01c- CHƯƠNG 1 (tt)
Tạng Luật
Vinaya Pitaka
Đại Phẩm
Mahāvagga
Tỳ-khưu Indacanda Nguyệt Thiên dịch
__________________________________
I. CHƯƠNG TRỌNG YẾU (MAHĀKHANDHAKAṂ)(tt)
Tụng phẩm thứ tám
[101] Vào lúc bấy giờ, có năm thứ bệnh phát triển rộng khắp trong dân chúng xứ Magadha là: bệnh cùi (kuṭṭhaṃ), bệnh mụt nhọt (gaṇḍo), bệnh chàm (kilāso), bệnh lao phổi (soso), bệnh động kinh (apamāro). Những người mắc phải năm thứ bệnh đi đến gặp Jīvaka Komārabhacca và nói như vầy:
– Thưa thầy, tốt đẹp thay thầy hãy điều trị cho chúng tôi.
– Các ngài ơi, tôi có nhiều phận sự, có nhiều việc cần phải làm. Và tôi còn phải phục vụ đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha, các cung phi, và hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu nữa; tôi không thể điều trị (các ngài) được.
– Thưa thầy, tất cả tài sản hãy là của thầy và chúng tôi sẽ là đầy tớ của thầy. Tốt đẹp thay thầy hãy điều trị cho chúng tôi.
– Các ngài ơi, tôi có nhiều phận sự, có nhiều việc cần phải làm. Và tôi còn phải phục vụ đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha, các cung phi, và hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu nữa; tôi không thể điều trị (các ngài) được.
Khi ấy, những người dân ấy đã khởi ý điều này: “Những sa-môn Thích tử này có giới luật thoải mái, có sở hành thoải mái, sau khi thọ thực thức ăn ngon rồi nằm dài trên những cái giường kín gió, hay là chúng ta nên xuất gia nơi các sa-môn Thích tử? Trong trường hợp ấy, chính các vị tỳ khưu sẽ chăm sóc (chúng ta) và Jīvaka Komārabhacca sẽ điều trị.” Sau đó, những người dân ấy đã đi đến gặp các tỳ khưu và cầu xin sự xuất gia. Các tỳ khưu đã cho họ xuất gia, đã cho tu lên bậc trên. Và chính các tỳ khưu đã chăm sóc họ và Jīvaka Komārabhacca đã điều trị.
Vào lúc bấy giờ, trong lúc chăm sóc nhiều tỳ khưu bị bệnh các vị tỳ khưu sống có nhiều sự xin xỏ, có nhiều sự yêu cầu: “Hãy bố thí vật thực dành cho người bệnh, hãy bố thí vật thực dành cho người chăm sóc bệnh, hãy bố thí dược phẩm dành cho người bệnh.” Ngay cả Jīvaka Komārabhacca, trong lúc điều trị nhiều tỳ khưu bị bệnh, đã xao lãng phận sự nào đó đối với đức vua.
Và có người đàn ông nọ cũng mắc phải năm thứ bệnh đã đi đến gặp Jīvaka Komārabhacca và đã nói điều này:
– Thưa thầy, tốt đẹp thay thầy hãy điều trị cho tôi.
– Ngài ơi, tôi có nhiều phận sự, có nhiều việc cần phải làm. Và tôi còn phải phục vụ đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha, các cung phi, và hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu nữa; tôi không thể điều trị (ngài) được.
– Thưa thầy, tất cả tài sản hãy là của thầy và tôi sẽ là đầy tớ của thầy. Tốt đẹp thay thầy hãy điều trị cho tôi.
– Ngài ơi, tôi có nhiều phận sự, có nhiều việc cần phải làm. Và tôi còn phải phục vụ đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha, các cung phi, và hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu nữa; tôi không thể điều trị (ngài) được.
Khi ấy, người đàn ông ấy đã khởi ý điều này: “Những sa-môn Thích tử này có giới luật thoải mái, có sở hành thoải mái, sau khi thọ thực thức ăn ngon rồi nằm dài trên những cái giường kín gió, hay là ta nên xuất gia nơi các sa-môn Thích tử? Trong trường hợp ấy, chính các vị tỳ khưu sẽ chăm sóc (ta) và Jīvaka Komārabhacca sẽ điều trị, khi khỏi bệnh ta đây sẽ hoàn tục.” Sau đó, người đàn ông ấy đã đi đến gặp các tỳ khưu và cầu xin sự xuất gia. Các tỳ khưu đã cho người ấy xuất gia, đã cho tu lên bậc trên. Và chính các tỳ khưu đã chăm sóc người ấy và Jīvaka Komārabhacca đã điều trị. Người ấy khi khỏi bệnh đã hoàn tục. Jīvaka Komārabhacca đã nhìn thấy người đàn ông hoàn tục ấy, sau khi nhìn thấy đã nói với người đàn ông ấy điều này:
– Thưa ngài, có phải ngài đã xuất gia nơi các vị tỳ khưu không?
– Thưa thầy, đúng vậy.
– Thưa ngài, điều gì khiến ngài đã làm việc như thế?
Khi ấy, người đàn ông ấy đã kể lại sự việc ấy cho Jīvaka Komārabhacca. Jīvaka Komārabhacca phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Tại sao các đại đức lại cho người bị mắc phải năm thứ bệnh xuất gia?
Sau đó, Jīvaka Komārabhacca đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, Jīvaka Komārabhacca đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, tốt đẹp thay các ngài đại đức không cho người bị mắc phải năm thứ bệnh xuất gia.
Khi ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho Jīvaka Komārabhacca bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, Jīvaka Komārabhacca đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.
Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, không nên cho người bị mắc phải năm chứng bệnh xuất gia; vị nào cho xuất gia thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[102] Vào lúc bấy giờ, vùng biên địa của đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha bị (trộm cướp) dấy loạn. Khi ấy, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã ra lệnh cho các quan đại thần lãnh đạo quân đội rằng:
– Này các khanh, hãy đi và thâu hồi lại vùng biên địa.
– Tâu bệ hạ, xin vâng. Các quan đại thần lãnh đạo quân đội đã đáp lại đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha.
Khi ấy, các chiến sĩ danh tiếng lẫy lừng đã khởi ý điều này: “Là những người say mê chiến trận, chúng ta tạo nghiệp ác và gây ra nhiều điều bất thiện trong khi đi (đánh trận). Với phương kế gì chúng ta có thể tránh được việc ác và thực hiện điều tốt đẹp?” Khi ấy, các chiến sĩ ấy đã khởi ý điều này: “Những vị sa-môn Thích tử này là những vị thực hành Giáo Pháp, thực hành sự bình thản, thực hành Phạm hạnh, nói lời chân thật, có giới hạnh, có thiện pháp, nếu chúng ta có thể xuất gia nơi các vị sa-môn Thích tử, như vậy chúng ta có thể tránh được việc ác và thực hiện điều tốt đẹp.” Sau đó, các chiến sĩ ấy đã đi đến gặp các tỳ khưu và cầu xin sự xuất gia. Các tỳ khưu đã cho họ xuất gia, đã cho tu lên bậc trên. Các quan đại thần lãnh đạo quân đội đã hỏi các binh sĩ của đức vua rằng:
– Này các khanh, sao các chiến sĩ tên (như vầy) và tên (như vầy) lại không hiện diện?
– Thưa tướng quân, các chiến sĩ tên (như vầy) và tên (như vầy) đã xuất gia nơi các vị tỳ khưu.
Các quan đại thần lãnh đạo quân đội phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Tại sao các sa-môn Thích tử lại cho binh sĩ của đức vua xuất gia?
Các quan đại thần lãnh đạo quân đội đã trình sự việc ấy lên đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha. Khi ấy, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã hỏi các quan đại thần phụ trách tòa án rằng:
– Này các khanh, người cho binh sĩ của đức vua xuất gia phạm vào điều gì?
– Tâu bệ hạ, đầu của thầy tế độ nên bị chặt đi, lưỡi của vị đọc tuyên ngôn nên bị rút ra, một phần xương sườn của nhóm (các vị chứng minh) nên bị bẻ gãy.
Sau đó, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, có những vị vua không có đức tin, không có tín ngưỡng, những vị ấy có thể hãm hại các tỳ khưu chỉ vì chuyện không đáng gì. Bạch ngài, tốt đẹp thay các ngài đại đức không cho binh sĩ của đức vua xuất gia.
Khi ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.
Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, không nên cho binh sĩ của đức vua xuất gia; vị nào cho xuất gia thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[103] Vào lúc bấy giờ, kẻ cướp có mang chuỗi ngón tay[1] đã được xuất gia ở nơi các tỳ khưu. Dân chúng khi nhìn thấy trở nên sợ hãi, hoảng hốt, bỏ chạy, rẽ sang hướng khác, quay mặt chỗ khác, đóng cửa lại. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Tại sao các sa-môn Thích tử lại cho kẻ cướp có mang biểu tượng xuất gia?
Các tỳ khưu đã nghe được dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên cho kẻ cướp có mang biểu tượng xuất gia; vị nào cho xuất gia thì phạm tội dukkaṭa (tác ác)
[104] Vào lúc bấy giờ, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã ra thông báo rằng: “Không được phép làm bất cứ điều gì đến những người đã xuất gia nơi các vị sa-môn Thích tử. Giáo Pháp đã được khéo thuyết giảng, hãy để các vị thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn ngõ hầu chấm dứt khổ đau.”
Vào lúc bấy giờ, có người đàn ông nọ sau khi thực hiện vụ trộm đã bị giam trong ngục. Người ấy đã phá ngục tẩu thoát và đã được xuất gia ở nơi các tỳ khưu. Dân chúng sau khi nhìn thấy đã nói như vầy:
– Chính người này là kẻ cướp phá ngục, chúng ta hãy dẫn gã ấy đi đi.
Một số người đã nói như vầy:
– Này các ngài, chớ có nói như thế. Đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã ra thông báo rằng: “Không được phép làm bất cứ điều gì đến những người đã xuất gia nơi các vị sa-môn Thích tử. Giáo Pháp đã được khéo thuyết giảng, hãy để các vị thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn ngõ hầu chấm dứt khổ đau.”
Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Các vị sa-môn Thích tử này được an toàn và bảo đảm rồi vì không được phép làm bất cứ điều gì đến các vị này! Nhưng tại sao các sa-môn Thích tử lại cho kẻ cướp phá ngục xuất gia?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên cho kẻ cướp phá ngục xuất gia; vị nào cho xuất gia thì phạm tội dukkaṭa (tác ác)
[105] Vào lúc bấy giờ, có người đàn ông nọ sau khi thực hiện vụ trộm đã tẩu thoát và đã được xuất gia ở nơi các tỳ khưu. Người ấy đã bị cáo thị tầm nã ở hoàng cung rằng: “Được nhìn thấy tại đâu thì được giết tại đấy.” Dân chúng sau khi nhìn thấy đã nói như vầy:
– Chính người này là kẻ cướp bị cáo thị tầm nã, chúng ta hãy giết gã ấy đi.
Một số người đã nói như vầy:
– Này các ngài, chớ có nói như thế. Đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã ra thông báo rằng: “Không được phép làm bất cứ điều gì đến những người đã xuất gia nơi các vị sa-môn Thích tử. Giáo Pháp đã được khéo thuyết giảng, hãy để các vị thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn ngõ hầu chấm dứt khổ đau.”
Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Các vị sa-môn Thích tử này được an toàn và bảo đảm rồi vì không được phép làm bất cứ điều gì đến các vị này! Nhưng tại sao các sa-môn Thích tử lại cho kẻ cướp bị cáo thị tầm nã xuất gia?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên cho kẻ cướp bị cáo thị tầm nã xuất gia; vị nào cho xuất gia thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[106] Vào lúc bấy giờ, có người đàn ông nọ bị hành phạt đánh bằng roi đã được xuất gia ở nơi các tỳ khưu. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Tại sao các sa-môn Thích tử lại cho kẻ bị hành phạt đánh bằng roi xuất gia?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên cho kẻ bị hành phạt đánh bằng roi xuất gia; vị nào cho xuất gia thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[107] Vào lúc bấy giờ, có người đàn ông nọ bị hành phạt đóng dấu đã được xuất gia ở nơi các tỳ khưu. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Tại sao các sa-môn Thích tử lại cho kẻ bị hành phạt đóng dấu xuất gia?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên cho kẻ bị hành phạt đóng dấu xuất gia; vị nào cho xuất gia thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[108] Vào lúc bấy giờ, có người đàn ông nọ là kẻ thiếu nợ đã bỏ trốn và đã được xuất gia ở nơi các tỳ khưu. Những người chủ nợ đã nhìn thấy và nói như vầy:
– Chính người này là kẻ thiếu nợ của chúng ta, chúng ta hãy dẫn gã ấy đi đi.
