasmā etassa assutavato puthujjanassa natthi, tasmā abhāvato tassa ayaṃ avinītoti vuccatīti. Esa nayo sappurisānaṃ adassāvī sappurisadhammassa akovido sappurisadhamme avinītoti etthapi. Ninnānākaraṇañhi etaṃ atthato. Yathāha ‘‘yeva te ariyā, teva te sappurisā. Yeva te sappurisā, teva te ariyā. Yo eva so ariyānaṃ dhammo, so eva so sappurisānaṃ dhammo. Yo eva so sappurisānaṃ dhammo, so eva so ariyānaṃ dhammo. Yeva te ariyavinayā, teva te sappurisavinayā. Yeva te sappurisavinayā, teva te ariyavinayā. Ariyeti vā sappuriseti vā, ariyadhammeti vā sappurisadhammeti vā, ariyavinayeti vā sappurisavinayeti vā esese eke ekatthe same samabhāge tajjāte taññevā’’ti.

Vinaya này nói gọn có 2, nói chi tiết có 10 như đã được giải thích, bởi vì sự thu thúc bị phá vỡ và bởi vì chưa đoạn trừ những pháp cần được đoạn trừ, kẻ phàm nhân không lắng nghe, không có sự rèn luyện theo luật này như được diễn tả ngắn gọn thành 2 phần và chia sẻ chi tiết thành mười chi phần, kẻ phàm nhân đó được đức Thế Tôn gọi là  ‘không được rèn luyện.’ Sappurisānaṃ adassāvī [không thấy các bậc Chân nhân], sappurisadhammassa akovido [không thuần thục trong Pháp của bậc Chân nhân], sappurisadhamme avinīto [không được rèn luyện trong Pháp của bậc Chân nhân] cũng theo phương pháp tương tự. Trong câu này, ý nghĩa chằng có gì khác biệt. Như đã nói: “Các bậc Thánh cũng chính là các bậc Chân nhân, và các bậc Chân nhân cũng chính là các bậc Thánh; Pháp của các bậc Thánh cũng chính là Pháp của bậc Chân nhân, và Pháp của các bậc Chân nhân cũng chính là Pháp của bậc Thánh; Luật của các bậc Thánh cũng chính là Luật của bậc Chân nhân, và Luật của các bậc Chân nhân cũng chính là Luật của bậc Thánh.” bậc Thánh, hoặc bậc Chân nhân, hay pháp của bậc Thánh, hoặc Pháp của bậc Chân nhân, hay luật của bậc Thánh, hoặc Luật của của bậc Chân nhân, tất cả những từ này là những từ đồng nhất, có ý nghĩa tương đương, tương đồng, ngang nhau về giá trí, có nguồn gốc như nhau (có thể hoán đổi vị trí).

‘‘Kasmā pana bhagavā sabbadhammamūlapariyāyaṃ vo, bhikkhave, desessāmī’’ti vatvā taṃ adesetvāva ‘‘idha, bhikkhave, assutavā puthujjano ariyānaṃ adassāvī’’ti evaṃ puthujjanaṃ niddisīti? Puggalādhiṭṭhānāya dhammadesanāya tamatthaṃ āvikātuṃ. Bhagavato hi dhammādhiṭṭhānā dhammadesanā, dhammādhiṭṭhānā puggaladesanā, puggalādhiṭṭhānā puggaladesanā, puggalādhiṭṭhānā dhammadesanāti dhammapuggalavaseneva tāva catubbidhā desanā.

Tại sao đức Thế Tôn lại thuyết rằng “này chư tỳ khưu, Như Lai sẽ chỉ bảo cho các ông pháp môn căn bản về tất cả các pháp, nhưng không thuyết bài Kinh đó ngay mà trở lại chỉ ra hạng phàm nhân như vầy: “Ở đây, này các tỳ khưu, kẻ phàm nhân không được lắng nghe, không thấy các bậc Thánh”. Vì sẽ làm sáng tỏ ý nghĩa bằng sự thuyết giảng Giáo pháp lấy cả nhân làm nền tảng [puggalādhiṭṭhāna]. Thật vậy, việc thuyết giảng của đức Thế Tôn có bốn loại bởi mãnh lực của các pháp và hạng người: (1) sự thuyết giảng Giáo Pháp lấy Pháp làm nền tảng [dhammādhiṭṭhānā dhammadesanā]; (2) sự thuyết giảng về hạng người lấy Pháp làm nền tảng [dhammādhiṭṭhānā puggaladesanā]; (3) sự thuyết giảng về hạng người lấy hạng người làm nền tảng [puggalādhiṭṭhānā puggaladesanā]; (4) sự thuyết giảng Giáo Pháp lấy hạng người làm nền tảng [puggalādhiṭṭhānā dhammadesanā].

Tattha, ‘‘tisso imā, bhikkhave, vedanā. Katamā tisso? Sukhā vedanā dukkhā vedanā adukkhamasukhā vedanā. Imā kho, bhikkhave, tisso vedanā’’ti (saṃ. ni. 4.250) evarūpī dhammādhiṭṭhānā dhammadesanā veditabbā. ‘‘Cha dhātuyo ayaṃ putiso cha phassāyatano aṭṭhārasa manopavicāro caturādhiṭṭhāno’’ti (ma. ni. 3.343) evarūpī dhammādhiṭṭhānā puggaladesanā. ‘‘Tayome, bhikkhave, puggalā santo saṃvijjamānā lokasmiṃ. Katame tayo? Andho ekacakkhu dvicakkhu. Katamo ca, bhikkhave, puggalo andho’’ti? (A. ni. 3.29) evarūpī puggalādhiṭṭhānā puggaladesanā. ‘‘Katamañca, bhikkhave, duggatibhayaṃ? Idha, bhikkhave, ekacco iti paṭisañcikkhati, kāyaduccaritassa kho pāpako vipāko abhisamparāyaṃ…pe… suddhamattānaṃ pariharati. Idaṃ vuccati, bhikkhave, duggatibhaya’’nti (a. ni. 4.121) evarūpī puggalādhiṭṭhānā dhammadesanā.

Trong trường hợp đó, “Này các tỳ khưu có ba thọ này, ba thọ đó là gì? Lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ. Thật vậy, này chư tỳ khưu, có ba thọ” (saṃ. ni. 4.250), nên biết rằng đây là sự thuyết giảng Giáo Pháp lấy Pháp làm nền tảng có hình thức như vậy. “Này chư tỳ khưu, người này có sáu giới, sáu xúc xứ, mười tám ý hành [manopavicāro], bốn sự quyết định” (ma. ni. 3.343), nên biết rằng đây là sự thuyết giảng về hạng người lấy pháp làm nền tảng có hình thức như vậy. “Này các tỳ khưu, có ba hạng người xuất hiện ở đời, thế nào là ba? là người mù, người có một mắt, người có hai mắt. Như vậy, này chư tỳ khưu thể nào là người mù?” (a. ni. 3.29), nên biết rằng đây là sự thuyết giảng về hạng người lấy hạng người làm nền tảng có hình thức như vậy. “Này các tỳ khưu, thế nào là sự sợ hãi về khổ cảnh? Này các tỳ khưu, một số người trong đời này quán xét thấy rằng: ‘ác hành về thân có quả dị thục là ác trong đời sống vị lai…vị ấy gìn giữ tự thân thanh tịnh. Này các tỳ khưu, đây gọi là sự sợ hãi về khổ cảnh.” (a. ni. 4.121), nên biết rằng đây là sự thuyết giảng Giáo pháp lấy hạng người làm nền tảng có hình thức như vậy.

Svāyaṃ idha yasmā puthujjano apariññātavatthuko, apariññāmūlikā ca idhādhippetānaṃ sabbadhammānaṃ mūlabhūtā maññanā hoti, tasmā puthujjanaṃ dassetvā puggalādhiṭṭhānāya desanāya tamatthaṃ āvikātuṃ, ‘‘idha, bhikkhave, assutavā puthujjano ariyānaṃ adassāvī’’ti evaṃ puthujjanaṃ niddisīti veditabbo.

Trong trường hợp này, đức Thế Tôn khi thuyết giảng về hạng phàm nhân trước, giải thích ý nghĩa sẽ được rõ ràng của lời dạy mà có các hạng người làm nền tảng thuyết giáo, chỉ ra phàm nhân như vầy: “Ở đây, này chư tỳ khưu, kẻ phàm nhân không được lắng nghe, không nhìn thấy các bậc Thánh” bởi họ không hiểu rõ uẩn và sự tưởng tượng vốn là gốc rễ của tất cả pháp. Sự tưởng tượng này ở đây có ý muốn nói đến, trong trường hợp này cũng có ý nghĩa không hiểu rõ rốc rễ (các pháp).

Giải Thích Sơ Lược Bài Kinh Kết Thúc

 

Giải Thích Phần Đất – Pathavīvāravaṇṇanā

Evaṃ puthujjanaṃ niddisitvā idāni tassa pathavīādīsu vatthūsu sabbasakkāyadhammajanitaṃ maññanaṃ dassento, pathaviṃ pathavitotiādimāha. Tattha lakkhaṇapathavī sasambhārapathavī ārammaṇapathavī sammutipathavīti catubbidhā pathavī. Tāsu ‘‘katamā ca, āvuso, ajjhattikā pathavīdhātu? Yaṃ ajjhattaṃ paccattaṃ kakkhaḷaṃ kharigata’’ntiādīsu (vibha. 173) vuttā lakkhaṇapathavī. ‘‘Pathaviṃ khaṇeyya vā khaṇāpeyya vā’’tiādīsu (pāci. 85) vuttā sasambhārapathavī. Ye ca kesādayo vīsati koṭṭhāsā, ayolohādayo ca bāhirā. Sā hi vaṇṇādīhi sambhārehi saddhiṃ pathavīti sasambhārapathavī. ‘‘Pathavīkasiṇameko sañjānātī’’tiādīsu (dī. ni. 3.360) āgatā pana ārammaṇapathavī, nimittapathavītipi vuccati. Pathavīkasiṇajjhānalābhī devaloke nibbatto āgamanavasena pathavīdevatāti nāmaṃ labhati. Ayaṃ sammutipathavīti veditabbā. Sā sabbāpi idha labbhati. Tāsu yaṃkañci pathaviṃ ayaṃ puthujjano pathavito sañjānāti, pathavīti sañjānāti, pathavībhāgena sañjānāti, lokavohāraṃ gahetvā saññāvipallāsena sañjānāti pathavīti. Evaṃ pathavībhāgaṃ amuñcantoyeva vā etaṃ ‘‘sattoti vā sattassā’’ti vā ādinā nayena sañjānāti. Kasmā evaṃ sañjānātīti na vattabbaṃ. Ummattako viya hi puthujjano. So yaṃkiñci yena kenaci ākārena gaṇhāti. Ariyānaṃ adassāvitādibhedameva vā ettha kāraṇaṃ. Yaṃ vā parato ‘‘apariññātaṃ tassā’’ti vadantena bhagavatāva vuttaṃ.

Sau khi đức Thế Tôn thuyết về hạng phàm nhân như vầy. Bây giờ, khi thuyết đến sự tưởng tượng trong các vật [vatthu] có đất [paṭhavī] v.v, làm sanh khởi các Pháp hệ thuộc về nhận thức sai trái về thân [sakkāyadiṭṭhi] của phàm nhân ấy, đã được Ngài nói rằng: “pathaviṃ pathavito [đất là đất]”. Nơi đây, đất có bốn loại: (1) trạng thái đất, (2) đất kết hợp, (3) đất đối tượng, (4) đất chế định. Trong bốn loại đất đó: “Này các hiền giả, nguyên tố đất bên trong như thế nào? Những gì ở bên trong (có trạng thái) cứng, rắn chắc thuộc về bản thân” (vibha. 173), đây là trạng thái đất; “Vị tỳ khưu tự mình đào đất, hoặc sai khiến người đào đất” (pāci. 85), đây là đất kết hợp; Lại nữa “hai mươi bộ phận của thân bắt đầu với tóc v.v…. và những vật [vatthu] bên ngoài như sắt và đồng, cùng với các loại tài sản, có màu sắc v.v… kết hợp lại cũng gọi là đất kết hợp. “Một người tưởng tri đề mục đất” (dī. ni. 3.360), gọi là đối tượng đất, cũng được gọi là hiện tướng đất;  “Hành giả đắc thiền có đề mục đất làm đối tượng, sanh vào Thiên giới, có được tên gọi là ‘Pathavīdevatā’, do tác động (đề mục đất) làm nhân cho sanh khởi này, nên biết rằng đây là đất kết hợp. Trong bài Kinh này, đề cập đến tất cả các loại đất. Bất cứ một loại đất nào trong bốn loại đất ấy hạng phàm nhân này đều tưởng tri là đất, vị ấy tưởng tri đó là đất; vị ấy tưởng tri là một phần của đất, sau khi nắm lấy theo cách nói thông thường của thế tục bởi sự lầm lạc của tưởng vị ấy tưởng tri rằng đó là đất; Hoặc không buông ra phần đất này, vị ấy tưởng tri phần của đất ấy theo cách thức như sau: “chúng sanh hoặc của chúng sanh.” Tại sao không nên nói rằng: ‘tưởng tri như vậy’? Bởi vì hạng phàm nhân tương tự như một người điên, kẻ ấy nắm lấy bất kỳ vật gì với bất kỳ biểu hiện nào đó. Hoặc lý do khác là vị ấy không nhìn thấy các bậc Thánh, v.v… Hoặc kim ngôn được đức Thế Tôn thuyết kế tiếp rằng: “Điều ấy là không được biết toàn diện (không thấy các bậc Chân nhân)” chính điều ấy là nhân.

Pathaviṃ pathavito saññatvāti so taṃ pathaviṃ evaṃ sañjānitvā, ‘‘saññānidānā hi papañcasaṅkhā’’ti (su. ni. 880) vacanato aparabhāge thāmapattehi taṇhāmānadiṭṭhipapañcehi idha maññanānāmena vuttehi maññati kappeti vikappeti, nānappakārato aññathā gaṇhāti. Tena vuttaṃ ‘‘pathaviṃ maññatī’’ti. Evaṃ maññato cassa tā maññanā oḷārikanayena dassetuṃ ‘‘yā ayaṃ kesā lomā’’tiādinā nayena vīsatibhedā ajjhattikā pathavī vuttā. Yā cāyaṃ vibhaṅge ‘‘tattha katamā bāhirā pathavīdhātu? Yaṃ bāhiraṃ kakkhaḷaṃ kharigataṃ kakkhaḷattaṃ kakkhaḷabhāvo bahiddhā anupādinnaṃ. Seyyathidaṃ, ayo lohaṃ tipu sīsaṃ sajjhaṃ muttā maṇi veḷuriyaṃ saṅkho silā pavāḷaṃ rajataṃ jātarūpaṃ lohitaṅko masāragallaṃ tiṇaṃ kaṭṭhaṃ sakkharā kaṭhalaṃ bhūmi pāsāṇo pabbato’’ti (vibha. 173) evaṃ bāhirā pathavī vuttā. Yā ca ajjhattārammaṇattike nimittapathavī, taṃ gahetvā ayamatthayojanā vuccati.

Pathaviṃ pathavito saññatvā [sau khi tưởng tri đất là đất]: kẻ phàm nhân đã nhận biết đất bởi tưởng sai lệnh như vậy, tiếp đến tưởng tượng, xác định là xét đoán cho tách biệt ra, bao gồm nắm giữ bằng nhiều cách khác nhau là theo cách khác bởi các chướng ngại là  tham ái, ngã mạn và tà kiến, ở đây được nói kết hợp với từ ‘sự tưởng tượng’, nói theo Chánh Văn như sau: “cái gọi là vọng tưởng có tưởng là căn nguyên.” (su. ni. 880). Vì lý do đó đức Thế Tôn nói rằng “Vị ấy tưởng tượng đất.”  Để chỉ rõ sự tưởng tượng của những kẻ tưởng tượng như vậy theo cách thức chi tiết đức Thế Tôn thuyết hai mươi phần đất nội phần trong thân như tóc, lông v.v… thuyết về đất trong bộ Phân Tích như sau: Trong số 2 loại nguyên tố đất thì nguyên tố đất bên ngoài như thế nào? Bất cứ vật ở bên ngoài là thô, cứng, rắn chắc, trạng thái cứng ở bên ngoài, sắc phi thành do thủ (không có tâm chế ngự) như sắt, đồng, thiếc, chì, bạc, ngọc trai, ngọc thạch, ngọc mắt mèo, vỏ sò, hòn đá, san hô, đồng tiền bạc, vàng, hồng ngọc, đá quý nhiều màu, cỏ, gỗ, sỏi, mảnh gốm, đất, tảng đá, núi” (vibha. 173), như vậy được gọi là đất bên ngoài. Hiện tướng đất trong Đầu Đề Tam thuộc những đối tượng bệnh trong, Ngài muốn đề cập đến đất đó, đây là sự kết hợp giải thích ý nghĩa này.

Pathaviṃ maññatīti tīhi maññanāhi ahaṃ pathavīti maññati, mama pathavīti maññati, paro pathavīti maññati, parassa pathavīti maññati, atha vā ajjhattikaṃ pathaviṃ taṇhāmaññanāya maññati, mānamaññanāya maññati, diṭṭhimaññanāya maññati. Kathaṃ? Ayañhi kesādīsu chandarāgaṃ janeti kese assādeti abhinandati abhivadati ajjhosāya tiṭṭhati. Lome, nakhe, dante, tacaṃ, aññataraṃ vā pana rajjanīyavatthuṃ. Evaṃ ajjhattikaṃ pathaviṃ taṇhāmaññanāya maññati. Iti me kesā siyuṃ anāgatamaddhānaṃ. Iti lomātiādinā vā pana nayena tattha nandiṃ samannāneti. ‘‘Imināhaṃ sīlena vā…pe… brahmacariyena vā evaṃ siniddhamudusukhumanīlakeso bhavissāmī’’tiādinā vā pana nayena appaṭiladdhānaṃ paṭilābhāya cittaṃ paṇidahati. Evampi ajjhattikaṃ pathaviṃ taṇhāmaññanāya maññati.

Pathaviṃ maññati [tưởng tượng đất]: Kẻ phàm nhân tưởng tượng ‘ta là đất’; ‘đất là của ta’; ‘người khác là đất’; ‘Đất thuộc về một người khác’ bằng ba sự tưởng tượng. Hoặc vị ấy tưởng tượng đất bên trong tưởng tượng bằng sự tưởng tượng của tham ái, (vị ấy) tưởng tượng bằng sự tưởng tượng của ngã mạn, và (vị ấy) tưởng tượng bằng sự tưởng tượng của các tà kiến. Tưởng tượng như thế nào? Kẻ phàm nhân này khiến dục vọng và ái luyến khởi lên ở nơi tóc v.v.; vị ấy thỏa thích, hoan hỷ, tán thưởng bám chặt lấy chúng. (tương tự) trong lông, móng, răng, da, hoặc bất cứ vật ô nhiễm nào khác. Như vậy kẻ phàm nhân tưởng tượng đất bên trong bằng sự tưởng tượng khởi lên do tác động của tham ái. Hoặc vị ấy tự lấy làm thỏa thích về điều ấy trong tóc v.v, theo cách thức sau: “Tóc của tôi phải luôn như thế này, mong cho lông tôi mãi như thế này. Hoặc (vị ấy) chú tâm ước muốn sẽ đạt được những thứ mà bản thân chưa đạt được bằng cách: “Do giới này…do đời sống Phạm hạnh này cầu xin cho tôi sẽ có tóc đen nhánh, óng mượt, dày, mềm mại.” Kẻ phàm nhân tưởng tượng đất bên trong bằng sự tưởng tượng do tác động của tác động của tham ái như đã giải thích.

Tathā attano kesādīnaṃ sampattiṃ vā vipattiṃ vā nissāya mānaṃ janeti, ‘‘seyyohamasmīti vā sadisohamasmīti vā hīnohamasmīti vā’’ti. Evaṃ ajjhattikaṃ pathaviṃ mānamaññanāya maññati. ‘‘Taṃ jīvaṃ taṃ sarīra’’nti (ma. ni. 2.187) āgatanayena pana kesaṃ ‘‘jīvo’’ti abhinivisati. Esa nayo lomādīsu. Evaṃ ajjhattikaṃ pathaviṃ diṭṭhimaññanāya maññati.

Cũng thế ấy, phàm nhân dựa vào sự hội đủ [thành tựu] hoặc sự không đắc thành của tóc v.v, nơi chính mình, khiến ngã mạn sanh khởi: “Tôi cao hơn, hoặc tôi ngang bằng, hoặc tôi thấp kém hơn.” Như vậy, vị ấy tưởng tượng đất bên trong bằng sự tưởng tượng của ngã mạn. Vị ấy chấp chặt vào tóc v.v, cho rằng là mạng sống theo cách thức sau: “Mạng sống cũng thế đó, và thân thể cũng thế đó” (ma. ni. 2.187). Ngay cả trong lông v.v, cũng theo cách này. Như vậy, kẻ phàm nhân tưởng tượng đất bên trong bằng sự tưởng tượng của các tà kiến như đã nói.

Atha vā ‘‘yā ceva kho panāvuso, ajjhattikā pathavīdhātu, yā ca bāhirā pathavīdhātu, pathavīdhāturevesā , taṃ netaṃ mamā’’ti (ma. ni. 1.302) imissā pavattiyā paccanīkanayena kesādibhedaṃ pathaviṃ etaṃ mama esohamasmi eso me attāti abhinivisati. Evampi ajjhattikaṃ pathaviṃ diṭṭhimaññanāya maññati. Evaṃ tāva ajjhattikaṃ pathaviṃ tīhi maññanāhi maññati.

Hoặc “lại nữa, này hiền giả, nguyên tố đất bên trong, và nguyên tố đất bên ngoài, (cả 2) đều là nguyên tố đất tương tự, cái này không phải của tôi…” (ma. ni. 1.302), vị ấy chấp chặt vào nguyên tố đất như tóc với cách thức trái ngược từ hạnh nghiệp ấy v.v… cho rằng “Cái này là của ta, cái này là ta, cái này là tự ngã của ta.” Như vậy, theo cách này vị ấy cũng tưởng tượng đất bên trong bằng ba sự tưởng tượng khởi lên từ tác động của các tà kiến.

Yathā ca ajjhattikaṃ evaṃ bāhirampi. Kathaṃ? ‘‘Ayañhi ayalohādīsu chandarāgaṃ janeti. Ayalohādīni assādeti abhinandati abhivadati ajjhosāya tiṭṭhati. Mama ayo mama lohantiādinā nayena ayādīni mamāyati rakkhati gopayati, evaṃ bāhiraṃ pathaviṃ taṇhāmaññanāya maññati. Iti me ayalohādayo siyuṃ anāgatamaddhānanti vā panettha nandiṃ samannāneti, imināhaṃ sīlena vā vatena vā tapena vā brahmacariyena vā evaṃ sampannaayalohādiupakaraṇo bhavissāmī’’ti appaṭiladdhassa paṭilābhāya cittaṃ paṇidahati. Evampi bāhiraṃ pathaviṃ taṇhāmaññanāya maññati.

Kẻ phàm nhân tưởng tượng đất bên trong bằng ba sự tưởng tượng khởi lên từ sức mạnh của các tà kiến như đã giải thích, nên biết rằng tưởng tượng đất bên ngoài cũng tương như đất bên trong. Như thế nào? Kẻ phàm nhân làm cho dục vọng và luyến ái khởi lên đối với sắt, đồng v.v, vị ấy thỏa thích, hoan hỷ, tán thưởng bám chặt lấy chúng. Vị ấy yêu quý, gìn giữ, bảo vệ sắc v.v, bằng cách sau: “sắt là của ta” “đồng là của ta” gọi là tưởng tượng đất bên ngoài bằng sự tưởng tượng với mãnh lực của thám ái. Lại nữa, kẻ phàm nhân tự lấy làm thỏa thích về điều ấy trong đất bên ngoài: cầu xin sắc và đồng của ta phải tồn tại mãi như vậy, hoặc chú tâm phát nguyện những thứ chưa có được rằng: do giới hoặc do đời sống Phạm hạnh này của tôi sẽ là người có vật dụng như sắc và đồng v.v, thành tựu như vậy. Kẻ phàm nhân được gọi là tưởng tượng đất bên ngoài bằng sự tưởng tượng khởi lên do tác động của tham ái.

Tathā attano ayalohādīnaṃ sampattiṃ vā vipattiṃ vā nissāya mānaṃ janeti ‘‘imināhaṃ seyyosmīti vā, sadisosmīti vā hīnosmīti vā’’ti (vibha. 832) evaṃ bāhiraṃ pathaviṃ mānamaññanāya maññati. Aye jīvasaññī hutvā pana ayaṃ ‘‘jīvo’’ti abhinivisati. Esa nayo lohādīsu. Evaṃ bāhiraṃ pathaviṃ diṭṭhimaññanāya maññati.

Lại nữa, kẻ phàm nhân dựa vào sự thành tựu và sự mất mát của cải bằng sắt hoặc đồng v.v… của chính mình rồi phát sanh ngã mạn với những tài sản này: “Ta cao hơn, hoặc ta ngang bằng nhau, hoặc ta thấp kém hơn.” (vibha. 832). Như vậy, vị ấy tưởng tượng đất bên ngoài bằng sự tưởng tượng của ngã mạn. Kẻ phàm nhân có sự tưởng tượng một sinh mạng trong sắt, vị ấy bám chặt rằng: Đây là một sinh mạng. Đối với đồng cũng theo cách thức đó v.v., Như vậy vị ấy tưởng tượng đất bên ngoài bằng sự tưởng tượng của các tà kiến.

Atha vā ‘‘idhekacco pathavīkasiṇaṃ attato samanupassati. Yaṃ pathavīkasiṇaṃ, so ahaṃ. Yo ahaṃ, taṃ pathavīkasiṇanti pathavīkasiṇañca attañca advayaṃ samanupassatī’’ti (paṭi. ma. 1.131) paṭisambhidāyaṃ vuttanayeneva nimittapathaviṃ ‘‘attā’’ti abhinivisati. Evaṃ bāhiraṃ pathaviṃ diṭṭhimaññanāya maññati. Evampi bāhiraṃ pathaviṃ tīhi maññanāhi maññati. Evaṃ tāva ‘‘pathaviṃ maññatī’’ti ettha tissopi maññanā veditabbā. Ito paraṃ saṅkhepeneva kathayissāma.

Hoặc lại nữa, “một số người trên đời này nhận thấy đề mục đất là tự ngã rằng: ‘Cái gì là đề mục đất, cái ấy là tôi; cái gì là tôi, cái ấy là đề mục đất,’ (vị ấy) nhận thấy đề mục đất và tự ngã chỉ là một.” (paṭi. ma. 1.131). Vị ấy chấp chặt vào hiện tướng đất là tự ngã như đã được nói. Như vậy, vị ấy cũng tưởng tượng đất bên ngoài qua sự tưởng tượng của các tà kiến. Kẻ phàm nhân tưởng tượng đất bên ngoài bằng ba sự tưởng tượng như đã giải thích. ‘(vị ấy) tưởng tượng đất’ này nên biết ba sự tưởng tượng như giải thích. Từ đây trở đi tôi chỉ sẽ nói vắn tắt.

Pathaviyāmaññatīti ettha pathaviyāti bhummavacanametaṃ. Tasmā ahaṃ pathaviyāti maññati, mayhaṃ kiñcanaṃ palibodho pathaviyāti maññati, paro pathaviyāti maññati, parassa kiñcanaṃ palibodho pathaviyāti maññatīti ayamettha attho.

Đất trong cụm từ ‘tưởng tượng đất’ là định sở cách, bởi thế trong từ đó giải thích như vầy: kẻ phàm nhân tưởng tượng rằng: ‘ta có trong đất’; (vị ấy) tưởng tượng rằng: ‘có sự chướng ngại, sự vướng bận của ta có trong đất’; vị ấy tưởng tượng rằng: ‘người khác có trong đất’, tưởng tượng rằng: ‘có sự chướng ngại, sự vướng bận, cho người khác ở trong đất’. Ý nghĩa định sở cách được giải thích ở đây.

Atha vā yvāyaṃ ‘‘kathaṃ rūpasmiṃ attānaṃ samanupassati? Idhekacco vedanaṃ… saññaṃ… saṅkhāre… viññāṇaṃ attato samanupassati, tassa evaṃ hoti, ayaṃ kho me attā, so kho pana me attā imasmiṃ rūpeti evaṃ rūpasmiṃ vā attānaṃ samanupassatī’’ti (paṭi. ma. 1.131) etassa atthanayo vutto, eteneva nayena vedanādidhamme attato gahetvā tato ajjhattikabāhirāsu pathavīsu yaṃkiñci pathaviṃ tassokāsabhāvena parikappetvā so kho pana me ayaṃ attā imissā pathaviyāti maññanto pathaviyā maññati, ayamassa diṭṭhimaññanā. Tasmiṃyeva panassa attani sinehaṃ tabbatthukañca mānaṃ uppādayato taṇhāmānamaññanāpi veditabbā. Yadā pana teneva nayena so kho panassa attā pathaviyāti maññati, tadā diṭṭhimaññanā eva yujjati. Itarāyopi pana icchanti.

“Kẻ phàm nhân quán thấy tự ngã ở trong sắc như thế nào? Kẻ ấy ở đời này quán thấy thọ, tưởng, hành và thức như là từ ngã, quán thấy tự ngã trong sắc rằng: Cái này quả thật là tự ngã của ta. Hơn nữa, tự ngã này đây của ta là có sắc, như vậy (kẻ ấy) nhận thấy tự ngã ở trong sắc là (có ý nghĩa) như thế.” (paṭi. ma. 1.131). Theo cách đó sau khi kẻ phàm nhân đã chấp thủ pháp thọ v.v., là tự ngã, từ đó vị ấy xác định bất kỳ loại đất nào cả bên trong lẫn bên ngoài là chỗ trú của tự ngã đó, (vị ấy) tưởng tượng rằng: ‘tự ngã này đây của ta có trong đất’ như vậy gọi là tưởng tượng trong đất. Đây gọi là sự tưởng tượng (do tác động) của tà kiến. Cũng hạng phàm nhân ấy khởi lên sự thương yêu trong tự ngã và ngã mạn có tự ngã là nơi thiết lập khiến cho sanh khởi trong sắc đó đó. Nên biết rằng là sự tưởng tượng do tác động của tham ái và ngã mạn. Nhưng lúc nào kẻ phàm nhân tưởng tượng bằng cách đó đó rằng tự ngã của người khác có trong đất, lúc đó sự tưởng tượng khởi lên do tác động của tà kiến đó được công nhận. Còn sự tưởng tượng ngoài ra ngài cũng mong muốn như thế.

Pathavito maññatīti ettha pana pathavitoti nissakkavacanaṃ. Tasmā saupakaraṇassa attano vā parassa vā yathāvuttappabhedato pathavito uppattiṃ vā niggamanaṃ vā pathavito vā añño attāti maññamāno pathavito maññatīti veditabbo, ayamassa diṭṭhimaññanā. Tasmiṃyeva panassa diṭṭhimaññanāya maññite vatthusmiṃ sinehaṃ mānañca uppādayato taṇhāmānamaññanāpi veditabbā. Apare āhu pathavīkasiṇaṃ parittaṃ bhāvetvā tato aññaṃ appamāṇaṃ attānaṃ gahetvā pathavito bahiddhāpi me attāti maññamāno pathavito maññatīti.