Một số người đã nói như vầy:
– Này các ngài, chớ có nói như thế. Đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã ra thông báo rằng: “Không được phép làm bất cứ điều gì đến những người đã xuất gia nơi các vị sa-môn Thích tử. Giáo Pháp đã được khéo thuyết giảng, hãy để các vị thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn ngõ hầu chấm dứt khổ đau.”
Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Các vị sa-môn Thích tử này được an toàn và bảo đảm rồi vì không được phép làm bất cứ điều gì đến các vị này! Nhưng tại sao các sa-môn Thích tử lại cho kẻ thiếu nợ xuất gia?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên cho kẻ thiếu nợ xuất gia; vị nào cho xuất gia thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[109] Vào lúc bấy giờ, có người nô tỳ nọ đã bỏ trốn và đã được xuất gia ở nơi các tỳ khưu. Những người chủ đã nhìn thấy và nói như vầy:
– Chính người này là kẻ nô tỳ của chúng ta, chúng ta hãy dẫn gã ấy đi đi.
Một số người đã nói như vầy:
– Này các ngài, chớ có nói như thế. Đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã ra thông báo rằng: “Không được phép làm bất cứ điều gì đến những người đã xuất gia nơi các vị sa-môn Thích tử. Giáo Pháp đã được khéo thuyết giảng, hãy để các vị thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn ngõ hầu chấm dứt khổ đau.”
Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Các vị sa-môn Thích tử này được an toàn và bảo đảm rồi vì không được phép làm bất cứ điều gì đến các vị này! Nhưng tại sao các sa-môn Thích tử lại cho kẻ nô tỳ xuất gia?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên cho kẻ nô tỳ xuất gia; vị nào cho xuất gia thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[110] Vào lúc bấy giờ, có người thợ bạc nọ bị sói đầu sau khi cãi vả với cha mẹ đã đi đến tu viện và đã được xuất gia ở nơi các tỳ khưu. Sau đó, cha mẹ của người thợ bạc bị sói đầu ấy, trong khi tìm kiếm người thợ bạc bị sói đầu ấy, đã đi đến tu viện và đã hỏi các tỳ khưu rằng:
– Thưa các ngài, vậy chớ các ngài có nhìn thấy người trai trẻ hình dáng như thế này không?
Các vị tỳ khưu không biết đã nói rằng:
– Chúng tôi không biết.
Các vị tỳ khưu không nhìn thấy đã nói rằng:
– Chúng tôi không nhìn thấy.
Sau đó, cha mẹ của người thợ bạc bị sói đầu ấy, trong lúc tìm kiếm người thợ bạc bị sói đầu ấy, nhìn thấy (người ấy) đã được xuất gia ở nơi các tỳ khưu nên phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Những sa-môn Thích tử này thật vô liêm sỉ, giới hạnh xấu xa, là những kẻ nói láo trong khi biết lại nói rằng: “Chúng tôi không biết,” trong khi nhìn thấy lại nói rằng: “Chúng tôi không nhìn thấy.” Người người trai trẻ này đã được xuất gia ở nơi các tỳ khưu.
Các tỳ khưu đã nghe được cha mẹ của người thợ bạc bị sói đầu ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép thông báo đến hội chúng về việc cạo tóc (bhaṇḍukamma).
[111] Vào lúc bấy giờ, trong thành Rājagaha có nhóm mười bảy thiếu niên là bạn bè. Thiếu niên Upāli là thủ lãnh của họ.
Khi ấy, cha mẹ của Upāli đã khởi ý điều này: “Có phương kế gì để sau khi chúng ta từ trần, Upāli có thể sống thoải mái và không bị cực nhọc?” Rồi cha mẹ của Upāli đã khởi ý điều này: “Nếu Upāli có thể học chữ viết, như thế sau khi chúng ta từ trần Upāli có thể sống thoải mái và không bị cực nhọc.” Rồi cha mẹ của Upāli đã khởi ý điều này: “Nếu Upāli học chữ viết thì các ngón tay sẽ bị đau.” Rồi cha mẹ của Upāli đã khởi ý điều này: “Nếu Upāli có thể học tính toán, như thế sau khi chúng ta từ trần Upāli có thể sống thoải mái và không bị cực nhọc.” Rồi cha mẹ của Upāli đã khởi ý điều này: “Nếu Upāli học tính toán thì ngực sẽ bị đau. Nếu Upāli có thể học hội họa, như thế sau khi chúng ta từ trần Upāli có thể sống thoải mái và không bị cực nhọc.” Rồi cha mẹ của Upāli đã khởi ý điều này: “Nếu Upāli học hội họa thì các con mắt sẽ bị đau. Còn những sa-môn Thích tử này có giới luật thoải mái, có sở hành thoải mái, sau khi thọ thực thức ăn ngon rồi nằm dài trên những cái giường kín gió, nếu Upāli có thể xuất gia nơi các vị sa-môn Thích tử, như thế sau khi chúng ta từ trần Upāli có thể sống thoải mái và không bị cực nhọc.”
Thiếu niên Upāli đã nghe được cuộc nói chuyện trao đổi ấy của cha mẹ. Sau đó, thiếu niên Upāli đã đi đến gặp những thiếu niên ấy, sau khi đến đã nói với những thiếu niên ấy điều này:
– Này các bạn, hãy đi. Chúng ta sẽ xuất gia nơi các vị sa-môn Thích tử.
– Này bạn, nếu bạn sẽ xuất gia, như thế chúng tôi cũng sẽ xuất gia.
Sau đó, những thiếu niên ấy đã đi đến gặp cha mẹ của mỗi một người và đã nói điều này:
– Hãy cho phép con rời nhà xuất gia sống không nhà.
Khi ấy, cha mẹ của những thiếu niên ấy (nghĩ rằng): “Tất cả những đứa trẻ này có ước muốn giống nhau, có ý định tốt đẹp” nên đã chấp thuận. Chúng đã đi đến gặp các tỳ khưu và cầu xin sự xuất gia. Các tỳ khưu đã cho chúng xuất gia, đã cho tu lên bậc trên. Những thiếu niên ấy sau khi thức dậy vào lúc hừng sáng của đêm đã khóc lóc:
– Hãy cho cháo, hãy cho thức ăn, hãy cho vật nhai.
Các tỳ khưu đã nói như vầy:
– Này các sư đệ, hãy chờ đến khi trời sáng, nếu có cháo thì các đệ sẽ húp cháo, nếu có thức ăn thì các đệ sẽ ăn, nếu có vật nhai thì các đệ sẽ nhai; còn nếu không có cháo, hoặc thức ăn, hoặc vật nhai, thì các đệ sẽ ăn sau khi đi khất thực.
Trong khi được nói như thế bởi các tỳ khưu, các tỳ khưu (thiếu niên) ấy vẫn khóc lóc:
– Hãy cho cháo, hãy cho thức ăn, hãy cho vật nhai.
Rồi chúng đã đại điện tiểu tiện ở chỗ nằm ngồi.
Đức Thế Tôn sau khi thức dậy vào lúc hừng sáng của đêm đã nghe tiếng của các đứa trẻ, sau khi nghe đã bảo đại đức Ānanda rằng:
– Này Ānanda, tiếng của các đứa trẻ ấy là gì vậy?
Khi ấy, đại đức Ānanda đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu khi biết được vẫn cho tu lên bậc trên người chưa đến hai mươi tuổi, có đúng không vậy?
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
– Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại ấy khi biết được vẫn cho tu lên bậc trên người chưa đến hai mươi tuổi? Này các tỳ khưu, người chưa đến hai mươi tuổi không có khả năng chịu đựng sự lạnh, sự nóng, sự đói, sự khát, các sự xúc chạm bởi ruồi, muỗi, gió, nắng, và các loài bò sát, các lối nói lăng mạ, công kích, (chúng) có khuynh hướng không cam chịu các cảm thọ khổ, nhức nhối, khốc liệt, sắc bén, gay gắt, không chút thích thú, khó chịu, chết người thuộc về cơ thể đã sanh khởi. Này các tỳ khưu, người đã được hai mươi tuổi có khả năng chịu đựng sự lạnh, sự nóng, sự đói, sự khát, các sự xúc chạm bởi ruồi, muỗi, gió, nắng, và các loài bò sát, các lối nói lăng mạ, công kích, (chúng) có khuynh hướng cam chịu các cảm thọ khổ, nhức nhối, khốc liệt, sắc bén, gay gắt, không chút thích thú, khó chịu, chết người thuộc về cơ thể đã sanh khởi. Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, người chưa đến hai mươi tuổi khi biết được không nên cho tu lên bậc trên; vị nào cho tu lên bậc trên thì nên được hành xử theo Pháp.[2]
[112] Vào lúc bấy giờ, có gia đình nọ đã bị chết bởi bịnh dịch hạch (ahivātaka). Người cha và người con trai của gia đình ấy là (những người) còn sót lại. Họ đã xuất gia ở nơi các tỳ khưu rồi cùng nhau đi khất thực. Khi ấy, lúc đồ ăn khất thực được bố thí đến người cha, đứa trẻ ấy đã chạy lại gần và nói điều này:
– Cha yêu quý, hãy cho con với. Cha yêu quý, hãy cho con với.
Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Những sa-môn Thích tử này không có Phạm hạnh. Đứa trẻ này đã được sanh ra bởi tỳ khưu ni.
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, đứa trẻ dưới mười lăm tuổi không nên cho xuất gia; vị nào cho xuất gia thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[113] Vào lúc bấy giờ, gia đình hộ độ có đức tin có tín ngưỡng của đại đức Ānanda đã bị chết bởi bịnh dịch hạch. Và có hai đứa trẻ trai là (những người) còn sót lại. Khi nhìn thấy các vị tỳ khưu, chúng theo thói quen được phép trước đây đã chạy đến gần. Các tỳ khưu đã đuổi (chúng) đi. Trong khi bị các vị tỳ khưu đuổi đi, chúng đã khóc. Khi ấy, đại đức Ānanda đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Đứa trẻ dưới mười lăm tuổi không nên cho xuất gia’ và những đứa trẻ này dưới mười lăm tuổi, vậy bằng phương cách gì để những đứa trẻ này không thể bị tiêu hoại đây?” Sau đó, đại đức Ānanda đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này Ānanda, những đứa trẻ ấy có khả năng để đuổi các con quạ bay đi không?
– Bạch Thế Tôn, chúng có khả năng.
Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, ta cho phép xuất gia đứa trẻ dưới mười lăm tuổi là trẻ (có thể) đuổi được quạ.
[114] Vào lúc bấy giờ, đại đức Upananda con trai dòng Sākya có hai sa di là Kaṇṭaka và Mahaka. Chúng đã làm điều tồi bại với nhau (aññamaññaṃ dūsesuṃ). Các vị tỳ khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Vì sao các sa di lại thực hành điều sai trái có hình thức như thế ấy?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, một vị không nên để cho hai sa di phục vụ; vị nào để cho phục vụ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[115] Vào lúc bấy giờ, đức Thế Tôn đã sống mùa mưa ở ngay tại nơi ấy trong thành Rājagaha, đã sống mùa lạnh ở ngay tại nơi ấy, đã sống mùa nóng ở ngay tại nơi ấy. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Các hướng đi của các sa-môn Thích tử bị tắt nghẽn, tăm tối. Các hướng đi không còn được các vị này nhận ra nữa.
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo đại đức Ānanda rằng:
– Này Ānanda, hãy đi, cầm lấy chìa khóa, và thông báo cho các vị tỳ khưu ở dãy phòng rằng: “Này các đại đức, đức Thế Tôn muốn ra đi du hành ở Dakkhiṇāgiri.[3] Đại đức nào có ý thích thì hãy đi.”
– Bạch Thế Tôn, xin vâng.
Rồi đại đức Ānanda nghe theo đức Thế Tôn đã cầm lấy chìa khóa và thông báo cho các vị tỳ khưu ở dãy phòng rằng:
– Này các đại đức, đức Thế Tôn muốn ra đi du hành ở Dakkhiṇāgiri. Đại đức nào có ý thích thì hãy đi.
Các vị tỳ khưu đã nói như vầy:
– Này đại đức Ānanda, đức Thế Tôn đã quy định là sống nương nhờ mười năm, vị mười năm được cho nương nhờ. Và (nếu) chúng tôi đi nơi ấy thì sự nương nhờ sẽ cần được xác định (ở nơi ấy), vả lại việc cư trú sẽ là ngắn ngủi và sẽ quay trở về lại, rồi sự nương nhờ sẽ cần được xác định lại; nếu các thầy tế độ và thầy dạy học của chúng tôi sẽ đi thì chúng tôi cũng sẽ đi, nếu các thầy tế độ và thầy dạy học của chúng tôi sẽ không đi thì chúng tôi cũng sẽ không đi. Này đại đức Ānanda, tâm tư nhẹ nhàng là điều sẽ được nhận biết ở chúng tôi.
Sau đó, đức Thế Tôn đã ra đi du hành đến Dakkhiṇāgiri với nhóm chỉ có một số ít. Sau đó, khi đã ngự tại Dakkhiṇāgiri theo như ý thích, đức Thế Tôn đã quay trở về lại thành Rājagaha. Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo đại đức Ānanda rằng:
– Này Ānanda, vì sao Như lai đã ra đi du hành đến Dakkhiṇāgiri với hội chúng tỳ khưu là nhóm chỉ có một số ít?
Khi ấy, đại đức Ānanda đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu kinh nghiệm đủ khả năng sống nương nhờ năm năm, vị không có kinh nghiệm thì trọn đời.
[116] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện không nên sống không nương nhờ: Là vị không thành tựu vô học giới uẩn, không thành tựu vô học định uẩn, không thành tựu vô học tuệ uẩn, không thành tựu vô học giải thoát uẩn, không thành tựu vô học giải thoát tri kiến uẩn. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này không nên sống không nương nhờ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện được sống không nương nhờ: Là vị thành tựu vô học giới uẩn, thành tựu vô học định uẩn, thành tựu vô học tuệ uẩn, thành tựu vô học giải thoát uẩn, thành tựu vô học giải thoát tri kiến uẩn. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này được sống không nương nhờ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa không nên sống không nương nhờ: Là vị không có đức tin, không có sự hổ thẹn (tội lỗi), không có sự ghê sợ (tội lỗi), biếng nhác, niệm bị quên lãng. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này không nên sống không nương nhờ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa được sống không nương nhờ: Là vị có đức tin, có sự hổ thẹn (tội lỗi), có sự ghê sợ (tội lỗi), nỗ lực tinh tấn, niệm được thiết lập. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này được sống không nương nhờ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa không nên sống không nương nhờ: Là vị bị hư hỏng về giới thuộc tăng thượng giới, bị hư hỏng về hạnh kiểm thuộc tăng thượng hạnh, bị hư hỏng về bị hư hỏng về tri kiến thuộc tri kiến sái quấy, ít học hỏi, trí kém. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này không nên sống không nương nhờ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa được sống không nương nhờ: Là vị không bị hư hỏng về giới thuộc tăng thượng giới, không bị hư hỏng về hạnh kiểm thuộc tăng thượng hạnh, không bị hư hỏng về tri kiến thuộc tri kiến sái quấy, nghe nhiều, có trí tuệ. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này được sống không nương nhờ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa không nên sống không nương nhờ: Là vị không biết về sự phạm tội, không biết về sự không phạm tội, không biết về sự phạm tội nhẹ, không biết về sự phạm tội nặng, không được khéo truyền thừa hai bộ giới bổn Pātimokkha một cách chi tiết, không khéo phân tích, không khéo thực hành, không khéo xác định theo từng điều hoặc từng phần phụ thuộc. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này không nên sống không nương nhờ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa được sống không nương nhờ: Là vị biết về sự phạm tội, biết về sự không phạm tội, biết về sự phạm tội nhẹ, biết về sự phạm tội nặng, được khéo truyền thừa hai bộ giới bổn Pātimokkha một cách chi tiết, khéo phân tích, khéo thực hành, khéo xác định theo từng điều hoặc từng phần phụ thuộc. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này được sống không nương nhờ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa không nên sống không nương nhờ: Là vị không biết về sự phạm tội, không biết về sự không phạm tội, không biết về sự phạm tội nhẹ, không biết về sự phạm tội nặng, chưa đủ năm năm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này không nên sống không nương nhờ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa được sống không nương nhờ: Là vị biết về sự phạm tội, biết về sự không phạm tội, biết về sự phạm tội nhẹ, biết về sự phạm tội nặng, được năm năm hoặc hơn năm năm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này được sống không nương nhờ.
[117] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện này không nên sống không nương nhờ: Là vị không thành tựu vô học giới uẩn, không thành tựu vô học định uẩn, không thành tựu vô học tuệ uẩn, không thành tựu vô học giải thoát uẩn, không thành tựu vô học giải thoát tri kiến uẩn, chưa đủ năm năm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện này không nên sống không nương nhờ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện này được sống không nương nhờ: Là vị thành tựu vô học giới uẩn, thành tựu vô học định uẩn, thành tựu vô học tuệ uẩn, thành tựu vô học giải thoát uẩn, thành tựu vô học giải thoát tri kiến uẩn, được năm năm hoặc hơn năm năm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện này được sống không nương nhờ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện khác nữa không nên sống không nương nhờ: Là vị không có đức tin, không có sự hổ thẹn (tội lỗi), không có sự ghê sợ (tội lỗi), biếng nhác, niệm bị quên lãng, chưa đủ năm năm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện này không nên sống không nương nhờ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện khác nữa được sống không nương nhờ: Là vị có đức tin, có sự hổ thẹn (tội lỗi), có sự ghê sợ (tội lỗi), nỗ lực tinh tấn, niệm được thiết lập, được năm năm hoặc hơn năm năm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện này được sống không nương nhờ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện khác nữa không nên sống không nương nhờ: Là vị bị hư hỏng về giới thuộc tăng thượng giới, bị hư hỏng về hạnh kiểm thuộc tăng thượng hạnh, bị hư hỏng về tri kiến thuộc tri kiến sái quấy, ít học hỏi, trí kém, chưa đủ năm năm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện này không nên sống không nương nhờ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện khác nữa được sống không nương nhờ: Là vị không bị hư hỏng về giới thuộc tăng thượng giới, không bị hư hỏng về hạnh kiểm thuộc tăng thượng hạnh, không bị hư hỏng về tri kiến thuộc tri kiến sái quấy, nghe nhiều, có trí tuệ, được năm năm hoặc hơn năm năm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện này được sống không nương nhờ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện khác nữa không nên sống không nương nhờ: Là vị không biết về sự phạm tội, không biết về sự không phạm tội, không biết về sự phạm tội nhẹ, không biết về sự phạm tội nặng, không được khéo truyền thừa hai bộ giới bổn Pātimokkha một cách chi tiết, không khéo phân tích, không khéo thực hành, không khéo xác định theo từng điều hoặc từng phần phụ thuộc, chưa đủ năm năm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện này không nên sống không nương nhờ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện khác nữa được sống không nương nhờ: Là vị biết về sự phạm tội, biết về sự không phạm tội, biết về sự phạm tội nhẹ, biết về sự phạm tội nặng, được khéo truyền thừa hai bộ giới bổn Pātimokkha một cách chi tiết, khéo phân tích, khéo thực hành, khéo xác định theo từng điều hoặc từng phần phụ thuộc, được năm năm hoặc hơn năm năm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện này được sống không nương nhờ.
Dứt tụng phẩm “Được An Toàn và Bảo Đảm.”
[118] Sau đó, khi đã ngự tại thành Rājagaha (Vương Xá) theo như ý thích, đức Thế Tôn đã ra đi du hành về phía thành Kapilavatthu (Ca Tỳ La Vệ). Trong khi tuần tự du hành, ngài đã ngự đến thành Kapilavatthu. Tại nơi đó giữa dân chúng dòng Sākya (Thích Ca), đức Thế Tôn ngự ở thành Kapilavatthu, tại tu viện Nigrodha.
Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế Tôn đã mặc y, cầm y bát, đi đến tư dinh của Suddhodana[4] dòng Sākya, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Khi ấy, hoàng hậu mẹ của Rāhula (La Hầu La) đã nói với hoàng tử Rāhula điều này:
– Này Rāhula, người kia là cha của con. Hãy đi và cầu xin người ấy phần thừa kế.
Khi ấy, hoàng tử Rāhula đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đứng ở phía trước đức Thế Tôn (nói rằng):
– Này vị sa-môn, bóng che của ngài thật an lạc.
Sau đó, đức Thế Tôn đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi. Khi ấy, hoàng tử Rāhula đã theo sát phía sau của đức Thế Tôn (nói rằng):
– Này vị sa-môn, hãy ban cho con phần thừa kế. Này vị sa-môn, hãy ban cho con phần thừa kế.
Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo đại đức Sārīputta rằng:
– Này Sārīputta, như thế thì ngươi hãy cho hoàng tử Rāhula xuất gia.
– Bạch ngài, con cho hoàng tử Rāhula xuất gia như thế nào?
Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, ta cho phép việc xuất gia sa di bằng ba sự đi đến nương nhờ (Tam Quy). Và này các tỳ khưu, nên cho xuất gia như vầy: Trước tiên, nên cho cạo bỏ râu tóc, cho choàng lên các tấm vải màu ca-sa, cho đắp thượng y một bên vai, bảo đảnh lễ ở chân các vị tỳ khưu, bảo ngồi chồm hổm, bảo chắp tay lên, và nên bảo rằng: “Ngươi hãy nói như vầy:”
“Tôi đến với đức Phật là nơi nương nhờ (Tôi xin quy y Phật).
Tôi đến với đức Pháp là nơi nương nhờ (Tôi xin quy y Pháp).
Tôi đến với đức Tăng là nơi nương nhờ (Tôi xin quy y Tăng).
Lần thứ nhì, tôi đến với đức Phật là nơi nương nhờ.
Lần thứ nhì, tôi đến với đức Pháp là nơi nương nhờ.
Lần thứ nhì, tôi đến với đức Tăng là nơi nương nhờ.
Lần thứ ba, tôi đến với đức Phật là nơi nương nhờ.
Lần thứ ba, tôi đến với đức Pháp là nơi nương nhờ.
Lần thứ ba, tôi đến với đức Tăng là nơi nương nhờ.”
Khi ấy, đại đức Sārīputta đã cho hoàng tử Rāhula xuất gia.
Sau đó, Suddhodana dòng Sākya đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, Suddhodana dòng Sākya đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, trẫm cầu xin đức Thế Tôn một điều ước muốn.
– Này vị Gotama, các đấng Như Lai đã vượt khỏi các điều ước muốn.
– Bạch ngài, điều ấy là hợp lý, điều ấy không bị chê trách.
– Này vị Gotama, hãy nói điều ấy đi.
– Bạch ngài, trong khi đức Thế Tôn đã xuất gia, đau khổ đã khởi lên ở trẫm không phải là ít. Tương tự như vậy trong việc Nandā,[5] (nhưng là sự đau khổ) vô cùng mãnh liệt trong việc Rāhula. Bạch ngài, lòng thương yêu đối với người con trai cắt vào da; sau khi để nó cắt vào da, nó cắt vào lớp da trong; sau khi để nó cắt vào lớp da trong, nó cắt vào thịt; sau khi để nó cắt vào thịt, nó cắt vào gân; sau khi để nó cắt vào gân, nó cắt vào xương; sau khi để nó cắt vào xương, nó đạt đến tủy xương rồi trú (ở đó). Bạch ngài, tốt đẹp thay các ngài đại đức không nên cho người con trai chưa được phép của cha mẹ xuất gia.
Khi ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho Suddhodana dòng Sākya bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, Suddhodana dòng Sākya đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.
Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, không nên cho người con trai chưa được phép của cha mẹ xuất gia; vị nào cho xuất gia thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Sau đó, khi đã ngự tại thành Kapilavatthu theo như ý thích, đức Thế Tôn đã ra đi du hành về phía thành Sāvatthi (Xá Vệ). Trong khi tuần tự du hành, ngài đã ngự đến thành Sāvatthi. Tại nơi đó trong thành Sāvatthi, đức Thế Tôn ngự ở Jetavana (Kỳ Viên), tu viện của ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc).
[119] Vào lúc bấy giờ, gia đình hộ độ của đại đức Sārīputta đã gởi đứa trẻ trai đến đại đức Sārīputta (nói rằng): “Xin ngài trưởng lão hãy cho đứa trẻ này xuất gia.” Khi ấy, đại đức Sārīputta đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Một vị không nên để cho hai sa di phục vụ’ và ta đây đã có sa di Rāhula. Vậy ta nên thực hành như thế nào?” Vị ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu có kinh nghiệm đủ năng lực một mình được để cho hai sa di phục vụ, hoặc để cho nhiều (sa di) phục vụ với số lượng mà vị ấy vẫn có đủ khả năng để giáo huấn và chỉ dạy.
[120] Sau đó, các vị sa di đã khởi ý điều này: “Chúng ta có bao nhiêu điều học? Vá chúng ta nên được học tập trong vấn đề gì?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép mười điều học đến các sa di và (cho phép) các sa di học tập trong các điều học ấy: Việc tránh xa sự giết hại mạng sống, việc tránh xa sự lấy vật không được cho, việc tránh xa điều phi Phạm hạnh (sự hành dâm), việc tránh xa sự nói dối, việc tránh xa trường hợp dễ duôi uống chất say là rượu và chất lên men, việc tránh xa sự ăn phi thời, việc tránh xa sự múa hát đờn và xem trình diễn, việc tránh xa trường hợp sử dụng vòng hoa vật thơm và tô điểm bằng đồ trang sức, việc tránh xa chỗ nằm ngồi cao và rộng lớn, việc tránh xa sự thọ lãnh vàng bạc. Này các tỳ khưu, ta cho phép mười điều học này đến các sa di và (cho phép) các sa di học tập trong các điều học này.
[121] Vào lúc bấy giờ, các sa di sống không tôn kính, không vâng lời, không cư xử theo phép tắc đối với các tỳ khưu. Các vị tỳ khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Vì sao các sa di lại sống không tôn kính, không vâng lời, không cư xử theo phép tắc đối với các tỳ khưu?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép thực thi hành phạt đối với vị sa di hội đủ năm điều kiện: Là vị ra sức làm cho các tỳ khưu không được lợi lộc, ra sức làm cho các tỳ khưu không được sự lợi ích, ra sức làm cho các tỳ khưu không có chỗ ngụ, mắng nhiếc gièm pha các tỳ khưu, chia rẽ các tỳ khưu (này) với các tỳ khưu (khác). Này các tỳ khưu, ta cho phép thực hiện hành phạt đối với vị sa di hội đủ năm điều kiện này.
Khi ấy, các tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Hành phạt gì nên được thực hiện?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép thực hiện sự ngăn cấm.
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu thực hiện sự ngăn cấm đối với các sa di trong toàn bộ khu vực tu viện của hội chúng. Các sa di trong khi không thể đi vào tu viện nên bỏ đi, hoàn tục, chuyển sang ngoại đạo. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên thực hiện sự ngăn cấm trong toàn bộ khu vực tu viện của hội chúng; vị nào thực hiện thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép thực hiện sự ngăn cấm ở chỗ vị (sa di) sống hoặc ở chỗ vị (sa di) lui tới.
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu thực hiện sự ngăn cấm thức ăn theo đường miệng đối với các sa di. Dân chúng trong lúc làm nước cháo và bữa ăn dâng hội chúng nói với các sa di như vầy:
– Này các ngài, hãy đến và húp cháo. Này các ngài, hãy đến và thọ dụng bữa ăn.
Các vị sa di nói như vầy:
– Này các đạo hữu, không thể được. Các tỳ khưu đã thực hiện sự ngăn cấm.
Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Tại sao các đại đức lại thực hiện sự ngăn cấm thức ăn theo đường miệng đối với các sa di?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên thực hiện sự ngăn cấm thức ăn theo đường miệng, vị nào thực hiện thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Dứt câu chuyện về hành phạt.
[122] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư không hỏi các vị thầy tế độ lại thực hiện sự ngăn cấm đối với các sa di. Các vị thầy tế độ tìm kiếm (nghĩ rằng): “Vì sao các sa di của chúng ta lại không được nhìn thấy?” Các tỳ khưu đã nói như vầy:
– Này các đại đức, các vị tỳ khưu nhóm Lục Sư đã thực hiện sự ngăn cấm.
Các vị thầy tế độ phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư không hỏi chúng tôi lại thực hiện sự ngăn cấm đối với các sa di của chúng tôi?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, chưa hỏi các vị thầy tế độ không nên thực hiện sự ngăn cấm; vị nào thực hiện thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[123] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã dụ dỗ các sa di của các tỳ khưu trưởng lão khiến các vị trưởng lão bị mệt mỏi trong khi tự mình lấy gỗ chà răng và nước súc miệng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên dụ dỗ tập thể của vị khác; vị nào dụ dỗ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[124] Vào lúc bấy giờ, sa di tên Kan$ṭaka của đại đức Upananda con trai dòng Sākya đã làm nhơ nhớp tỳ khưu ni tên Kaṇṭakī. Các tỳ khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Vì sao vị sa di lại thực hành điều sai trái có hình thức như thế?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép trục xuất sa di hội đủ mười điều kiện này: Là kẻ giết hại mạng sống, là kẻ lấy vật không được cho, là kẻ phi Phạm hạnh (hành dâm), là kẻ nói dối, là kẻ uống chất say, là kẻ phỉ báng đức Phật, phỉ báng đức Pháp, phỉ báng đức Tăng, là kẻ có tri kiến sai trái, là kẻ làm nhơ nhớp tỳ khưu ni. Này các tỳ khưu, ta cho phép trục xuất vị sa di hội đủ mười điều kiện này.
[125] Vào lúc bấy giờ, có người vô căn (paṇḍaka)[6] nọ đã được xuất gia ở nơi các tỳ khưu. Người ấy đi đến gặp các vị tỳ khưu hãy còn trẻ rồi nói như vầy:
– Này các đại đức, hãy đi đến. Hãy làm điều nhơ nhớp với tôi.
Các vị tỳ khưu đuổi đi:
– Này kẻ vô căn, tiêu mất đi! Này kẻ vô căn, chết mất đi! Ai mà cần đến ngươi?
Người ấy khi bị các vị tỳ khưu xua đuổi lại đi đến gặp các sa di lớn con to xác rồi nói như vầy:
– Này các đại đức, hãy đi đến. Hãy làm điều nhơ nhớp với tôi.
Các vị sa di đuổi đi:
– Này kẻ vô căn, tiêu mất đi! Này kẻ vô căn, chết mất đi! Ai mà cần đến ngươi?
Người ấy khi bị các vị sa di xua đuổi lại đi đến gặp những người chăn voi, những người giữ ngựa rồi nói như vầy:
– Này các đạo hữu, hãy đi đến. Hãy làm điều nhơ nhớp với tôi.
Những người chăn voi, những người giữ ngựa đã làm điều nhơ nhớp. Những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Những sa-môn Thích tử này là những kẻ vô căn, những người nào trong bọn họ không phải là những kẻ vô căn thì những người ấy làm điều nhơ nhớp với những kẻ vô căn. Như vậy, chính tất cả những người này không có Phạm hạnh.
Các tỳ khưu đã nghe được những người chăn voi những người giữ ngựa phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, kẻ vô căn chưa được tu lên bậc trên thì không nên cho tu lên bậc trên, đã được tu lên bậc trên rồi thì nên trục xuất.
[126] Vào lúc bấy giờ, có người con trai của gia đình cổ hủ bị khánh tận nọ là người mảnh mai. Khi ấy, người con trai của gia đình cổ hủ bị khánh tận ấy đã khởi ý điều này: “Ta là người mảnh mai, không đủ khả năng để đạt đến tài sản chưa có hoặc làm tăng trưởng tài sản đã có, với phương kế gì để ta có thể sống thoải mái và không bị cực nhọc?” Rồi người con trai của gia đình cổ hủ bị khánh tận ấy đã khởi ý điều này: “Những sa-môn Thích tử này có giới luật thoải mái, có sở hành thoải mái, sau khi thọ thực thức ăn ngon rồi nằm dài trên những cái giường kín gió, hay là ta nên tự mình chuẩn bị y và bình bát, cạo bỏ râu tóc, khoác lên các mảnh vải màu ca-sa, đi đến tu viện, và chung sống với các tỳ khưu?”
Sau đó, người con trai của gia đình cổ hủ bị khánh tận ấy đã tự mình chuẩn bị y và bình bát, cạo bỏ râu tóc, khoác lên các mảnh vải màu ca-sa, đi đến tu viện, và đảnh lễ các vị tỳ khưu. Các vị tỳ khưu đã nói như vầy:
– Này đại đức, đại đức được bao nhiêu năm?
– Được bao nhiêu năm? Này các đại đức, điều ấy là gì vậy?
– Này đại đức, ai là thầy tế độ của đại đức?
– Thầy tế độ? Này các đại đức, điều ấy là gì vậy?
Các vị tỳ khưu đã nói với đại đức Upāli điều này:
– Này đại đức Upāli, hãy thẩm tra người đã xuất gia này đi.
Sau đó, trong khi được đại đức Upāli thẩm tra người con trai của gia đình cổ hủ bị khánh tận ấy đã kể lại sự việc ấy. Đại đức Upāli đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, kẻ trộm tướng mạo (tỳ khưu)[7] chưa được tu lên bậc trên thì không nên cho tu lên bậc trên, đã được tu lên bậc trên rồi thì nên trục xuất. Này các tỳ khưu, kẻ đã chuyển sang ngoại đạo chưa được tu lên bậc trên thì không nên cho tu lên bậc trên, đã được tu lên bậc trên rồi thì nên trục xuất.
[127] Vào lúc bấy giờ, có con rồng nọ lo ngại, xấu hổ, và chán ghét với sự xuất thân là loài rồng. Sau đó, con rồng ấy đã khởi ý điều này: “Với phương kế gì ta có thể hoàn toàn thoát khỏi sự xuất thân là loài rồng và có thể thành tựu bản thể của loài người một cách nhanh chóng?” Khi ấy, con rồng ấy đã khởi ý điều này: “Những vị sa-môn Thích tử này là những vị thực hành Giáo Pháp, thực hành sự bình thản, thực hành Phạm hạnh, nói lời chân thật, có giới hạnh, có thiện pháp; nếu ta có thể xuất gia nơi các vị sa-môn Thích tử, như thế ta có thể hoàn toàn thoát khỏi sự xuất thân là loài rồng và có thể thành tựu bản thể của loài người một cách nhanh chóng.” Sau đó, con rồng ấy với hình dáng của người thanh niên đã đi đến gặp các vị tỳ khưu và cầu xin sự xuất gia. Các vị tỳ khưu đã cho người ấy xuất gia, đã cho tu lên bậc trên.
Vào lúc bấy giờ, con rồng ấy cùng với vị tỳ khưu khác ngụ trong trú xá ở chỗ giáp ranh. Khi ấy vào lúc hừng sáng của đêm, vị tỳ khưu ấy thức dậy và đi kinh hành ở ngoài trời. Sau đó, trong khi vị tỳ khưu ấy đã đi ra ngoài con rồng ấy hết lo âu nên đã chìm vào giấc ngủ. Toàn bộ trú xá đã bị tràn ngập bởi (thân của) con rồng và các vòng thân còn ló ra ở các cửa sổ nữa.
Sau đó, vị tỳ khưu ấy (nghĩ rằng): “Ta sẽ đi vào trú xá” trong lúc mở cánh cửa ra đã nhìn thấy toàn bộ trú xá bị tràn ngập bởi (thân của) con rồng và các vòng thân còn ló ra ở các cửa sổ nữa, sau khi nhìn thấy (trở nên) sợ hãi và đã kêu thét lên. Các vị tỳ khưu đã chạy lại và nói với vị tỳ khưu ấy điều này:
– Này đại đức, vì sao đại đức lại kêu thét lên vậy?