Lại nữa, ở đây đất trong từ ‘tưởng tượng đất’ là xuất xứ cách. Do vậy, phàm nhân khi tưởng tượng việc sanh khởi hoặc đi ra khỏi từ đất được chia chẻ theo sự phân loại đã nói của chính mình hoặc của người khác, cùng với những vật phụ thuộc, hoặc tưởng tượng rằng tự ngã khác từ đất, nên biết rằng: tưởng tượng từ đất. Đây là sự tưởng tượng (do tác động) của tà kiến của hạng phàm nhân này. Khi hạng phàm nhân đó khởi lên sự yêu thương và ngã mạn liên quan trong các vật được cùng tưởng tượng bằng sự tưởng tượng (do tác động) của tà kiến đó. Nên biết rằng là sự tưởng tượng do tác động của tham ái và tà kiến. Các vị thầy khác nói rằng hạng phàm nhân đã tu tập đề mục đất mà cảnh nhỏ và sau đó vị ấy đã chấp chặt tự ngã vô lượng khác rồi tưởng tượng rằng: tự ngã của ta (có) cả bên ngoài từ đất, như vậy gọi là tưởng tượng từ đất.

Pathaviṃ meti maññatīti ettha pana kevalañhi mahāpathaviṃ taṇhāvasena mamāyatīti iminā nayena pavattā ekā taṇhāmaññanā eva labbhatīti veditabbā. Sā cāyaṃ mama kesā, mama lomā, mama ayo, mama lohanti evaṃ yathāvuttappabhedāya sabbāyapi ajjhattikabāhirāya pathaviyā yojetabbāti.

Lại nữa, ở đây vị ấy tưởng tượng đất là của tôi sự tưởng tượng được diễn tiến theo cách này rằng: (vị ấy) được sở hữu toàn bộ đại địa [mahāpathavī] do tác động của một loại tham ái. Nên biết rằng (điều đó) có được chỉ một sự tưởng tượng do tác động của tham ái. sự tưởng tượng do tác động của tham ái này đây cần áp dụng trong tất cả đất bên trong và cả bên ngoài được chia theo sự phân loại đã nói, chẳng hạn như: tóc của tôi, lông của tôi, đồng của tôi v.v.

Pathaviṃabhinandatīti vuttappakārameva pathaviṃ taṇhādīhi abhinandati, assādeti, parāmasati cāti vuttaṃ hoti. ‘‘Pathaviṃ maññatī’’ti eteneva etasmiṃ atthe siddhe kasmā etaṃ vuttanti ce. Avicāritametaṃ porāṇehi. Ayaṃ pana attano mati, desanāvilāsato vā ādīnavadassanato vā. Yassā hi dhammadhātuyā suppaṭividdhattā nānānayavicitradesanāvilāsasampanno, ayaṃ sā bhagavatā suppaṭividdhā. Tasmā pubbe maññanāvasena kilesuppattiṃ dassetvā idāni abhinandanāvasena dassento desanāvilāsato vā idamāha . Yo vā pathaviṃ maññati, pathaviyā maññati, pathavito maññati, pathaviṃ meti maññati, so yasmā na sakkoti pathavīnissitaṃ taṇhaṃ vā diṭṭhiṃ vā pahātuṃ, tasmā pathaviṃ abhinandatiyeva. Yo ca pathaviṃ abhinandati, dukkhaṃ so abhinandati, dukkhañca ādīnavoti ādīnavadassanatopi idamāha. Vuttañcetaṃ bhagavatā ‘‘yo, bhikkhave, pathavīdhātuṃ abhinandati, dukkhaṃ so abhinandati, yo dukkhaṃ abhinandati, aparimutto so dukkhasmāti vadāmī’’ti.

Pathaviṃ abhinandati [vị ấy hoan hỷ trong đất]: hạng phàm nhân thỏa thích, vui thích, hân hoan, bám vào đất đã được nói với tham ái v.v, nếu có câu hỏi rằng khi ý nghĩa này thành tựu với hai câu này đây “vị ấy tưởng tượng đất” tại sao lại nói như vậy? Đáp: Lời đó không được giải thích bởi các tài liệu cổ, nhưng đây là ý kiến riêng của cá nhân tôi [Buddhaghosa]: Nét đẹp bài giảng [desanāvilāsa] hoặc từ việc nhìn thấy sự nguy hiểm. Bởi vì ngài có sự hội đủ với lời dạy tao nhã bằng nhiều phương pháp khác nhau và đa dạng, do thấy triệt các pháp giới [dhammadhātu], các pháp giới đó đức Thế Tôn đã thấu triệt tốt đẹp. Do vậy, trước tiên ngài thuyết giảng sự sanh khởi của các phiền não do tác động của sự tưởng tượng, bây giờ Ngài thuyết giảng do tác động của sự hoan hỷ v.v, cho nên Ngài mới nói lời này ‘sự tao nhã của việc thuyết giảng.’ Và lại nữa, hạng phàm nhân tưởng tượng đất, tưởng tượng trong đất, cho rằng: ‘đất là của ta’, hạng phàm nhân này (do nguyên nhân) không thể từ bỏ tham ái hoặc các tà kiến dựa vào đất; do vậy vị ấy hoàn toàn hoan hỷ trong đất. Hơn nữa, hạng phàm nhân nào hoan hỷ trong đất, hạng phàm nhân đó hoan hỷ trong  đau khổ và đau khổ là sự nguy hiểm. Bởi thế, Ngài đã nói lời này rằng: ‘do nhìn thấy sự nguy hiểm’. Như đức Thế Tôn đã thuyết: “Này các tỳ khưu, Như Lai nói rằng: ‘người nào hoan hỷ đất, người đó hoan hỷ trong đau khổ; người nào hoan hỷ trong đau khổ, người đó không thoát khỏi khổ đau.’”

Evaṃ pathavīvatthukaṃ maññanaṃ abhinandanañca vatvā idāni yena kāraṇena so maññati, abhinandati ca, taṃ kāraṇaṃ āvikaronto āha taṃ kissa hetu, apariññātaṃ tassāti vadāmīti. Tassattho, so puthujjano taṃ pathaviṃ kissa hetu maññati, kena kāraṇena maññati, abhinandatīti ce. Apariññātaṃ tassāti vadāmīti, yasmā taṃ vatthu tassa apariññātaṃ, tasmāti vuttaṃ hoti. Yo hi pathaviṃ parijānāti, so tīhi pariññāhi parijānāti ñātapariññāya tīraṇapariññāya pahānapariññāyāti.

Như vậy đức Thế Tôn sau khi nói về sự tưởng tượng và sự hoan hỷ có đất là nơi an trú, bây giờ khi đưa ra nguyên nhân làm lý do tưởng tượng và hoan hỷ của kẻ phàm nhân đó, Ngài đã nói: “Ta nói rằng: (Điều ấy) là không được biết toàn diện bởi kẻ ấy.” Điều đó có ý nghĩa (như sau): ‘vì nguyên nhân gì kẻ phàm nhân tưởng tượng đất? Tưởng tượng và hoan hỷ (trong đất) vì lý do gì?’ Đức Như Lai đã nói (về điều đó như sau) ‘bởi không biết rõ đất, có nghĩa là vì nguyên nhân đó. Thật vậy, vị nào biết rõ đất, vị ấy biết rõ bằng ba sự hiểu biết trọn vẹn: biết trọn vẹn về điều đã được biết, biết trọn vẹn về sự xét đoán, và biết trọn vẹn về sự dứt bỏ.

Tattha katamā ñātapariññā. Pathavīdhātuṃ parijānāti, ayaṃ pathavīdhātu ajjhattikā, ayaṃ bāhirā, idamassā lakkhaṇaṃ, imāni rasapaccupaṭṭhānapadaṭṭhānānīti, ayaṃ ñātapariññā. Katamā tīraṇapariññā? Evaṃ ñātaṃ katvā pathavīdhātuṃ tīreti aniccato dukkhato rogatoti dvācattālīsāya ākārehi, ayaṃ tīraṇapariññā. Katamā pahānapariññā? Evaṃ tīrayitvā aggamaggena pathavīdhātuyā chandarāgaṃ pajahati, ayaṃ pahānapariññā.

 Ở đó, thế nào là biết trọn vẹn về điều đã được biết? Hạng phàm nhân biết trọn vẹn nguyên tố đất như vầy: ‘nguyên tố đất này (vận hạnh) bên trong, nguyên tố đất này (vận hành) bên ngoài. Đây là tướng trạng (của nguyên tố đất), chức năng (của nguyên tố đất), sự hiện bày (của nguyên tố đất) và nhân cận (của nguyên tố đất).’ Đây gọi là biết trọn vẹn về điều đã được biết; Thế nào là biết trọn vẹn về sự xét đoán? Sau khi thực hiện điều đã được như thế thì quán xét về nguyên tố đất bằng 40 biểu hiện [ākāra], (quán xét) là vô thường, là khổ, là bệnh hoạn, v.v, Đây là biết trọn vẹn về sự xét đoán; Thế nào là biết trọn vẹn về sự dứt bỏ? sau khi quán xét như vậy thì dứt bỏ sự mong muốn và luyến ái trong nguyên tốt đất bằng A-ra-hán đạo, đây gọi là biết trọn vẹn về sự dứt bỏ.

Nāmarūpavavatthānaṃ vā ñātapariññā. Kalāpasammasanādianulomapariyosānā tīraṇapariññā. Ariyamagge ñāṇaṃ pahānapariññāti. Yo pathaviṃ parijānāti, so imāhi tīhi pariññāhi parijānāti, assa ca puthujjanassa tā pariññāyo natthi, tasmā apariññātattā pathaviṃ maññati ca abhinandati cāti. Tenāha bhagavā – idha, bhikkhave, assutavā puthujjano…pe… pathaviṃ maññati, pathaviyā maññati, pathavito maññati, pathaviṃ meti maññati, pathaviṃ abhinandati. Taṃ kissa hetu? Apariññātaṃ tassāti vadāmī’’ti.

Hoặc, sự xác định danh và sắc [nāmarūpapavatthāna] gọi là biết trọn vẹn về điều đã được biết; việc nhận biết có sự quán xét về các nhóm [kalāpasammasana] từ điểm bắt đầu và tuệ thuận dòng là điểm kết thúc, gọi là biết trọn vẹn về sự xét đoán. Trí tuệ trong Thánh đạo gọi là biết trọn vẹn về sự dứt bỏ. Người nào biết trọn vẹn đất, người đó rõ biết bằng ba sự hiểu biết trọn vẹn này, sự hiểu biết trọn vẹn không có nơi hạng phàm nhân vì  kẻ ấy không hiểu biết trọn vẹn bằng nhân đó, cho nên kẻ ấy tưởng tượng, hoan hỷ đất. Vì lý do đó đức Thế Tôn đã nói: “Này chư tỳ khưu, phàm nhân trên đời này không được nghe…tưởng tượng đất, tưởng tượng trong đất, tưởng tưởng từ đất, tưởng tượng đất là của tôi, hoan hỷ đất, điều đó là do nhân gì? Như Lai đã nói (bởi) điều đó hạng phàm nhân đã không được hiểu biết trọn vẹn.

Giải Thích Phần Đất Kết Thúc

 

Giải Thích Phần Nước

Āpaṃāpatoti etthāpi lakkhaṇasasambhārārammaṇasammutivasena catubbidho āpo. Tesu ‘‘tattha, katamā ajjhattikā āpodhātu. Yaṃ ajjhattaṃ paccattaṃ āpo āpogataṃ, sineho sinehagataṃ bandhanattaṃ rūpassa ajjhattaṃ upādinna’’ntiādīsu (vibha. 174) vutto lakkhaṇaāpo. ‘‘Āpokasiṇaṃ uggaṇhanto āpasmiṃ nimittaṃ gaṇhātī’’tiādīsu vutto sasambhārāpo. Sesaṃ sabbaṃ pathaviyaṃ vuttasadisameva. Kevalaṃ yojanānaye pana ‘‘pittaṃ semha’’ntiādinā nayena vuttā dvādasabhedā ajjhattikā āpodhātu, ‘‘tattha, katamā bāhirā āpodhātu? Yaṃ bāhiraṃ āpo āpogataṃ, sineho sinehagataṃ bandhanattaṃ rūpassa bahiddhā anupādinnaṃ. Seyyathidaṃ, mūlaraso khandharaso tacaraso pattaraso puppharaso phalaraso khīraṃ dadhi sappi navanītaṃ telaṃ madhu phāṇitaṃ bhummāni vā udakāni antalikkhāni vā’’ti (vibha. 174) evaṃ vuttā ca bāhirā āpodhātu veditabbā, yo ca ajjhattārammaṇattike nimittaāpo.

Ở đây, āpaṃ āpato [Nước là nước]: Nên biết rằng nước có bốn phần: trạng thái của nước, sự kết hợp của nước, nước đối tượng và nước chế định. Trong bốn phần đó, tướng trạng của nước được giải thích như vầy: “Ở đây, nguyên tố nước bên trong như thế nào? nguyên tố nào bên trong rỉ ra, thấm đẫm, dính chặt thuộc tự thân, ở chính bên trong (tức là) nguyên tố nước do nghiệp tích tụ bên trong của sắc gọi là tướng trạng của nước.” (vibha. 174). “hạng người học tập đề mục nước, vị ấy nắm lấy ấn tướng trong nước.” đây là sự kết hợp của nước. Phần còn lại tương tự như Ngài đã nói trong phần của đất. Lại nữa, bằng cách kết hợp (ý nghĩa) hoàn toàn, nguyên tố nước bên trong được chia chẻ ra với 12 loại đã được nói theo cách bắt đầu như sau: “mật, đàm” v.v. Nên biết rằng nguyên tố nước bên trong và nguyên tố nước mà Ngài đã giảng bằng những phương pháp trói buộc hoàn toàn. “Ở đây, nguyên tố nước bên ngoài như thế nào? Nguyên tố nào bên ngoài rỉ ra, thấm đẫm, dính chặt ở bên ngoài, bao gồm sự rỉ ra đi đến sự thấm đẫm, nguyên tố nước không do nghiệp tích tụ bên ngoài sắc, (tức là) nhựa chảy ra từ rễ cây, nhựa chảy ra từ thân cây, nhựa chảy ra từ vỏ cây, nhựa chảy ra từ lá cây, nước ép trái cây, sữa tươi, sữa đặc, bơ lỏng, bơ đặc, dầu, mật ong, mật mía và nước trong lòng đất hoặc nước trong không khí, nên biết rằng nguyên tố nước bên ngoài.” (vibha. 174). Và nước đó cũng gọi là hiện tướng nước trong Tam Đề của cảnh nội phần.

Tejaṃ tejatoti imasmiṃ tejovārepi vuttanayeneva vitthāro veditabbo. Yojanānaye panettha ‘‘yena ca santappati, yena ca jīrīyati, yena ca pariḍayhati, yena ca asitapītakhāyitasāyitaṃ sammā pariṇāmaṃ gacchatī’’ti (vibha. 175) evaṃ vuttā catuppabhedā ajjhattikā tejodhātu. ‘‘Tattha katamā bāhirā tejodhātu? Yaṃ bāhiraṃ tejo tejogataṃ usmā usmāgataṃ usumaṃ usumagataṃ bahiddhā anupādinnaṃ. Seyyathidaṃ, kaṭṭhaggi palālaggi tiṇaggi gomayaggi thusaggi saṅkāraggi indaggi aggisantāpo sūriyasantāpo kaṭṭhasannicayasantāpo tiṇasannicayasantāpo dhaññasannicayasantāpo bhaṇḍasannicayasantāpo’’ti (vibha. 175) evaṃ vuttā ca bāhirā tejodhātu veditabbā.

Tejaṃ tejato [lửa là lửa] này nên biết lời giải chi tiết cần được hiểu theo phương pháp được đề cập trước. Lại nữa, ở đây bằng phương pháp kết hợp “nung nóng do nó, bị già nua do nó, bị thiêu đốt do nó, và do nó mà khi vật được ăn vào, được uống vào, được nhai, được nếm đi đến sự tiêu hóa đúng đắn” (vibha. 175), như thế là nguyên tố lửa bên trong được chia ra làm bốn loại như đã nói. “Ở đây, nguyên tố đất bên ngoài như thế nào? những thứ nào nóng, bốc cháy, hơi nóng, sự nóng, hơi ấm, sự ấm áp ở bên ngoài, là nguyên tố lửa không do nghiệp tích tụ bên ngoài, như là: lửa phát ra gỗ, lửa phát ra gỗ vụn, lửa phát ra cỏ, lửa phát ra phân bò, lửa phát ra trấu, lửa phát ra rác, lửa phát ra từ tia chớp, sức nóng của lửa, sức nóng của mặt trời, sức nóng được tích trữ trong củi khô, hơi nóng được tích trữ trong củi khô, hơi nóng được tích trữ trong đống cỏ, sức nóng được tích trữ trong từ mễ cốc, và sức nóng được tích trữ trong đồ dùng.” (vibha. 175), và nên biết nguyên tố đất bên ngoài đã được nói như vậy.

Vāyaṃ vāyatoti imassa vāyavārassāpi yojanānaye pana ‘‘uddhaṅgamā vātā adhogamā vātā kucchisayā vātā koṭṭhāsayā vātā aṅgamaṅgānusārino vātā satthakavātā khurakavātā uppalakavātā assāso passāso’’ti evaṃ vuttā ajjhattikā vāyodhātu. ‘‘Tattha katamā bāhirā vāyodhātu? Yaṃ bāhiraṃ vāyo vāyogataṃ thambhitattaṃ rūpassa bahiddhā anupādinnaṃ. Seyyathidaṃ, puratthimā vātā pacchimā vātā uttarā vātā dakkhiṇā vātā sarajā vātā arajā vātā sītā vātā uṇhā vātā parittā vātā adhimattā vātā kāḷavātā verambhavātā pakkhavātā supaṇṇavātā tālavaṇṭavātā vidhūpanavātā’’ti (vibha. 176) evaṃ vuttā ca bāhirā vāyodhātu veditabbā. Sesaṃ vuttanayamevāti. Ettāvatā ca yvāyaṃ –

‘‘Vuttamhi ekadhamme, ye dhammā ekalakkhaṇā tena;

Vuttā bhavanti sabbe, iti vutto lakkhaṇo hāro’’ti. –

Vāyaṃ vāyato [gió là gió] lại nữa trong cách giải thích ý nghĩa của phần gió này, “Gió di chuyển lên phía trên, gió di chuyển xuống phía dưới, gió ở trong ruột, gió ở trong bụng, gió lưu chuyển dọc khắp các chi phần lớn nhỏ, gió lạnh thấu tim, gió lạnh cắt da thịt, hơi thở vào, và hơi thở ra” nguyên tố gió bên trong đã được nói như vậy. “Ở đây, nguyên tố gió bên ngoài như thế nào? những thứ nào phất phơ, lay động ở bên ngoài nguyên tố gió bên ngoài của sắc, không do nghiệp tích tụ. Chẳng hạn như gió phía đông, gió phía tây, gió phía bắc, gió phía nam, gió có bụi, gió không có bụi, gió lạnh, gió nóng, gió nhẹ, gió mạnh,  gió bão, gió ở thượng tầng khí quyển, gió sanh lên từ cánh chim, gió của loài linh điểu, gió do lá thốt nốt, gió từ cây quạt” (vibha. 176). và nên biết nguyên tố gió bên ngoài như vầy. Từ còn lại theo phương pháp đã nói trước. Chỉ chừng ấy lời do sức mạnh do sức mạnh của cách truyền đạt như Ngài nói:-

Trong khi một pháp được nói đến, bất cứ các pháp nào có chung trạng thái, tất cả chúng đều được nói đến; cách truyền đạt ấy được gọi là trạng thái.

Evaṃ nettiyaṃ lakkhaṇo nāma hāro vutto, tassa vasena yasmā catūsu bhūtesu gahitesu upādārūpampi gahitameva bhavati, rūpalakkhaṇaṃ anatītattā. Yañca bhūtopādārūpaṃ so rūpakkhandho. Tasmā ‘‘assutavā puthujjano pathaviṃ āpaṃ tejaṃ vāyaṃ maññatī’’ti vadantena atthato rūpaṃ attato samanupassatītipi vuttaṃ hoti. ‘‘Pathaviyā āpasmiṃ tejasmiṃ vāyasmiṃ maññatī’’ti vadantena rūpasmiṃ vā attānaṃ samanupassatīti vuttampi hoti. ‘‘Pathavito āpato tejato vāyato maññatī’’ti vadantena rūpato añño attāti siddhattā rūpavantaṃ vā attānaṃ attani vā rūpaṃ samanupassatītipi vuttaṃ hoti. Evametā catasso rūpavatthukā sakkāyadiṭṭhimaññanā veditabbā. Tattha ekā ucchedadiṭṭhi, tisso sassatadiṭṭhiyoti dveva diṭṭhiyo hontīti ayampi atthaviseso veditabbo.

Như vậy, cách truyền đạt gọi là trạng thái này đây trong Nettippakaraṇa, bởi khi nắm lấy cả bốn Sắc Đại Hiển do sự tác động đó, cũng chính là nắm lấy Sắc Y Đại Sinh, do Sắc Y Đại Sinh không vượt ngoài trạng thái của sắc pháp. Bất cứ bốn Sắc Đại Hiển và Sắc Y Đại Sinh nào đi chăng nữa thì sắc đó cũng đều là sắc uẩn. Do vậy, khi đức Thế Tôn thuyết rằng “kẻ phàm nhân, không lắng nghe, tưởng tượng về đất, nước, lửa và gió” biểu thị rằng kẻ ấy cũng quán sát sắc là tự ngã. Khi nói vậy kẻ ấy tưởng tượng đất, nước, lửa, gió biểu thị rằng kẻ ấy cũng quán sát tự ngã ở trong sắc. Khi nói rằng vị ấy tưởng tượng từ đất, nước, lửa, gió biểu thị rằng kẻ ấy quán sát tự ngã có sắc và sắc ở trong tự ngã, do thành tựu ý nghĩa rằng ngã là khác hơn sắc. Nên biết rằng sự tưởng tưởng về nhận thức sai lầm về thân có sắc v.v, làm nơi thiết lập cho cả 4 điều như đã trình bày. Trong trường hợp này cần biết sự khác biệt như sau: Trong 4 sự tưởng tượng về thân kiến này chỉ quy về hai loại tà kiến: một loại là đoạn kiến, ba loại là thường kiến.

Giảng Giải Phần Nước [Lửa, Gió] Kết Thúc

 

Giảng Giải Về Chúng Sanh

  1. Evaṃ rūpamukhena saṅkhāravatthukaṃ maññanaṃ vatvā idāni ye saṅkhāre upādāya sattā paññapīyanti, tesu saṅkhāresu sattesupi yasmā puthujjano maññanaṃ karoti, tasmā te satte niddisanto bhūte bhūtato sañjānātītiādimāha. Tatthāyaṃ bhūtasaddo pañcakkhandhaamanussadhātuvijjamānakhīṇāsavasattarukkhādīsu dissati. ‘‘Bhūtamidanti, bhikkhave, samanupassathā’’tiādīsu (ma. ni. 1.401) hi ayaṃ pañcakkhandhesu dissati. ‘‘Yānīdha bhūtāni samāgatānī’’ti (su. ni. 224) ettha amanussesu. ‘‘Cattāro kho, bhikkhu, mahābhūtā hetū’’ti (ma. ni. 3.86) ettha dhātūsu. ‘‘Bhūtasmiṃ pācittiya’’ntiādīsu (pāci. 69) vijjamāne. ‘‘Yo ca kālaghaso bhūto’’ti (jā. 1.10.190) ettha khīṇāsave. ‘‘Sabbeva nikkhipissanti bhūtā loke samussaya’’nti (dī. ni. 2.220) ettha sattesu. ‘‘Bhūtagāmapātabyatāyā’’ti (pāci. 90) ettha rukkhādīsu. Idha panāyaṃ sattesu vattati, no ca kho avisesena. Cātumahārājikānaṃ hi heṭṭhā sattā idha bhūtāti adhippetā.

Như vậy, sau khi đức Thế Tôn khi thuyết sự tưởng tượng dựa vào các hành bởi có sắc pháp làm trưởng. Bây giờ, “chúng sanh loài hữu tình” nào được chế định do nương vào các Hành, hạng phàm nhân thực hành sự tưởng tượng đối với tất cả chúng sanh đó, bởi thế khi chỉ ra sự tồn tại của chúng sanh, Ngài đã nói lời bắt đầu như sau: sự tưởng tri tất cả chúng sanh là chúng sanh. Trong câu đó từ “loài hữu tình” sử dụng với ý nghĩa sau đây: ngũ uẩn, phi nhân, các giới, sự tồn tại, bậc Lậu Tận, chúng sanh, cây cối, v.v. Thật vậy, “Này chư tỳ khưu, các ông hãy quán xét xem đây là chúng sanh” (ma. ni. 1.401), đây là ngũ uẩn. “Tất cả chúng sanh nào cùng nhau tụ hội ở nơi này” (su. ni. 224), ở đây là phi nhân. “Này chư tỳ khưu, bốn sắc đại hiển là nhân” (ma. ni. 3.86), ở đây là bốn giới. “phạm tội pācittiya do tồn tại” (pāci. 69), ở đây là sự tồn tại. “Chúng sanh nào gặm nhắm thời gian” (jā. 1.10.190), ở đây là bậc lậu tận. “Tất cả chúng sanh loài hưu tình sẽ quăng bỏ sắc thân lại trên cõi đời này” (dī. ni. 2.220) ở đây là chúng sanh. “Sự hủy diệt sự sống của các loại thảo mộc” (pāci. 90), ở đây là cây cối. Trong trường hợp này “các sinh vật” được sử dụng với ý nghĩa “chúng sanh”. Nhưng ‘các sinh vật’ không phải không có khác biệt; vì ở đây ‘chúng sanh’ chỉ biểu thị những chúng sanh thấp hơn cõi tứ thiên vương, Ngài có ý muốn nói đến ‘các sinh vật’ ở chỗ này như vậy.

Tattha bhūte bhūtato sañjānātītiādi vuttanayameva. Bhūte maññatītiādīsu pana tissopi maññanā yojetabbā. Kathaṃ? Ayañhi ‘‘so passati gahapatiṃ vā gahapatiputtaṃ vā pañcahi kāmaguṇehi samappitaṃ samaṅgibhūta’’nti (a. ni. 7.50) vuttanayena bhūte subhā sukhitāti gahetvā rajjati, disvāpi ne rajjati, sutvāpi, ghāyitvāpi, sāyitvāpi, phusitvāpi, ñatvāpi. Evaṃ bhūte taṇhāmaññanāya maññati. ‘‘Aho vatāhaṃ khattiyamahāsālānaṃ vā sahabyataṃ upapajjeyya’’ntiādinā (dī. ni. 3.337) vā pana nayena appaṭiladdhassa paṭilābhāya cittaṃ paṇidahati, evampi bhūte taṇhāmaññanāya maññati. Attano pana bhūtānañca sampattivipattiṃ nissāya attānaṃ vā seyyaṃ dahati. Bhūtesu ca yaṃkiñci bhūtaṃ hīnaṃ attānaṃ vā hīnaṃ, yaṃkiñci bhūtaṃ seyyaṃ . Attānaṃ vā bhūtena, bhūtaṃ vā attanā sadisaṃ dahati. Yathāha ‘‘idhekacco jātiyā vā…pe… aññataraññatarena vatthunā pubbakālaṃ parehi sadisaṃ attānaṃ dahati. Aparakālaṃ attānaṃ seyyaṃ dahati. Pare hīne dahati, yo evarūpo māno …pe… ayaṃ vuccati mānātimāno’’ti (vibha. 876-880). Evaṃ bhūte mānamaññanāya maññati.

Ở đây, được bắt đầu bằng “vị ấy tưởng tri loài sinh vật là loài sinh vật” chính phương pháp đã được nói. “Vị ấy tưởng tri loài sinh vật” cần liên kết với ba sự tưởng tượng. Như thế nào? Bởi điều này “Vị ấy nhìn thấy người gia chủ hoặc con trai người gia chủ được cung phụng đầy đủ với năm món dục lạc” (a. ni. 7.50) (vị ấy) trở nên tham đắm  sau khi chấp thủ vào các sinh vật (tưởng tượng rằng) là xinh đẹp, có sự hạnh phúc theo cách đã nói, trở nên tham đắm sau khi đã thấy, đã nghe, đã ngửi, đã nếm, đã xúc chạm, đã biết, thì vị ấy tưởng tượng chúng sanh bằng sự tưởng do tác động của tham ái như đã giải thích. Hoặc vị ấy chú tâm phát nguyện nhận được những thứ mà bản thân chưa đạt được và khởi lên suy nghĩ rằng: “Làm thế nào tôi có thể sanh cộng trú trong đại gia tộc Sát-đế-lỵ” (dī. ni. 3.337. Như vậy vị ấy cũng tưởng tượng chúng sanh bằng sự tưởng tượng do tác động của tham ái. Lại nữa, khi vị ấy dựa vào sự thành tựu hoặc thất bại của chính mình và của chúng sanh khác, vị ấy tự nhận là mình hơn người, vị ấy tưởng tượng một chúng sanh bất kỳ trong tất cả chúng sanh thấp hơn mình; hoặc vị ấy tưởng tượng mình thấp kém hơn một chúng sanh bất kỳ; tưởng tượng một chúng sanh bất kỳ tốt hơn chính mình (hoặc tưởng tượng bản thân tốt hơn một chúng sanh bất kỳ); tưởng tượng bản thân ngang bằng với một chúng sanh; hoặc tưởng tượng chúng sanh ngang bằng với chính mình. Như đã nói rằng: “Một số người trong đời này, trước đây vị ấy tự nhận là ngang bằng với những người khác do thọ sanh…hoặc dựa vào một cơ sở bất kỳ, vào một thời gian sau vị ấy tự nhận là cao quý hơn người khác, tưởng tượng người khá thấp kém hơn mình. Ngã mạn như thế gọi là quá ngạo mạn (vibha. 876-880). Như vậy kẻ phàm nhân tưởng tượng bằng sự tưởng tượng do tác động của ngã mạn như đã giải thích.

Bhūte pana ‘‘niccā dhuvā sassatā avipariṇāmadhammā’’ti vā ‘‘sabbe sattā sabbe pāṇā sabbe bhūtā sabbe jīvā avasā abalā avīriyā niyatisaṅgatibhāvapariṇatā chasvevābhijātīsu sukhadukkhaṃ paṭisaṃvedentī’’ti (dī. ni. 1.168) vā maññamāno diṭṭhimaññanāya maññati. Evaṃ bhūte tīhi maññanāhi maññati.

Lại nữa, khi vị ấy tưởng tượng chúng sanh như vầy: “Chúng sanh là thường còn, bền vững, vĩnh cửu, không có sự biến đổi,” hoặc “Tất cả chúng sanh, tất cả các sinh vật, tất cả sinh linh, tất cả loài sinh mạng không có quyền năng, không có sức mạnh, không có tinh tấn, chúng bị dắt dẫn, chi phối bởi vận mệnh, bởi điều may rủi, chúng hưởng thọ cảm giác đau khổ và an lạc y theo sáu loại thác sanh của chúng. (dī. ni. 1.168), đây là tưởng tượng bằng sự tưởng tượng do tác động của tà kiến. Như vậy là (vị ấy) tưởng tượng ở loài sinh vật bằng ba sự tưởng tượng.

Kathaṃ bhūtesu maññati? Tesu tesu bhūtesu attano upapattiṃ vā sukhuppattiṃ vā ākaṅkhati. Evaṃ tāva taṇhāmaññanāya bhūtesu maññati. Bhūtesu vā upapattiṃ ākaṅkhamāno dānaṃ deti, sīlaṃ samādiyati, uposathakammaṃ karoti. Evampi bhūtesu taṇhāmaññanāya maññati. Bhūte pana samūhaggāhena gahetvā tattha ekacce bhūte seyyato dahati, ekacce sadisato vā hīnato vāti. Evaṃ bhūtesu mānamaññanāya maññati. Tathā ekacce bhūte niccā dhuvāti maññati. Ekacce aniccā adhuvāti, ahampi bhūtesu aññatarosmīti vā maññati. Evaṃ bhūtesu diṭṭhimaññanāya maññati.