– Này các đại đức, toàn bộ trú xá này bị tràn ngập bởi (thân của) con rồng và các vòng thân còn ló ra ở các cửa sổ nữa.
Khi ấy, con rồng ấy sau khi thức giấc bởi tiếng động ấy đã ngồi xuống trên chỗ ngồi của mình. Các vị tỳ khưu đã nói như vầy:
– Này đệ, ngươi là ai vậy?
– Thưa các ngài, tôi là rồng.
– Này đệ, vì sao ngươi lại biến thành hình dạng như thế này?
Khi ấy, con rồng ấy đã kể lại sự việc ấy cho các vị tỳ khưu. Các vị tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và nói với con rồng ấy điều này:
– Các ngươi là loài rồng không có được pháp tiến bộ trong Pháp và Luật này. Này rồng, ngươi hãy đi đi. Và hãy tiến hành Uposatha[8] vào ngày mười bốn, ngày mười lăm và ngày thứ tám của mỗi nửa tháng ở ngay nơi ấy, như thế ngươi sẽ hoàn toàn thoát khỏi sự xuất thân là loài rồng và sẽ thành tựu bản thể của loài người một cách nhanh chóng.
Khi ấy, con rồng ấy (nghĩ rằng): “Nghe nói ta không có được pháp tiến bộ trong Pháp và Luật này” (trở nên) đau khổ, rầu rĩ, và trong khi nước mắt trào ra đã khóc rống lên, rồi bỏ đi.
Sau đó, đức Thế Tôn đã bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, đây là hai lý do đưa đến việc hiện ra bản thể thật của loài rồng là khi thực hành việc lứa đôi với rồng cái và khi hết lo âu rồi chìm vào giấc ngủ. Này các tỳ khưu, hai lý do này đưa đến việc hiện ra bản thể thật của loài rồng. Này các tỳ khưu, loài thú chưa được tu lên bậc trên thì không nên cho tu lên bậc trên, đã được tu lên bậc trên rồi thì nên trục xuất.
[128] Vào lúc bấy giờ, có người thanh niên nọ là kẻ đã đoạt đi mạng sống của người mẹ. Người ấy lo ngại, xấu hổ, và chán ghét với hành động ác độc ấy. Sau đó, người thanh niên ấy đã khởi ý điều này: “Với phương kế gì ta có thể thực hiện sự thoát khỏi nghiệp ác độc ấy?” Khi ấy, người thanh niên ấy đã khởi ý điều này: “Những vị sa-môn Thích tử này là những vị thực hành Giáo Pháp, thực hành sự bình thản, thực hành Phạm hạnh, nói lời chân thật, có giới hạnh, có thiện pháp; nếu ta có thể xuất gia nơi các vị sa-môn Thích tử, như thế ta có thể thực hiện sự thoát khỏi nghiệp ác độc ấy.” Sau đó, người thanh niên ấy đã đi đến gặp các tỳ khưu và cầu xin sự xuất gia. Các tỳ khưu đã nói với đại đức Upāli điều này:
– Này đại đức Upāli, cũng trước đây con rồng với hình dáng của người thanh niên đã được xuất gia ở nơi các tỳ khưu. Này đại đức Upāli, hãy thẩm tra người thanh niên này đi.
Sau đó, trong khi được đại đức Upāli thẩm tra người thanh niên ấy đã kể lại sự việc ấy. Đại đức Upāli đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, kẻ giết mẹ chưa được tu lên bậc trên thì không nên cho tu lên bậc trên, đã được tu lên bậc trên rồi thì nên trục xuất.
[129] Vào lúc bấy giờ, có người thanh niên nọ là kẻ đã đoạt đi mạng sống của người cha. Người ấy lo ngại, xấu hổ, và chán ghét với hành động ác độc ấy. Sau đó, người thanh niên ấy đã khởi ý điều này: “Với phương kế gì ta có thể thực hiện sự thoát khỏi nghiệp ác độc ấy?” Khi ấy, người thanh niên ấy đã khởi ý điều này: “Những vị sa-môn Thích tử này là những vị thực hành Giáo Pháp, thực hành sự bình thản, thực hành Phạm hạnh, nói lời chân thật, có giới hạnh, có thiện pháp; nếu ta có thể xuất gia nơi các vị sa-môn Thích tử, như thế ta có thể thực hiện sự thoát khỏi nghiệp ác độc ấy.” Sau đó, người thanh niên ấy đã đi đến gặp các tỳ khưu và cầu xin sự xuất gia. Các tỳ khưu đã nói với đại đức Upāli điều này:
– Này đại đức Upāli, cũng trước đây con rồng với hình dáng của người thanh niên đã được xuất gia ở nơi các tỳ khưu. Này đại đức Upāli, hãy thẩm tra người thanh niên này đi.
Sau đó, trong khi được đại đức Upāli thẩm tra người thanh niên ấy đã kể lại sự việc ấy. Đại đức Upāli đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, kẻ giết cha chưa được tu lên bậc trên thì không nên cho tu lên bậc trên, đã được tu lên bậc trên rồi thì nên trục xuất.
[130] Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ khưu đi đường xa từ Sāketa đến thành Sāvatthi. Giữa đường bọn cướp đã xuất hiện, một số đã cướp bóc các vị tỳ khưu, một số đã giết chết các vị tỳ khưu. Các binh lính của đức vua phát xuất từ thành Sāvatthi đã bắt được một số kẻ cướp. Một số kẻ cướp đã tẩu thoát. Những kẻ tẩu thoát ấy đã xuất gia ở nơi các tỳ khưu. Những kẻ bị bắt đã bị đưa đi tử hình. Những kẻ đã được xuất gia ấy đã nhìn thấy những kẻ cướp ấy đang bị đưa đi tử hình, sau khi nhìn thấy đã nói như vầy:
– May mắn thay chúng ta đã tẩu thoát, nếu không hôm nay chúng ta có thể đã bị bắt, chúng ta cũng có thể bị xử tử y như thế này.
Các vị tỳ khưu đã nói như vầy:
– Này các đại đức, các vị đã nói điều gì vậy?
Khi ấy, những kẻ đã được xuất gia ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu kia là các vị A-la-hán. Này các tỳ khưu, kẻ giết A-la-hán chưa được tu lên bậc trên thì không nên cho tu lên bậc trên, đã được tu lên bậc trên rồi thì nên trục xuất.
[131] Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ khưu ni đi đường xa từ Sāketa đến thành Sāvatthi. Giữa đường, bọn cướp đã xuất hiện, một số đã cướp bóc các tỳ khưu ni, một số đã làm nhơ nhớp tỳ khưu ni. Các binh lính của đức vua phát xuất từ thành Sāvatthi đã bắt được một số kẻ cướp. Một số kẻ cướp đã tẩu thoát. Những kẻ tẩu thoát ấy đã xuất gia ở nơi các tỳ khưu. Những kẻ bị bắt đã bị đưa đi tử hình. Những kẻ đã được xuất gia ấy đã nhìn thấy những kẻ cướp ấy đang bị đưa đi tử hình, sau khi nhìn thấy đã nói như vầy:
– May mắn thay chúng ta đã tẩu thoát, nếu không hôm nay chúng ta có thể đã bị bắt, chúng ta cũng có thể bị xử tử y như thế này.
Các vị tỳ khưu đã nói như vầy:
– Này các đại đức, các vị đã nói điều gì vậy?
Khi ấy, những kẻ đã được xuất gia ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, kẻ làm nhơ nhớp tỳ khưu ni chưa được tu lên bậc trên thì không nên cho tu lên bậc trên, đã được tu lên bậc trên rồi thì nên trục xuất. Này các tỳ khưu, kẻ làm chia rẽ hội chúng chưa được tu lên bậc trên thì không nên cho tu lên bậc trên, đã được tu lên bậc trên rồi thì nên trục xuất. Này các tỳ khưu, kẻ làm chảy máu (đức Phật) chưa được tu lên bậc trên thì không nên cho tu lên bậc trên, đã được tu lên bậc trên rồi thì nên trục xuất.
[132] Vào lúc bấy giờ, có người lưỡng căn (ubhatobyañjanako) nọ đã được xuất gia ở nơi các tỳ khưu. Người ấy hành động (như người nam) rồi người ấy làm cho (thân thể) hành động (như người nữ). Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, người lưỡng căn chưa được tu lên bậc trên thì không nên cho tu lên bậc trên, đã được tu lên bậc trên rồi thì nên trục xuất.
[133] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu cho tu lên bậc trên người không có thầy tế độ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên cho tu lên bậc trên người không có thầy tế độ; vị nào cho tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu cho tu lên bậc trên với hội chúng là thầy tế độ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên cho tu lên bậc trên với hội chúng là thầy tế độ; vị nào cho tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu cho tu lên bậc trên với nhóm (hai hoặc ba vị tỳ khưu) là thầy tế độ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên cho tu lên bậc trên với nhóm (hai hoặc ba vị tỳ khưu) là thầy tế độ; vị nào cho tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu cho tu lên bậc trên với kẻ vô căn là thầy tế độ. …(như trên)… cho tu lên bậc trên với kẻ trộm tướng mạo (tỳ khưu) là thầy tế độ. …(như trên)… cho tu lên bậc trên với kẻ đã chuyển sang ngoại đạo là thầy tế độ. …(như trên)… cho tu lên bậc trên với loài thú là thầy tế độ. …(như trên)… cho tu lên bậc trên với kẻ giết mẹ là thầy tế độ. …(như trên)… cho tu lên bậc trên với kẻ giết cha là thầy tế độ. …(như trên)… cho tu lên bậc trên với kẻ giết A-la-hán là thầy tế độ. …(như trên)… cho tu lên bậc trên với kẻ làm nhơ nhớp tỳ khưu ni là thầy tế độ. …(như trên)… cho tu lên bậc trên với kẻ chia rẽ hội chúng là thầy tế độ. …(như trên)… cho tu lên bậc trên với kẻ làm chảy máu (đức Phật) là thầy tế độ. …(như trên)… cho tu lên bậc trên với kẻ lưỡng căn là thầy tế độ.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên cho tu lên bậc trên với kẻ vô căn là thầy tế độ. Không nên cho tu lên bậc trên với kẻ trộm tướng mạo (tỳ khưu) là thầy tế độ. Không nên cho tu lên bậc trên với kẻ đã chuyển sang ngoại đạo là thầy tế độ. Không nên cho tu lên bậc trên với loài thú là thầy tế độ. Không nên cho tu lên bậc trên với kẻ giết mẹ là thầy tế độ. Không nên cho tu lên bậc trên với kẻ giết cha là thầy tế độ. Không nên cho tu lên bậc trên với kẻ giết A-la-hán là thầy tế độ. Không nên cho tu lên bậc trên với kẻ làm nhơ nhớp tỳ khưu ni là thầy tế độ. Không nên cho tu lên bậc trên với kẻ chia rẽ hội chúng là thầy tế độ. Không nên cho tu lên bậc trên với kẻ làm chảy máu (đức Phật) là thầy tế độ. Không nên cho tu lên bậc trên với kẻ lưỡng căn là thầy tế độ; vị nào cho tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[134] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu cho tu lên bậc trên người không có bình bát. Các vị đi khất thực bằng hai tay. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Giống như là những kẻ ngoại đạo.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên cho tu lên bậc trên người không có bình bát; vị nào cho tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu cho tu lên bậc trên người không có y. Các vị lõa thể đi khất thực. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Giống như là những kẻ ngoại đạo.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên cho tu lên bậc trên người không có y; vị nào cho tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu cho tu lên bậc trên người không có y và bình bát. Các vị lõa thể đi khất thực bằng hai tay. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Giống như là những kẻ ngoại đạo.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên cho tu lên bậc trên người không có y và bình bát; vị nào cho tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu cho tu lên bậc trên với bình bát của người đã được yêu cầu (tức là với bình bát mượn tạm thời). Khi đã được tu lên bậc trên, các vị trả lại bình bát. Các vị đi khất thực bằng hai tay. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Giống như là những kẻ ngoại đạo.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên cho tu lên bậc trên với bình bát mượn; vị nào cho tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu cho tu lên bậc trên với y của người đã được yêu cầu (tức là với y mượn tạm thời). Khi đã được tu lên bậc trên, các vị trả lại y. Các vị lõa thể đi khất thực. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Giống như là những kẻ ngoại đạo.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên cho tu lên bậc trên với y mượn; vị nào cho tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu cho tu lên bậc trên với y và bình bát của người đã được yêu cầu (tức là với y và bình bát mượn tạm thời). Khi đã được tu lên bậc trên, các vị trả lại y và bình bát. Các vị lõa thể đi khất thực bằng hai tay. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Giống như là những kẻ ngoại đạo.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên cho tu lên bậc trên với y và bình bát mượn; vị nào cho tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Dứt hai mươi trường hợp về người không nên cho tu lên bậc trên.