Vị ấy tưởng tượng chính mình ‘tưởng tưởng các sinh vật’ như thế nào? Trong khi vị ấy mong muốn sự tái sanh của mình, hoặc sự thành tựu hạnh phúc cho chính mình trong số các sinh vật như thế như thế, như vậy là (vị ấy) tưởng tượng các sinh vật bằng sự tưởng tượng do tác động của tham ái như đã giải thích trước. Hoặc trong khi mong muốn tái sanh trong số những chúng sanh đó (do quả phước của vị ấy) mới bố thí cúng dường, thọ trì giới, hoặc thực hành vào ngày trai giới, chính như vậy vị ấy cũng tưởng tượng trong chúng sanh bằng sự tưởng tượng do tác động của tham ái. Lại nữa, sau khi nắm lấy sinh vật bằng việc nắm lấy một tập hợp, vị ấy tự thừa nhận một số sinh vật trong số các sinh vật ấy là tốt đẹp hơn, hoặc thừa nhận mốt số chúng sanh là ngang bằng, hoặc thấp kém hơn. Như vậy là vị ấy tưởng tượng các sinh vật bằng sự tưởng tượng do tác động của ngã mạn. Cũng vậy vị ấy tưởng tượng một số sinh vật là thường còn, bền vững; một số là không thường còn, không bền vững, hoặc vị ấy tưởng tượng rằng ‘ngay cả ta cũng là một sinh vật trong số các sinh vật ấy’. Như vậy là vị ấy tưởng tượng các sinh vật bằng sự tưởng tượng do tác động của tà kiến.

Bhūtato maññatīti ettha pana saupakaraṇassa attano vā parassa vā yato kutoci bhūtato uppattiṃ maññamāno bhūtato maññatīti veditabbo, ayamassa diṭṭhimaññanā. Tasmiṃyeva panassa diṭṭhimaññanāya maññite vatthusmiṃ sinehaṃ mānañca uppādayato taṇhāmānamaññanāpi veditabbā. Bhūte meti maññatīti ettha pana ekā taṇhāmaññanāva labbhati. Sā cāyaṃ ‘‘mama puttā, mama dhītā, mama ajeḷakā, kukkuṭasūkarā, hatthigavassavaḷavā’’ti evamādinā nayena mamāyato pavattatīti veditabbā. Bhūte abhinandatīti etaṃ vuttanayameva. Apariññātaṃ tassāti ettha pana ye saṅkhāre upādāya bhūtānaṃ paññatti, tesaṃ apariññātattā bhūtā apariññātā hontīti veditabbā. Yojanā pana vuttanayeneva kātabbā.

Bhūtato maññati [tưởng tượng về các sinh vật]: Vị ấy tưởng tượng sự tái sanh của các sinh vật hoặc người khác cùng với những vật dụng phụ thuộc bắt nguồn từ một sinh vật nào đó, nên biết rằng vị ấy tưởng tượng về sinh vật như vậy, đây là tưởng tượng do tác động của tà kiến. Khi vị ấy khởi lên sự quyến luyến và ngã mạn đối với các vật được tưởng tượng bằng sự tưởng tượng của tà kiến, đây là sự tưởng tượng của tham ái và ngã mạn. Lại nữa, bhūte meti maññati [Vị ấy tưởng tượng trong chúng sanh là của tôi]: ở đây nhận được là một sự tưởng tượng do tác động của tham ái. Sự tưởng tượng do tác động của tham ái này đây nên biết rằng   chúng được diễn ra do sự chấp thủ theo cách như vầy: “Các con trai của tôi, các con gái của tôi, dê và cừu của tôi, voi, trâu bò, thỏ, mèo của tôi.” “Vị ấy hoan hỷ trong chúng sanh: chính cách thức như đã trình bày ở phần đất. Lại nữa, “Bởi vị ấy không hiểu biết trọn vẹn chúng [apariññātaṃ tassā]” ở đây việc chế định đối với chúng sanh do dựa vào các hành nào, bởi vì vị ấy không biết trọn vẹn các hành đó, chúng sanh nên biết rằng là hạng phàm nhân không biết trọn vẹn (các hành đó). Còn việc làm sáng tỏ ý nghĩa cần được thực hiện theo cách thức như đã nói.

Evaṃ saṅkhepato saṅkhāravasena ca sattavasena ca maññanāvatthuṃ dassetvā idāni bhūmivisesādinā bhedena vitthāratopi taṃ dassento deve devatotiādimāha. Tattha dibbanti pañcahi kāmaguṇehi attano vā iddhiyāti devā, kīḷanti jotenti cāti attho. Te tividhā sammutidevā upapattidevā visuddhidevāti. Sammutidevā nāma rājāno deviyo rājakumārā. Upapattidevā nāma cātumahārājike deve upādāya tatuttaridevā. Visuddhidevā nāma arahanto khīṇāsavā. Idha pana upapattidevā daṭṭhabbā, no ca kho avisesena. Paranimmitavasavattidevaloke māraṃ saparisaṃ ṭhapetvā sesā cha kāmāvacarā idha devāti adhippetā. Tattha sabbā atthavaṇṇanā bhūtavāre vuttanayeneva veditabbā.

Như vậy, sau khi đức Thế Tôn đã thuyết giảng chỗ thiết lập của sự tưởng tượng do tác động của các hành và do tác động của chúng sanh một cách vắn tắt, bây giờ khi thuyết giảng chỗ thiết lập đó chi tiết theo sự phân chia bhūmi-visesa nên Ngài đã nói rằng: Chư thiên là chư thiên [deve devato]. Trong câu đó có phân tích các sắc như vậy. Chư thiên có ý nghĩa đi đến thịnh vượng, tiêu khiển và sáng chói của năm loại ngũ dục hoặc của chính mình. Có ba loại ‘chư thiên’ là chư Thiên do chế định, chư Thiên do hóa sanh, chư Thiên do thanh tịnh. Đức vua, hoàng hậu và hoàng tử gọi là chư Thiên do chế định. Chư thiên Tứ Đại Thiên Vương và các cõi trời cao hơn gọi là chư Thiên do hóa sanh. Chư vị A-ra-hán, các bậc thánh lậu tận gọi là Chư thiên do thanh tịnh. Nhưng trong trường hợp này cần được thấy rằng Ngài có ý muốn nói đến chư Thiên do hóa sanh. Nhưng chư Thiên do hóa sanh đó sẽ thấy rằng không có sự phân biệt, vì Ma vương và đạo quân của Ma vương trong cõi trời Tha Hóa Tự Tại [Paranimmitavasavatti] không được kể; chỉ những chư Thiên còn lại trong sáu cõi Trời Dục giới được Ngài mong muốn nói đến chư Thiên ở chỗ này. Việc giải thích toàn bộ ý nghĩa nên biết theo chính cách thức đã được nói trong phần các sinh vật.

Pajāpatinti ettha pana māro pajāpatīti veditabbo. Keci pana ‘‘tesaṃ tesaṃ devānaṃ adhipatīnaṃ mahārājādīnametaṃ adhivacana’’nti vadanti. Taṃ devaggahaṇeneva tesaṃ gahitattā ayuttanti mahāaṭṭhakathāyaṃ paṭikkhittaṃ, māroyeva pana sattasaṅkhātāya pajāya adhipatibhāvena idha pajāpatīti adhippeto. So kuhiṃ vasati? Paranimmitavasavattidevaloke.

Lại nữa, “Sanh chủ” ở đây Ma Vương nên biết rằng là Sanh chủ. Nhưng một số vị thầy nói rằng từ Sanh chủ này là tên của Đại Vương        , là vị ưu thế hơn, thù thắng hơn những chư thiên khác. Lời đó Ngài đã bác bỏ trong Mahāaṭṭha [Đại Chú Giải] rằng ‘không chính xác’, vì Mahārāja đó Ngài đã lấy chính từ ‘chư Thiên [deva]’. Còn  ‘chúa Ma Vương’ ấy Ngài có ý muốn nói đến Sanh chủ ở chỗ này với ý nghĩa là ưu thế hơn, thù thắng hơn [pajā] cụ thể là nhóm chúng sanh. Chúa Ma Vương sống ở đâu? (Vị ấy) cư ngụ trong cõi trời Tha Hóa Tự Tại.

Tatra hi vasavattirājā rajjaṃ kāreti. Māro ekasmiṃ padese attano parisāya issariyaṃ pavattento rajjapaccante dāmarikarājaputto viya vasatīti vadanti.Māraggahaṇeneva cettha māraparisāyapi gahaṇaṃ veditabbaṃ. Yojanānayo cettha pajāpatiṃ vaṇṇavantaṃ dīghāyukaṃ sukhabahulaṃ disvā vā sutvā vā rajjanto taṇhāmaññanāya maññati.‘‘Aho vatāhaṃ pajāpatino sahabyataṃ upapajjeyya’’ntiādinā vā pana nayena appaṭiladdhassa paṭilābhāya cittaṃ paṇidahantopi pajāpatiṃ taṇhāmaññanāya maññati. Pajāpatibhāvaṃ pana patto samāno ahamasmi pajānamissaro adhipatīti mānaṃ janento pajāpatiṃ mānamaññanāya maññati. ‘‘Pajāpati nicco dhuvo’’ti vā ‘‘ucchijjissati vinassissatī’’ti vā ‘‘avaso abalo avīriyo niyatisaṅgatibhāvapariṇato chasvevābhijātīsu sukhadukkhaṃ paṭisaṃvedetī’’ti vā maññamāno pana pajāpatiṃ diṭṭhimaññanāya maññatīti veditabbo.

Thật vậy, Chúa Ma Vương Vasavattī ngự trị trong cõi trời ấy. Một số vị thầy cho biết Ma Vương ngự trị tối cao trong hội chúng của mình ở cõi trời đó tựa như một vị Hoàng tử trứ danh, ngự ở cuối biên thùy. Và ở đây nên biết rằng Ngài giữ lấy hội chúng Ma Vương bằng chính từ Ma Vương. Và ở đây, trong cách thức của việc giải thích ý nghĩa được mô tả như sau. Trong khi tìm kiếm sự thỏa thích đã được thấy, hoặc đã được nghe rằng Sanh chủ có màu da xinh đẹp, có thọ mạng dài, có sự hạnh phúc dồi dào, vị ấy tưởng tượng bằng sự tưởng tượng do tác động của tham ái. Hoặc hơn nữa, khi chuyên chú tâm vào việc đạt được điều chưa đạt được bằng phương thức như sau: “Ôi mong rằng ta tái sanh trong hội chúng của sanh chủ,” vị ấy tưởng tượng (bản thân) là Sanh chủ bằng sự tưởng tượng do tác động của tham ái. Khi vị ấy đạt đến bản thể Ma Vương, vị ấy khởi lên ngã mạn: “Ta là vua của các chúng sanh, ta là đấng chúa tể” nên biết rằng vị ấy tưởng tượng Ma Vương bằng sự tưởng tượng do tác động của ngã mạn. Vị ấy khi nghĩ rằng “Sanh chủ là thường còn, là bền vững’ hoặc ‘sẽ bị đoạn diệt, sẽ bị hủy hoại’ hoặc ‘không có quyền lực, không có sức mạnh, không có tinh tấn, chúng bị dắt dẫn, chi phối bởi vận mệnh, bởi điều may rủi, chúng hưởng thọ cảm giác đau khổ và an lạc y theo sáu loại thác sanh của chúng.’ Như vậy là vị ấy tưởng tượng (bản thân) là Sanh chủ bằng sự tưởng tượng do tác động của tà kiến.

Pajāpatisminti ettha pana ekā diṭṭhimaññanāva yujjati. Tassā evaṃ pavatti veditabbā. Idhekacco ‘‘pajāpatismiṃ ye ca dhammā saṃvijjanti, sabbe te niccā dhuvā sassatā avipariṇāmadhammā’’ti maññati. Atha vā ‘‘pajāpatismiṃ natthi pāpaṃ, na tasmiṃ pāpakāni kammāni upalabbhantī’’ti maññati.

Và ở đây, trong từ thuộc về Sanh chủ này sự tưởng tượng với chính một loại tà kiến là thích hợp. Nên biết rằng sự diễn tiến của sự tưởng tượng như vậy. Một số người trong đời này tưởng tượng rằng: “Các pháp nào tồn tại thuộc về Sanh chủ, các pháp đó là thường còn, bền vững, trường tồn, không có sự biến đổi.” Hoặc vị ấy tưởng tượng rằng: “Ác pháp không thuộc về Sanh chủ, các ác nghiệp cũng không tồn tại nơi vị ấy.”

Pajāpatitoti ettha tissopi maññanā labbhanti. Kathaṃ? Idhekacco saupakaraṇassa attano vā parassa vā pajāpatito uppattiṃ vā niggamanaṃ vā maññati, ayamassa diṭṭhimaññanā. Tasmiṃyeva panassa diṭṭhimaññanāya maññite vatthusmiṃ sinehaṃ mānañca uppādayato taṇhāmānamaññanāpi veditabbā. Pajāpatiṃ meti ettha pana ekā taṇhāmaññanāva labbhati. Sā cāyaṃ ‘‘pajāpati mama satthā mama sāmī’’tiādinā nayena mamāyato pavattatīti veditabbā. Sesaṃ vuttanayameva.

Ở đây, bắt nguồn từ Sanh chủ này có được với cả ba sự tưởng tượng. Như thế nào? Một số người trong đời này tưởng tượng chính mình hoặc người khác cùng với các loại tài sản (làm hài lòng) sanh khởi hoặc bắt nguồn từ Sanh chủ; đây là sự tưởng tượng do tác động của tà kiến (của kẻ ấy). Trong khi khởi lên sự quyến luyến và ngã mạn đối với các vật được tưởng tượng bằng sự tưởng tượng do tác động của tà kiến, nên biết rằng đây chính là sự tưởng tượng do tác động của tham ái và ngã mạn. ‘Sanh chủ là là thuộc về tôi’ ở đây đạt được hoàn toàn sự tưởng tượng do tác động của một loại tham ái. Và điều này đây nên biết rằng được vận hành đối với hạng người chấp thủ ‘là của tôi’ theo phương cách sau: ‘Sanh chủ là thầy của tôi, ngài là chủ nhân của tôi.’ Từ còn lại áp dụng theo phương thức đã được nói.

Brahmaṃ brahmatoti ettha brūhito tehi tehi guṇavisesehīti brahmā. Apica brahmāti mahābrahmāpi vuccati, tathāgatopi brāhmaṇopi mātāpitaropi seṭṭhampi. ‘‘Sahasso brahmā dvisahasso brahmā’’tiādīsu (ma. ni. 3.165-166) hi mahābrahmā brahmāti vuccati. ‘‘Brahmāti kho, bhikkhave, tathāgatassetaṃ adhivacana’’nti ettha tathāgato.

‘‘Tamonudo buddho samantacakkhu, Lokantagū sabbabhavātivatto;

Anāsavo sabbadukkhappahīno, Saccavhayo brahme upāsito me’’ti. (cūḷani. 104) –

Brahmaṃ brahmato [Phạm Thiên là Phạm Thiên]: gọi là Phạm Thiên bởi ý nghĩa đã được phát triển với những ân đức đặc biệt này đó. Và lại nữa Đại Phạm thiên, Như Lai, các bà-la-môn, mẹ cha và những thứ cao thượng nhất, Ngài đều gọi là Phạm thiên. Thật vậy: “Có một ngàn Phạm Thiên, có hai ngàn Phạm Thiên” (ma. ni. 3.165-166), Đại Phạm Thiên được gọi là Phạm Thiên. ‘Phạm thiên, này chư tỳ khưu, đây là tên gọi cho Như Lai”- ở đây Như Lai cũng gọi là Phạm Thiên.

Đức Phật, vị xóa tan sự tăm tối, vị có Toàn Nhãn, vị đã đi đến tận cùng thế giới, đã vượt khỏi mọi hữu, bậc không còn lậu hoặc, vì đã từ bỏ tất cả khổ, vị đã nói chân lý, xứng đáng đã được tôi phụng sự, thưa vị Bà-la-môn.” (cūḷani. 104), ở đây Bà-la-môn cũng gọi là Phạm thiên.

Ettha brāhmaṇo. ‘‘Brahmāti mātāpitaro, pubbācariyāti vuccare’’ti. (itivu. 106; jā. 2.20.181) – Ettha mātāpitaro. ‘‘Brahmacakkaṃ pavattetī’’ti (ma. ni. 1.148; a. ni. 5.11) ettha seṭṭhaṃ. Idha pana paṭhamābhinibbatto kappāyuko brahmā adhippeto. Taggahaṇeneva ca brahmapurohita-brahmapārisajjāpi gahitāti veditabbā. Atthavaṇṇanā panettha pajāpativāre vuttanayeneva veditabbā.

Mẹ và cha được Ngài gọi là Phạm Thiên, mẹ và cha Ngài gọi là vị thầy đầu tiên’ (itivu. 106; jā. 2.20.181) – Ở đây mẹ và cha là Phạm Thiên. ‘Đức Thế Tôn chuyển vận bánh xe tối thượng’ (ma. ni. 1.148; a. ni. 5.11), ở đây những thứ cao thượng gọi là Phạm Thiên. Ở đây, Ngài có ý muốn nói đến vị Phạm thiên sinh ra đầu tiên, có thọ mạng kéo dài hằng đại kiếp. Nên biết rằng cả các vị Phàm Phụ Thiên và Phạm Chúng Thiên cũng được bao gồm. Sự giải thích ý nghĩa cần được biết theo phương pháp đã được nói trong phần Sanh chủ.

Ābhassaravāre daṇḍadīpikāya acci viya etesaṃ sarīrato ābhā chijjitvā chijjitvā patantī viya sarati visaratīti ābhassarā. Tesaṃ gahaṇena sabbāpi dutiyajjhānabhūmi gahitā, ekatalavāsino eva cete sabbepi parittābhā appamāṇābhā ābhassarāti veditabbā.

Trong phần ‘Các vị trời Quang âm thiên [ābhassara]’: hào quang chói sáng phát ra, tỏa ra từ sắc thân của các vị ấy giống như ánh sáng (của ngọn đuốc) bị rớt xuống từ thân ngọn đuốc; Bởi thế, Phạm thiên đó được gọi là những vị trời Quang âm thiên. Với việc đề cập đến đến những vị này, Ngài cũng xác định lấy tất cả (chúng sanh) ở cõi Nhị thiền, những vị trời này trú ngụ trong cùng một tầng trời nên biết rằng (bao gồm) Thiểu quang thiên [parittābhā], Vô lượng quang thiên [appamāṇābhā], và Quang âm thiên.

Subhakiṇhavāre subhena okiṇṇā vikiṇṇā subhena sarīrappabhāvaṇṇena ekagghanā suvaṇṇamañjūsāya ṭhapitasampajjalitakañcanapiṇḍasassirikāti subhakiṇhā. Tesaṃ gahaṇena sabbāpi tatiyajjhānabhūmi gahitā. Ekatalavāsino eva cete sabbepi parittasubhā appamāṇasubhā subhakiṇhāti veditabbā.

Trong phần các vị trời Biến tịnh thiên [subhakiṇhā]; được bao bọc bằng hào quang, được rải lên với hào quang; thân họ là một khối rực rỡ và đẹp như một miếng vàng rồng chói lóa được đặt trong cái hộp bằng vàng. Với việc đề cập đến Với việc đề cập đến đến những vị này, Ngài cũng xác định lấy tất cả (chúng sanh) ở cõi Tam thiền, những vị trời này trú ngụ trong cùng một tầng trời nên biết rằng (bào gồm) Thiểu tịnh thiên [parittasubhā], Vô lượng tịnh thiên [appamāṇasubhā] và Biến tịnh thiên.

Vehapphalavāre, vipulā phalāti vehapphalā. Catutthajjhānabhūmi brahmāno vuccanti. Atthanayayojanā pana imesu tīsupi vāresu bhūtavāre vuttanayeneva veditabbā.

Trong phần ‘các vị trời Quảng quả thiên [vehapphalā]: Chư vị là những Phạm thiên trong cõi Tứ thiền. Việc giải thích ý nghĩa cho ba phần này nên được biết tương tự như phương thức đã được nói trong phần chúng sanh.

Abhibhūvāre abhibhavīti abhibhū. Kiṃ abhibhavi? Cattāro khandhe arūpino. Asaññabhavassetaṃ adhivacanaṃ. Asaññasattā devā vehapphalehi saddhiṃ ekatalāyeva ekasmiṃ okāse yena iriyāpathena nibbattā, teneva yāvatāyukaṃ tiṭṭhanti cittakammarūpasadisā hutvā. Te idha sabbepi abhibhūvacanena gahitā. Keci abhibhū nāma sahasso brahmāti evamādinā nayena tattha tattha adhipatibrahmānaṃ vaṇṇayanti. Brahmaggahaṇeneva pana tassa gahitattā ayuttametanti veditabbaṃ. Yojanānayo cettha abhibhū vaṇṇavā dīghāyukoti sutvā tattha chandarāgaṃ uppādento abhibhuṃ taṇhāmaññanāya maññati. ‘‘Aho vatāhaṃ abhibhuno sahabyataṃ upapajjeyya’’ntiādinā pana nayena appaṭiladdhassa paṭilābhāya cittaṃ paṇidahantopi abhibhuṃ taṇhāmaññanāya maññati. Attānaṃ hīnato abhibhuṃ seyyato dahanto pana abhibhuṃ mānamaññanāya maññati. ‘‘Abhibhū nicco dhuvo’’tiādinā nayena parāmasanto abhibhuṃ diṭṭhimaññanāya maññatīti veditabbo. Sesaṃ pajāpativāre vuttanayameva.

Thắng giả: được gọi là thắng giả bởi ý nghĩa chinh phục. Những vị này chinh phục cái gì? Chinh phục bốn vô sắc uẩn [bốn danh uẩn]. Thắng giả này là tên gọi Phạm Thiên cõi Vô Tưởng. Những vị này trú trong cùng một cõi Phạm thiên Quảng quả thiên [vehapphala], cư trú ở một khoảng trống (và) Ngài đã hóa sanh (sau khi tử từ thế giới nhân loại) bằng oai nghi nào thì chư vị cũng vững trú ở oai nghi đó, cho đến khi hết tuổi thọ, tất cả đều có sắc nghiệp giống nhau do tâm tạo ra. Ở đây Ngài ám chỉ đến tất cả Phạm thiên Quảng quả thiên và Phạm thiên Vô tưởng với từ Thắng giả. Một số vị thầy ca ngợi Phạm Thiên là vị chúa tể ở trong cõi đó đó [là thắng giả] theo cách thức như vầy: ‘một ngàn Phạm Thiên gọi là Thắng giả. Nhưng nên biết rằng lời nói của họ không chính xác, vì Phạm Thiên là chúa tể, đã được Ngài đề cập với từ ‘Phạm Thiên’ rồi. Trong phần này nên biết cách giải thích ý nghĩa ‘hạng phàm nhân’ đã lắng nghe rằng Phạm Thiên Thắng giả có sắc thân xinh đẹp và thọ mạng lâu dài, rồi khởi lên sự hoan hy đối với Phạm thiên Thắng giả ấy, khi đó vị ấy tưởng tượng các Thắng giả bằng sự tưởng tượng của tham ái. Hoặc khi vị ấy chú tâm phát nguyện để đạt được những thứ mà bản thân chưa đạt được và suy nghĩ rằng: “Ôi mong rằng ta có thể tái sanh trong hội chúng của các vị Thắng giả.’ Theo cách này vị ấy tưởng tượng các Thắng giả bằng sự tưởng tượng của tham ái. Lại nữa, khi vị ấy tưởng tượng mình thấp kém hơn [Phạm thiên Thắng giả], hoặc tưởng tượng Phạm thiên Thắng giả tốt đẹp hơn mình, vị ấy tưởng tượng Phạm thiên Thắng giải bằng sự tưởng tượng của ngã mạn, khi chấp chặt theo cách thức như vầy: Phạm thiên Thắng giả là thường hằng, là bền vững, vị ấy tưởng tượng Phạm thiên Thắng giải bằng sự tưởng tượng của tà kiến. Từ còn lại nên áp dụng phương thức như đã nói trong phần Sanh chủ.

Giải Thích Phần Chúng Sanh Kết Thúc.

 

Giải Thích Phần Không Vô Biên Xứ [Ākāsānañcāyatanavārādivaṇṇanā]

  1. Evaṃ bhagavā paṭipāṭiyā devaloke dassentopi abhibhūvacanena asaññabhavaṃ dassetvā idāni yasmā ayaṃ vaṭṭakathā, suddhāvāsā ca vivaṭṭapakkhe ṭhitā, anāgāmikhīṇāsavā eva hi te devā. Yasmā vā katipayakappasahassāyukā te devā, buddhuppādakāleyeva honti. Buddhā pana asaṅkheyepi kappe na uppajjanti, tadā suññāpi sā bhūmi hoti. Rañño khandhāvāraṭṭhānaṃ viya hi buddhānaṃ suddhāvāsabhavo. Te teneva ca kāraṇena viññāṇaṭṭhitisattāvāsavasenapi na gahitā, sabbakālikā pana imā maññanā. Tasmā tāsaṃ sadāvijjamānabhūmiṃ dassento suddhāvāse atikkamitvā, ākāsānañcāyatanantiādimāha. Tattha ākāsānañcāyatananti tabbhūmikā cattāro kusalavipākakiriyā khandhā. Te ca tatrūpapannāyeva daṭṭhabbā bhavaparicchedakathā ayanti katvā. Esa nayo viññāṇañcāyatanādīsu. Atthayojanā pana catūsupi etesu vāresu abhibhūvāre vuttanayeneva veditabbā. Mānamaññanā cettha pajāpativāre vuttanayenāpi yujjati.

[4] Như vậy, sau khi đức Thế Tôn thuyết giảng về các cõi trời theo tuần tự, khi thuyết về cõi Vô Tưởng với từ Thắng giả. Bây giờ để diễn giải theo vaṭṭa [sự luân chuyển] và chư Thiên, là bậc thánh A-na-hàm và bậc Thánh đã đoạn tận các lậu hoặc, vì trong cõi Tịnh Cư Thiên đã vững trú trong sự chấm dứt luân chuyển. Hoặc vì thọ mạng của những vị trời này từ hai ngàn đến ba ngàn kiếp và chư vị chỉ tồn tại trong khoảng thời gian khi một vị Phật hiện khởi ở đời. Nhưng có những kiếp chư Phật không xuất hiện trong cả một số a-tăng-kỳ kiếp, và trong khoảng thời gian đó cõi Tịnh Cư Thiên trống rỗng. Các Tịnh Cư Thiên chỉ có trong thời kỳ chư Phật xuất hiện, giống như một nơi cắm trại dành cho đức vua. Vì lý do đó cõi này không được xếp vào sự trụ vững của thức và cả chín loại hữu tình cư [sattāvāsa]. Nhưng sự tưởng tượng này đức Thế Tôn loại bỏ cõi Tịnh Cư Thiên, rồi đã nói lời sau: ‘ākāsānañcāyatanaṃ = Không Vô Biên Xứ’. Ở đó, Không vô biên xứ gồm bốn danh uẩn là tâm thiện, tâm quả và tâm tố vận hành trong cõi Không Vô Biên Xứ đó. và các uẩn này nên biết rằng khởi lên trong cõi đó đó, vì lời nói này nói đến việc xác định các cõi đó. Thức vô biên xứ [viññāṇañcāyatana] cũng áp dụng theo phương thức tương tự (trường hợp thức vô biên xứ,) v.v… Cũng vậy, trong bốn phần đó việc giải thích ý nghĩa nên biết theo phương thức được nói trong phần Thắng giả. Và sự tưởng tượng bằng ngã mạn, trong câu này cũng áp dụng theo phần lý giải đã được nói trong phần Sanh chủ.

Giải Thích Phần Không Vô Biên Xứ Kết Thúc

 

Giải Thích Phần Sở Kiến và Sở Văn

  1. Evaṃ bhūmivisesādinā bhedena vitthāratopi maññanāvatthuṃ dassetvā idāni sabbamaññanāvatthubhūtaṃ sakkāyapariyāpannaṃ tebhūmakadhammabhedaṃ diṭṭhādīhi catūhi saṅgaṇhitvā dassento, diṭṭhaṃ diṭṭhatotiādimāha.

[5] Như vậy, sau khi đức Thế Tôn thuyết giảng nơi trú của đến vật của sự tưởng tượng theo cách chi tiết bằng sự chia chẻ chúng trong các cõi riêng biệt, v.v…. Bây giờ Thế Tôn hệ thống lại các Pháp được vận hành trong ba cõi thuộc quan niệm sai làm về thân là chỗ thiết lập của các sự tưởng tượng với bốn nguyên nhân có đối tượng sắc mà tự mình thấy v.v, nên Ngài đã nói: ‘diṭṭhaṃ diṭṭhato = sở kiến[38] là sở kiến’.

Tattha diṭṭhanti maṃsacakkhunāpi diṭṭhaṃ, dibbacakkhunāpi diṭṭhaṃ. Rūpāyatanassetaṃ adhivacanaṃ. Tattha diṭṭhaṃ maññatīti diṭṭhaṃ tīhi maññanāhi maññati. Kathaṃ? Rūpāyatanaṃ subhasaññāya sukhasaññāya ca passanto tattha chandarāgaṃ janeti, taṃ assādeti abhinandati. Vuttampi hetaṃ bhagavatā ‘‘itthirūpe, bhikkhave, sattā rattā giddhā gadhitā mucchitā ajjhosannā, te dīgharattaṃ socanti itthirūpavasānugā’’ti (a. ni. 5.55). Evaṃ diṭṭhaṃ taṇhāmaññanāya maññati. ‘‘Iti me rūpaṃ siyā anāgatamaddhānanti vā panettha nandiṃ samannāneti, rūpasampadaṃ vā pana ākaṅkhamāno dānaṃ detī’’ti vitthāro. Evampi diṭṭhaṃ taṇhāmaññanāya maññati. Attano pana parassa ca rūpasampattiṃ vipattiṃ nissāya mānaṃ janeti. ‘‘Imināhaṃ seyyosmī’’ti vā ‘‘sadisosmī’’ti vā ‘‘hīnosmī’’ti vāti evaṃ diṭṭhaṃ mānamaññanāya maññati. Rūpāyatanaṃ pana niccaṃ dhuvaṃ sassatanti maññati, attānaṃ attaniyanti maññati, maṅgalaṃ amaṅgalanti maññati, evaṃ diṭṭhaṃ diṭṭhimaññanāya maññati. Evaṃ diṭṭhaṃ tīhi maññanāhi maññati. Kathaṃ diṭṭhasmiṃ maññati? Rūpasmiṃ attānaṃ samanupassananayena maññanto diṭṭhasmiṃ maññati. Yathā vā dhane dhaññe. Evaṃ rūpasmiṃ rāgādayoti maññantopi diṭṭhasmiṃ maññati. Ayamassa diṭṭhimaññanā. Tasmiññeva panassa diṭṭhimaññanāya maññite vatthusmiṃ sinehaṃ mānañca uppādayato taṇhāmānamaññanāpi veditabbā. Evaṃ diṭṭhasmiṃ maññati. Sesaṃ pathavīvāre vuttanayeneva veditabbaṃ.

Ở đó, từ ‘sở kiến’ nghĩa là những thứ được nhìn thấy bởi nhục nhãn và thiên nhãn.  ‘Sở kiến’ đó là tên gọi của sắc xứ. Ở đó, ‘vị ấy tưởng tượng sở kiến’ nghĩa là vị ấy tưởng tượng sở kiến bằng cả ba sự tưởng tượng. Như thế nào? Trong khi nhìn thấy sắc xứ với tịnh tưởng và lạc tưởng, vị ấy khởi lên dục vọng và ái luyến trong sắc xứ, là hoan hỷ và thỏa mãn trong sắc xứ đó. Bởi vậy, đức Thế Tôn đã nói: ‘Này các tỳ khưu, tất cả chúng sanh bị luyến ái, bị thèm khát, bị trói buộc, bị mê mẩn chúng sanh đó trong sắc của người nữ, khi rơi vào mãnh lực của sắc nữ nhân chúng (trở nên) sầu muộn trong một thời gian dài’ (a. ni. 5.55). Như vậy là vị ấy tưởng tượng sở kiến bằng sự tưởng tượng do tác động của tham ái. Hoặc lại nữa, vị ấy khao khát trong sắc này như vầy: ‘Cầu xin cho sắc thân của tôi mãi được như vậy’ và vị ấy bố thí cúng dường trong khi mong muốn đạt đến vẻ đẹp của sắc v.v… sự chi tiết như đã nói. Như vậy là vị ấy tưởng tượng sở kiến với sự tưởng tượng do tác động của tham ái. Vị ấy dựa vào sự thành tựu và sự không thành tựu sắc của mình và của người khác khiến ngã mạn sanh khởi, vị ấy tưởng tượng đối tượng sắc mà bản thân nhìn thấy bằng sự tưởng tượng do tác động của ngã mạn như vầy: ‘tôi tốt hơn người này, hoặc tôi ngang bằng người này, hoặc tôi thấp kém hơn người này’. Lại nữa, vị ấy tưởng tượng sắc xứ là  thường còn, là bền vững, là trường tồn; vị ấy tưởng tượng tự ngã có liên quan với tự ngã; (vị ấy) tưởng tượng trong sắc xứ là điềm lành, điềm xấu, như vậy là vị ấy tưởng tượng sắc xứ mà bản thân nhìn thấy bằng sự tưởng tượng do tác động của tà kiến. Vị ấy tưởng tượng sắc xứ mà bản thân nhìn thấy với ba sự tưởng tượng như thế. Vị ấy tưởng tưởng sắc xứ mà bản thân nhìn thấy như thế nào? Là khi hạng phàm nhân tưởng tưởng bằng cách quán xét thấy tự ngã trong sắc, vị ấy tưởng tượng trong sắc xứ mà bản thân nhìn thấy. Thậm chí tưởng tưởng rằng ái luyến v.v, sanh khởi có trong sắc, giống như sữa ở trong bầu sữa mẹ’. (vị ấy) tưởng tượng sắc xứ mà bản thân nhìn thấy. Đây là sự tưởng tượng do tác động của tà kiến. Lại nữa, khi vị ấy khởi lên sự quyến luyến và ngã mạn đối với các vật được tưởng tượng bằng sự tưởng tượng của các tà kiến đó đó. Nên biết rằng vị ấy tưởng tưởng bằng sự tượng do tác động của tham ái và ngã mạn. Như vậy là tưởng tượng trong sắc xứ mà bản thân nhìn thấy.’ Từ còn lại nên hiểu theo cách thức đã được trong phần về đất.

Sutanti maṃsasotenapi sutaṃ, dibbasotenapi sutaṃ, saddāyatanassetaṃ adhivacanaṃ.

Sở văn[39] [sutaṃ]: (những âm thanh, tiếng động) được nghe bằng nhục nhĩ hoặc bằng thiên nhĩ. Sở văn là tên gọi cho thinh xứ.

Mutanti mutvā munitvā ca gahitaṃ, āhacca upagantvāti attho, indriyānaṃ ārammaṇānañca aññamaññasaṃsilese viññātanti vuttaṃ hoti, gandharasaphoṭṭhabbāyatanānametaṃ adhivacanaṃ.

Sở đối xúc[40] [mutaṃ]: (pháp nào) sau khi đã cảm nhận và hiểu biết rồi nắm lấy, tức là có thể xúc chạm khi đã đến gần, là điều đã được nhận thức qua sự gắn bó hỗ tương giữa căn và các cảnh. Sở đối xúc đó là tên gọi của khí xứ, vị xức và xúc xứ.

Viññātanti manasā viññātaṃ, sesānaṃ sattannaṃ āyatanānametaṃ adhivacanaṃ dhammārammaṇassa vā. Idha pana sakkāyapariyāpannameva labbhati. Vitthāro panettha diṭṭhavāre vuttanayeneva veditabbo.

Sở tri[41] [viññāta]: được nhận thức với ý. Sở tri đó là tên gọi bảy xứ còn lại, hoặc cảnh pháp [dhammārammaṇa]. Nhưng ở đây nhận được chỉ riêng cảnh hệ thuộc trong thân của tự thân [quan niệm sai làm về thân]. Trong trường hợp này nên được biết một cách chi tiết theo cách thức được nói trong phần sở kiến.

Giải Thích Phần Sở Kiến Kết Thúc

 

Giải Thích Phần Đồng Nhất [Ekattavārādivaṇṇanā]

  1. Evaṃ sabbaṃ sakkāyabhedaṃ diṭṭhādīhi catūhi dassetvā idāni tameva samāpannakavārena ca asamāpannakavārena ca dvidhā dassento ekattaṃ nānattantiādimāha.

[6] Như vậy, sau khi đức Thế Tôn thuyết bằng sự chia chẻ nhận thức sai trái về thân bởi 4 loại có cảnh sắc mà tự thân nhìn thấy như vầy v.v, Bây giờ, khi thuyết về phân loại của nhận thức sai lầm về thân đó đó thành 2 loại là một phần về người chứng đạt sự thể nhập [samāpannaka] và một phần về người không chứng đạt sự thể nhập [asamāpannaka], nên Ngài đã nói rằng: ekattaṃ nānattaṃ [đồng nhất, và dị biệt].

Ekattanti iminā hi samāpannakavāraṃ dasseti. Nānattanti iminā asamāpannakavāraṃ. Tesaṃ ayaṃ vacanattho ekabhāvo ekattaṃ. Nānābhāvo nānattanti. Yojanā panettha samāpannakavāraṃ catūhi khandhehi, asamāpannakavārañca pañcahi khandhehi bhinditvā ‘‘rūpaṃ attato samanupassatī’’tiādinā sāsananayena pathavīvārādīsu vuttena ca aṭṭhakathānayena yathānurūpaṃ vīmaṃsitvā veditabbā. Keci pana ekattanti ekattanayaṃ vadanti nānattanti nānattanayaṃ. Apare ‘‘ekattasaññī attā hoti arogo paraṃ maraṇā, nānattasaññī attā hotī’’ti evaṃ diṭṭhābhinivesaṃ. Taṃ sabbaṃ idha nādhippetattā ayuttameva hoti.

Ekattaṃ [đồng nhất] này đức Thế Tôn thuyết phần của người chứng nhập sự thể nhập. Nānattaṃ [dị biệt] này đức Thế Tôn thuyết giảng phần của người không chứng nhập sự thể nhập. Cả hai từ đó có ý nghĩa riêng biệt như sau: tính chất như một gọi là đồng nhất, tính chất tách biệt gọi là dị biệt. Về phần mở rộng của câu này, bậc trí nên tách riêng phần của người chứng nhâp sự thể nhập với bốn danh uẩn và phần của người không chứng nhập sự thể nhập với năm uẩn, rồi quán xét cho phù hợp qua cách thức Giáo pháp [tức là các kinh điển] v.v. vị ấy quán thấy sắc là tự ngã, và theo cách thức của chú giải đã được nói trong phần đất. Nhưng một số vị thầy nói rằng: nói bằng cách thức đồng nhất  với từ đồng nhất [ekattaṃ] và nói bằng cách thức dị biệt với từ dị biệt [nānattaṃ]. Những vị thầy khác nói sự chấp chặt vào tà kiến ‘tự ngã có tưởng đồng nhất, không biến mất, sau khi chết tự ngã có tưởng dị biệt.’ Tất cả lời đó không đúng vì chúng không được ám chỉ ở đây.’

Evaṃ sabbaṃ sakkāyaṃ dvidhā dassetvā idāni tameva ekadhā sampiṇḍetvā dassento sabbaṃ sabbatotiādimāha. Yojanānayo panettha sabbaṃ assādento sabbaṃ taṇhāmaññanāya maññati. ‘‘Mayā ete sattā nimmitā’’tiādinā nayena attanā nimmitaṃ maññanto sabbaṃ mānamaññanāya maññati. ‘‘Sabbaṃ pubbekatakammahetu, sabbaṃ issaranimmānahetu, sabbaṃ ahetuapaccayā, sabbaṃ atthi, sabbaṃ natthī’’tiādinā nayena maññanto sabbaṃ diṭṭhimaññanāya maññatīti veditabbo. Kathaṃ sabbasmiṃ maññati? Idhekacco evaṃdiṭṭhiko hoti ‘‘mahā me attā’’ti. So sabbalokasannivāsaṃ tassokāsabhāvena parikappetvā so kho pana me ayaṃ attā sabbasminti maññati, ayamassa diṭṭhimaññanā. Tasmiṃyeva panassa attani sinehaṃ tabbatthukañca mānaṃ uppādayato taṇhāmānamaññanāpi veditabbā. Sesaṃ pathavīvāre vuttanayeneva veditabbaṃ.

Sau khi đức Thế Tôn thuyết sự nhận thức sai trái về thân làm hai phần như vậy, bây giờ khi tập hợp để trình bày sự nhận thức sai trái về thân thành một, Ngài đã thuyết rằng: ‘tất cả là tất cả [sabbaṃ sabbato]’. Còn cách thức giải thích ý nghĩa trong câu này bậc trí cần biết như sau: phàm nhân khi thỏa thích tất cả, vị ấy tưởng tượng tất cả bằng sự tưởng tượng do tác động của tham ái. Khi tưởng tượng tất cả những thứ mà tự mình sáng tạo ra, nên biết rằng: vị ấy tưởng tưởng mọi thứ bằng sự tưởng tượng do tác động của ngã mạn. Khi vị ấy tưởng tượng theo cách thức sau: ‘Tất cả nghiệp đã tạo trong quá khứ làm nhân, tất cả do Thượng đế tạo ra làm nhân, tất cả không có nhân, không có duyên, tất cả hiện hữu, tất cả không hiện hữu’ v.v… như vậy là vị ấy tưởng tượng tất cả mọi thứ bằng sự tưởng tượng do tác động của tà kiến. Phàm nhân tưởng tượng mọi việc như thế nào? Một số người ở đời này có sở kiến như vầy: ‘Tự ngã của ta là to lớn’. Người đó xác định bằng sự liên kết tất cả thế giới là chỗ chứa cho tự ngã ấy, vị ấy tưởng tượng rằng ‘tự ngã này đây của ta có trong sự liên kết của tất cả thể thới’. Đây gọi là sự tưởng tượng của vị ấy do tác động của tà kiến. Khi vị ấy khởi lên sự quyến luyến trong tự ngã đó đó, ngã mạn có tự ngã ấy làm chỗ thiết lập sanh khởi trong tự thân, nên biết rằng sự tưởng tượng do tác động của tham ái và ngã mạn cũng cùng sanh khởi. Từ còn lại nên được hiểu theo cách thức được nói trong phần Đất.

Evaṃ sabbaṃ sakkāyaṃ ekadhā dassetvā idāni aparenapi nayena taṃ ekadhā dassento nibbānaṃ nibbānatoti āha. Tattha nibbānanti ‘‘yato kho, bho, ayaṃ attā pañcahi kāmaguṇehi samappito samaṅgibhūto paricāreti. Ettāvatā kho, bho, ayaṃ attā paramadiṭṭhadhammanibbānaṃ patto hotī’’tiādinā nayena pañcadhā āgataṃ paramadiṭṭhadhammanibbānaṃ veditabbaṃ. Tattha nibbānaṃ assādento taṇhāmaññanāya maññati. Tena nibbānena ‘‘ahamasmi nibbānaṃ patto’’ti mānaṃ janento mānamaññanāya maññati. Anibbānaṃyeva samānaṃ taṃ nibbānato niccādito ca gaṇhanto diṭṭhimaññanāya maññatīti veditabbo.

Như vậy, sau khi đức Thế Tôn thuyết giảng toàn bộ thân kiến đồng nhất. Bây giờ, khi thuyết thân kiến đó đồng nhất theo một phương pháp khác nữa, nên Ngài đã nói rằng ‘Niết Bàn là Niết Bàn [nibbānaṃ nibbānato]’. Ở đây ‘Niết Bàn’ nên biết rằng Niết Bàn tối thượng ở hiện tại theo năm phần [tồn tại 5 loại] theo cách thức như sau: ‘Kinh thưa Ngài, do tự ngã được phú cho, được cung cấp đầy đủ với năm món dục lạc, mê đắm trong chúng. Kính thưa Ngài, như vậy là tự ngã này đạt đến Niết Bàn tối thượng ở hiện tại.’ Ở đó, phàm nhân thỏa thích Niết Bàn này, nên biết rằng vị ấy tưởng tượng bằng sự tưởng tượng do tác động của tham ái. Vị ấy khiến ngã mạn sanh khởi bằng ngã mạn như sau: ‘tôi đã chứng niết bàn’ nên biết rằng vị ấy tưởng tượng bằng sự tưởng tượng do tác động của ngã mạn. Trong khi nắm giữ sự thỏa thích không phải Niết Bàn nghĩ là Niết Bàn và chấp thủ Niết Bàn cho là sự thỏa thích v.v, nên biết rằng vị ấy tưởng tượng bằng sự tưởng tượng do tác động của tà kiến.

Nibbānato pana aññaṃ attānaṃ gahetvā so kho pana me ayaṃ attā imasmiṃ nibbāneti maññanto nibbānasmiṃ maññati, ayamassa diṭṭhimaññanā. Tasmiṃyeva panassa attani sinehaṃ tabbatthukañca mānaṃ uppādayato taṇhāmānamaññanāpi veditabbā. Esa nayo nibbānato maññanāyapi. Tatrapi hi nibbānato aññaṃ attānaṃ gahetvā ‘‘idaṃ nibbānaṃ, ayaṃ attā, so kho pana me ayaṃ attā ito nibbānato añño’’ti maññanto nibbānato maññati, ayamassa diṭṭhimaññanā. Tasmiṃyeva panassa attani sinehaṃ tabbatthukañca mānaṃ uppādayato taṇhāmānamaññanāpi veditabbā. ‘‘Aho sukhaṃ mama nibbāna’’nti maññanto pana nibbānaṃ meti maññatīti veditabbo. Sesaṃ vuttanayameva. Ayaṃ panettha anugīti –

Còn hạng phàm nhân khi đã chấp thủ tự ngã khác đi từ Niết Bàn, tưởng tượng rằng ‘tự ngã này đây của ta có trong Niết Bàn này. Đây là sự tưởng tượng của hạng phàm nhân do tác động của tà kiến. Khi vị ấy khởi lên sự quyến luyến trong tự ngã đó đó và khởi lên ngã mạn có tự ngã ấy làm nơi vững trú, nên biết rằng sự tưởng tượng do tác động của tham ái và ngã mạn (cũng cùng khởi lên theo). Phương thức trong sự tưởng tưởng từ Niết Bàn cũng áp dụng theo cách thức này. Thật vậy, trong câu đó hạng phàm nhân khi chấp thủ tự ngã là khác từ Niết Bàn, vị ấy tưởng tượng rằng: ‘Đây là Niết Bàn, cái này là tự ngã. Tự ngã này đây của tôi tách biệt nhau từ Niết Bàn này’ gọi là sư tưởng tượng từ Niết Bàn. Đây là sự tưởng tượng của vị ấy do tác động của tà kiến. Khi hạng phàm nhân khởi lên sự quyến luyến trong tự ngã đó đó, và phát sanh ngã mạn dựa có tự ngã đó làm nơi vững trú của tham ái và ngã mạn (cũng cùng sanh khởi). Nhưng khi tưởng tưởng rằng ‘Ồi! Niết Bàn của ta thật an lạc’ nên biết rằng vị ấy tưởng tưởng Niết Bàn nghĩ là Niết Bàn của tôi. Từ còn lại theo cách thức như đã nói. Lại nữa, ở đây có câu kệ tóm lược này:

Yādiso esa sakkāyo, tathā naṃ avijānato;

Puthujjanassa sakkāye, jāyanti sabbamaññanā.

Jeguccho bhiduro cāyaṃ, dukkho apariṇāyako;

Taṃ paccanīkato bālo, gaṇhaṃ gaṇhāti maññanaṃ.

Tự thân này như thế nào? khi vị ấy không nhận thức được tự thân đó; (theo thực tính) sự tưởng tượng tất cả mọi thứ được sanh khởi trong tự thân, tự thân này (thực sự) đáng nhờm gớm, là mỏng manh, là nguồn gốc của khổ, không phải là người hướng dẫn;

Subhato sukhato ceva, sakkāyaṃ anupassato;

Salabhasseva aggimhi, hoti taṇhāya maññanā.

Niccasaññaṃ adhiṭṭhāya, sampattiṃ tassa passato;

Gūthādī viya gūthasmiṃ, hoti mānena maññanā.

Là kẻ ngu khi chấp chặt thân đó theo cách đối nghịch [theo pháp thực tính], chấp chặt sự tưởng tượng [sai lầm] bằng việc chấp chặt; khi quán thấy tự thân là đẹp đẽ và an lạc, có sự tưởng tượng sai do tác động của tham ái, giống như sự tưởng tượng trong ngọn lửa của chính con thiêu thân khi kẻ phàm nhân nắm giữ sự tưởng tượng về thường hằng, thấy sự thành tựu của tự thân đó, vị ấy có sự tưởng tượng sai do tác động của ngã mạn, giống như con chó thấy đóng phân khởi lên tịnh tưởng trong đống phân đó;

Attā attaniyo meti, passato naṃ abuddhino;

Ādāse viya bondhissa, diṭṭhiyā hoti maññanā.

Maññanāti ca nāmetaṃ, sukhumaṃ mārabandhanaṃ;

Sithilaṃ duppamuñcañca, yena baddho puthujjano.

Khi phàm nhân quán thấy tự thân là tự ngã, hệ thuộc vào tự ngã, không hiểu biết theo thực tính, vị ấy có sự tưởng tượng sai lầm do tác động của tà kiến, giống như người tưởng tượng sắc trong tấm gương; Và sự tưởng tượng được gọi là tinh tế, là (phương tiện) trói buộc của Ma Vương, dẻo dai và khó tháo gỡ bởi vì là sợi dây ràng buộc con người;

Bahuṃ vipphandamānopi, sakkāyaṃ nātivattati;

Samussitaṃ daḷhatthambhaṃ, sāva gaddulabandhano.

Sa’so sakkāyamalīno, jātiyā ca jarāya ca;

Rogādīhi ca dukkhehi, niccaṃ haññati bāḷhaso.

Mặc dù nỗ lực đấu tranh bằng nhiều phương pháp khác nhau cũng không vượt qua được được tự thân. Bị tự thân đó buộc lại thật kiên cố giống như một con chó bị xích vào một cái cột đã đóng chặt. Những người còn lại nhiễm đắm trong tự thân, (vị ấy) thường xuyên bị nóng đốt bởi sanh, già, khổ và bệnh, v.v. giống như cá bị mắc câu;

Taṃ vo vadāmi bhaddante, sakkāyaṃ anupassatha;

Asātato asubhato, bhedato ca anattato.

Eso sabhāvo hetassa, passaṃ evamimaṃ budho;

Pahāya maññanā sabbā, sabbadukkhā pamuccatīti.

Do đó, tôi xin nói điều đó cùng các Ngài, các Ngài hãy quán xét thân (được cho) là xinh đẹp của chính mình để thấy rằng không đáng ưa thích, không xinh đẹp, mỏng manh [dễ hư hoại] và không phải của ta. Bởi tự thân này đây có thực tính như vậy, người biết quán xét thấy thân này như vầy, đoạn trừ tất cả sự tưởng tượng, giải thoát khỏi mọi khổ đau.

Giải Thích Phần Đồng Nhất Kết Thúc

Lời thuyết bằng cách thức thứ nhất

trong 24 phần thông qua mãnh lực của hạng phàm nhân kết thúc

 

Giải Thích Phần Bậc Hữu Học

  1. Evaṃ bhagavā pathavīādīsu vatthūsu sabbasakkāyadhammamūlabhūtaṃ puthujjanassa pavattiṃ dassetvā idāni tesveva vatthūsu sekkhassa pavattiṃ dassento yopi so, bhikkhave, bhikkhu sekkhotiādimāha. Tattha yoti uddesavacanaṃ. Soti niddesavacanaṃ. Pikāro sampiṇḍanattho ayampi dhammo aniyatotiādīsu viya. Tena ca ārammaṇasabhāgena puggalaṃ sampiṇḍeti, no puggalasabhāgena, heṭṭhato hi puggalā diṭṭhivipannā, idha diṭṭhisampannā, na tesaṃ sabhāgatā atthi. Ārammaṇaṃ pana heṭṭhā puggalānampi tadeva, imesampi tadevāti. Tena vuttaṃ ‘‘ārammaṇasabhāgena puggalaṃ sampiṇḍeti no puggalasabhāgenā’’ti. Yopi soti iminā pana sakalena vacanena idāni vattabbaṃ sekkhaṃ dassetīti veditabbo. Bhikkhave, bhikkhūti idaṃ vuttanayameva.

[7] Như vậy, sau khi đức Thế Tôn thuyết giảng đến tiến trình của hạng phàm nhân có pháp là tất cả sự nhận thức sai trái làm gốc trong vật [vatthu] có đất v.v, như đã giải thích. Bây giờ, khi thuyết đến tiến trình của vị Hữu Học trong các vật có các giới [dhātu] v.v, nên Ngài đã nói rằng: “yopi so, bhikkhave, bhikkhu sekkho [Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu nào là bậc Hữu Học]”. Ở đó, người nào’ là từ bắt đầu. Từ người ấy là từ giải thích. Từ ‘pi’ có sự kết hợp với ý nghĩa như trong câu: “Đây là pháp vô thường v.v.’ cũng với từ ‘pi’ ấy được kết hợp đến hạng người với sự đồng đẳng về đối tượng [ārammaṇa], không phải bởi hạng người, nhưng xác định từ bên dưới bao gồm hạng người có tà kiến [diṭṭhivipannā], ở đây (muốn đề cập) người tròn  đủ với sở kiến, không có sự đồng đẳng của cả hai hạng người, nhưng đối tượng của hạng người đầu tiên [người có tà kiến] như thế nào? Đối tượng của hạng người sau là thế nào [người tròn đủ với sở kiến] cũng như thế tương tự. Bởi lý do đó Ngài mới thuyết rằng sự kết hợp để hạng người đồng đẳng của cảnh, không phải của hạng người. Nên biết rằng đức Thế Tôn trình bày bậc Hữu Học cần phải nói trong lúc này bằng tất cả từ ‘yopi so [vị nào, chính vị ấy]’. Từ ‘bhikkhave, bhikkhū [này chư tỳ khưu, vị tỳ khưu…]’ này có cách thức như đã nói.

Sekkhoti kenaṭṭhena sekkho? Sekkhadhammappaṭilābhato sekkho. Vuttañhetaṃ ‘‘kittāvatā nu kho, bhante, sekkho hotīti? Idha, bhikkhave, bhikkhu sekkhāya sammādiṭṭhiyā samannāgato hoti…pe… sekkhena sammāsamādhinā samannāgato hoti. Ettāvatā kho bhikkhu, sekkho hotī’’ti (saṃ. ni. 5.13). Apica sikkhatītipi sekkho. Vuttañhetaṃ ‘‘sikkhatīti kho bhikkhu tasmā sekkhoti vuccati. Kiñca sikkhati? Adhisīlampi sikkhati, adhicittampi sikkhati, adhipaññampi sikkhati, sikkhatīti kho bhikkhu tasmā sekkhoti vuccatī’’ti (a. ni. 3.86).

Sekkho [bậc Hữu Học]: gọi là bậc Hữu Học bởi ý nghĩa ra sao? bởi vì đã đạt các pháp Hữu Học. Như đức Thế Tôn đã nói rằng: “Bạch đức Thế Tôn, đến mức độ nào, gọi là bậc Hữu Học? Ở đây, này chư tỳ khưu, vị tỳ khưu trong Pháp và Luật này được thành tựu với chánh kiến gọi là bậc Hữu Học…được thành tựu với chánh định gọi là bậc Hữu Học. Đến mức độ này, một tỳ khưu được gọi là bậc Hữu Học.” (saṃ. ni. 5.13). Lại nữa, hạng người gọi là bậc Hữu Học với ý nghĩa vẫn còn học tập. Bởi thế có lời nói rằng: “vị tỳ khưu vẫn còn học tập như vầy, cho nên vị ấy được gọi là bậc Hữu Học.” Vị Hữu Học ấy học gì? “Vị ấy học tập tăng thượng giới học, tăng thượng tâm học và tăng thượng tuệ học. vị tỳ khưu học tập như vậy, vì thế vị ấy được gọi là bậc Hữu Học” (a. ni. 3.86).

Yopi kalyāṇaputhujjano anulomapaṭipadāya paripūrakārī sīlasampanno indriyesu guttadvāro bhojane mattaññū jāgariyānuyogamanuyutto pubbarattāpararattaṃ bodhipakkhiyānaṃ dhammānaṃ bhāvanānuyogamanuyutto viharati – ‘‘ajja vā sve vā aññataraṃ sāmaññaphalaṃ adhigamissāmī’’ti, sopi vuccati sikkhatīti sekkhoti. Imasmiṃ panatthe paṭivedhappattova sekkho adhippeto, no puthujjano.

Hạng người nào là hạng phàm nhân tốt lành [kalyāṇaputhujjano] là vị thực hành trọn vẹn với sự thực hành không trái ngược [anulomapaṭipadā], có giới trọn vẹn, phòng hộ căn môn trong các căn, biết tiết chế trong việc thọ dụng vật thực, phối hợp với sự tinh tấn của người tỉnh thức, gắn bó vào việc đeo đuổi sự tu tập các pháp giác ngộ trong canh đầu và canh cuối của đêm với suy nghĩ: “Hôm nay hoặc ngày mai ta sẽ chứng đắc một trong những quả của Sa-môn”, vị ấy được gọi là bậc Hữu Học bởi vì vị ấy đang học. Nhưng ở chỗ này Ngài có ý muốn nói đến bậc vị Hữu Học đã chứng đạt sự thâm nhập, không phải hạng phàm nhân.

Appattaṃ mānasaṃ etenāti appattamānaso. Mānasanti rāgopi cittampi arahattampi. ‘‘Antalikkhacaro pāso, yvāyaṃ carati mānaso’’ti (mahāva. 33; saṃ. ni. 1.151) ettha hi rāgo mānasaṃ. ‘‘Cittaṃ mano mānasa’’nti (dha. sa. 65) ettha cittaṃ. ‘‘Appattamānaso sekkho, kālaṃ kayirā janesutā’’ti (saṃ. ni. 1.159) ettha arahattaṃ. Idhāpi arahattameva adhippetaṃ. Tena appattārahattoti vuttaṃ hoti.

Từ mānasa là người chưa đạt đến sự chứng đắc [appattamānaso], người đó được gọi là người có mānasa vẫn chưa chứng đắc. Ái luyến [rāga], hay tâm, hoặc bậc A-ra-hán gọi là mānasa. Quả thật, ái luyến gọi là mānasa như trong câu: “Sự trói buộc này, có sự di chuyển ở khoảng không, và hoạt động ở trong tâm.” (mahāva. 33; saṃ. ni. 1.151); Tâm gọi là mānasa: “Tâm, ý, tâm địa.”(dha. sa. 65). “Kính bạch Ngài bậc vĩ đại trong nhóm chúng sanh, bậc Hữu Học chưa đạt đến A-ra-hán, cần được thực hiện bằng thời gian.” (saṃ. ni. 1.159), ở đây là A-ra-hán. Trong trường hợp này mānasa Ngài có ý muốn nói đến chính là A-ra-hán. Bởi thế, có lời giải thích mà Ngài đã nói “người chưa đạt đến A-ra-hán.”

Anuttaranti seṭṭhaṃ, asadisanti attho. Catūhi yogehi khemaṃ ananuyuttanti yogakkhemaṃ, arahattameva adhippetaṃ. Patthayamānoti dve patthanā taṇhāpatthanā ca, chandapatthanā ca. ‘‘Patthayamānassa hi pajappitāni, pavedhitaṃ vāpi pakappitesū’’ti (su. ni. 908) ettha taṇhāpatthanā.

‘‘Chinnaṃ pāpimato sotaṃ, viddhastaṃ vinaḷīkataṃ;

Pāmojjabahulā hotha, khemaṃ pattattha bhikkhavo’’ti. (ma. ni. 1.352) –

Từ vô thượng: tối thượng nhất, có nghĩa là không có pháp nào so sánh được. Ngài muốn nói đến chính là bậc A-ra-hán, pháp đó thoát khỏi sự trói buộc [yogakkhema] là sự an toàn từ bốn pháp kết buộc. Có sự mong cầu [patthayamāno]: có hai sự mong cầu là sự mong cầu do tác động của ái dục [taṇhāpatthanā] và sự mong cầu do tác động của ước muốn [chandapatthanā].

Bởi vì, người vẫn còn mong cầu thì có các sự tham muốn khởi lên thậm chí còn có sự run sợ trong đối tượng của tham ái và tà kiến các điều đã được xếp đặt,” Ở đây sự mong cầu do tác động của tham ái. 

dòng chảy tham ái của hạng người có tâm độc ác bị cắt đoạn, bị phá hoại, bị hư hoại; Này chư tỳ khưu, các ông hãy làm sự no vui được sung mãn, ước muốn Giáo pháp là ranh giới đạt đến sự an ổn [Niết Bàn].” (ma. ni. 1.352).

Ettha kattukamyatā kusalacchandapatthanā. Ayameva idhādhippetā. Tena patthayamānoti taṃ yogakkhemaṃ pattukāmo adhigantukāmo tanninno tappoṇo tappabbhāroti veditabbo. Viharatīti aññaṃ iriyāpathadukkhaṃ aññena iriyāpathena vicchinditvā aparipatantaṃ kāyaṃ harati. Atha vā ‘‘sabbe saṅkhārā aniccāti adhimuccanto saddhāya viharatī’’tiādināpi niddesanayenettha attho daṭṭhabbo. Pathaviṃ pathavito abhijānātīti pathaviṃ pathavībhāvena abhijānāti, na puthujjano viya sabbākāraviparītāya saññāya sañjānāti. Apica kho abhivisiṭṭhena ñāṇena jānāti, evaṃ pathavīti etaṃ pathavībhāvaṃ adhimuccanto eva naṃ aniccātipi dukkhātipi anattātipi evaṃ abhijānātīti vuttaṃ hoti. Evañca naṃ abhiññatvā pathaviṃ mā maññīti vuttaṃ hoti. Maññatīti maññi. Ayaṃ pana maññī ca na maññī ca na vattabboti. Etasmiñhi atthe idaṃ padaṃ nipātetvā vuttanti veditabbaṃ. Ko panettha adhippāyoti. Vuccate, puthujjano tāva sabbamaññanānaṃ appahīnattā maññatīti vutto. Khīṇāsavo pahīnattā na maññatīti. Sekkhassa pana diṭṭhimaññanā pahīnā, itarā pana tanubhāvaṃ gatā, tena so maññatītipi na vattabbo puthujjano viya, na maññatītipi na vattabbo khīṇāsavo viyāti.