[135] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu cho người bị đứt cánh tay (hatthacchinnaṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người bị đứt bàn chân (pādacchinnaṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người bị đứt cánh tay và bàn chân (hatthapādacchinnaṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người bị sứt tai (kaṇṇacchinnaṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người bị sứt mũi (nāsacchinnaṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người bị sứt tai và mũi (kaṇṇanāsacchinnaṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người bị đứt ngón tay (aṅgulicchinnaṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người bị đứt móng tay (aḷacchinnaṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người bị đứt gân chân (kaṇḍaracchinnaṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người có bàn tay dính liền giống cánh dơi (phaṇahatthakaṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người gù lưng (khujjaṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người lùn tịt (vāmanaṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người có bướu cổ (galagaṇḍikaṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người bị hành phạt đóng dấu (lakkhaṇāhataṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người bị hành phạt đánh bằng roi (kasāhataṃ) xuất gia. …(như trên)... Các vị cho người bị cáo thị tầm nã (likhitakaṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người phù chân voi (sīpadiṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người có bệnh trầm trọng (pāparogiṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người bôi nhọ tập thể (parisadūsakaṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người chột mắt (kāṇaṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người tứ chi bị co rút (kuṇiṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người què (khañjaṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người bị liệt nửa thân (pakkhahataṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người đi khập khiễng (chinniriyāpathaṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người già yếu (jarādubbalaṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người mù (andhaṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người câm (mūgaṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người điếc (badhiraṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người mù và câm xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người mù và điếc xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người câm và điếc xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người mù câm điếc xuất gia. …(như trên)…
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên cho người bị đứt cánh tay xuất gia. Không nên cho người bị đứt bàn chân xuất gia. Không nên cho người bị đứt cánh tay và bàn chân xuất gia. Không nên cho người sứt tai xuất gia. Không nên cho người bị sứt mũi xuất gia. Không nên cho người bị sứt tai và mũi xuất gia. Không nên cho người bị đứt ngón tay xuất gia. Không nên cho người bị đứt móng tay xuất gia. Không nên cho người bị đứt gân chân xuất gia. Không nên cho người có bàn tay dính liền giống cánh dơi xuất gia. Không nên cho người gù lưng xuất gia. Không nên cho người lùn tịt xuất gia. Không nên cho người có bướu cổ xuất gia. Không nên cho người bị hành phạt đóng dấu xuất gia. Không nên cho người bị hành phạt đánh bằng roi xuất gia. Không nên cho người bị cáo thị tầm nã xuất gia. Không nên cho người phù chân voi xuất gia. Không nên cho người có bệnh trầm trọng kinh niên xuất gia. Không nên cho người bôi nhọ tập thể xuất gia. Không nên cho người chột mắt xuất gia. Không nên cho người tứ chi bị co rút xuất gia. Không nên cho người què xuất gia. Không nên cho người bị liệt nửa thân xuất gia. Không nên cho người đi khập khiễng xuất gia. Không nên cho người già yếu xuất gia. Không nên cho người mù xuất gia. Không nên cho người câm xuất gia. Không nên cho người điếc xuất gia. Không nên cho người mù và câm xuất gia. Không nên cho người mù và điếc xuất gia. Không nên cho người câm và điếc xuất gia. Không nên cho người mù câm điếc xuất gia; vị nào cho xuất gia thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Dứt ba mươi hai trường hợp không nên cho xuất gia.
Dứt tụng phẩm “Phần Thừa Kế” là phần thứ chín.
[136] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư ban cho sự nương nhờ đến những vị không có liêm sỉ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên ban cho sự nương nhờ đến những vị không có liêm sỉ; vị nào ban cho thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu cư trú (với pháp) nương nhờ vào những vị không có liêm sỉ. Chẳng bao lâu sau, các vị ấy cũng trở thành các tỳ khưu ác xấu, không có liêm sỉ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên cư trú (với pháp) nương nhờ vào những vị không có liêm sỉ; vị nào cư trú thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Không nên ban cho sự nương nhờ đến những vị không có liêm sỉ và không nên cư trú (với pháp) nương nhờ vào những vị không có liêm sỉ,’ vậy làm thế nào chúng ta biết được (vị nào) là có liêm sỉ hoặc không có liêm sỉ?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép chờ đợi bốn năm ngày đến khi (xác định được rằng): “Ta biết được bản chất (sabhāgataṃ) của vị tỳ khưu.”
[137] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ du hành đường xa trong xứ Kosala. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Không nên sống không nương nhờ,’ và ta là cần có sự nương nhờ nhưng đang du hành đường xa, vậy ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu đang du hành đường xa trong khi không đạt được sự nương nhờ thì được sống không nương nhờ.
[138] Vào lúc bấy giờ, có hai vị tỳ khưu du hành đường xa trong xứ Kosala. Họ đã đi đến gần trú xứ nọ. Ở đó có một vị tỳ khưu bị bệnh. Khi ấy, vị tỳ khưu bệnh ấy đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Không nên sống không nương nhờ,’ và ta là cần có sự nương nhờ nhưng bị bệnh, vậy ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu bị bệnh trong khi không đạt được sự nương nhờ thì được sống không nương nhờ.
Khi ấy, vị tỳ khưu chăm sóc vị bị bệnh ấy đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Không nên sống không nương nhờ,’ và ta là cần có sự nương nhờ nhưng vị tỳ khưu này thì bị bệnh, vậy ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu chăm sóc vị bị bệnh trong khi không đạt được sự nương nhờ thì được sống không nương nhờ (khi) được yêu cầu (bởi vị bị bệnh).
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trú ngụ ở trong rừng. Và vị ấy có được sự thích hợp (cho việc tu tiến) ở chỗ trú ngụ ấy. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Không nên sống không nương nhờ,’ và ta là cần có sự nương nhờ nhưng ta trú ngụ ở trong rừng và ta có sự thích hợp ở chỗ trú ngụ này, vậy ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu ở rừng quan tâm đến việc có chỗ cư trú thích hợp (cho việc tu tiến) trong khi không đạt được sự nương nhờ thì được sống không nương nhờ (nghĩ rằng): “Khi nào có vị đủ pháp cho nương nhờ phù hợp đi đến thì ta sẽ sống nương nhờ vào vị ấy.”
[139] Vào lúc bấy giờ, có người có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức Mahākassapa. Khi ấy, đại đức Mahākassapa đã phái sứ giả đến gặp đại đức Ānanda nhắn rằng: “Ānanda hãy đi đến và tuyên ngôn cho người này.” Đại đức Ānanda đã nói như vầy:
– Tôi không thể đọc lên tên của ngài trưởng lão, ngài trưởng lão là bậc trưởng thượng của tôi.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép đọc lên bằng tên của dòng họ.
[140] Vào lúc bấy giờ, có hai người có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức Mahākassapa. Họ tranh cãi rằng: “Tôi sẽ tu lên bậc trên trước, tôi sẽ tu lên bậc trên trước.” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép thực hiện hai (người) trong một lần tuyên ngôn.
Vào lúc bấy giờ, có những người có ý muốn tu lên bậc trên với nhiều vị trưởng lão. Họ tranh cãi rằng: “Tôi sẽ tu lên bậc trên trước tiên, tôi sẽ tu lên bậc trên trước tiên.” Các vị trưởng lão đã nói như vầy:
– Này các đại đức, chúng ta hãy thực hiện hết thảy tất cả trong một lần tuyên ngôn đi.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép thực hiện hai hoặc ba (người) trong một lần tuyên ngôn. Và điều ấy là với cùng một thầy tế độ chứ không phải với thầy tế độ khác nhau.
[141] Vào lúc bấy giờ, đại đức Kumārakassapa là hai mươi tính theo thai bào đã được tu lên bậc trên. Sau đó, đại đức Kumārakassapa đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Không nên cho tu lên bậc trên người chưa đủ hai mươi tuổi,’ và ta là hai mươi tính theo thai bào đã được tu lên bậc trên, vậy thì ta đã được tu lên bậc trên hay là chưa được tu lên bậc trên?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, khi tâm đầu tiên sanh khởi trong bụng của người mẹ thì thức đầu tiên đã xuất hiện; do điều ấy nên chính thời điểm đó là sự sanh ra của người ấy. Này các tỳ khưu, ta cho phép cho tu lên bậc trên người là hai mươi tính theo thai bào.
[142] Vào lúc bấy giờ, các vị đã tu lên bậc trên được phát hiện là có (liên quan đến) bệnh cùi, bệnh mụt nhọt, bệnh chàm, bệnh lao phổi, bệnh động kinh. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép vị đang ban phép tu lên bậc trên được hỏi về mười ba pháp chướng ngại. Và này các tỳ khưu, nên hỏi như vầy: “Ngươi có các bệnh như vầy không: Bệnh cùi (kuṭṭhaṃ)? Bệnh mụt nhọt (gaṇḍo)? Bệnh chàm (kilāso)? Bệnh lao phổi (soso)? Bệnh động kinh (apamāro)? Ngươi là loài người? Ngươi là người nam? Ngươi là người được tự do (không phải nô lệ)? Ngươi không bị thiếu nợ? Ngươi không phải là lính của đức vua? Ngươi đã được cha mẹ cho phép? Ngươi đã tròn hai mươi tuổi? Ngươi có đầy đủ y bát không? Ngươi tên gì? Vị thầy tế độ của ngươi tên gì?”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu hỏi các pháp chướng ngại đến các người có ý muốn tu lên bậc trên chưa được giảng giải trước. Các người có ý muốn tu lên bậc trên đã bị bối rối, trở nên mắc cở, rồi không thể trả lời. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép giảng giải trước rồi hỏi các pháp chướng ngại sau.
Các vị đã giảng giải ngay tại chỗ ấy, ở giữa hội chúng. Như thế ấy, các người có ý muốn tu lên bậc trên đã bị bối rối, trở nên mắc cở, rồi không thể trả lời. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép giảng giải ở một góc rồi hỏi các pháp chướng ngại ở giữa hội chúng. Và này các tỳ khưu, nên giảng giải như vầy:
Trước tiên, nên bảo chọn vị thầy tế độ. Sau khi đã bảo chọn vị thầy tế độ rồi nên chỉ y bát: “Đây là bình bát của ngươi, đây là y hai lớp (saṅghāṭi) của ngươi, đây là thượng y của ngươi, đây là y nội của ngươi. Hãy đi đến đứng ở chỗ trống đàng kia.”
Các vị (tỳ khưu) ngu dốt, thiếu kinh nghiệm đã giảng giải. Những người có ý muốn tu lên bậc trên do được giảng giải tồi nên đã bị bối rối, trở nên mắc cỡ, rồi không thể trả lời. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, vị (tỳ khưu) ngu dốt thiếu kinh nghiệm không nên giảng giải; vị nào giảng giải thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ khả năng được giảng giải.
Những vị (tỳ khưu) không được chỉ định đã giảng giải. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, vị không được chỉ định không nên giảng giải; vị nào giảng giải thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép giảng giải đối với vị đã được chỉ định. Và này các tỳ khưu, nên chỉ định như vầy: Tự mình chỉ định cho chính mình, hoặc người khác chỉ định cho người khác.
Thế nào là tự mình chỉ định cho chính mình?
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Người tên (như vầy) có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy). Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, tôi sẽ giảng giải cho người tên (như vầy).”
Như vậy là tự mình chỉ định cho chính mình.
Thế nào là người khác chỉ định cho người khác?
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Người tên (như vầy) có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy). Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, vị tên (như vầy) sẽ giảng giải cho người tên (như vầy).”
Như vậy là người khác chỉ định cho người khác.