Người mong muốn thực hành là sự mong cầu do tác động của ước muốn là thiện. Ngài muốn đề cập đến sự mong cầu do tác động của ước muốn trong trường hợp này. Tena patthayamāno [mong cầu sự an ổn]: Hạng người mong muốn thực hiện là ước muốn chứng đắc pháp, ranh giới an toàn từ sự trói buộc đó, nên biết rằng vị ấy hướng đến, nghiêng về, hướng về (để chứng đắc pháp là ranh giới an toàn từ các sự trói buộc). Viharati [sống]: đã cắt đứt khổ khởi lên trong các oai nghi khác bằng oai nghi khác nữa, hộ trì thân không cho hư hỏng. Lại nữa, nên thấy ý nghĩa trong câu này bằng cách diễn đạt sau: “hạng người nào hướng tâm với việc quán xét các hành không thường còn, như vậy (vị ấy) sống bằng đức tin.” pathaviṃ pathavito abhijānāti [vị ấy thắng tri đất là đất]: vị ấy biết rõ đất là đất, (vị ấy) không tưởng tri bằng tưởng trái nghịch từ tất cả biểu hiện giống như hạng phàm nhân. Và hơn nữa, vị ấy biết đất với trí đặc biệt nhất (abhivisiṭṭhena ñāṇena). Pathavī [đất] đã được Ngài nói, trong khi buông bỏ thực tính đất như vầy, vị ấy biết rõ tính chất của đất như sau đất là vô thường, khổ và vô ngã, và Ngài đã giải thích thêm bậc Hữu Học khi đã biết tính chất đất là như vậy, (vị ấy) đã không tưởng tượng đất. Bậc Hữu Học nói rằng có sự tưởng tượng cũng không phải, nói rằng không có sự tưởng tượng cũng không phải. Trong ý nghĩa này nên biết rằng Ngài muốn loại bỏ điều này. Khi có người nói rằng trong câu này có lời giải thích như thế nào? Đầu tiên đức Thế Tôn thuyết đến hạng phàm nhân tưởng tượng đất [sai lầm] do phàm nhân đó vẫn chưa từ bỏ bất cứ tưởng tượng nào; vị đã đoạn tận mọi lậu hoặc không tưởng tượng sai bởi vị ấy đã từ bỏ tất cả tưởng tượng, được diễn tả như người không tưởng tượng, bậc Hữu Học đã từ bỏ sự tưởng tượng do tác động của tà kiến và những tưởng tượng khác cũng đã giảm bớt. Vì vậy bậc Hữu Học không nên nói rằng (vị ấy) tưởng tưởng [sai lầm] giống như hạng phàm nhân; cũng không nên nói rằng (vị ấy) không tưởng tượng [sai lầm] giống như bậc đã đoạn tận các lậu hoặc.

Pariññeyyaṃ tassāti tassa sekkhassa taṃ maññanāvatthu okkantaniyāmattā sambodhiparāyaṇattā ca tīhi pariññāhi pariññeyyaṃ, apariññeyyañca apariññātañca na hoti puthujjanassa viya, nopi pariññātaṃ khīṇāsavassa viya. Sesaṃ sabbattha vuttanayameva.

pariññeyyaṃ tassa [đối với vị ấy, có thể thấu rõ]: nơi vững trú của sự tưởng tượng [sai lầm] ấy mà bậc Hữu Học cần được biết toàn diện qua ba trí trọn vẹn, vì vị ấy đã tiến vào [đạo lộ] chắc chắn [okkantaniyāmattā] và sự thành tựu giác ngộ [trong đạo quả cao hơn., điều không cần biết trọn vẹn, không phải vị ấy không cần biết trọn vẹn giống như kẻ phàm nhân, và không phải vị ấy đã biết trọn vẹn như bậc đã đoạn tận lậu hoặc. Từ còn lại trong tất cả các câu theo cách thức như đã nói.

Lời thuyết giảng về cách thức thứ 2

thông qua năng lực của bậc Hữu Học kết thúc

 

Giải Thích Bậc Lậu Tận

 

  1. Evaṃ pathavīādīsu vatthūsu sekkhassa pavattiṃ dassetvā idāni khīṇāsavassa pavattiṃ dassento yopi so, bhikkhave, bhikkhu arahantiādimāha. Tattha yopīti pi-saddo sampiṇḍanattho. Tena idha ubhayasabhāgatāpi labbhatīti dasseti. Sekkho hi khīṇāsavena ariyapuggalattā sabhāgo, tena puggalasabhāgatā labbhati, ārammaṇasabhāgatā pana vuttanayā eva. Arahanti ārakakileso, dūrakileso pahīnakilesoti attho. Vuttañcetaṃ bhagavatā ‘‘kathañca , bhikkhave, bhikkhu arahaṃ hoti? Ārakāssa honti pāpakā akusalā dhammā saṃkilesikā ponobbhavikā sadarā dukkhavipākā āyatiṃ jātijarāmaraṇiyā. Evaṃ kho, bhikkhave, bhikkhu arahaṃ hotī’’ti. (Ma. ni. 1.434) khīṇāsavoti cattāro āsavā kāmāsavo…pe… avijjāsavo, ime cattāro āsavā arahato khīṇā pahīnā samucchinnā paṭippassaddhā, abhabbuppattikā ñāṇagginā daḍḍhā, tena vuccati khīṇāsavoti.

[8] Như vậy, sau khi đức Thế Tôn thuyết giảng về tiến trình của bậc Hữu Học trong các vật có đất v.v, như đã giải thích. Bây giờ, khi thuyết sự diễn tiến của bậc lậu tận, Ngài đã nói rằng: “yopi so, bhikkhave, bhikkhu arahaṃ [này các tỳ khưu, vị tỳ khưu nào là bậc A-ra-hán]”. Ở đó, pi trong từ yopi có ý nghĩa liên kết. Từ pi đó đức Thế Tôn thuyết rằng ở đây đạt đến sự tương đồng với cả 2 phần. Bậc Hữu Học gọi là bậc đồng đẳng với bậc lậu tận, bởi vì bậc Thánh nhân với lý do đó, Ngài có được sự đồng đẳng theo hạng người. Còn tính chất đồng đẳng theo cảnh cũng có cách thức như đã nói tương tự. A-ra-hán: vị có phiền não ở xa, tức là vị có phiền nào cách xa, là có phiền não đã được đoạn tận. Điều đó đã được Đức Thế Tôn thuyết như vầy: “Này chư tỳ khưu, vị tỳ khưu là bậc A-ra-hán được như thế nào? Tất cả những ác bất thiện pháp, các điều ô nhiễm dẫn đến tái sanh có sự phiền muộn, có sự nóng nảy, có kết quả khổ đau, khiến cho sanh, già và chết ở vị lai của Ngài, bậc đã xa lìa mọi phiền não chắc chắn không hiện hữu. Này chư tỳ khưu, vị tỳ-khưu là bậc A-ra-hán như thế.” (ma. ni. 1.434). Bậc lậu tận [khīṇāsavo] có bốn lậu hoặc là dục lậu, hữu lậu, tà kiến lậu, và vô minh lậu, cả bốn lậu này của bậc A-ra-hán đã được đoạn tận, đã được trừ tuyệt, đã được tịch tịnh, không thể sanh khởi nữa, đã được thiêu đốt bởi ngọn lửa trí tuệ, bởi thế bậc A-ra-hán đó được Ngài gọi là bậc lậu tận.

Vusitavāti garusaṃvāsepi ariyamaggasaṃvāsepi dasasu ariyavāsesupi vasi parivasi vuttho parivuttho, so vutthavāso ciṇṇacaraṇoti vusitavā katakaraṇīyoti puthujjanakalyāṇakaṃ upādāya satta sekkhā catūhi maggehi karaṇīyaṃ karonti nāma, khīṇāsavassa sabbakaraṇīyāni katāni pariyositāni, natthi tassa uttari karaṇīyaṃ dukkhakkhayādhigamāyāti katakaraṇīyo. Vuttampi hetaṃ –

‘‘Tassa sammā vimuttassa, santacittassa bhikkhuno;

Katassa paṭicayo natthi, karaṇīyaṃ na vijjatī’’ti. (theragā. 642);

Vusitavā [đã được hoàn mãn]: bậc A-ra-hán đó đã sống trong trú xứ của thầy, đã sống trong Thánh đạo và đã sống trong mười Thánh trú. (vị ấy) đã sống, đã sống hoàn mãn; có pháp (phương tiện) đã chấm dứt, có hạnh [caraṇa] đã thực hành, cho nên gọi là vị đã sống hoàn mãn. Katakaraṇīyo [có việc cần làm đã làm]: 7 bậc thánh Hữu Học cho đến phàm nhân tốt lành gọi là thực hành phận sự cần làm bởi 4 đạo, tất cả phận sự cần làm bậc lậu tận đã làm, đã hoàn tất. Đối với bậc lậu tận không có bất cứ việc cần phải làm thêm nữa để đưa đến sự chứng đắc diệt trừ khổ, như vậy vị ấy được gọi là người có phận sự cần làm đã làm. Vì điều đó đã được nói như vầy:

“Đối với vị tỳ khưu có tâm an tịnh, đã được giải thoát một cách đúng đắn ấy, không có sự tích lũy đối với việc đã làm, việc cần phải làm không có.” (theragā. 642).

Ohitabhāroti tayo bhārā khandhabhāro kilesabhāro abhisaṅkhārabhāroti, tassime tayo bhārā ohitā oropitā nikkhittā pātitā, tena vuccati ohitabhāroti. Anuppattasadatthoti anuppatto sadatthaṃ, sakatthanti vuttaṃ hoti. Kakārassāyaṃ dakāro kato, sadatthoti ca arahattaṃ veditabbaṃ. Tañhi attupanibandhanaṭṭhena attānaṃ avijahanaṭṭhena attano paramatthaṭṭhena ca attano attho sakatthoti vuccati.

Ohitabhāro [có gánh nặng đã được đặt xuống]: Có ba gánh nặng là gánh nặng của các uẩn, gánh nặng của các phiền não và gánh nặng của hành [abhisaṅkhāra]. Đối với vị A-ra-hán ba gánh nặng này đã được đặt xuống, hạ xuống, để xuống, liệng đi; vì vậy vị ấy được Ngài gọi là người có gánh nặng đã được đặt xuống. Anuppattasadattho [có mục đích của mình đã được đạt đến]: người đã đạt được mục đích của chính mình, tức là đã đạt được mục tiêu riêng của bản thân, phụ âm ‘ka’ đổi thành phụ âm ‘da’, và bậc Thánh A-ra-hán cần biết được lợi ích của bản thân. Thật vậy, vị ấy được Ngài gọi là mục đích của tự thân, mục đích riêng với ý nghĩa liên quan mật thiết với bản thân, với ý nghĩa không thể từ bỏ bản thân, và với ý nghĩa là mục đích tối thượng của bản thân.

Parikkhīṇabhavasaṃyojanoti bhavasaṃyojanānīti dasa saṃyojanāni kāmarāgasaṃyojanaṃ paṭighamāna- diṭṭhi- vicikicchā- sīlabbataparāmāsa- bhavarāga- issāmacchariya- saṃyojanaṃ avijjāsaṃyojanaṃ. Imāni hi satte bhavesu saṃyojenti upanibandhanti, bhavaṃ vā bhavena saṃyojenti, tasmā ‘‘bhavasaṃyojanānī’’ti vuccanti. Imāni bhavasaṃyojanāni arahato parikkhīṇāni pahīnāni ñāṇagginā daḍḍhāni, tena vuccati ‘‘parikkhīṇabhavasaṃyojano’’ti. Sammadaññā vimuttoti ettha sammadaññāti sammā aññāya. Kiṃ vuttaṃ hoti – khandhānaṃ khandhaṭṭhaṃ, āyatanānaṃ āyatanaṭṭhaṃ, dhātūnaṃ dhātuṭṭhaṃ, dukkhassa pīḷanaṭṭhaṃ, samudayassa pabhavaṭṭhaṃ, nirodhassa santaṭṭhaṃ, maggassa dassanaṭṭhaṃ, sabbe saṅkhārā aniccāti evamādiṃ vā bhedaṃ sammā yathābhūtaṃ aññāya jānitvā tīrayitvā tulayitvā vibhāvetvā vibhūtaṃ katvāti.

Parikkhīṇabhavasaṃyojano [có sự trói buộc ở hữu đã được cạn kiệt]: Mười sự trói buộc là sự trói buộc của tham dục, sân hận, ngã mạn, tà kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, hữu ái, ganh tỵ, keo kiệt và vô minh. Đây được gọi là các ‘sự trói buộc’, bởi vì buộc chặt và gắn kết chúng sanh với các hữu,, hoặc ràng buộc hữu với hữu, cho nên Ngài gọi là ‘sự trói buộc ở hữu’. Những sự trói buộc ở hữu này đã được vị A-ra-hán tận diệt, đã được đoạn trừ, đã được thiêu rụi bằng lửa trí tuệ, vì thế vị ấy được gọi là người ‘có sự trói buộc ở hữu đã được đoạn tận’. Sammadañña trong từ Sammadañña vimutto [đã được giải thoát do biết đúng đắn] này nghĩa là nhờ biết chân chánh. Ngài đã nói như thế nào? Vị ấy sau khi hiểu biết được, sau khi suy xét, sau khi xác định, sau khi minh định, sau khi làm rõ rệt, ý nghĩa uẩn đối với các uẩn, ý nghĩa xứ đối với các xứ, ý nghĩa giới đối với các giới, ý nghĩa áp bức của đau khổ, ý nghĩa nguồn gốc của sanh khởi, ý nghĩa tịch tịnh của diệt tận, ý nghĩa tri kiến của đạo, hoặc sự phân loại bắt đầu như vầy: tất cả các hành là vô thường, v.v. chân chánh là theo đúng thực tính pháp.

Vimuttoti dve vimuttiyo cittassa ca vimutti nibbānañca. Arahā sabbakilesehi vimuttacittattā cittavimuttiyāpi vimutto. Nibbānaṃ adhimuttattā nibbānepi vimutto. Tena vuccati ‘‘sammadaññā vimutto’’ti. Pariññātaṃ tassāti tassa arahato taṃ maññanāvatthu tīhi pariññāhi pariññātaṃ. Tasmā so taṃ vatthuṃ na maññati, taṃ vā maññanaṃ na maññatīti vuttaṃ hoti, sesaṃ vuttanayameva.

Vimutto [đã được giải thoát]: Có hai sự giải thoát là tâm giải thoát và Niết Bàn giải thoát. Vì vị A-ra-hán gọi là vị đã được giải thoát chính với sự giải thoát của tâm, người có tâm đã được giải thoát từ tất cả phiền não, gọi là đã giải thoát chính nhờ sự giải thoát trong Niết Bàn do vị ấy có tâm hướng đến Niết Bàn. Vì vậy, vị ấy được Ngài gọi là ‘đã được giải thoát do biết đúng đắn’. Pariññātaṃ tassa [biết rõ toàn diện điều đó]: nơi thiết lập của sự tưởng tượng [sai lầm] đó bậc A-ra-hán đã biết toàn diện bằng ba sự hiểu biết toàn diện. Do vậy, vị ấy không tưởng tượng chỗ thiết lập đó, và vị ấy cũng không tưởng tượng bằng sự tưởng tượng [sai lầm] dó. Từ còn lại theo cách thức như đã nói.

Khayā rāgassa vītarāgattāti ettha ca yasmā bāhirako kāmesu vītarāgo, na khayā rāgassa vītarāgo. Arahā pana khayā yeva, tasmā vuttaṃ ‘‘khayā rāgassa vītarāgattā’’ti. Esa nayo dosamohesupi. Yathā ca ‘‘pariññātaṃ tassāti vadāmī’’ti vuttepi pariññātattā so taṃ vatthuṃ taṃ vā maññanaṃ na maññatīti attho hoti, evamidhāpi vītarāgattā so taṃ vatthuṃ taṃ vā maññanaṃ na maññatīti daṭṭhabbo.

Còn ba phần bắt đầu rằng: khayā rāgassā [nhờ sự cạn kiệt ái luyến] Ngài đã nói trong phần Niết Bàn, phần ấy nên giải thích chi tiết chính trong phần đất v.v, phần biết toàn diện cũng nên giải thích chi tiết cả trong phần Niết Bàn. Bậc trí khi giải thích chi tiết cần kết hợp với pariññātaṃ tassa [biết rõ toàn diện điều đó] với tất cả các câu, rồi mới cần phối hợp thêm với câu (vị ấy) đã thoát khỏi tham nhờ sự cạn kiệt đối với tham [khayā rāgassa vītarāgattā], từ còn lại cũng có cách thức đó. Lại nữa, Ngài tóm lược bài giảng bằng lời đã nói trong một câu mà cũng được nói trong các câu.

Khayā rāgassa vītarāgattāti ettha ca yasmā bāhirako kāmesu vītarāgo, na khayā rāgassa vītarāgo. Arahā pana khayā yeva, tasmā vuttaṃ ‘‘khayā rāgassa vītarāgattā’’ti. Esa nayo dosamohesupi. Yathā ca ‘‘pariññātaṃ tassāti vadāmī’’ti vuttepi pariññātattā so taṃ vatthuṃ taṃ vā maññanaṃ na maññatīti attho hoti, evamidhāpi vītarāgattā so taṃ vatthuṃ taṃ vā maññanaṃ na maññatīti daṭṭhabbo.

Vị ấy đã xa lìa luyến ái do sự cạn kiệt của luyến ái: Và ở đây, những vị tu sĩ bên ngoài Phật giáo không ái luyến đối với các dục lạc nhưng vị ấy không phải ‘đã lìa xa luyến ái do sự cạn kiệt của luyến ái’. Chỉ có bậc A-ra-hán là vị đã cạn kiệt ái luyến, vì thế Ngài đã nói rằng: ‘Vị ấy đã xa lìa ái luyến do sự cạn kiệt của luyến ái’. Cả sân và si cũng áp dụng theo cách thức này. Như lời đức Thế Tôn đã thuyết: “ta nói rằng vị ấy đã biết trọn vẹn điều đó”. Có nghĩa là vị A-ra-hán ấy không tưởng tượng vật đó, bởi vì Ngài có bản thể biết toàn diện, luôn ở chỗ này cũng như thế. Bậc trí nên biết rằng (vị ấy) không tưởng tượng vật đó hoặc cũng không tưởng tượng bằng sự tưởng tượng đó bởi vì ‘là vị có bản thể xa lìa ái’.

Ettha ca pariññātaṃ tassāti ayaṃ vāro maggabhāvanāpāripūridassanatthaṃ vutto. Itare pana phalasacchikiriyāpāripūridassanatthanti veditabbā. Dvīhi vā kāraṇehi arahā na maññati vatthussa ca pariññātattā akusalamūlānañca samucchinnattā. Tenassa pariññātavārena vatthuno vatthupariññaṃ dīpeti, itarehi akusalamūlasamucchedanti. Tattha pacchimesu tīsu vāresu ayaṃ viseso veditabbo, tīsu hi vāresu rāge ādīnavaṃ disvā dukkhānupassī viharanto appaṇihitavimokkhena vimutto khayā rāgassa vītarāgo hoti. Dose ādīnavaṃ disvā aniccānupassī viharanto animittavimokkhena vimutto khayā dosassa vītadoso hoti. Mohe ādīnavaṃ disvā anattānupassī viharanto suññatavimokkhena vimutto khayā mohassa vītamoho hotīti.

Ở đây phần này ‘đã được biết toàn diện’ Ngài thuyết để thấy trọn vẹn sự tu tập Đạo, những phần khác để thấy trọn vẹn sự chứng ngộ Quả. Hoặc vị A-ra-hán không tưởng tượng vì hai lý do: bởi vì vị ấy đã biết toàn diện vật-vatthu và các gốc rễ bất thiện cũng đã được bứng gốc bởi vị ấy. Do vậy, các nhà chú giả trình bày về sự biết toàn diện các vật-vatthu với phần biết toàn diện và những phần khác để thấy sự bứng gốc các gốc rễ bất thiện của vị ấy. Ở đó, nên biết rằng sự khác biệt trong ba phần như sau: vị A-ra-hán sau khi thấy nguy hiểm trong luyến ái vị ấy đã an  trú quán xét về khổ, được giải thoát bởi vô tham ái giải thoát [appaṇihitavimokkha], và vị ấy đã lìa luyến ái, do sự cạn kiệt của luyến ái. Sau khi thấy nguy hiểm trong sân, vị ấy vững trú quán về vô thường, được giải thoát bằng vô tướng giải thoát [animittavimokkha] và vị ấy đã lìa sân hận, do sự cạn kiệt của sân hận. Sau khi thấy nguy hiểm trong si, vị ấy vũng trú quán về vô ngã, được giải thoát bằng không tánh giải thoát [suññatavimokkha] và vị ấy đã lìa si mê, do sự cạn kiệt của si mê.

Evaṃ sante na eko tīhi vimokkhehi vimuccatīti dve vārā na vattabbā siyunti ce, taṃ na. Kasmā? Aniyamitattā. Aniyamena hi vuttaṃ ‘‘yopi so, bhikkhave, bhikkhu araha’’nti. Na pana vuttaṃ appaṇihitavimokkhena vā vimutto, itarena vāti, tasmā yaṃ arahato yujjati, taṃ sabbaṃ vattabbamevāti.

Nếu sự tình là như vậy, một người được giải thoát bởi ba sự giải thoát [tại một thời điểm] không được, bởi thế không nên nói 2 phần này? Điều đó là không nên. Tại sao? Bởi vì không được chỉ định chắc chắn. Vì thế đức Thế Tôn đã nói bằng (lời) không chỉ định rõ: ‘Này chư tỳ khưu, vị tỳ khưu nào là bậc A-ra-hán’, mà Ngài không nói rằng vị ấy được giải thoát do vô tham ái giải thoát, hoặc do hai giải thoát kia; Bởi vậy điều nào thích hợp cùng vị A-ra-hán, tất cả điều đó cần phải nói như vậy.

Avisesena vā yo koci arahā samānepi rāgādikkhaye vipariṇāmadukkhassa pariññātattā khayā rāgassa vītarāgoti vuccati, dukkhadukkhassa pariññātattā khayā dosassa vītadosoti. Saṅkhāradukkhassa pariññātattā khayā mohassa vītamohoti. Iṭṭhārammaṇassa vā pariññātattā khayā rāgassa vītarāgo. Aniṭṭhārammaṇassa pariññātattā khayā dosassa vītadoso. Majjhattārammaṇassa pariññātattā khayā mohassa vītamoho. Sukhāya vā vedanāya rāgānusayassa samucchinnattā khayā rāgassa vītarāgo, itarāsu paṭighamohānusayānaṃ samucchinnattā vītadoso vītamoho cāti. Tasmā taṃ visesaṃ dassento āha ‘‘khayā rāgassa vītarāgattā…pe… vītamohattā’’ti.

Hoặc không có sự khác biệt, bất kỳ vị A-ra-hán nào, trong sự cạn kiệt phiền não có ái luyến v.v, vị có ái luyến đã xa lìa nhờ sự cạn kiệt của ái luyến vì đã biết toàn diện về khổ do sự biến hoại [vipariṇāmadukkha]; vị có sân đã xa lìa nhờ sự cạn kiệt của sân hận do đã biết toàn diện về khổ do thọ khổ [dukkhadukkha]; vị có si đã xa lìa nhờ sự cạn kiệt của si do đã biết toàn diện khổ do pháp tạo tác [saṅkhāradukkha]. Hoặc vị có ái luyến đã xa lìa nhờ sự cạn kiệt của luyến ái do đã biết toàn diện về đối tượng khả ái [iṭṭhārammaṇa]; vị có sân hận đã xã lìa nhờ sự cạn kiệt của sân hận do đã biết toàn diện đối tượng không khả ái [aniṭṭhārammaṇa]; vị có si đã xa lìa nhờ sự cạn kiệt của si do đã biết toàn diện đối tượng trung tính [majjhattārammaṇa]. Hoặc vị có ái luyến đã xa lìa nhờ sự cạn kiệt của ái luyến đã được bứng gốc ái luyến tùy miên đối với cảm giác lạc thọ; vị có sân đã xa lìa và có si đã xa lìa (do) đã được bứng gốc sân tùy miên và si tùy miên đối với khổ thọ và xả thọ như thế này, như thế kia. Do vậy, đức Thế Tôn khi thuyết về sự khác biệt, Ngài đã nói rằng: ‘vị ấy đã lìa xa ái luyến nhờ sự cạn kiệt của ái luyến…đã xa lìa si mê.”

Lời thuyết giảng 3-4-5-6 thông qua năng lực của bậc Lậu Tận kết thúc

 

Giải Thích Về Như Lai

  1. evaṃ pathavīādīsu vatthūsu khīṇāsavassa pavattiṃ dassetvā idāni attano pavattiṃ dassento tathāgatopi, bhikkhavetiādimāha. tattha tathāgatoti aṭṭhahi kāraṇehi bhagavā tathāgatoti vuccati — tathā āgatoti tathāgato, tathā gatoti tathāgato, tathalakkhaṇaṃ āgatoti tathāgato, tathadhamme yāthāvato abhisambuddhoti tathāgato, tathadassitāya tathāgato, tathāvāditāya tathāgato, tathākāritāya tathāgato, abhibhavanaṭṭhena tathāgatoti.

[12] Như vậy sau khi đức Thế Tôn thuyết về sự vận hành của bậc Lậu Tận trong các đối tượng như đất v.v.., bây giờ Ngài thuyết về sự vận hạnh của chính mình mới nói rằng: “Này các tỳ khưu, Như Lai” v.v. Ở đó, “Như Lai” đức Thế Tôn được gọi là Như Lai với tám lý do sau: (1) Gọi là Như Lai do Ngài đã đến như vậy [tathā āgata]; (2) gọi là Như Lai do Ngài đã đi như vậy [tathā gata]; (3) gọi là Như Lai do Ngài đã đến bằng tướng trạng thật [tathalakkhanaṃ āgata]; (4) gọi là Như Lai vì ngài đã hoàn toàn giác ngộ theo đúng thực tính các Pháp thực thể [tathadhamme yāthāvato abhisambuddha]; (5) gọi là Như Lai do thấy đối tượng như thật [tathadassitāya]; (6) gọi là Như Lai do có lời nói thật [tathāvāditāya]; (7) gọi là Như Lai do thực hành thật [tathākāritāya] và (8) gọi là Như Lai với ý nghĩa chinh phục [abhibhavanaṭṭhena].

Kathaṃ Bhagavā tathā āgatoti Tathāgato? Yathā sabbalokahitāya ussukkamāpannā purimakā sammāsambuddhā āgatā, yathā Vipassī Bhagavā āgato, yathā Sikhī Bhagavā, yathā Vessabhū Bhagavā, yathā Kakusandho Bhagavā, yathā Koṇāgamano Bhagavā, yathā Kassapo Bhagavā āgato. Kiṃ vuttaṃ hoti? Yena abhinīhārena ete bhagavanto āgatā, teneva amhākampi bhagavā āgato.

(1) Đức Thế Tôn có hồng danh Như Lai ‘vì ngài đã đến như vậy’ là (có ý nghĩa) như thế nào? Như bậc Chánh đẳng Chánh giác quá khứ thể hiện sự nỗ lực vì lợi ích cho tất cả chúng sanh, ngài đã đến; như đức Thế Tôn Vipassī đã đến, như đức Thế Tôn Sikhī, như đức Thế Tôn Vessabhū, như đức Thế Tôn Kakusandha, như đức Thế Tôn Koṇāgamana, như đức Thế Tôn Kassapa đã đến. (vì lợi ích của tất cả chúng sanh thế nào, đức Thế Tôn của chúng ta Ngài cũng đến vì lợi ích của tất cả chúng sanh tương tự như thế đó). Điều này giải thích thế nào? Các đức Thế Tôn đó đã đến vì đại nguyện nào, đức Thế Tôn của tất cả chúng ta cũng đã đến vì đại nguyện đó.

Atha vā yathā Vipassī Bhagavā … pe … yathā Kassapo Bhagavā dānapāramiṃ pūretvā, sīla nekkhamma paññā vīriya khanti sacca adhiṭṭhāna mettā upekkhāpāramiṃ pūretvā, imā dasa pāramiyo, dasa upapāramiyo, dasa paramatthapāramiyoti samatiṃsapāramiyo pūretvā aṅgapariccāgaṃ, nayanadhanarajjaputtadārapariccāganti[42] ime pañca mahāpariccāge pariccajitvā pubbayoga-pubbacariya-dhammakkhānañātatthacariyādayo pūretvā Buddhicariyāya[43] koṭiṃ patvā āgato; tathā amhākampi Bhagavā āgato.

Hay là, đức Thế Tôn Vipassī…đức Thế Tôn Kassapa đã thực hành bố thí ba-la-mật, đã thực hành giới ba-la-mật, xuất ly ba-la-mật, trí tuệ ba-la-mật, tinh tấn ba-la-mật, kham nhẫn ba-la-mật, chân thật ba-la-mật, quyết định ba-la-mật, tâm từ ba-la-mật, tâm xả ba-la-mật; Ngài đã thực hành ba mươi pháp ba-la-mật là mười pháp ba-la-mật bậc hạ, mười pháp ba-la-mật bậc trung và mười pháp ba-la-mật bậc thượng; Ngài đã thực hành năm pháp đại thí là bố thí các chi phần trên cơ thể, bố thí mạng sống bố thí tài sản, bố thí ngai vàng, bố thí con và bố thí vợ, đã thực hành sự siêng năng chăm chỉ ban đầu [pubbayoga], sự thực hành liên tục từ đầu [pubbacariya], việc giảng dạy giáo pháp và thực hành lợi ích cho quyến thuộc v.v, đã đạt đến tận cùng của việc thực hành lợi ích ở địa vị đức Phật [buddhicariyā] ngài đã đạt đến thế nào, đức Thế Tôn của chúng ta Ngài cũng đã đạt đến như thế đó.

Atha vā yathā Vipassī Bhagavā … pe … Kassapo Bhagavā cattāro satipaṭṭhāne, cattāro sammappadhāne, cattāro iddhipāde, pañcindriyāni, pañca balāni, satta bojjhaṅge, ariyaṃ aṭṭhaṅgikaṃ maggaṃ bhāvetvā brūhetvā āgato, tathā amhākampi Bhagavā āgato. Evaṃ tathā āgatoti Tathāgato.

Hoặc là, như đức Thế Tôn Vipassī…như đức Thế Tôn Kassapa đã tu tập, đã làm tăng trưởng bốn sự thiết lập niệm, bốn chánh cần, bốn nền tảng của thần thông, ngũ quyền, ngũ lực, bảy yếu tố đưa đến giác ngộ, thánh đạo tám chi phần các ngài đã đến như thế nào, thì đức Thế Tôn của chúng ta ngài cũng đã đến như thế đó. ‘Vì đã đến như thế’ là Như Lai (có ý nghĩa) là như vậy.

“Yatheva lokamhi vipassiādayo, Sabbaññubhāvaṃ munayo idhāgatā.

Tathā ayaṃ sakyamunīpi āgato, Tathāgato vuccati tena cakkhumā”ti.

Evaṃ tathā āgatoti tathāgato.

Các bậc Hiền Trí có đức Phật Vipassī v.v, Ngài đã đạt đến bản thể  Toàn Giác ở đời này bằng cách nào; thì bậc Hiền Trí dòng Sakya, Ngài cũng đã đến bằng cách đó. Với lý do ấy đức Thế Tôn vị Hữu Nhãn được gọi là Như Lai.

Đức Thế Tôn, ‘vì đã đạt đến như thế’ là Như Lai (có ý nghĩa) là như vậy.

Kathaṃ tathā gatoti tathāgato? Yathā sampatijāto Vipassī Bhagavā gato … pe … Kassapo Bhagavā gato. Kathañca so Bhagavā gato? So hi sampati jātova samehi pādehi pathaviyaṃ patiṭṭhāya uttarābhimukho[44] sattapadavītihārena gato. Yathāha — “Sampatijāto kho, Ānanda, bodhisatto samehi pādehi patiṭṭhahitvā uttarābhimukho sattapadavītihārena gacchati, setamhi chatte anudhāriyamāne sabbā ca disā anuviloketi, āsabhiṃ vācaṃ[45] bhāsati — ‘Aggohamasmi lokassa, jeṭṭhohamasmi lokassa, seṭṭhohamasmi lokassa, ayamantimā jāti, natthidāni punabbhavo’ti”[46]

(2) Đức Thế Tôn có hồng danh là Như Lai ‘vì ngài đã đi như vậy’ là (có ý nghĩa) như thế nào? Như đức Thế Tôn Vipassī khi vừa được sanh ra (tức khắc) đã bước đi…nt… đức Thế Tôn Kassapa (tức khắc) đã bước đi. Và đức Thế Tôn ấy đã đi như thế nào? Thật vậy, vị ấy khi vừa được sanh ra Bồ-tát khi sanh ra ngài đứng vững chãi trên bề mặt địa đại bằng hai chân đều nhau, mặt hướng phía Bắc, rồi bước đi bảy bước. Như ngài đã nói: “Này Ānanda, vị Bồ-tát khi vừa mới sanh ra, ngài đứng vững chãi trên bề mặt địa đại bằng hai chân đều nhau, mặt hướng phía Bắc, rồi bước đi bảy bước, có chư Thiên cầm lọng trắng che bên trên. Ngài nhìn khắp mọi phương hướng, nói ra lời nói tối thượng (lời nói có âm thanh như con bò đực) như sau: “Ta là bậc đứng đầu ở thế gian, Ta là bậc cao cả ở thế gian, Ta là bậc tối thượng ở thế gian, đây là kiếp sống cuối cùng, giờ đây không còn phải tái sanh nữa.

Tañcassa gamanaṃ tathaṃ ahosi avitathaṃ anekesaṃ visesādhigamānaṃ pubbanimittabhāvena. Yañhi so sampatijātova samehi pādehi patiṭṭhahi. idamassa caturiddhipādapaṭilābhassa pubbanimittaṃ. Uttarābhimukhabhāvo pana sabbalokuttarabhāvassa pubbanimittaṃ. Sattapadavītihāro, sattabojjhaṅgaratanapaṭilābhassa. “Suvaṇṇadaṇḍā vītipatanti cāmarā”ti[47], ettha vuttacāmarukkhepo pana sabbatitthiyanimmaddanassa[48]. Setacchattadhāraṇaṃ, arahattavimuttivaravimalasetacchattapaṭilābhassa. Sattamapadūpari ṭhatvā sabbadisānuvilokanaṃ, sabbaññutānāvaraṇañāṇapaṭilābhassa. Āsabhivācābhāsanaṃ appaṭivattiyavaradhammacakkappavattanassa pubbanimittaṃ. Tathā ayaṃ bhagavāpi gato, tañcassa gamanaṃ tathaṃ ahosi, avitathaṃ, tesaṃyeva visesādhigamānaṃ pubbanimittabhāvena. Tenāhu porāṇā —

Và việc đi như vậy của đức Thế Tôn ấy đã trở thành biểu hiện thật sự không bị biến đổi với điềm báo trước của việc chứng đạt nhiều ân đức cao thượng. Thật vậy, khi Ngài vừa mới sanh ra (ngay lập tức) đứng vững chãi trên bề mặt địa đại bằng hai chân đều nhau, đây là điềm báo trước của sự chứng đạt Tứ Như Ý Túc. – Lại nữa, ngài quay mặt về hướng Bắc là điềm báo trước của (sự chứng đạt) toàn bộ pháp xuất thế gian. – Ngài bước đi bảy bước là điềm báo trước của sự chứng đạt Thất Giác Chi. – Hơn nữa, ở đây việc cầm cây phất trần được nói như sau: “phe phẩy tới lui những cây phất trần có tay cầm bằng vàng” đây là điềm báo trước của việc đánh bại tất cả bọn ngoại đạo. – Việc che cây lọng trắng là điềm báo trước của việc đạt được cây lộng trắng thanh tịnh, tối thượng, là sự giải thoát bởi sức mạnh A-ra-hán. – Việc đứng (lại) vào bước thứ 7 rồi  nhìn khắp mọi phương hướng là điềm báo trước của việc chứng đạt Trí Toàn Giác không bị chướng ngại. – Việc nói ra lời nói tối thượng (lời nói có âm thanh như con bò đực) là điềm báo trước của việc tuyên thuyết Chuyển Vận Bánh Xe Pháp cao thượng mà không ai (có thể) làm thay đổi. Ngay cả đức Thế Tôn này ngài cũng đã đi tương tự y như thế, và việc đi của vị ấy cũng đã trở thành biểu hiện thực sự, không bị thay đổi bởi tính chất điềm báo trước của việc chứng đạt những ân đức cao thượng ấy. Vì thế, các tài liệu cổ Porāṇā đã nói rằng:

“Muhuttajātova gavampatī yathā, samehi pādehi phusī vasundharaṃ.

So vikkamī satta padāni Gotamo, setañca chattaṃ anudhārayuṃ marū.

Gantvāna so satta padāni Gotamo, disā vilokesi samā samantato.

Aṭṭhaṅgupetaṃ giramabbhudīrayi, sīho yathā pabbatamuddhaniṭṭhito”ti.

Evaṃ tathā gatoti tathāgato.

“Ngài Gotama vừa mới sinh chỉ trong phút chốc, đã chạm vào bề mặt quả địa cầu bằng hai chân đều nhau, rồi bước đi bảy bước. Như bò chúa vừa mới sinh ngay lập tức, khi chân tiếp xúc mặt đất cũng đã bước đi, và chư thiên đã che cây lọng trắng bên trên cúng dường;

 Ngài Gotama, vị ấy sau khi bước bảy bước; đã nhìn khắp các phương hướng. Thốt lên với âm giọng kết hợp với tám phẩm chất; như thể sư tử chúa đứng trên đỉnh núi gầm lên tiếng gầm sư tử.”

‘Đã đi như vậy’ là Như Lai (có ý nghĩa) là như thế.

Atha vā yathā Vipassī Bhagavā … pe … yathā Kassapo Bhagavā, ayampi bhagavā tatheva nekkhammena kāmacchandaṃ pahāya gato, abyāpādena byāpādaṃ, ālokasaññāya thinamiddhaṃ, avikkhepena uddhaccakukkuccaṃ, dhammavavatthānena vicikicchaṃ pahāya ñāṇena avijjaṃ padāletvā[49], pāmojjena aratiṃ vinodetvā, paṭhamajjhānena nīvaraṇakavāṭaṃ ugghāṭetvā, dutiyajjhānena vitakkavicāraṃ vūpasametvā, tatiyajjhānena pītiṃ virājetvā[50], catutthajjhānena sukhadukkhaṃ pahāya, ākāsānañcāyatanasamāpattiyā rūpasaññāpaṭighasaññānānattasaññāyo samatikkamitvā, viññāṇañcāyatanasamāpattiyā ākāsānañcāyatanasaññaṃ, ākiñcaññāyatanasamāpattiyā viññāṇañcāyatanasaññaṃ, nevasaññānāsaññāyatanasamāpattiyā ākiñcaññāyatanasaññaṃ samatikkamitvā gato.

Hoặc là, như đức Thế Tôn Vipassī …nt… như đức Thế Tôn Kassapa đã đi như thế nào, đức Thế Tôn của chúng ta đã đi tương tự y như thế. Đức Thế Tôn đã đi nhờ sự xuất ly đã đoạn trừ sự ước muốn trong các dục; đã đoạn trừ sân hận bằng sự không sân hận; đã đoạn trừ hôn trầm thụy miên bằng sự nghĩ tưởng đến ánh sáng, đã đoạn trừ phóng dật bằng sự không xao lãng, đã đoạn trừ hoài nghi do xác định pháp, đã đoạn trừ vô minh bằng trí tuệ, đã làm tiêu tan sự không hoan hỷ với sự hân hoan; đã mở cửa các pháp ngăn che do Sơ thiền; tầm và tứ đã được tĩnh lặng do Nhị thiền; đã lìa khỏi hỷ do Tam thiền; đã đoạn trừ sự an lạc và sự khổ đau do Tứ thiền; đã vượt khỏi sắc tưởng, bất bình tưởng, dị biệt tưởng bằng sự thể nhập Không Vô Biên Xứ; đã vượt khỏi tưởng Không Vô Biên Xứ bằng sự thể nhập Thức Vô Biên Xứ; đã vượt khởi tưởng Thức Vô Biên Xứ bằng sự thể nhập Vô Sở Hữu Xứ; đã vượt khỏi tưởng Vô Sở Hữu Xứ bằng sự thể nhập Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, rồi ngài đã đi.

Aniccānupassanāya niccasaññaṃ pahāya, dukkhānupassanāya sukhasaññaṃ, anattānupassanāya attasaññaṃ, nibbidānupassanāya nandiṃ, virāgānupassanāya rāgaṃ, nirodhānupassanāya samudayaṃ, paṭinissaggānupassanāya ādānaṃ, khayānupassanāya ghanasaññaṃ, vayānupassanāya āyūhanaṃ, vipariṇāmānupassanāya dhuvasaññaṃ, animittānupassanāya nimittaṃ[51], appaṇihitānupassanāya paṇidhiṃ, suññatānupassanāya abhinivesaṃ, adhipaññādhammavipassanāya sārādānābhinivesaṃ, yathābhūtañāṇadassanena sammohābhinivesaṃ, ādīnavānupassanāya ālayābhinivesaṃ, paṭisaṅkhānupassanāya appaṭisaṅkhaṃ, vivaṭṭānupassanāya saṃyogābhinivesaṃ, sotāpattimaggena diṭṭhekaṭṭhe kilese bhañjitvā[52], sakadāgāmimaggena oḷārike kilese pahāya, anāgāmimaggena aṇusahagate kilese samugghāṭetvā, arahattamaggena sabbakilese samucchinditvā gato. Evampi tathā gatoti tathāgato.

Đã đoạn trừ tưởng về sự thường tồn bằng việc quán xét về vô thường; đã đoạn trừ tưởng về an lạc bằng việc quán chiếu về khổ não; đã đoạn trừ tưởng về tự ngã bằng việc quán chiếu về vô ngã; đoạn trừ sự vui thích bằng việc quán chiếu về nhàm chán; đã đoạn trừ tham ái do quan chiếu về ly tham; đoạn trừ nhân sanh khởi bằng việc quán chiếu về diệt tận; đã đoạn trừ sự nắm giữ bằng việc quán chiếu về từ bỏ; đã đoạn trừ sự nghĩ tưởng về sự tiếp nối bằng việc quán chiếu về đoạn tận; đã đoạn trừ sự tích lũy bằng việc quán chiếu về biến hoại; đã đoạn trừ sự nghĩ tưởng về vững chắc bằng việc quán chiếu về chuyển biến; đã đoạn trừ hiện tướng bằng việc quán chiếu về vô tướng; đã đoạn trừ sự nguyện ước bằng việc quán chiếu về vô nguyện; đã đoạn trừ sự cố chấp do quán xét về không tánh; đã đoạn trừ sự cố chấp trong việc chấp giữ bằng việc minh sát các pháp bằng thắng tuệ; đã đoạn trừ sự cố chấp vào sự lầm lẫn bằng việc quán chiếu về sự biết và thấy đúng theo thực thể; đã đoạn trừ sự cố chấp vào sự nương tựa bằng việc quán chiếu về tai hại; đã đoạn trừ sự không phân biệt rõ bằng việc quán chiếu về phân biệt rõ; đã đoạn trừ sự cố chấp vào sự ràng buộc bằng việc quán chiếu về ly khai; đã bẽ gãy các phiền não thuần về tà kiến bằng Tu-đà-hoàn đạo; đã đoạn trừ các phiền não thô thiển bằng Tư-đà-hàm đạo; đã bứng tận gốc các phiền não có tính chất vi tế bằng A-na-hàm đạo; đã đoạn tận toàn bộ phiền não theo ý nghĩa thu thúc bằng A-ra-hán đạo, rồi ngài đã đi. Đức Thế Tôn đã đi như vậy với biểu hiện như đã giải thích. ‘Vì đã đi như vậy’ là Như Lai là (có ý nghĩa) như vậy.

Kathaṃ tathalakkhaṇaṃ āgatoti tathāgato? Pathavīdhātuyā kakkhaḷattalakkhaṇaṃ tathaṃ avitathaṃ. Āpodhātuyā paggharaṇalakkhaṇaṃ. tejodhātuyā uṇhattalakkhaṇaṃ. Vāyodhātuyā vitthambhanalakkhaṇaṃ. Ākāsadhātuyā asamphuṭṭhalakkhaṇaṃ. Viññāṇadhātuyā vijānanalakkhaṇaṃ.

(3) Đức Thế Tôn có hồng danh là Như Lai ‘vì ngài đã đến bằng tướng trạng thật sự’ (có ý nghĩa) như thế nào? Địa giới có trạng thái cứng rắn, là trạng thái thật không biến đổi. Thủy giới có trạng thái chảy ra; Hỏa giới có trạng thái nóng; Phong giới có trạng thái căng phòng; Hư không giới có trạng thái không xúc chạm được; Thức giới có trạng thái nhận biết đối tượng.

Rūpassa ruppanalakkhaṇaṃ. Vedanāya vedayitalakkhaṇaṃ. Saññāya sañjānanalakkhaṇaṃ. Saṅkhārānaṃ abhisaṅkharaṇalakkhaṇaṃ. Viññāṇassa vijānanalakkhaṇaṃ.

Sắc có trạng thái thay đổi liên tục. Thọ có trạng thái sự cảm thọ đối tượng. Tưởng có trạng thái ghi nhớ đối tượng. Hành có trạng thái tạo tác đối tượng. Thức có trạng thái nhận biết đối tượng.

Vitakkassa abhiniropanalakkhaṇaṃ. Vicārassa anumajjanalakkhaṇaṃ. Pītiyā pharaṇalakkhaṇaṃ. Sukhassa sātalakkhaṇaṃ. Cittekaggatāya avikkhepalakkhaṇaṃ. Phassassa phusanalakkhaṇaṃ.

Tầm có trạng thái đưa tâm vào đối tượng. Tứ có trạng thái theo chăm nom đối tượng; Hỷ có trạng thái lan tỏa. Lạc có trạng thái dễ chịu. Nhất hành (sự chuyên nhất của tâm) có trạng thái yên tĩnh (không xao lãng). Xúc có trạng thái đụng chạm đối tượng.

Saddhindriyassa adhimokkhalakkhaṇaṃ. Vīriyindriyassa paggahalakkhaṇaṃ. satindriyassa upaṭṭhānalakkhaṇaṃ. samādhindriyassa avikkhepalakkhaṇaṃ. paññindriyassa pajānanalakkhaṇaṃ.

Tín quyền có trạng thái quyết định chắc chắn, Tấn quyền có trạng thái cố gắng duy trì. Niệm quyền có trạng thái chăm nom. Định quyền có trạng thái không phóng dật. Tuệ quyền trạng thái nhận biết rõ.

Saddhābalassa assaddhiye akampiyalakkhaṇaṃ. Vīriyabalassa kosajje. Satibalassa muṭṭhassacce. Samādhibalassa uddhacce. Paññābalassa avijjāya akampiyalakkhaṇaṃ.

Tín lực có trạng thái không lay động đối với những thứ không đáng tin; Tấn lực có trạng thái không lay động trong sự lười biếng; Niệm lực có trạng thái không lay động trong sự thất niệm; Định lực có trạng thái không lay động trong sự xao lãng; Tuệ lực có trạng thái không bị lay động trong vô minh.

Satisambojjhaṅgassa upaṭṭhānalakkhaṇaṃ. Dhammavicayasambojjhaṅgassa pavicayalakkhaṇaṃ. Vīriyasambojjhaṅgassa paggahalakkhaṇaṃ. Pītisambojjhaṅgassa pharaṇalakkhaṇaṃ. Passaddhisambojjhaṅgassa vūpasamalakkhaṇaṃ. Samādhisambojjhaṅgassa avikkhepalakkhaṇaṃ. Upekkhāsambojjhaṅgassa paṭisaṅkhānalakkhaṇaṃ.

Niệm giác chi có trạng thái chăm nom. Trạch pháp giác chi có trạng thái nghiên cứu. Tinh tấn giác có trạng thái cố gắng duy trì; Hỷ giác chi trạng thái lan tỏa; An tịnh giác chi có trạng thái tĩnh lặng; Định giác chi có trạng thái không phóng dật; Xả giác chi có trạng thái phân biệt rõ.

Sammādiṭṭhiyā dassanalakkhaṇaṃ. Sammāsaṅkappassa abhiniropanalakkhaṇaṃ. sammāvācāya pariggahalakkhaṇaṃ. Sammākammantassa samuṭṭhānalakkhaṇaṃ[53]. Sammāājīvassa vodānalakkhaṇaṃ. Sammāvāyāmassa paggahalakkhaṇaṃ. Sammāsatiyā upaṭṭhānalakkhaṇaṃ. Sammāsamādhissa avikkhepalakkhaṇaṃ.

Chánh kiến có trạng thái thấy; Chánh tư duy có trạng thái đưa tâm vào đối tượng; Chánh ngữ có trạng thái nắm lấy; Chánh nghiệp có trạng thái làm nhân trợ sanh – samuṭṭhāna; Chánh mạng có trạng thái trong sạch; Chánh tinh tấn có trạng thái cố gắng duy trì; Chánh niệm có trạng thái chăm nom; Chánh định có trạng thái không phóng dật.

Avijjāya aññāṇalakkhaṇaṃ. Saṅkhārānaṃ cetanālakkhaṇaṃ. Viññāṇassa vijānanalakkhaṇaṃ. Nāmassa namanalakkhaṇaṃ. Rūpassa ruppanalakkhaṇaṃ. Saḷāyatanassa āyatanalakkhaṇaṃ. Phassassa phusanalakkhaṇaṃ. Vedanāya vedayitalakkhaṇaṃ. Taṇhāya hetulakkhaṇaṃ. Upādānassa gahaṇalakkhaṇaṃ. Bhavassa āyūhanalakkhaṇaṃ. Jātiyā nibbattilakkhaṇaṃ. Jarāya jīraṇalakkhaṇaṃ. Maraṇassa cutilakkhaṇaṃ.

Vô minh có trạng thái không hiểu biết; Hành có trạng thái suy tính; Thức có trạng thái nhận biết đối tượng; Danh có trạng thái hướng tâm đến; Sắc có trạng thái luôn biến hoại; 6 Xứ có trạng thái làm chỗ tiếp nối; Xúc có trạng thái đụng chạm đối tượng; Thọ có trạng thái cảm thọ đối tượng; Tham ái có trạng thái làm nhân của khổ đau; Thủ có trạng thái chấp chặt; Hữu có trạng thái chồng chất; Sự sanh có trạng thái sanh ra; Sự già có trạng thái hao mòn; Sự chết có trạng thái chấm dứt sự sống.

Dhātūnaṃ suññatālakkhaṇaṃ. Āyatanānaṃ āyatanalakkhaṇaṃ. Satipaṭṭhānānaṃ upaṭṭhānalakkhaṇaṃ. Sammappadhānānaṃ padahanalakkhaṇaṃ. Iddhipādānaṃ ijjhanalakkhaṇaṃ. Indriyānaṃ adhipatilakkhaṇaṃ. Balānaṃ akampiyalakkhaṇaṃ. Bojjhaṅgānaṃ niyyānalakkhaṇaṃ. Maggassa hetulakkhaṇaṃ.

Giới-dhātu có trạng thái rỗng không – suññatā; Xứ-āyatana có trạng thái làm chỗ tiếp nối; Niệm Xứ có trạng thái chăm nom; Chánh Cần có trạng thái bắt đầu thiết lập sự cố gắng; Thần Túc có trạng thái thành tựu. Quyền indriya có trạng thái to lớn; Lực có trạng thái không lay động; Giác Chi có trạng thái dẫn dắt thoát khỏi khổ; Đạo có trạng thái làm nhân đưa đến sự diệt khổ;

Saccānaṃ tathalakkhaṇaṃ. Samathassa avikkhepalakkhaṇaṃ. Vipassanāya anupassanālakkhaṇaṃ. Samathavipassanānaṃ ekarasalakkhaṇaṃ. Yuganaddhānaṃ anativattanalakkhaṇaṃ.

Chân lý có trạng thái thật; Chỉ Tịnh có trạng thái không phóng dật. Minh Sát có trạng thái tùy quán. Chi Tịnh và Minh Sát có trạng trái có phận sự thuần nhất – ekarasa. Pháp liên kết thành đôi, thành cặp có trạng thái không thể chuyển đổi.

Sīlavisuddhiyā saṃvaralakkhaṇaṃ. Cittavisuddhiyā avikkhepalakkhaṇaṃ. Diṭṭhivisuddhiyā dassanalakkhaṇaṃ.

Giới thanh tịnh có trạng thái thu thúc; Tâm thanh tịnh có trạng thái không phóng dật. Kiến thanh tịnh có trạng thái thấy;

Khaye ñāṇassa samucchedanalakkhaṇaṃ[54]. Anuppāde ñāṇassa passaddhilakkhaṇaṃ. Chandassa mūlalakkhaṇaṃ. Manasikārassa samuṭṭhāpanalakkhaṇaṃ. Phassassa samodhānalakkhaṇaṃ. Vedanāya samosaraṇalakkhaṇaṃ. Samādhissa pamukhalakkhaṇaṃ. Satiyā ādhipateyyalakkhaṇaṃ. paññāya tatuttariyalakkhaṇaṃ[55]. Vimuttiyā sāralakkhaṇaṃ…amatogadhassa nibbānassa pariyosānalakkhaṇaṃ tathaṃ avitathaṃ. Evaṃ tathalakkhaṇaṃ ñāṇagatiyā āgato avirajjhitvā patto anuppattoti tathāgato. Evaṃ tathalakkhaṇaṃ āgatoti tathāgato.

 Ðoạn tận trí khaya-ñāṇa có trạng thái đoạn trừ; Vô sanh trí anuppāda-ñāṇa có trạng thái an tịnh; Ước muốn có trạng thái làm gốc; Tác ý có trạng thái làm nhân trợ sanh – samuṭṭhāna; Xúc có trạng thái làm chỗ hội họp; Thọ có trạng thái làm nơi gặp gỡ; Định có trạng thái dẫn đầu; Niệm có trạng thái làm chủ quyền; Tuệ có trạng thái vượt trội. Giải thoát có trạng thái làm cốt lõi … Nibbāna nơi thâm nhập vào bất tử có trạng thái chấm dứt, mỗi một Pháp đều có trạng thái thật, không biến đổi. Đức Thế Tôn, ngài đã đi đến bằng tướng trạng thật sự bằng ñāṇagati, tức là chứng đắc, chứng đạt theo tuần tự, không bị biến đổi như thế gọi là Như Lai. (Vì lý do đó) ‘vì đã đến bằng tướng trạng thật’ là Như Lai (có ý nghĩa) như vậy.

Kathaṃ tathadhamme yāthāvato abhisambuddhoti tathāgato? tathadhammā nāma cattāri ariyasaccāni. yathāha — “cattārimāni, bhikkhave, tathāni avitathāni anaññathāni. katamāni cattāri? ‘idaṃ dukkhan’ti bhikkhave, tathametaṃ avitathametaṃ anaññathametan”ti[56] vitthāro. Tāni ca bhagavā abhisambuddho, tasmā tathānaṃ dhammānaṃ abhisambuddhattā tathāgatoti vuccati. Abhisambuddhattho hettha gata-saddo.

(4) Đức Thế Tôn có hồng danh là Như Lai ‘vì ngài đã hoàn toàn giác ngộ theo đúng thực tính các Pháp thực thể’ (có ý nghĩa) như thế nào? Bốn Thánh Đế gọi là Pháp thực thể. Như đức Thế Tôn đã nói rằng: “Này các Tỳ khưu, Bốn Thánh đế này là thực thể, là không biến hoại, không sai khác. Thế nào là Bốn? Này các Tỳ khưu, ‘Đây là Khổ,’ điều này là thực thể, điều này là không biến hoại, điều này là không sai khác”, đọc giả nên tự mình tìm hiểu chi tiết. Đức Thế Tôn giác ngộ hoàn toàn bộ Bốn Thánh Đế ấy, vì thế ngài được gọi là Như Lai do đã giác ngộ hoàn toàn các Pháp thực thể. Từ ‘gata’ trong từ ‘tathāgata’ này có nghĩa là ‘giác ngộ toàn bộ’.

Api ca jarāmaraṇassa jātipaccayasambhūtasamudāgataṭṭho tatho avitatho anaññatho … pe …, saṅkhārānaṃ avijjāpaccayasambhūtasamudāgataṭṭho tatho avitatho anaññatho … pe …, tathā avijjāya saṅkhārānaṃ paccayaṭṭho, saṅkhārānaṃ viññāṇassa paccayaṭṭho … pe …, jātiyā jarāmaraṇassa paccayaṭṭho tatho avitatho anaññatho. Taṃ sabbaṃ bhagavā abhisambuddho, tasmāpi tathānaṃ dhammānaṃ abhisambuddhattā tathāgatoti vuccati. Evaṃ tathadhamme yāthāvato abhisambuddhoti tathāgato.

Và hơn nữa, sự Già và sự Chết sanh khởi từ sự Sanh làm duyên, có ý nghĩa hiện hữu là thực thể, là không biến hoại, là không sai khác …nt… thực tính các Hành sanh khởi từ Vô Minh làm duyên có ý nghĩa hiện hữu là thực thể, là không biến hoại, là không sai khác …nt… Vô Minh có ý nghĩa làm duyên cho Hành, Hành có ý nghĩa làm duyên cho thức …nt… sự Sanh có ý nghĩa làm duyên cho sự Già và sự Chết (đây là) thực thể, là không biến hoại, là không sai khác. Đức Thế Tôn đã hoàn toàn giác ngộ tất cả thực tính đó, chính nhân đó Ngài được gọi là Tathāgata. Đức Thế Tôn có hồng danh Tathāgata bởi giác ngộ toàn bộ thực thể theo đúng thực tính pháp như đã giải thích. Đức Thế Tôn hoàn toàn giác ngộ các Pháp đó, chính vì thế ngài được gọi là Như Lai do đã hoàn toàn giác ngộ theo đúng thực tính các Pháp thực thể. Như vậy, ‘do đã hoàn toàn giác ngộ theo đúng thực tính các Pháp thực thể’ là Như Lai.

Kathaṃ tathadassitāya tathāgato? Bhagavā yaṃ sadevake loke … pe …, sadevamanussāya pajāya aparimāṇāsu lokadhātūsu aparimāṇānaṃ sattānaṃ cakkhudvāre āpāthamāgacchantaṃ rūpārammaṇaṃ nāma atthi, taṃ sabbākārato jānāti passati. Evaṃ jānatā passatā ca, tena taṃ iṭṭhāniṭṭhādivasena vā diṭṭhasutamutaviññātesu labbhamānakapadavasena vā. “Katamaṃ taṃ rūpaṃ rūpāyatanaṃ? Yaṃ rūpaṃ catunnaṃ mahābhūtānaṃ upādāya vaṇṇanibhā sanidassanaṃ sappaṭighaṃ nīlaṃ pītakan”tiādinā[57] nayena anekehi nāmehi terasahi vārehi dvepaññāsāya nayehi vibhajjamānaṃ tathameva hoti, vitathaṃ natthi. esa nayo sotadvārādīsupi āpāthaṃ āgacchantesu saddādīsu. Vuttañcetaṃ[58] bhagavatā — “Yaṃ bhikkhave, sadevakassa lokassa … pe … sadevamanussāya pajāya diṭṭhaṃ sutaṃ mutaṃ viññātaṃ pattaṃ pariyesitaṃ anuvicaritaṃ manasā, tamahaṃ jānāmi. tamahaṃ abbhaññāsiṃ, taṃ tathāgatassa viditaṃ, taṃ tathāgato na upaṭṭhāsī”ti[59]. Evaṃ tathadassitāya tathāgato. Tattha tathadassī atthe tathāgatoti padasambhavo veditabbo.

(5) Đức Thế Tôn có hồng danh là Như Lai ‘vì ngài đã nhìn thấy đối tượng như thật’ (có ý nghĩa) như thế nào? đối tượng nào gọi là đối tượng sắc đang đi đến phạm vi trong tầm Nhãn Môn của tất cả chúng sanh không thể ước lường được có trong thế gian cùng với chư thiên …nt… trong nhóm chúng sanh cùng với chư thiên và loài người (và) trong thế giới [lokadhātu] không thể ước lường được đối tượng đó, đức Thế Tôn nhìn thấy, nhận biết được tất cả mọi khía cạnh. Đối tượng đó ngài nhận biết và nhìn thấy như vậy, được phân ra do tác động đối tượng tốt và đối tượng không tốt hoặc do tác động pada có thể đạt được trong sắc đã thấy, âm thanh đã nghe, mùi, vị, đối tượng xúc đã biết và đối tượng pháp đã được biết rõ, và nhận biết 13 phần, (hoặc) 52 cách thức có nhiều tên gọi với những phương cách sau: “Sắc là (có ý nghĩa) như thế nào? Sắc nào y cứ bốn Sắc Đại Hiển thuộc về màu sắc là Sắc nhìn thấy được, là Sắc xúc chạm được, là sắc màu xanh, sắc màu vàng, Sắc đó được gọi là Sắc Xứ”, đây chính là đối tượng được xem thực thể, không bị biến hoại. Luôn cả trong đối tượng có âm thanh v.v, đang đi đến phạm vi trong tầm Nhĩ Môn v.v, cũng theo phương cách này. Đức Thế Tôn đã nói như vầy: “Này các Tỳ khưu, đối tượng nào trong toàn thế giới với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, cùng với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người, được thấy, được nghe, được cảm giác, được thức tri, được đạt đến, được tầm cầu, được ý tư sát, ta đều biết các đối tượng đó. Ta đã được biết rõ các đối tượng đó, các đối tượng đó đều được Như Lai biết đến. các đối tượng đó không xuất hiện trong Như Lai.” Như vậy, ‘do nhìn thấy đối tượng thực thể’ là Như Lai. Ở đó, nên biết rằng sự thành tựu nghĩa của từ ‘Như Lai’ có ý nghĩa ‘một người nhìn thấy đối tượng thực thể’.

Kathaṃ tathavāditāya tathāgato? Yaṃ rattiṃ bhagavā bodhimaṇḍe aparājitapallaṅke nisinno tiṇṇaṃ mārānaṃ matthakaṃ madditvā anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho, yañca rattiṃ yamakasālānamantare anupādisesāya nibbānadhātuyā parinibbāyi, etthantare pañcacattālīsavassaparimāṇe kāle paṭhamabodhiyāpi majjhimabodhiyāpi pacchimabodhiyāpi yaṃ bhagavatā bhāsitaṃ — Suttaṃ, Geyyaṃ … pe … Vedallaṃ, taṃ sabbaṃ atthato ca byañjanato ca anupavajjaṃ, anūnamanadhikaṃ, sabbākāraparipuṇṇaṃ, rāgamadanimmadanaṃ, dosamohamadanimmadanaṃ. Natthi tattha vālaggamattampi avakkhalitaṃ[60], sabbaṃ taṃ ekamuddikāya lañchitaṃ viya, ekanāḷiyā mitaṃ viya, ekatulāya tulitaṃ viya ca, tathameva hoti avitathaṃ anaññathaṃ. Tenāha — “Yañca, Cunda, rattiṃ Tathāgato anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambujjhati, yañca rattiṃ anupādisesāya nibbānadhātuyā parinibbāyati, yaṃ etasmiṃ antare bhāsati lapati niddisati, sabbaṃ taṃ tatheva hoti, no aññathā. tasmā ‘tathāgato’ti vuccatī”ti[61]. Gadattho hettha gatasaddo. Evaṃ tathavāditāya Tathāgato.

(6) Đức Thế Tôn có hồng danh là Như Lai ‘vì có lời nói như thật’ là (có ý nghĩa) thế nào? Đêm nào đức Thế Tôn đã ngồi trên bảo tọa Aparājita [bảo tọa mà Ma Vương không thể phá vỡ được, bảo tọa của người chiến thắng] ở tại cội cây Bồ-đề. Ngài tiêu diệt cả 3 loại dục vọng – māra rồi chứng đắc viên mãn vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, và đêm nào đức Thế Tôn tịch diệt Nibbāna trong cảnh giới Nibbāna không còn dư sót giữa hai cây sāla, trong suốt khoảng thời gian 45 năm (sau khi thành đạo và trước khi Viên Tịch Nibbāna) lời nói nào mà đức Thế Tôn thuyết trong khoảng thời gian paṭhamabodhiyā, thời gian majjhimabodhiyā và luôn cả thời gian pacchimabodhiyāSutta, Geyya…Vedalla, toàn bộ những lời nói đó người trí thức không ai có thể chê bai về ý nghĩa và cả văn tự, không hơn không kém, trọn vẹn với mọi phương diện trừ diệt sự say mê bởi ái luyến, trừ diệt sự say mê bởi sân hận và trừ diệt sự say mê bởi si mê, sự lầm lẫn trong lời nói đó dù chỉ là đỉnh của ngọn tóc cũng không có, tất cả điều đó đều là thực thể, không bị biến đổi, không bị sai khác, giống như được đóng cùng một ấn triện hoàng gia, giống như đo lường với cùng một dụng cụ đo lường, và giống như được cân bằng một chiếc cân. Với lý do đó ngài đã nói rằng: “Này Cunda, vào đêm đức Như Lai giác ngộ quả vị vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, và vào đêm Như Lai viên tịch Niết Bàn ở cảnh giới Niết Bàn không còn dư sót, điều nào đức Như Lai thuyết giảng, nói ra, chỉ dạy trong suốt khoảng thời gian này, toàn bộ những lời ấy hoàn toàn đều là thật, không sai khác; vì thế, ‘được gọi là Như Lai’”. Từ ‘gata’ trong từ Như Lai đồng nghĩa với ‘gada’ là ‘lời nói’. Đức Thế Tôn có hồng danh Như Lai ‘do có lời nói như thật’ là như thế.