Vị tỳ khưu đã được chỉ định ấy nên đi đến gần người có ý muốn tu lên bậc trên và nên nói với như vầy:
“Này người tên (như vầy), hãy lắng nghe. Đối với ngươi, bây giờ là thời điểm của sự thật, là thời điểm của bản chất. Trong khi được hỏi ở giữa hội chúng, điều gì được đề cập đến, nếu điều ấy là đúng thì nên nói: ‘Đúng;’ nếu không đúng, nên nói: ‘Không đúng.’ Không nên bối rối, không nên mắc cở. Các vị sẽ hỏi ngươi như vầy: ‘Ngươi có các bệnh như thế này không: Bệnh cùi? Bệnh mụt nhọt? Bệnh chàm? Bệnh lao phổi? Bệnh động kinh? Ngươi là loài người? Ngươi là người nam? Ngươi là người được tự do (không phải nô lệ)? Ngươi không bị thiếu nợ? Ngươi không phải là lính của đức vua? Ngươi đã được cha mẹ cho phép? Ngươi đã tròn hai mươi tuổi? Ngươi có đầy đủ y bát không? Ngươi tên gì? Vị thầy tế độ của ngươi tên gì?”
Họ đi đến cùng một lúc.
– Này các tỳ khưu, không nên đi đến cùng một lúc. Vị giảng giải nên đi đến trước và thông báo cho hội chúng: “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Người tên (như vầy) có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy). Tôi đã giảng giải cho ngưòi ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, nên cho người tên (như vầy) đi đến.” và nên nói rằng: “Hãy đi đến.”
Nên bảo (người ấy) đắp thượng y một bên vai, bảo đảnh lễ ở chân các tỳ khưu, bảo ngồi chồm hổm, bảo chắp tay lên, và bảo (người ấy) cầu xin sự tu lên bậc trên:
“Bạch các ngài, tôi cầu xin hội chúng sự tu lên bậc trên. Bạch các ngài, xin hội chúng hãy tế độ tôi vì lòng thương xót.
Bạch các ngài, tôi cầu xin hội chúng sự tu lên bậc trên lần thứ nhì. Bạch các ngài, xin hội chúng hãy tế độ tôi vì lòng thương xót.
Bạch các ngài, tôi cầu xin hội chúng sự tu lên bậc trên lần thứ ba. Bạch các ngài, xin hội chúng hãy tế độ tôi vì lòng thương xót.”
Hội chúng nên được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Người này tên (như vầy) có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy). Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, tôi sẽ hỏi các pháp chướng ngại đến người tên (như vầy).”
“Này người tên (như vầy), hãy lắng nghe. Đối với ngươi, bây giờ là thời điểm của sự thật, là thời điểm của bản chất. Trong khi được hỏi ở giữa hội chúng, điều gì được đề cập đến, nếu điều ấy là đúng thì nên nói: ‘Đúng;’ nếu không đúng, nên nói: ‘Không đúng.’ Ngươi có các bệnh như thế này không: Bệnh cùi? Bệnh mụt nhọt? Bệnh chàm? Bệnh lao phổi? Bệnh động kinh? Ngươi là loài người? Ngươi là người nam? Ngươi là người được tự do (không phải nô lệ)? Ngươi không bị thiếu nợ? Ngươi không phải là lính của đức vua? Ngươi đã được cha mẹ cho phép? Ngươi đã tròn hai mươi tuổi? Ngươi có đầy đủ y bát không? Ngươi tên gì? Vị thầy tế độ của ngươi tên gì?”
Hội chúng nên được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Người này tên (như vầy) có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy) là người trong sạch về các pháp chướng ngại. Người này có đầy đủ y bát. Người tên (như vầy) cầu xin hội chúng sự tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy) là thầy tế độ. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên cho người tên (như vầy) tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy) là thầy tế độ. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Người này tên (như vầy) có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy) là người trong sạch về các pháp chướng ngại. Người này có đầy đủ y bát. Người tên (như vầy) cầu xin hội chúng sự tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy) là thầy tế độ. Hội chúng cho ngưòi tên (như vầy) sự tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy) là thầy tế độ. Đại đức nào đồng ý sự tu lên bậc trên của người tên (như vầy) với đại đức tên (như vầy) là thầy tế độ xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Người này tên (như vầy) có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy) là người trong sạch về các pháp chướng ngại. Người này có đầy đủ y bát. Người tên (như vầy) cầu xin hội chúng sự tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy) là thầy tế độ. Hội chúng cho ngưòi tên (như vầy) sự tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy) là thầy tế độ. Đại đức nào đồng ý sự tu lên bậc trên của người tên (như vầy) với đại đức tên (như vầy) là thầy tế độ xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Người này tên (như vầy) có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy) là người trong sạch về các pháp chướng ngại. Người này có đầy đủ y bát. Người tên (như vầy) cầu xin hội chúng sự tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy) là thầy tế độ. Hội chúng cho ngưòi tên (như vầy) sự tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy) là thầy tế độ. Đại đức nào đồng ý sự tu lên bậc trên của người tên (như vầy) với đại đức tên (như vầy) là thầy tế độ xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Người tên (như vầy) đã được hội chúng cho tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy) là thầy tế độ. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Dứt hành sự tu lên bậc trên.
[143] Ngay khi ấy, bóng nắng cần được đo đạc, việc xác định mùa tiết nên được chỉ dạy, việc phân chia ngày (giờ) nên được chỉ dạy, điều đã được kết tập lại nên được chỉ dạy, bốn vật nương nhờ nên được chỉ dạy:
“Việc xuất gia nương vào thức ăn do khất thực, trong trường hợp ấy ngươi nên nỗ lực thực hiện cho đến hết đời; điều phụ trội được phép là bữa ăn dâng hội chúng, bữa ăn được chỉ định, sự mời thỉnh, bữa ăn theo thẻ, vào mỗi nửa tháng, vào ngày Uposatha, vào ngày đầu của mỗi nửa tháng.
Việc xuất gia nương vào y làm bằng vải dơ bị quăng bỏ; trong trường hợp ấy ngươi nên nỗ lực thực hiện cho đến hết đời; điều phụ trội được phép là (y làm bằng) sợi lanh (khomaṃ), bông vải (kappāsikaṃ), tơ lụa (koseyyaṃ), sợi len (kambalaṃ), gai thô (sāṇam), chỉ bố (bhaṅgaṃ).
Việc xuất gia nương vào chỗ trú ngụ là gốc cây; trong trường hợp ấy ngươi nên nỗ lực thực hiện cho đến hết đời; điều phụ trội được phép là trú xá (vihāraṃ), nhà một mái (aḍḍhayogaṃ), tòa nhà dài (pāsādaṃ), khu nhà lớn (hammiyaṃ), hang động (guhaṃ).
Việc xuất gia nương vào dược phẩm là nước tiểu gia súc, trong trường hợp ấy ngươi nên nỗ lực thực hiện cho đến hết đời; điều phụ trội được phép là bơ lỏng (sappi), bơ đặc (navanītaṃ), dầu ăn (telaṃ), mật (madhu), đường mía (phānitaṃ).”
Dứt bốn vật nương nhờ.
[144] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu sau khi cho tu lên bậc trên vị tỳ khưu nọ đã bỏ lại mỗi một mình rồi ra đi. Sau đó trong khi đang đi chỉ mỗi một mình, giữa đường vị ấy đã gặp lại người vợ cũ. Cô ta đã nói như vầy:
– Nay chàng đã xuất gia rồi sao?
– Đúng vậy, tôi đã xuất gia.
– Việc đôi lứa đối với các vị xuất gia là khó đạt được. Hãy đến và thực hiện việc đôi lứa đi.
Vị ấy sau khi thực hiện việc đôi lứa với nàng ta đã đi về trễ sau cùng. Các vị tỳ khưu đã nói như vầy:
– Này sư đệ, vì sao sư đệ đã đi về trễ như vậy?
Khi ấy, vị ấy đã kể lại sự việc ấy cho các vị tỳ khưu. Các vị tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, ta cho phép ban cho người cộng sự và chỉ dạy bốn điều không nên làm ngay sau khi cho tu lên bậc trên:
“Vị đã được tu lên bậc trên trở thành tỳ khưu không nên thực hành việc đôi lứa, thậm chí với loài thú cái. Vị tỳ khưu nào thực hành việc đôi lứa không còn là sa-môn không còn là Thích tử nữa. Giống như người đàn ông đã bị chặt đầu không thể sống với cái đầu ấy được gắn lại vào thân; tương tợ như thế, vị tỳ khưu sau khi thực hiện việc đôi lứa không còn là sa-môn không còn là Thích tử nữa. Ngươi không nên làm điều ấy cho đến hết đời.
Vị đã được tu lên bậc trên trở thành tỳ khưu không nên lấy vật không được cho như là kẻ trộm, thậm chí có liên quan đến cọng cỏ. Vị tỳ khưu nào lấy vật không được cho là một pāda hoặc tương đương một pāda hoặc hơn một pāda được xem là kẻ trộm không còn là sa-môn không còn là Thích tử nữa. Giống như chiếc lá vàng đã lìa cành không thể trở lại màu xanh; tương tợ như thế, vị tỳ khưu sau khi lấy vật không được cho là một pāda hoặc tương đương một pāda hoặc hơn một pāda được xem là kẻ trộm không còn là sa-môn không còn là Thích tử nữa. Ngươi không nên làm điều ấy cho đến hết đời.
Vị đã được tu lên bậc trên trở thành tỳ khưu không nên tước đoạt lấy mạng sống của chúng sanh một cách cố tình thậm chí có liên quan đến loài kiến. Vị tỳ khưu nào tước đoạt lấy mạng sống khỏi cơ thể con người một cách cố tình thậm chí có liên quan đến việc phá thai không còn là sa-môn không còn là Thích tử nữa. Giống như tảng đá lớn đã bị vỡ làm hai mảnh không gắn liền lại được; tương tợ như thế, vị tỳ khưu sau khi tước đoạt lấy mạng sống khỏi cơ thể con người một cách cố tình không còn là sa-môn không còn là Thích tử nữa. Ngươi không nên làm điều ấy cho đến hết đời.
Vị đã được tu lên bậc trên trở thành tỳ khưu không nên khẳng định về pháp của bậc thượng nhân thậm chí (nói rằng): ‘Tôi thỏa thích trong ngôi nhà trống vắng.’ Vị tỳ khưu nào có ước muốn xấu xa, bị thúc đẩy bởi ước muốn đó, rồi khẳng định về pháp của bậc thượng nhân (mà bản thân) không có, không thực chứng, là pháp thiền, hoặc là pháp giải thoát (vimokkhaṃ), hoặc là sự nhập định, hoặc là sự chứng đắc, hoặc là Đạo, hoặc là Quả không còn là sa-môn không còn là Thích tử nữa. Giống như cây thốt nốt (tāla) bị chặt ngọn không thể đâm chồi lại được nữa; tương tợ như thế, vị tỳ khưu có ước muốn xấu xa, bị thúc đẩy bởi ước muốn đó, sau khi khẳng định về pháp của bậc thượng nhân (mà bản thân) không có, không thực chứng không còn là sa-môn không còn là Thích tử nữa. Ngươi không nên làm điều ấy cho đến hết đời.”
Dứt bốn điều không nên làm.
[145] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ là người bị án treo trong việc không nhìn nhận tội đã hoàn tục. Vị ấy đã quay trở lại và cầu xin các vị tỳ khưu sự tu lên bậc trên. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu là người bị án treo trong việc không nhìn nhận tội lại hoàn tục. Vị ấy quay trở lại và cầu xin các vị tỳ khưu sự tu lên bậc trên. Vị ấy nên được nói như vầy về điều ấy: “Ngươi sẽ nhìn nhận tội ấy?” Nếu (vị ấy trả lời): “Tôi sẽ nhìn nhận” thì nên cho xuất gia. Nếu (vị ấy trả lời): “Tôi sẽ không nhìn nhận” thì không nên cho xuất gia. Sau khi cho xuất gia rồi, nên nói rằng: “Ngươi sẽ nhìn nhận tội ấy?” Nếu (vị ấy trả lời): “Tôi sẽ nhìn nhận” thì nên cho tu lên bậc trên. Nếu (vị ấy trả lời): “Tôi sẽ không nhìn nhận” thì không nên cho tu lên bậc trên. Sau khi đã cho tu lên bậc trên, nên nói rằng: “Ngươi sẽ nhìn nhận tội ấy?” Nếu (vị ấy trả lời): “Tôi sẽ nhìn nhận” thì nên phục hồi (osāretabbo). Nếu (vị ấy trả lời): “Tôi sẽ không nhìn nhận” thì không nên phục hồi. Sau khi đã phục hồi nên nói rằng: “Ngươi nhìn nhận tội ấy?” Nếu vị ấy nhìn nhận thì việc ấy được tốt đẹp, nhưng nếu vị ấy không nhìn nhận thì trong khi đạt được sự hợp nhất (của hội chúng) nên phạt án treo lại. Nếu không đạt được sự hợp nhất (của hội chúng) thì không phạm tội trong việc ăn chung, cư ngụ chung (với vị ấy).
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu là người bị án treo trong việc không sửa chữa lỗi lại hoàn tục. Vị ấy quay trở lại và cầu xin các vị tỳ khưu sự tu lên bậc trên. Vị ấy nên được nói như vầy về điều ấy: “Ngươi sẽ sửa chữa lỗi ấy?” Nếu (vị ấy trả lời): “Tôi sẽ sửa chữa” thì nên cho xuất gia. Nếu (vị ấy trả lời): “Tôi sẽ không sửa chữa” thì không nên cho xuất gia. Sau khi cho xuất gia rồi, nên nói rằng: “Ngươi sẽ sửa chữa lỗi ấy?” Nếu (vị ấy trả lời): “Tôi sẽ sửa chữa” thì nên cho tu lên bậc trên. Nếu (vị ấy trả lời): “Tôi sẽ không sửa chữa” thì không nên cho tu lên bậc trên. Sau khi đã cho tu lên bậc trên, nên nói rằng: “Ngươi sẽ sửa chữa lỗi ấy?” Nếu (vị ấy trả lời): “Tôi sẽ sửa chữa” thì nên phục hồi. Nếu (vị ấy trả lời): “Tôi sẽ không sửa chữa,” thì không nên phục hồi. Sau khi đã phục hồi nên nói rằng: “Ngươi sửa chữa lỗi ấy?” Nếu vị ấy sửa chữa thì việc ấy được tốt đẹp, nhưng nếu vị ấy không sửa chữa thì trong khi đạt được sự hợp nhất (của hội chúng) nên phạt án treo lại. Nếu không đạt được sự hợp nhất (của hội chúng) thì không phạm tội trong việc ăn chung, cư ngụ chung (với vị ấy).
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu là người bị án treo trong việc không chịu từ bỏ tà kiến ác lại hoàn tục. Vị ấy quay trở lại và cầu xin các vị tỳ khưu sự tu lên bậc trên. Vị ấy nên được nói như vầy về điều ấy: “Ngươi sẽ chịu từ bỏ tà kiến ác ấy?” Nếu (vị ấy trả lời): “Tôi sẽ chịu từ bỏ” thì nên cho xuất gia. Nếu (vị ấy trả lời): “Tôi sẽ không chịu từ bỏ” thì không nên cho xuất gia. Sau khi cho xuất gia rồi, nên nói rằng: “Ngươi sẽ chịu từ bỏ tà kiến ác ấy?” Nếu (vị ấy trả lời): “Tôi sẽ chịu từ bỏ” thì nên cho tu lên bậc trên. Nếu (vị ấy trả lời): “Tôi sẽ không chịu từ bỏ” thì không nên cho tu lên bậc trên. Sau khi đã cho tu lên bậc trên, nên nói rằng: “Ngươi sẽ chịu từ bỏ tà kiến ác ấy?” Nếu (vị ấy trả lời): “Tôi sẽ chịu từ bỏ” thì nên phục hồi. Nếu (vị ấy trả lời): “Tôi sẽ không chịu từ bỏ” thì không nên phục hồi. Sau khi đã phục hồi nên nói rằng: “Ngươi chịu từ bỏ tà kiến ác ấy?” Nếu vị ấy chịu từ bỏ thì việc ấy được tốt đẹp, nhưng nếu vị ấy không chịu từ bỏ thì trong khi đạt được sự hợp nhất (của hội chúng) nên phạt án treo lại. Nếu không đạt được sự hợp nhất (của hội chúng) thì không phạm tội trong việc ăn chung, cư ngụ chung (với vị ấy).
Chương Trọng Yếu là chương thứ nhất.
*******
Tóm lược chương này:
[146]
Các điều chính trong Luật
là nguồn đem an lạc
cho các thiện tỳ khưu
là các vị khiêm nhường
thoát khỏi điều ác xấu,
trong những việc nắm giữ
và duy trì Giáo Pháp,
hành xứ bậc Chiến Thắng
là của đấng Toàn Tri,
trong đối tượng quen thuộc
an toàn, khéo quy định,
không có điều nghi hoặc.
Và chính trong Tạng Luật
thuộc Đại Phẩm Tiểu Phẩm
ở nơi bộ Tập Yếu
và trong các tiêu đề,
như người tìm lợi ích
thiện xảo hành đúng đắn.
Không hiểu được loài bò
không chăn giữ đàn bò;
cũng vậy không biết giới,
trì giữ, thu thúc gì?
Khi Tạng Kinh quên lãng
và luôn Tạng Diệu Pháp,
còn Tạng Luật chưa hoại
Giáo Pháp vẫn tồn tại.
Do đó, tôi sẽ nói
nguyên nhân sự hình thành,
mở đầu theo thứ tự
theo như sự hiểu biết,
hãy lắng nghe tôi giảng.
Câu chuyện, nguồn gốc tội,
phương thức, phần tóm lược,
hãy hiểu rõ điều ấy
theo đúng như phương pháp,
vì thực hiện đầy đủ
việc ấy thật khó làm.
Ở cội cây Bồ Đề,
Rājayatana,
cội cây người chăn dê
vị Sahampati
Phạm thiên, Aḷāra,
và vị Uddaka,
đạo sĩ Upaka,
tỳ khưu Koṇḍañña,
Bhaddiya, Vappa,
rồi Mahānāma,
và vị Assaji,
Yasa, bốn, năm mươi,
ngài phái đi tất cả
về khắp các phương trời.
Câu chuyện với Ma Vương,
và ba mươi vương tử.
Ở Uruvelā
ba đạo sĩ bện tóc
ở trong nhà thờ lửa,
vị đại vương Sakka,
Phạm thiên và toàn bộ.
Y paṃsukūla
hồ nước, và tảng đá,
cành cây Kakudha,
và khối đá (phơi y).
Trái Jambu, trái xoài,
trái Āmalakī,
và bông hoa san hô
vị ấy đã mang lại.
Hỡi này Kassapa,
hãy chẻ, hãy đốt lên,
và hãy dập tắt đi.
Các vị hụp (xuống nước)
chảo lửa, đám mây đen.
Gayā, đi Laṭṭhi,
vua xứ Magadha.
Rồi Upatissa
và chàng Kolita
danh tiếng đã xuất gia.
Các y mặc luộm thuộm,
(cho phép) việc đuổi đi,
và vị bà-la-môn
bị ốm o cằn cỗi,
kẻ thực hành tồi bại,
bao tử, chàng trai trẻ,
hội chúng (là mười vị).
Rồi mùa an cư mưa,
với bọn ngu, bỏ đi,
mười năm sống nương nhờ.
Không thực hành, đuổi đi,
các vị dốt, đình chỉ,
năm điều kiện hoặc sáu.
Người đã theo ngoại đạo,
lõa thể, tóc chưa cắt,
vị bện tóc, Thích Ca.
Trong thành Magadha,
năm thứ bệnh, binh sĩ,
kẻ trộm, cướp đeo ngón,
và vua Magadha
đã ban điều cho phép.
Phá ngục, và án ghi,
phạt roi, bị đóng dấu,
kẻ nợ, và nô tỳ,
đầu sói, Upāli,
và cơn bệnh dịch hạch,
gia đình có đức tin,
sa di Kaṇṭaka,
và chuyện nghẽn hướng đi.
Về việc sống nương nhờ,
đứa trẻ, các điều học,
chúng sống, và gì nữa?
Cấm toàn bộ, vào miệng,
các vị thầy tế độ,
dụ dỗ, Kaṇṭaka.
Vô căn, trộm, bỏ đi,
con rồng, và kẻ giết
mẹ, cha, A-la-hán,
làm dơ tỳ khưu ni,
kẻ chia rẽ, đổ máu
và thêm kẻ lưỡng căn.
Thầy tế độ không có ,
với hội chúng, hoặc nhóm,
kẻ vô căn, không bát,
không y, hoặc cả hai,
với đồ mượn là ba.
Cụt tay, chân, tay chân,
tai, mũi, hoặc cả hai,
ngón, móng, và gân chân,
tay có màng, gù, lùn,
bướu cổ, bị đóng dấu,
bị phạt roi, tầm nã,
phù chân voi, bệnh nặng,
kẻ bôi nhọ hội chúng,
người chột, bệnh co rút,
và như thế người què,
người bị liệt nửa thân,
người tướng đi khập khiễng,
già yếu, mù, câm, điếc,
mù câm đều ở đó,
mù điếc đã nói đến
và câm điếc cũng thế,
đồng thời câm mù điếc.
Cho sự nương nhờ đến
những kẻ không liêm sỉ,
và có thể sống vậy
trường hợp đi đường xa.
Với vị được yêu cầu
các người mong muốn tu,
“Hãy đến,” chúng tranh cãi
chỉ một thầy tế độ
là ngài Kassapa.
Các vị đã được tu
được thấy bị khổ sở
bởi vì các thứ bệnh,
chưa được giảng, bối rối,
giảng giải ở ngay đó.
Kẻ ngu giữa hội chúng
chưa chỉ định, cùng lúc,
tế độ lên bậc trên,
vật nương, (về) một mình,
và ba điều còn lại.
Các sự việc chương này
là một trăm bảy hai.
Dứt phần tóm lược của Chương Trọng Yếu.
-ooOoo-
Chú giải
↥1 | Coro aṅgulimālo: mới xem qua dễ lầm tưởng với kẻ cướp tên Aṅgulimāla trong bài kệ tụng về Tám Phật Lực. Dịch giả I.B. Horner đã nêu lên điều này với lý do không có chữ “nāma = tên là” hoặc “ti” như được thường dùng trong trường hợp danh từ riêng; hơn nữa vị này được xuất gia ở nơi các tỳ khưu còn vị kia được xuất gia theo lối “ehi bhikkhu” với đức Phật. Thêm nữa, sự biến đổi từ nữ tánh sang nam tánh của “mālā” trong cụm từ “aṅgulimālo” xác định đây là trường hợp bahubbīhi. |
---|---|
↥2 | Liên quan đến tội pācittiya (ưng đối trị) 65. |
↥3 | Nghĩa là ngọn núi ở phía Nam. Ở phía nam của thành Rājagaha có ngọn núi tên là Dakkhiṇāgiri nên được giữ nguyên không dịch. |
↥4 | Tên vị này đã được dịch là Tịnh Phạn (Suddhodana), tức là cha của thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha). Thái tử đã lìa hoàng cung ra đi sau này trở thành đức Phật Thế Tôn. |
↥5 | Nandā là con trai của đức vua Suddhodana và bà Mahāpajāpati Gotamī, tức em cùng cha khác mẹ với ngài. |
↥6 | Chú giải phần này, ngài Buddhaghosa có nêu ra và giải thích về 5 hạng paṇḍaka là “āsittapaṇḍako usūyapaṇḍako opakkamikapaṇḍako pakkhapaṇḍako napuṃsakapaṇḍakoti.”Không cần thiết nên không chú thích rõ phần này. |
↥7 | Theyyasaṃvāsaka nghĩa là sống chung theo lối trộm cắp. Ngài Buddhaghosa đề cập 3 loại theyyasaṃvāsaka và giải thích như sau: liṅgatthenaka (kẻ trộm tướng mạo) là tự mình xuất gia rồi đi đến tu viện và không biết gì về các điều quy định, saṃvāsatthenaka (kẻ trộm trong việc cộng trú) là sa di hoặc đã hoàn tục rồi đi đến tu viện nói dối là tỳ khưu và có biết về các điều quy định, hạng thứ ba ubhayatthenaka (kẻ trộm theo cả hai cách) là tự mình xuất gia rồi đi đến tu viện và có biết về các điều quy định. |
↥8 | Vào các ngày này, các cư sĩ thường thọ trì tám giới hoặc mười giới một ngày đêm. |