Api ca āgadanaṃ āgado, vacananti attho. Tayo aviparīto āgado assāti, da-kārassa ta-kāraṃ katvā Tathāgatoti evametasmiṃ atthe padasiddhi veditabbā.

Và hơn nữa, việc nói gọi là ‘āgadanaṃ’ dịch là lời nói, có nghĩa là lời nói. Việc thuyết giảng của đức Như Lai ấy đều là thật, không biến đổi, vì thế được gọi là Như Lai do đổi phụ âm ‘da’ thành phụ âm ‘ta’ và trong trường hợp này nên biết sự hình thành nghĩa của từ là như thế.

Kathaṃ tathākāritāya tathāgato? Bhagavato hi vācāya kāyo anulometi, kāyassapi vācā, tasmā yathāvādī tathākārī, yathākārī tathāvādī ca hoti. Evaṃbhūtassa cassa yathāvācā, kāyopi tathā gato pavattoti attho. Tathā ca kāyo, vācāpi tathā gatā pavattāti tathāgato. Tenevāha — “yathāvādī, bhikkhave, tathāgato tathākārī, yathākārī tathāvādī . Iti yathāvādī tathākārī yathākārī tathāvādī. Tasmā ‘tathāgato’ti vuccatī”ti[62]. evaṃ tathākāritāya tathāgato.

(7) Đức Thế Tôn có hồng danh là Như Lai ‘do thực hành thật’ (có ý nghĩa) như thế nào? Bởi vì thân nghiệp của đức Thế Tôn thuận theo khẩu nghiệp, cả khẩu nghiệp thuận theo thân nghiệp. Vì thế đức Thế Tôn nói như thế nào (sẽ) thực hành như thế đó, và làm như thế nào (sẽ) nói như thế đó. Có nghĩa là vị có bản thể như vậy lời nói như thế nào, thì cả thân nghiệp cũng được vận hành đi đến như thế đó; và thân nghiệp như thế nào thì luôn cả khẩu nghiệp cũng vận hành đi đến như thế đó. Do đó mới nói rằng: “Này chư Tỳ khưu, Như Lai nói như thế nào thì làm như thế đó, làm như thế nào thì nói như thế đó. Vị nói như thế nào thì làm như thế ấy, làm như thế nào thì nói như thế ấy là như thế. Cho nên ‘được gọi là Như Lai’”. Như vậy, đức Thế Tôn có hồng danh là Như Lai ‘do làm thật’.

Kathaṃ abhibhavanaṭṭhena tathāgato? upari bhavaggaṃ heṭṭhā avīciṃ pariyantaṃ katvā tiriyaṃ aparimāṇāsu lokadhātūsu sabbasatte abhibhavati sīlenapi samādhināpi paññāyapi vimuttiyāpi, vimuttiñāṇadassanenapi na tassa tulā[63] vā pamāṇaṃ vā atthi; atulo appameyyo anuttaro rājātirājā devadevo sakkānaṃ atisakko brahmānaṃ atibrahmā. Tenāha — “sadevake, bhikkhave, loke … pe … sadevamanussāya pajāya tathāgato abhibhū anabhibhūto aññadatthudaso vasavattī, tasmā ‘tathāgato’ti vuccatī”ti.[64]

(8) Đức Thế Tôn có hồng danh là Như Lai ‘vì sự chinh phục’ (có ý nghĩa) như thế nào? Đức Thế Tôn chinh phục tất cả chúng sanh từ phía trên là cõi cao nhất[65] cho đến tận cùng phía dưới là địa ngục Vô Gián, về bề ngang chinh phục toàn bộ chúng sanh trong thế giới vũ trụ không thể ước lượng được bằng Giới, Định, Tuệ, Giải Thoát,  Trí và sự nhận thức về giải thoát giới, việc đo lường và ước lượng [các ân đức có giới v.v,] của ngài là không thể, Ngài có đức hạnh không thể đo lường được, không thể ước lượng được, không ai có thể hơn Ngài, là vua của vua, là chư thiên của chư thiên, là Đế Thích của các Đế Thích, là Phạm thiên trên các Phạm thiên. Bởi thế đức Thế Tôn đã nói rằng: “này chư Tỳ khưu, ở thế gian tính luôn cõi chư thiên…chư thiên và loài người, đức Như Lai là đấng chiến thắng, bậc không bị thống trị, bậc nhìn thấy tất cả, bậc vận hành quyền lực; Vì thế, ‘được gọi là Như Lai’”.

Tatrevaṃ padasiddhi veditabbā. Agado viya agado. Ko panesa? Desanāvilāsamayo ceva[66] puññussayo ca. Tena hesa mahānubhāvo bhisakko dibbāgadena sappe viya sabbaparappavādino sadevakañca lokaṃ abhibhavati. iti sabbālokābhibhavane tatho aviparīto desanāvilāsamayo ceva puññussayo ca agado assāti. da-kārassa ta-kāraṃ katvā tathāgatoti veditabbo. evaṃ abhibhavanaṭṭhena tathāgato.

Trong trường hợp đó nên biết sự hình thành nghĩa của từ như vầy ‘agada’ dịch là ‘thuốc men’, tương tự từ ‘agada’ dịch là ‘nói’. Thuốc men này là gì? Nét đẹp của bài giảng [desanāvilāsa] và phước báu đặc biệt [puññussayo]. Bởi vì đức Thế Tôn chinh phục tất cả những người học thuyết đối nghịch và thế gian cùng với chư Thiên giống như vị thầy thuốc có đại oai lực bắt rắn độc bằng thần dược. Đức Thế Tôn, bậc trí nên biết rằng: Hồng danh ‘Như Lai’ bởi vì có thuốc men là nét đẹp của bài giảng [desanāvilāsa] và phước báu đặc biệt [puññussayo] là thật, không bị biến đổi với việc chinh phục toàn bộ thế giới, do đã biến đổi phụ âm ‘da’ thành phụ âm ‘ta’. Đức Thế Tôn có hồng danh là Như Lai ‘vì sự chinh phục’ (có ý nghĩa) là như vậy.

Api ca tathāya gatotipi Tathāgato, tathaṃ gatotipi Tathāgato. Gatoti avagato, atīto patto paṭipannoti attho. Tattha sakalalokaṃ tīraṇapariññāya tathāya gato avagatoti tathāgato. Lokasamudayaṃ pahānapariññāya tathāya gato atītoti tathāgato. Lokanirodhaṃ sacchikiriyāya tathāya gato pattoti tathāgato. Lokanirodhagāminiṃ paṭipadaṃ tathaṃ gato paṭipannoti tathāgato. tena vuttaṃ bhagavatā —

Và hơn nữa, ‘đã đi đến với bản thể thật’ là Như Lai, ‘đạt đến bản thể thật’ là Như Lai. ‘Đã đi’ có ý nghĩa như sau – đoán biết, đã vượt khỏi, đã chứng đạt, đã thực hành. Trong bốn ý nghĩa đó, gọi là Như Lai ‘do đã đi với cử chỉ thật’ (tức là) do xét đoán toàn bộ thế giới nhờ biết toàn diện về sự xét đoán. Là Như Lai ‘do ngài đã đi với cử chỉ thật’ (tức là) vận hành vượt khỏi tập khởi của thế gian nhờ biết toàn diện về sự dứt bỏ. Là Như Lai ‘do ngài đã đi với cử chỉ thật’, (tức là) đã chứng đạt sự diệt tận của thế gian nhờ tác chứng. Là Như Lai ‘do đã đi với cử chỉ thật’, (tức là) con đường thực hành đạt đến sự diệt tận của thế gian. Bởi thế lời nào được đức Thế Tôn thuyết rằng: –

“Loko, bhikkhave, tathāgatena abhisambuddho, lokasmā tathāgato visaṃyutto. Lokasamudayo, bhikkhave, Tathāgatena abhisambuddho, lokasamudayo tathāgatassa pahīno. Lokanirodho, bhikkhave, tathāgatena abhisambuddho, lokanirodho tathāgatassa sacchikato. Lokanirodhagāminī paṭipadā, bhikkhave, tathāgatena abhisambuddhā, lokanirodhagāminī paṭipadā tathāgatassa bhāvitā. yaṃ bhikkhave, sadevakassa lokassa … pe … sabbaṃ taṃ tathāgatena abhisambuddhaṃ. Tasmā, tathāgatoti vuccatī”ti[67].

Này các Tỳ khưu, thế giới đã được Như Lai hoàn toàn giác ngộ, Như Lai không bị ràng buộc với đời. Này các Tỳ khưu, tập khởi của thế giới đã được Như Lai hoàn toàn giác ngộ, tập khởi của thế giới đã được Như Lai đoạn tận; Này các Tỳ khưu, sự đoạn diệt của thế giới đã được Như Lai hoàn toàn giác ngộ, sự đoạn diệt của thế giới đã được Như Lai tác chứng. Này các Tỳ khưu, con đường đưa đến sự đoạn diệt của thế giới đã được Như Lai hoàn toàn giác ngộ. Con đường đưa đến sự đoạn diệt của thế giới đã được Như Lai tu tập. Này chư tỳ khưu, điều nào [tồn tại] ở thế gian tính luôn cõi chư Thiên, tất cả điều đó đã được Như Lai hoàn toàn giác ngộ. Vì vậy, ‘được gọi là Như Lai’”.

Tassapi evaṃ attho veditabbo. Idampi ca tathāgatassa tathāgatabhāvadīpane mukhamattameva. Sabbākārena pana tathāgatova tathāgatassa tathāgatabhāvaṃ vaṇṇeyya.

Nên biết ý nghĩa của lời nói đó như vậy. Và luôn cả câu này cũng chỉ là chủ đề  giải thích bản thể Như Lai của ‘Như Lai’ mà thôi. Hơn nữa, chỉ có Như Lai mới có thể giải thích về bản thể Như Lai của ‘Như Lai’ bằng tất cả mọi biểu hiện.

Arahaṃ sammāsambuddhoti padadvaye pana ārakattā arīnaṃ, arānañca hatattā, paccayādīnaṃ arahattā, pāpakaraṇe rahābhāvāti imehi tāva kāraṇehi arahanti veditabbo.

Bậc A-ra-hán Chánh đẳng Chánh Giác: trước tiên đức Thế Tôn cần được biết là bậc A-ra-hán với lý do sau: (i) bởi vì Ngài đã viễn ly các phiền não; (ii) bởi vì tiêu diệt kẻ thù và (iii) các căm xe đã bị bẻ gãy (vòng luân hồi); (iv) bởi vì ngài xứng đáng nhận các vật cúng dường; (v) bởi vì không làm điều ác nơi khuất lấp.

Sammā sāmañca sabbadhammānaṃ buddhattā pana sammāsambuddhoti. ayamettha saṅkhepo. Vitthārato panetaṃ padadvayaṃ Visuddhimagge buddhānussativaṇṇanāyaṃ pakāsitaṃ.

Gọi là bậc Chánh đẳng Chánh Giác bởi vì Ngài giác ngộ tất cả Pháp hoàn toàn chân chánh và tự mình. Đây là phần tóm lược; về phần nghiên cứu chi tiết  hai từ này, hãy tham khảo Visuddhimagga, chương nói về Tùy niệm Đức Phật. Cả hai từ là [bậc A-ra-hán, Chánh đẳng Chánh Giác] này Ngài Buddhaghosa đã giải thích chi tiết trong bộ Thanh Tịnh Đạo.

Pariññātantaṃ tathāgatassāti ettha pana taṃ maññanāvatthu pariññātaṃ tathāgatassātipi attho veditabbo. pariññātantaṃ nāma pariññātapāraṃ pariññātāvasānaṃ anavasesato pariññātanti vuttaṃ hoti. buddhānañhi sāvakehi saddhiṃ kiñcāpi tena tena maggena kilesappahāne viseso natthi, pariññāya pana atthi. sāvakā hi catunnaṃ dhātūnaṃ ekadesameva sammasitvā nibbānaṃ pāpuṇanti. buddhānaṃ pana aṇuppamāṇampi saṅkhāragataṃ ñāṇena adiṭṭhamatulitamatīritamasacchikataṃ natthi.

Như Lai đã biết toàn diện điều ấy nên hiểu ý nghĩa như sau: sự tưởng tượng chấp thủ các vật [vatthu] (làm chỗ thiết lập) đó Như Lai đã biết toàn diện như vậy cũng được. Vật đó được gọi là Như Lai đã biết toàn diện, đã biết toàn diện vô giới hạn, đã biết toàn diện đến cùng tận, (tức là) đã biết toàn diện không còn dư sót. Quả thât, chư Phật cùng với chư Thánh thinh văn không có sự khác biệt về việc đoạn trừ phiền não bởi bốn đạo, mặc dù vậy cũng có sự khác biệt nhau về phương diện sự hiểu biết toàn diện, nghĩa là chư Thánh thinh văn quán chiếu bốn giới [dhātu] chỉ một vài phần đó cũng chứng đắc được Niết Bàn. Nhưng đối với chư Phật không có các hành nào dầu vi tế mà không thể nhìn thấy, không thể xét đoán, không thể quán chiếu và không thể tác chứng với trí tuệ của Ngài.

  1. Nandī dukkhassa mūlantiādīsu ca nandīti purimataṇhā. dukkhanti pañcakkhandhā. mūlantiādi. iti viditvāti taṃ purimabhavanandiṃ “imassa dukkhassa mūlan”ti evaṃ jānitvā. bhavāti kammabhavato. jātīti vipākakkhandhā. te hi yasmā jāyanti, tasmā “jātī”ti vuttā. jātisīsena vā ayaṃ desanā. etampi “iti viditvā”ti iminā yojetabbaṃ. ayañhi ettha attho “kammabhavato upapattibhavo hotīti evañca jānitvā”ti. bhūtassāti sattassa. jarāmaraṇanti jarā ca maraṇañca. idaṃ vuttaṃ hoti — tena upapattibhavena bhūtassa sattassa khandhānaṃ jarāmaraṇaṃ hotīti evañca jānitvāti.

[13] Nandī dukkhassa mūlaṃ [hỷ tham là căn bản của khổ đau]‘hỷ thamlà tham ái quá khứ, ‘đau khổ’ là ngũ uẩn, ‘căn bản’ là gốc rễ. ‘iti viditvā [đã biết như thế]’: do đã biết rằng hỷ lạc (sự thỏa thích, sự thèm khát) trong hữu quá khứ đó là căn bản của đau khổ hiện tại. ‘Hữu’: do nghiệp hữu. ‘Sanh’: những uẩn dị thục [thọ, tưởng, hành, thức]. Thật vậy, uẩn dị thục quả nào do sanh, nên được gọi là ‘sanh’. Hoặc lời giảng này đức Thế Tôn trình bày bằng cách nói đến sanh [sự sanh khởi của uẩn dị thục quả] làm tiêu đề. Vì như thế mới cần phải kết hợp với từ iti viditvā [vì đã biết]. Cũng trong từ này có lời giải thích sau: do đã biết như thế vì dục hữu [sự cố ý tạo nghiệp] mới có sanh hữu [upapattibhava]”. Bhūtassa: Của chúng sanh. Jarāmaraṇanti: sự già và sự chết. Lời giải thích như vầy: do đã biết rằng già và chết có cùng các uẩn của chúng sanh, người đã sanh ra do sanh hữu đó.

Ettāvatā yaṃ bodhirukkhamūle aparājitapallaṅke nisinno sammasitvā sabbaññutaṃ patto, tassa paṭiccasamuppādassa paṭivedhā maññanānaṃ abhāvakāraṇaṃ dassento catusaṅkhepaṃ tisandhiṃ tiyaddhaṃ vīsatākāraṃ tameva paṭiccasamuppādaṃ dasseti.

Đức Thế Tôn ngồi trên bảo tọa Aparājita dưới cội Bồ-đề quán chiếu về Lý Duyên Khởi [paṭiccasamuppāda] nào, chứng đạt Toàn giác trí do thấu triệt về Lý Duyên Khởi [paṭiccasamuppāda] đó. Khi thuyết giảng sự không có của sự tưởng tượng chấp thủ mới trình bày về Lý Duyên Khởi [paṭiccasamuppāda] đó bằng bốn phần tổng hợp [nhân quá khứ, quả hiện tại, nhân hiện tại, quả vị lai], sự tổng hợp có ba sự tiếp nối, sự tiếp nối có ba thời [quá khứ, hiện tại và vị lai] và trong ba thời có hai mươi biểu hiện.

Kathaṃ pana ettāvatā esa sabbo dassito hotīti. ettha hi nandīti ayaṃ eko saṅkhepo. Dukkhassāti vacanato dukkhaṃ dutiyo, bhavā jātīti vacanato bhavo tatiyo, jātijarāmaraṇaṃ catuttho. Evaṃ tāva cattāro saṅkhepā veditabbā, koṭṭhāsāti attho. taṇhādukkhānaṃ pana antaraṃ eko sandhi, dukkhassa ca bhavassa ca antaraṃ dutiyo, bhavassa ca jātiyā ca antaraṃ tatiyo. evaṃ catunnaṃ aṅgulīnaṃ antarasadisā catusaṅkhepantarā tayo sandhī veditabbā.

Toàn bộ Lý Duyên Khởi này được đức Thế Tôn trình bày chỉ bấy nhiêu là (có ý nghĩa) như thế nào? Ở đây, ‘hỷ tham là căn bản của đau khổ’ này có lời giải thích rằng từ ‘hỷ tham’ là sự tổng hợp thứ nhất; ‘khổ đau’ là sự tổng hợp thứ hai, do ‘đau khổ’ hữu là sự tổng hợp thứ ba; do ‘hữu sanh’ sanh, già và chết là sự tổng hợp thứ tư. Như vậy bốn sự tổng hợp chỉ bấy nhiêu như được giải thích. (sự tổng hợp) có nghĩa là gồm tất cả các phần. Giữa tham ái và đau khổ có một liên kết, giữa đau khổ và hữu có một liên kết thứ hai, và giữa hữu và sanh có một liên kết thứ ba. Nên biết ba liên kết giữa bốn phần tổng hợp, giống như có ba liên kết giữa bốn ngón tay. Trong Lý Duyên Khởi ấy hỷ lạc thuộc về thời quá khứ; sanh, già và chết thuộc về thời vị lai; đau khổ và hữu thuộc về thời hiện tại. Như vậy, nên biết ba thời như được giải thích.

Tattha nandīti atīto addhā, jātijarāmaraṇaṃ anāgato, dukkhañca bhavo ca paccuppannoti evaṃ tayo addhā veditabbā. atīte pana pañcasu ākāresu nandīvacanena taṇhā ekā āgatā, tāya anāgatāpi avijjāsaṅkhāraupādānabhavā paccayalakkhaṇena gahitāva honti. Jātijarāmaraṇavacanena pana yesaṃ khandhānaṃ tajjātijarāmaraṇaṃ, te vuttā yevāti katvā āyatiṃ viññāṇanāmarūpasaḷāyatanaphassavedanā gahitāva honti.

Trong quá khứ, trong năm biểu hiện với từ ‘hỷ lạc’ tham ái đã được đề cập, bốn  biểu hiện không đề cập đến là vô minh, hành, thủ và hữu được bao gồm cùng với ái bởi trạng thái làm duyên. Cụm từ ‘sanh, lão và tử’ với lý do được giải thích rằng uẩn nào có sanh, già và chết, thì uẩn đó đức Thế Tôn thuyết ngay trong thời vị lai về việc đã nắm lấy thức, danh sắc, sáu xứ, xúc và thọ hợp với nhau.

Evamete “purimakammabhavasmiṃ moho avijjā, āyūhanā saṅkhārā, nikanti taṇhā, upagamanaṃ upādānaṃ, cetanā bhavo iti ime pañca dhammā purimakammabhavasmiṃ idha paṭisandhiyā paccayā. idha paṭisandhi viññāṇaṃ, okkanti nāmarūpaṃ, pasādo āyatanaṃ, phuṭṭho phasso, vedayitaṃ vedanā iti ime pañca dhammā idhūpapattibhavasmiṃ purekatassa kammassa paccayā. Idha paripakkattā āyatanānaṃ moho avijjā, āyūhanā saṅkhārā, nikanti taṇhā, upagamanamupādānaṃ, cetanā bhavo iti ime pañca dhammā idha kammabhavasmiṃ āyatiṃ paṭisandhiyā paccayā. āyatiṃ paṭisandhi viññāṇaṃ, okkanti nāmarūpaṃ, pasādo āyatanaṃ, phuṭṭho phasso, vedayitaṃ vedanā iti ime pañca dhammā āyatiṃ upapattibhavasmiṃ idha katassa kammassa paccayā”ti evaṃ niddiṭṭhalakkhaṇā vīsati ākārā idha veditabbā. evaṃ “nandī dukkhassa mūlanti iti viditvā bhavā jāti, bhūtassa jarāmaraṇan”ti ettāvatā esa sabbopi catusaṅkhepo tisandhi tiyaddho vīsatākāro paṭiccasamuppādo dassito hotīti veditabbo.

Về sự hiện hữu ở nghiệp quá khứ có năm pháp này hiện diện ở nghiệp quá khứ gồm si là vô minh, sự tích lũy là các hành, sự tham vọng là ái, sự đạt đến là thủ, sự cố ý là hữu; là duyên cho sự tái sanh ở thời hiện tại. Trong thời hiện tại có năm pháp này hiện hữu trong sự sanh lên ở thời hiện tại gồm sự tái sanh là thức, sự đi vào là danh sắc, sắc thần kinh là xứ, hiện tượng [ākāra] được chạm đến là xúc, hiện tượng được cảm nhận là thọ; do duyên của nghiệp đã tạo trong quá khứ. Trong thời hiện tại các xứ đã chính mùi có năm pháp này hiện diện ở nghiệp hiện tại gồm: si là vô minh, sự tích lũy là các hành, sự tham vọng là ái, sự đạt đến là thủ, sự cố ý là hữu; là duyên cho sự tái sanh ở thời vị lai. Trong thời vị lai có năm pháp này hiện hữu trong sự sanh lên ở thời vị lai gồm sự tái sanh là thức, sự đi vào là danh sắc, sắc thần kinh là xứ, hiện tượng được chạm đến là xúc, hiện tượng được cảm nhận là thọ; là duyên của nghiệp đã tạo trong hiện tại. Như vậy, Lý Duyên Khởi có bốn phần tổng hợp, có ba sự tiếp nối, có ba thời và có hai mươi biểu hiện, toàn bộ được đức Thế Tôn thuyết chỉ bấy nhiêu “Ngài đã biết rằng hỷ tham là căn bản của đau khổ, và do duyên hữu, sanh (sanh khởi); do duyên sanh, già và chết (sanh khởi) đối với tất cả chúng sanh”.

Idāni tasmā tiha, bhikkhave … pe … abhisambuddhoti vadāmīti ettha apubbapadavaṇṇanaṃ katvā padayojanāya atthanigamanaṃ karissāma. tasmā tihāti tasmā icceva vuttaṃ hoti. tikārahakārā hi nipātā. sabbasoti anavasesavacanametaṃ. taṇhānanti nandīti evaṃ vuttānaṃ sabbataṇhānaṃ. khayāti lokuttaramaggena accantakkhayā. virāgādīni khayavevacanāneva. yā hi taṇhā khīṇā, virattāpi tā bhavanti niruddhāpi cattāpi paṭinissaṭṭhāpi. khayāti vā catumaggakiccasādhāraṇametaṃ. tato paṭhamamaggena virāgā, dutiyena nirodhā, tatiyena cāgā, catutthena paṭinissaggāti yojetabbaṃ. yāhi vā taṇhāhi pathaviṃ pathavito sañjāneyya, tāsaṃ khayā. yāhi pathaviṃ maññeyya, tāsaṃ virāgā. yāhi pathaviyā maññeyya, tāsaṃ nirodhā. yāhi pathavito maññeyya, tāsaṃ cāgā. yāhi pathaviṃ meti maññeyya, tāsaṃ paṭinissaggā. yāhi vā pathaviṃ maññeyya, tāsaṃ khayā … pe … yāhi pathaviṃ abhinandeyya, tāsaṃ paṭinissaggāti evamettha yojanā kātabbā, na kiñci virujjhati.

Ở đây, tôi sẽ thực hiện việc giải thích ý nghĩa theo thứ tự các câu trong câu sau: ‘do vậy, này các tỳ khưu, Ta nói rằngđã được hoàn toàn giác ngộ.’ rồi kết thúc bằng lời khuyên nhủ. tasmā tiha được giải thích rằng chính là tasmā [bởi vậy, vì thế].  bởi vì từ ‘ti’ và từ ‘ha’ là phân từ. ‘tất cả’ đây là từ nói đến ‘không còn dư sót’. Tất cả ái:  gồm tất cả ái được nói đến như vầy ‘hỷ tham’. Sự cạn kiệt: là sự diệt trừ hoàn toàn bằng đạo siêu thế. Ly tham: là từ đồng nghĩa với từ sự diệt trừ. Vì vậy, tham ái nào đã tận diệt thì tham ái đó trở thành không có ái luyến, đã được diệt, đã được từ bỏ, đã được buông bỏ. Hoặc ‘sự cạn kiệt’ đó là từ được sử dụng chung cho phận sự của bốn đạo. Do đó,  cần phải giải thích phối hợp ý nghĩa như sau: sự ly tham bởi Sơ đạo [Tu-đà-hoàn], sự diệt bởi Nhị đạo [Tư-đà-hàm], sự từ bỏ bởi cho Tam đạo [A-na-hàm] và sự dứt bỏ hoàn toàn bởi Tứ đạo [A-ra-hán]. Hoặc cần giải thích thêm ý nghĩa “sự cạn kiệt” đó như vầy, hạng phàm nhân có thể tưởng tượng đất là đất bằng tham ái nào, do sự diệt tận của tham ái đó; hạng phàm có thể phu tưởng tượng đất bằng tham ái nào, do đã ly tham tham ái đó; hạng phàm nhân có thể tưởng tượng đất bằng tham ái nào, do đã diệt tham ái đó; hạng phàm nhân có thể tưởng tượng đất bằng tham ái nào, do đã từ bỏ tham ái đó; hạng phàm nhân có thể tưởng tượng rằng đất của ta bằng tham ái nào, do đã từ bỏ hoàn toàn tham ái đó; Hoặc hạng phàm nhân tưởng tượng đất bằng tham ái nào, do sự cạn kiệt của tham ái đó;…; hạng phàm nhân có thể hoan hỷ đất với tham ái nào, do đã từ bỏ hoàn toàn tham ái đó. (cả 2 ý nghĩa đó) không có gì đối lập.

Anuttaranti uttaravirahitaṃ sabbaseṭṭhaṃ. sammāsambodhinti sammā sāmañca bodhiṃ. atha vā pasatthaṃ sundarañca bodhiṃ. bodhīti rukkhopi maggopi sabbaññutañāṇampi nibbānampi. “bodhirukkhamūle paṭhamābhisambuddho”ti (mahāva. 1; udā. 1) ca “antarā ca bodhiṃ antarā ca gayan”ti (mahāva. 11; ma. ni. 1.285) ca āgataṭṭhānehi rukkho bodhīti vuccati. “catūsu maggesu ñāṇan”ti (cūḷani. 121) āgataṭṭhāne maggo. “pappoti bodhiṃ varabhūrimedhaso”ti (dī. ni. 3.217) āgataṭṭhāne sabbaññutañāṇaṃ. “patvāna bodhiṃ amataṃ asaṅkhatan”ti āgataṭṭhāne nibbānaṃ. idha pana bhagavato arahattamaggañāṇaṃ adhippetaṃ. apare sabbaññutañāṇantipi vadanti.

Vô thượng: không có (người nào khác) cao cả hơn, là tối thượng hơn tất cả. Chánh đẳng Chánh giác: Giác ngộ chân chánh và tự mình. Lại nữa việc giác ngộ được bậc trí tán thán và tốt đẹp. Bodhi: ám chỉ đến cây Bồ-đề, hay đạo, hay Toàn giác trí, hay Niết Bàn. Trong câu sau cây được gọi là bodhi: “Lần đầu tiên giác ngộ dưới cội cây Bồ-đề” (mahāva. 1; udā. 1). và “giữa cây Bồ-đề và Gayā” (mahāva. 11; ma. ni. 1.285); Trong câu sau đạo được gọi là bodhi “trí trong bốn đạo” (cūḷani. 121); Trong câu sau Toàn giác trí được gọi là bodhi “Chứng được đạo Bồ-đề, có sự thông minh bao la cao quý” (dī. ni. 3.217); Trong đoạn văn sau bodhi được gọi là Niết Bàn: “Sau khi đã chứng đạo Bồ-đề, trạng thái bất tử, vô vi”. Ở đây, từ bodhi có ý muốn nói đến trí A-ra-hán đạo của đức Thế Tôn. Một số vị thầy nói rằng muốn đề cập đến Toàn giác trí.

Sāvakānaṃ arahattamaggo anuttarā bodhi hoti na hotīti. Na hoti. Kasmā? Asabbaguṇadāyakattā. Tesañhi kassaci arahattamaggo arahattaphalameva deti, kassaci tisso vijjā, kassaci cha abhiññā, kassaci catasso paṭisambhidā, kassaci sāvakapāramīñāṇaṃ. Paccekabuddhānampi paccekabodhiñāṇameva deti. Buddhānaṃ pana sabbaguṇasampattiṃ deti abhiseko viya rañño sabbalokissariyabhāvaṃ. Tasmā aññassa kassacipi anuttarā bodhi na hotīti.

A-ra-hán đạo mà chư Thánh thinh văn đã chứng có phải là giác ngộ vô thượng không? Không phải. Tại sao? Bởi vì không mang lại tất cả ân đức. Quả thật, đối với một số vị A-ra-hán đạo chỉ mang lại A-ra-hán quả mà thôi; đối với một số vị A-ra-hán đạo mang lại Tam minh; đối với một số vị A-ra-hán đạo mang lại lục thông; đối với một số vị A-ra-hán đạo mang lại tứ vô ngại giải; đối với một số vị A la hán đạo mang lại các ba-la-mật trí của hàng Thinh văn. Đối với chư Phật Độc Giác đạo trí mang lại tuệ giác của vị Phật Độc Giác. Nhưng đối với chư Phật toàn giác đạo trí mang lại sự thành tựu tất cả ân đức, giống như vị vua đã đăng quang trở thành người có quyền thế tối cao khắp quốc độ. Vì thế, Bồ-đề trí của bất cứ ai đi chăng nữa cũng không được xem là vô thượng giác ngộ.

Abhisambuddhoti abhiññāsi paṭivijjhi, patto adhigatoti vuttaṃ hoti. Iti vadāmīti iti vadāmi ācikkhāmi desemi paññapemi, paṭṭhapemi vivarāmi vibhajāmi uttānīkaromīti. tatrāyaṃ yojanā — tathāgatopi, bhikkhave … pe … pathaviṃ na maññati … pe … pathaviṃ nābhinandati. taṃ kissa hetu, nandī dukkhassa mūlaṃ, bhavā jāti, bhūtassa jarāmaraṇanti iti viditvāti. tattha iti viditvāti itikāro kāraṇattho. tena imassa paṭiccasamuppādassa viditattā paṭividdhattāti vuttaṃ hoti. kiñca bhiyyo — yasmā ca evamimaṃ paṭiccasamuppādaṃ viditvā tathāgatassa yā nandīti vuttataṇhā sabbappakārā, sā pahīnā, tāsañca tathāgato sabbaso taṇhānaṃ khayā … pe … anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho. tasmā pathaviṃ na maññati … pe … pathaviṃ nābhinandatīti vadāmīti evaṃ abhisambuddhattā na maññati nābhinandatīti vadāmīti vuttaṃ hoti.

Đã được giác ngộ: Đã thắng tri, đã thấu triệt, tức là đã đến, đã chứng ngộ. Ta nói: Ta nói, Ta chỉ dạy, Ta trình bày, Ta chỉ bảo, Ta chế định, Ta khai mở, Ta chia sẻ, Ta phân tích, Ta làm rõ. Nơi đây, cách lý giải thế này: Này các tỳ khưu, Như Lai không tưởng tượng đất… không hoan hỷ trong đất. Do duyên cớ nào? Bởi vì ngài đã biết rằng hỷ tham là căn bản của đau khổ; do hữu (làm duyên) sanh (sanh khởi); do sanh (làm duyên), già và chết (sanh khởi) đối với tất cả chúng sanh? … Hơn nữa, vì ngài đã biết Lý Duyên Khởi như vầy, tham ái được gọi là hỷ lạc đã được Như Lai từ bỏ mọi mặt, băng sự diệt tận tất cả ái, Như Lai đã hoàn toàn giác ngộ vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.; vì vậy ngài không tưởng tượng đất… không hoan hỷ trong đất. Như vậy, Do nhân đã hoàn toàn giác ngộ Ngài không tưởng tượng và không hoan hỷ.”

Atha vā yasmā “nandī dukkhassa mūlan”tiādinā nayena paṭiccasamuppādaṃ viditvā sabbaso taṇhā khayaṃ gatā, tasmā tiha, bhikkhave, tathāgato sabbaso taṇhānaṃ khayā … pe … abhisambuddhoti vadāmi. so evaṃ abhisambuddhattā pathaviṃ na maññati … pe … nābhinandatīti. yattha yattha hi yasmāti avatvā tasmāti vuccati, tattha tattha yasmāti ānetvā yojetabbaṃ, ayaṃ sāsanayutti. esa nayo sabbattha.

Hoặc toàn bộ tham ái đã đi đến cạn kiệt việc bởi Ngài đã hiểu bằng Lý Duyên Khởi theo cách thức ‘Hỷ tham là căn bản của đau khổ’. do vậy, này các tỳ khưu , ta nói rằng nhờ sự cạn kiệt tất cả tham ái, Như Lai đã hoàn toàn giác ngộ vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Do nhân duyên giác ngộ, Ngài không tưởng tượng đất … không hoan hỷ trong đất. Trong chỗ này đức Thế Tôn không thuyết yasmā [vì lý do nào] mà chỉ nói tasmā [vì lý do đó] thì ở chỗ đó cần đem từ yasmā đến phối hợp. Phương pháp này là phương pháp giảng giải phù hợp căn cơ người nghe [sāsana∙yutti]. Trong tất cả các câu có cách thức tương tự.

Idamavoca bhagavāti idaṃ nidānāvasānato pabhuti yāva abhisambuddhoti vadāmīti sakalasuttantaṃ bhagavā paresaṃ paññāya alabbhaṇeyyapatiṭṭhaṃ paramagambhīraṃ sabbaññutañāṇaṃ dassento ekena puthujjanavārena ekena sekkhavārena catūhi khīṇāsavavārehi dvīhi tathāgatavārehīti aṭṭhahi mahāvārehi ekamekasmiñca vāre pathavīādīhi catuvīsatiyā antaravārehi paṭimaṇḍetvā dvebhāṇavāraparimāṇāya tantiyā avoca.

Thế Tôn đã giảng như vậy: đức Thế Tôn thuyết giảng bằng Toàn giác trí vô thượng thâm sâu, không thể đạt được bằng trí tuệ của người khác (trí tuệ người khác không thể nhìn thấu), đã được trang hoàng bằng phần phàm nhân với một phần, bằng phần của bậc hữu học với một phần, phần của bậc lậu tận với 4 phần, và phần Như Lai với 2 phần, hợp thành sự trang hoàng với 8 phần chính và trong phần chính thì mỗi phần được trang hoàng với phần ở giữa (phần nhỏ) 24 phần như phần nói về địa giới, rồi thuyết toàn bộ bộ bài Kinh bắt đầu lúc kết thúc kể từ đầu (đất) cho đến kết thúc (Niết Bàn) bằng lời “yāva abhisambuddhoti vadāmi [Ta nói rằng (ta) đã hoàn toàn chứng ngộ]” với pháp học tổng cộng 2 bhāṇavāra [phần tụng].

Evaṃ vicitranayadesanāvilāsayuttaṃ panetaṃ suttaṃ karavikarudamañjunā kaṇṇasukhena paṇḍitajanahadayānaṃ amatābhisekasadisena brahmassarena bhāsamānassāpi. na te bhikkhū bhagavato bhāsitaṃ abhinandunti te pañcasatā bhikkhū idaṃ bhagavato vacanaṃ nānumodiṃsu. kasmā? aññāṇakena. te kira imassa suttassa atthaṃ na jāniṃsu, tasmā nābhinandiṃsu. tesañhi tasmiṃ samaye evaṃ vicitranayadesanāvilāsayuttampi etaṃ suttaṃ ghanaputhulena dussapaṭṭena mukhe bandhaṃ katvā purato ṭhapitamanuññabhojanaṃ viya ahosi. nanu ca bhagavā attanā desitaṃ dhammaṃ pare ñāpetuṃ kappasatasahassādhikāni cattāri asaṅkhyeyyāni pāramiyo pūretvā sabbaññutaṃ patto. so kasmā yathā te na jānanti, tathā desesīti. vuttamidaṃ imassa suttassa nikkhepavicāraṇāyaṃ eva “mānabhañjanatthaṃ sabbadhammamūlapariyāyanti desanaṃ ārabhī”ti, tasmā na yidha puna vattabbamatthi, evaṃ mānabhañjanatthaṃ desitañca panetaṃ suttaṃ sutvā te bhikkhū taṃyeva kira pathaviṃ diṭṭhigatikopi sañjānāti, sekkhopi arahāpi tathāgatopi sañjānāti. kinnāmidaṃ kathaṃ nāmidanti cintentā pubbe mayaṃ bhagavatā kathitaṃ yaṃkiñci khippameva jānāma, idāni panimassa mūlapariyāyassa antaṃ vā koṭiṃ vā na jānāma na passāma, aho buddhā nāma appameyyā atulāti uddhaṭadāṭhā viya sappā nimmadā hutvā buddhupaṭṭhānañca dhammassavanañca sakkaccaṃ āgamaṃsu.

Như vậy, đức Thế Tôn thuyết bài Kinh này bằng nhiều cách phong phú và lời dạy trang nhã, với giọng nói như âm thanh Phạm thiên, du dương như tiếng chim Karavika, như rót mật vào tâm người có trí với vị bất tử, làm êm tai. Các tỳ khưu đó không hoan hỷ trong lời dạy của Thế Tôn: 500 vị tỳ khưu ấy không hoan hỷ tín thọ lời dạy đức Thế Tôn. Tại sao không hoan hỷ? Bởi không hiểu, chư tỳ khưu đó không hiểu ý nghĩa của bài Kinh, vì thế chư vị không hân hoan. Thật vậy, vào lúc bấy giờ đức Thế Tôn thuyết kinh đó bằng nhiều cách phong phú và lời thuyết giảng trang nhã, giống như một người lấy một miếng vải dày buộc chặt miệng rồi lấy thức ăn ngon đặt trước mặt (không thể ăn được). Đức Thế Tôn đã tròn đủ ba-la-mật đến bốn a-tăng-kỳ và trăm ngàn đại kiếp, Ngài đã đạt đến quả vị Toàn giác cũng vì mục đích thuyết pháp cho người khác hiểu pháp mà Ngài thuyết giảng không phải chăng? Tại sao các tỳ khưu ấy không hiểu ý nghĩa lời thuyết giảng của ngài chỉ dạy? Lời giải đáp này đã được Ngài nêu ra trong phần giải thích  sơ lược bài Kinh: “đức Thế Tôn bắt đầu thuyết như vầy sabbadhammamūlapariyāyaṃ [pháp môn căn bản về tất cả các pháp] vì mục đích đập tan kiêu mạn của chúng tỳ khưu đó.” Do vậy, ở đây không cần nói lập lại. Sau khi nghe bài Kinh này được đức Thế Tôn thuyết giảng để đập tan sự kiêu mạn, chư tỳ khưu đó suy nghĩ hạng phàm nhân có tà kiến tưởng tượng đất. Vị hữu học, A-ra-hán và Như Lai thắng tri đất. Thứ này là gì? Thứ này như thế nào? Như vậy là người hết kiêu mạn giống như con rắn độc bị nhổ hết răng, với suy nghĩ rằng trước đây chúng ta có thể hiểu thấu đáo bất cứ điều gì đức Thế Tôn đã giảng dạy một cách chớp nhoáng. Nhưng bây giờ chúng ta không hiểu biết không thấy sự tận cùng hoặc nút thắt của ‘bài kinh Căn Bản Pháp Môn’ này. Ôi! thật vi diệu Chư Phật (có trí tuệ) mà không ai ước lường được (có trí tuệ không ai đo lường được). Vì vậy các tỳ khưu này cùng nhau đến hầu hạ Đức Phật và lắng nghe pháp với lòng tôn kính.

Tena kho pana samayena bhikkhū dhammasabhāyaṃ sannisinnā imaṃ kathaṃ samuṭṭhāpesuṃ “aho buddhānaṃ ānubhāvo, te nāma brāhmaṇapabbajitā tathā mānamadamattā bhagavatā mūlapariyāyadesanāya nihatamānā katā”ti, ayañcarahi tesaṃ bhikkhūnaṃ antarākathā vippakatā. atha bhagavā gandhakuṭiyā nikkhamitvā taṅkhaṇānurūpena pāṭihāriyena dhammasabhāyaṃ paññattavarabuddhāsane nisīditvā te bhikkhū āha — “kāya nuttha, bhikkhave, etarahi kathāya sannisinnā”ti. te tamatthaṃ bhagavato ārocesuṃ. bhagavā etadavoca — “na, bhikkhave, idāneva, pubbepi ahaṃ ime evaṃ mānapaggahitasire vicarante nihatamāne akāsin”ti. tato imissā aṭṭhuppattiyā idaṃ atītaṃ ānesi —

Sau đó không lâu các tỳ khưu cùng nhau ngồi hội họp trong giảng đường [Dhammasabhāyaṃ], bắt đầu câu chuyện sau đây: “Ôi, thật vi diệu, oai lực của chư Phật! Các tỳ khưu dòng bà-la-môn ấy đã say mê với sự say mê trong sự kiêu mạn, đã đập tan ngã mạn với sự thuyết giảng về Pháp Môn Căn Bản của đức Thế Tôn. và bây giờ chư Tỳ khưu ấy nói lời bàn tán. Sau đó đức Thế Tôn rời khỏi Hương thất, đến pháp đường ngồi sau khi ngồi trên Phật toạ đã được trải sẵn ở pháp đường [dhammasabhāyaṃ] đặc biệt thích hợp vào thời điểm đó (dành riêng cho đức Thế Tôn). Đức Thế Tôn đã nói với các tỳ khưu: “Này chư tỳ khưu, các ông đang bàn luận về vấn đề gì? Các vị ấy đã tường thuật vấn đề đó lên bậc đạo sư. Đức Thế Tôn đã nói như sau: “Này chư tỳ khưu, không phải chỉ lúc này, ngay cả trong thời quá khứ Như Lai đã làm cho các tỳ khưu quẩn quanh với ngã mạn, (những vị ấy) đã phá tan được sự kiêu mạn tương tự. Từ đó để đối chiếu vấn đề hiện tại, đức Thế Tôn kể lại câu chuyện sau đây trong quá khứ:

Bhūtapubbaṃ, bhikkhave, aññataro disāpāmokkho brāhmaṇo bārāṇasiyaṃ paṭivasati tiṇṇaṃ vedānaṃ pāragū sanighaṇṭukeṭubhānaṃ sākkharappabhedānaṃ itihāsapañcamānaṃ padako veyyākaraṇo lokāyatamahāpurisalakkhaṇesu anavayo, so pañcamattāni māṇavakasatāni mante vāceti. paṇḍitā māṇavakā bahuñca gaṇhanti lahuñca, suṭṭhu ca upadhārenti, gahitañca tesaṃ na vinassati. sopi brāhmaṇo ācariyamuṭṭhiṃ akatvā ghaṭe udakaṃ āsiñcanto viya sabbampi sippaṃ uggaṇhāpetvā te māṇavake etadavoca “ettakamidaṃ sippaṃ diṭṭhadhammasamparāyahitan”ti. te māṇavakā — “yaṃ amhākaṃ ācariyo jānāti, mayampi taṃ jānāma, mayampi dāni ācariyā evā”ti mānaṃ uppādetvā tato pabhuti ācariye agāravā nikkhittavattā vihariṃsu. ācariyo ñatvā “karissāmi nesaṃ mānaniggahan”ti cintesi. so ekadivasaṃ upaṭṭhānaṃ āgantvā vanditvā nisinne te māṇavake āha “tātā pañhaṃ pucchissāmi, kaccittha samatthā kathetun”ti. te “pucchatha ācariya, pucchatha ācariyā”ti sahasāva āhaṃsu, yathā taṃ sutamadamattā. ācariyo āha —

Này chư tỳ khưu, thuở xưa, một Bà-la-môn Disāpāmokkho cư trú ở Thành Bārāṇasī, là vị tinh thông ba tập Vệ Đà, cùng với về các từ vựng và nghi thức, luôn cả về âm từ với sự phân tích, về truyền thống là thứ năm, là nhà ngữ học, nhà văn phạm, tinh thông về thế gian luận và các tướng của bậc đại nhân, đang chỉ dạy các chú thuật cho năm trăm thanh niên Bà-la-môn. Những thanh niên đó là bậc trí thức, học nhiều, nhớ nhanh và chắc chắn, thanh niên ấy không quên những chú thuật đã được học. Vị Bà-la-môn ấy không dấu nghề như một số vị thầy giống thể rót nước vào chai, sau khi đã học xong toàn bộ, đã nói cùng thanh niên đó rằng: “Nghề này chỉ chừng ấy, cũng (có thể) mang lại nhiều lợi ích cả đời này lẫn đời sau.” Thanh niên Bà-la-môn khởi lên sự kiêu mạn: “Bất cứ điều gì thầy của chúng tôi biết, điều đó chúng tôi cũng biết. Bây giờ chúng ta cũng làm thầy được rồi.” Kể từ đó họ tỏ ra bất kính và xao lãng các bổn phận với thầy của mình. Sau khi biết được điều đó các thầy nghĩ rằng: “Ta sẽ phá tan kiêu mạn của họ.” Một hôm, khi các thanh niên đến phụng sự thầy, sau khi họ đãnh lễ và đã tìm chỗ ngồi, vị thầy nói rằng: “Này các trò, ta sẽ hỏi các trò một câu hỏi. Các trò có thể giải đáp được chăng?” Thanh niên Bà-la-môn ấy vội vàng đáp như kẻ say rượu trong sở học “Hỏi đi, thưa thầy! Hỏi đi, thưa thầy!”. Vị thầy hỏi rằng:

“Kālo ghasati bhūtāni, sabbāneva sahattanā.

Yo ca kālaghaso bhūto, sa bhūtapacaniṃ pacī”ti. (jā. 1.10.190) —

Vissajjetha tātā imaṃ pañhanti.

Te cintetvā ajānamānā tuṇhī ahesuṃ. ācariyo āha “alaṃ tātā gacchathajja, sve katheyyāthā”ti uyyojesi. te dasapi vīsatipi sampiṇḍitā hutvā na tassa pañhassa ādiṃ, na antamaddasaṃsu. āgantvā ācariyassa ārocesuṃ “na imassa pañhassa atthaṃ ājānāmā”ti. ācariyo tesaṃ niggahatthāya imaṃ gāthamabhāsi —

“Bahūni narasīsāni, lomasāni brahāni ca.

Gīvāsu paṭimukkāni, kocidevettha kaṇṇavā”ti. (jā. 1.10.191) —

Thời gian nuốt chửng tất cả chúng sanh, với cả chính nó; và kẻ nào có sự nuốt chửng thời gian là bản thể, kẻ ấy đã nung nấu (tham ái) sự nung nấu chúng sanh.” (jā. 1.10.190).

Rồi nói tiếp, này các trò, hãy trả lời câu hỏi đó. Các thanh niên đã suy nghĩ nhưng vẫn không biết (câu trả lời), tất cả đã ngồi im lặng. Vị thầy nói rằng: “Hôm nay đủ rồi! Hãy đi đi! Ngày mai các trò sẽ có thể giải đáp câu hỏi đó.” Các thanh niên ấy tụ lại thành nhóm 10 người, nhóm 20 người v.v, cùng nhau cố gắng giải đáp vấn đề, cũng không thể nhìn thấy điểm khởi đầu, mà cũng không thể nhìn thấy điểm kết thúc của vấn đề. Bọn họ đã đi đến vị giáo sư và nói rằng: “Chúng con không hiểu ý nghĩa của vấn đề này.” Để phá tân kiêu mạn của các thanh niên Bà-la-môn đó, vị thầy nói lên kệ ngôn sau:

Những cái đầu của loài người là có nhiều, có tóc mọc và to lớn, ở trên những cái cổ, nơi đây, (ngoại trừ ta) ai là người có lỗ tai? (jā. 1.10.191)

Gāthāyattho — bahūni narānaṃ sīsāni dissanti, sabbāni ca tāni lomasāni sabbāni ca mahantāni gīvāyameva ca ṭhapitāni, na tālaphalaṃ viya hatthena gahitāni, natthi tesaṃ imehi dhammehi nānākaraṇaṃ. ettha pana kocideva kaṇṇavāti attānaṃ sandhāyāha. kaṇṇavāti paññavā. kaṇṇacchiddaṃ pana na kassaci natthi, taṃ sutvā te māṇavakā maṅkubhūtā pattakkhandhā adhomukhā aṅguliyā bhūmiṃ vilikhantā tuṇhī ahesuṃ.

Ý nghĩa kệ ngôn những cái đầu của loài người là có nhiều hiện hữu và toàn bộ những cái đầu ấy cũng có tóc, tất cả là những cái đầu lớn nằm ở trên cổ, nhưng tay không với tới được, tương tự như trái thốt nốt. Do đó, cái đầu đó với cái đầu này không có nghĩa gì khác biệt. Nhưng trong trường hợp này vị thầy đã nói rằng ‘kocideva kaṇṇavā’ có ý muốn nói đến chính mình. Kocideva: không có trí tuệ. Ai là người không có tai (trí tuệ)? các thanh niên sau khi nghe kệ ngôn đó trở nên im lặng, xấu hổ, thụt vai, cúi mặt xuống, cào đất với các ngón tay.

Atha nesaṃ ahirikabhāvaṃ passitvā ācariyo “uggaṇhatha tātā pañhan”ti pañhaṃ vissajjesi. kāloti purebhattakālopi pacchābhattakālopīti evamādi. bhūtānīti sattādhivacanametaṃ. kālo hi bhūtānaṃ na cammamaṃsādīni khādati, apica kho nesaṃ āyuvaṇṇabalāni khepento yobbaññaṃ maddanto ārogyaṃ vināsento ghasati khādatīti vuccati. Sabbāneva sahattanāti evaṃ ghasanto ca na kiñci vajjeti, sabbāneva ghasati. na kevalañca bhūtāniyeva, apica kho sahattanā attānampi ghasati. purebhattakālo hi pacchābhattakālaṃ na pāpuṇāti. esa nayo pacchābhattakālādīsu. Yo ca kālaghaso bhūtoti khīṇāsavassetaṃ adhivacanaṃ. So hi āyatiṃ paṭisandhikālaṃ khepetvā khāditvā ṭhitattā “kālaghaso”ti vuccati. Sa bhūtapacaniṃ pacīti so yāyaṃ taṇhā apāyesu bhūte pacati, taṃ ñāṇagginā paci dayhi bhasmamakāsi, tena “bhūtapacaniṃ pacī”ti vuccati. “Pajanin”tipi pāṭho. janikaṃ nibbattikanti attho.

Kế đó khi thấy rằng họ đã hổ thẹn, vị thầy đã nói rằng: “Này các trò, hãy học lời giải thích cho vấn đề này.” Rồi giáo sư giải thích: Thời gian: thời gian bắt đầu như vầy, thời gian trước bữa ăn, thời gian sau bữa ăn. Loài sinh vật: đó là tên để gọi chúng sanh. Thời gian tìm kiếm nuốt hữu tình: Thời gian không ăn da và thịt v.v, tất cả của chúng sanh; nhưng trên thực tế thì (thời gian) được gọi là ăn nhai chúng sanh bằng sự cướp đi tuổi thọ, sắc đẹp và sức lực, bằng sự chinh phục tuổi trẻ, thời thanh xuân và sự khỏe mạnh bị tiêu hoại. Nuốt luôn cả chính nó: thời gian khi đang ăn sẽ không bỏ sót bất cứ cái gì, sẽ ăn hết tất cả, và thời gian không chỉ ăn tất cả chúng sanh ấy, mà còn ăn luôn cả chính nó, bằng thời gian trước bữa ăn (trôi qua) sẽ đến thời gian sau khi ăn (nữa) không thể quay trở lại được. Thời gian sau bữa ăn cũng theo cách thức này. Ai nuốt được thời gian là bản th: đây là tên gọi bậc lậu tận. Bậc lậu tận ấy được gọi là người ăn thời gian, bởi vì ngài đã ăn thời gian tục sanh [paṭisandhikāla] trong kiếp sống kế tiếp tương lai cho đến khi cạn kiệt sự sống. Kẻ ấy đã nung nấu (tham ái) sự nung nấu chúng sanh: tham ái này đây thiêu đốt tất cả chúng sanh trong các khổ cảnh. Bậc lậu tận đã thiêu hủy tham ái bằng lửa trí tuệ, (tức là) và đã làm cho chúng biến thành tro bụi. Do đó Ngài đã nói rằng: đã nung nấu sự nung nấu chúng sanh. Từ pacaniṃ [nung nấu] hay pajjaniṃ đều được. có nghĩa là sự sanh, sự sanh ra [xuất hiện].

Atha te māṇavakā dīpasahassālokena viya rattiṃ samavisamaṃ ācariyassa vissajjanena pañhassa atthaṃ pākaṭaṃ disvā “idāni mayaṃ yāvajīvaṃ guruvāsaṃ vasissāma, mahantā ete ācariyā nāma, mayañhi bahussutamānaṃ uppādetvā catuppadikagāthāyapi atthaṃ na jānāmā”ti nihatamānā pubbasadisameva ācariyassa vattappaṭipattiṃ katvā saggaparāyaṇā ahesuṃ.

Sau đó, các thanh niên Bà-la-môn sau khi thông suốt ý nghĩa của vấn đề hiện bày rõ ràng theo lời giảng giải của thầy, giống như một người nhìn thấy những chỗ bằng phẳng và chỗ lồi lõm trên đường đi vào ban đêm nhờ ánh sáng của một ngàn ngọn đèn. Các vị học trò nghĩ rằng: “Từ bây giờ chúng con sẽ sống dưới sự chỉ dạy của thầy, đến hết cuộc đời, vị thầy này thực sự vĩ đại thay! Chúng con khởi lên sự kiêu mạn do sở học đến nổi chúng con không biết ý nghĩa của một câu kệ chỉ bốn dòng.” (các thanh niên Bà-la-môn) đã đập tan ngã mạn, thực hành bổn phận thích đáng đối với thầy như họ đã làm trước đây và được sanh thiên giới trong đời sau.

Ahaṃ kho, bhikkhave, tena samayena tesaṃ ācariyo ahosiṃ, ime bhikkhū māṇavakā. Evaṃ pubbepāhaṃ ime evaṃ mānapaggahitasire vicarante nihatamāne akāsinti.

Này chư tỳ khưu, lúc bấy giờ Như Lai đã là vị thầy và những tỳ khưu kia là các thanh niên Bà-la-môn. Như vậy trong thời quá khứ Ta cũng đa làm cho những vị này phá tan sự ngã mạn.

Imañca jātakaṃ sutvā te bhikkhū pubbepi mayaṃ māneneva upahatāti bhiyyosomattāya nihatamānā hutvā attano upakārakakammaṭṭhānaparāyaṇā ahesuṃ.

Và sau khi nghe bổn sanh này chư tỳ khưu đã suy nghĩ rằng: trước đây chúng ta cũng đã bị chi phối bởi sự ngã mạn, để nhổ bỏ sự ngã mạn chư vị đã trở nên chăm chú nhiều hơn hướng đến các đề mục thiền định để trợ giúp chính mình.

Tato bhagavā ekaṃ samayaṃ janapada cārikaṃ caranto vesāliṃ patvā gotamake cetiye viharanto imesaṃ pañcasatānaṃ bhikkhūnaṃ ñāṇaparipākaṃ viditvā imaṃ gotamakasuttaṃ kathesi —

Về sau đức Thế Tôn trong lúc đi du hành qua các xứ sở đã đến thành đến Vesāli, ở nơi đó Thế Tôn trú tại bảo điện Gotamaka. Sau khi biết được năm trăm vị tỳ khưu có tuệ đã chín mùi Ngài đã thuyết giảng Kinh Gotama:

“abhiññāyāhaṃ, bhikkhave, dhammaṃ desemi no anabhiññāya, sanidānāhaṃ … pe … sappāṭihāriyāhaṃ, bhikkhave, dhammaṃ desemi no appāṭihāriyaṃ. tassa mayhaṃ, bhikkhave, abhiññāya dhammaṃ desayato … pe … no appāṭihāriyaṃ. karaṇīyo ovādo, karaṇīyā anusāsanī. alañca pana vo, bhikkhave, tuṭṭhiyā alaṃ attamanatāya alaṃ somanassāya. sammāsambuddho bhagavā, svākkhāto dhammo, suppaṭipanno saṅghoti. idamavoca bhagavā, imasmiñca pana veyyākaraṇasmiṃ bhaññamāne dasasahassilokadhātu akampitthā”ti (a. ni. 3.126)

Này chư Tỳ khưu, Ta thuyết giảng Giáo Pháp với sự biết rõ, không phải với sự không biết rõ. Ta thuyết Pháp có nhân duyên…Ta thuyết giảng Giáo Pháp có lợi ích giải thoát, không phải không có lợi ích giải thoát. Này chư tỳ khưu, trong khi Ta thuyết giảng Giáo Pháp với sự biết rõ, không phải với sự không biết rõ…không phải không có lợi ích giải thoát, lời giáo huấn của Ta nên được thực hành, lời chỉ dạy của Ta nên được thực hành. Hơn nữa, này các tỳ khưu, đối với các ngươi là vừa đủ để vui mừng, vừa đủ để hân hoan, vừa đủ để hài lòng rằng: “Đức Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, Giáo Pháp đã khéo được tuyên thuyết, Hội Chúng đã thực hành tốt đẹp.” Đức Thế Tôn đã thuyết bài Kinh này, và hơn nữa, trong khi bài giảng này đang được nói ra, mười ngàn thế giới đã rung động.”  (a. ni. 3.126).

Idañca suttaṃ sutvā te pañcasatā bhikkhū tasmiṃyevāsane saha paṭisambhidāhi arahattaṃ pāpuṇiṃsu, evāyaṃ desanā etasmiṃ ṭhāne niṭṭhamagamāsīti.

Năm trăm vị tỳ khưu sau khi nghe thuyết giảng bài Kinh này, đã chứng đắc A-ra-hán cùng với các Tuệ Phân Tích vào lúc kết thúc bài Kinh. Thời thuyết pháp đã kết thúc tại chỗ  đó với tính chất như vậy.

Giải Thích Phần Tathāgata Kết Thúc

Giải Thích Kinh Pháp Môn Căn Bản Kết Thúc.

[1] dha. pa. 53

[2] a. ni. 4.122

[3] a. ni. 3.66

[4] saṃ. ni. 1.187

[5] ma. ni. 1.1

[6] ma. ni. 1.398

[7] dī. ni. 1.445

[8] a. ni. 3.66

[9] a. ni. 1.219, 223

[10] a. ni. 5.169

[11] su. ni. 81

[12] saṃ. ni. 4.88

[13] ma. ni. 1.29

[14] udā. 11

[15] pāci. 657

[16] khu. pā. 7.12

[17] dha. pa. 181

[18] ma. ni. 1.241

[19] ma. ni. 1.339

[20] Saccikaṭṭhaparamattha = saccikaṭṭha + paramattha, saccikaṭṭha: bản chất thật sự diễn tiến cả trong Pháp Chế Định [sammutisacca] và cả Pháp Chân Đế [paramattha]. Còn bản chất tuyệt đối hay Pháp Chân Đế [paramattha] hoàn toàn là Pháp Siêu Lý.

[21] Cakkadhamma: tức là bốn pháp đưa đến sự tăng trưởng điều lợi ích

1- Paṭirūpadesavāsa: Cư trú ở trú xứ thích hợp, ở nơi có điều kiện làm thiện.

2- Sappurisūpassaya: Thân cận bậc Chân nhân, gần gũi với bậc hiền trí.

3- Attassammāpanidhi: Tự lập trường chân chánh, đặt mình theo lẽ chánh.

4- Pubbekatapuññatā: Đã từng tạo phước thiện trong quá khứ

[22] dī. ni. 1.447

[23] a. ni. 8.29

[24] pāci. 358

[25] dī. ni. 2.332

[26] ma. ni. 2.135

[27] ma. ni. 2.260

[28] saṃ. ni. 1.128

[29] a. ni. 7.9

[30] paṭi. 108

[31] dha. sa. 1

[32] Ma. mū. 105

[33] Vi. mahāvi. 1

[34]  jā. 2.19.4

[35] saṃ. ni. 4.121

[36] Saṃ 3.75 piṭṭhe

[37] su. ni. 183

[38] Điều đã được thấy

[39] Điều đã được nghe

[40] Điều đã được cảm giác

[41] Điều đã được nhận thức

[42] Syā. Dhanaputtadārajīvitapariccāganti

[43] Syā. Buddhacariyāya

[44] Dī 2.13 piṭṭhe. Uttarenamukho

[45] Sī. Āsabhiñca vācaṃ, Syā. āsabhi vācaṃ

[46] dī. ni. 2.31

[47] su. ni. 693

[48] Ka. nimmathanassa

[49] Sī, Syā, Ka. Padāletvā gato

[50] Syā. virjjitvā

[51] Sī, Syā. Nimittasaññaṃ, Ka. nimittaṃ saññaṃ, Khu 9. 44. Paīisambhidāmagge. passa

[52] Syā. Bhajitvā

[53] Ka. Samuṭṭhāpanalakkhaṇaṃ, aṃ-ṭṭha 1.83 piṭṭhe pasitabbaṃ

[54] Ka. Samucchedalakkhaṇaṃ

[55] Syā. Taduttayalakkhaṇaṃ

[56] saṃ. ni. 5.1090

[57] dha. sa. 616

[58] Sī, Ka. Vuttañcetaṃ

[59] a. ni. 4.24

[60] Sī. Apakkhalitaṃ

[61] a. ni. 4.23

[62] a. ni. 4.23

[63] Ka. Tulo

[64] Aṃ 1. 332 piṭṭhe

[65] Bhavagga: sanh hữu tột cùng, cao tột sanh hữu (HT Tịnh Sự)

[66] Si, Syā. Desanāvilāso ceva

[67] a. ni. 4.23