Kinh số 9 – Giải Thích Kinh Chánh Tri Kiến

(Sammādiṭṭhisuttavaṇṇanā)

9.1. Nội dung dịch

No

Pāḷi

Việt

1

89. evaṃ me sutanti sammādiṭṭhisuttaṃ.

0

2

tattha “sammādiṭṭhi sammādiṭṭhīti,

āvuso, vuccati, kittāvatā nu kho,

āvuso”ti vā “katamaṃ panāvuso,

akusalan”ti vā evaṃ yattakā therena pucchā vuttā, sabbā kathetukamyatā pucchā eva.

Ở đoạn kinh đó, câu kinh ‘Này các ông, ‘Người có Chánh Kiến, người có Chánh Kiến’ được nói; này các ông, trong chừng mực nào?’ hay câu kinh ‘Vậy này các ông, cái gì là bất thiện?’; bất kỳ câu hỏi nào được nói bởi vị Trưởng lão (Sāriputta) như vậy, thì toàn bộ các câu hỏi ấy là nhằm để (Trưởng lão) phát biểu(i).

—–

(i) Ngài Sāriputta đặt câu hỏi không phải để nghe câu trả lời mà để Ngài có cơ hội phát biểu.

3

tattha yasmā jānantāpi sammādiṭṭhīti vadanti ajānantāpi bāhirakāpi

sāsanikāpi anussavādivasenāpi

attapaccakkhenāpi, tasmā taṃ

bahūnaṃ vacanaṃ upādāya

dvikkhattuṃ āmasanto “sammādiṭṭhi sammādiṭṭhīti, āvuso, vuccatī”ti āha.

Trong chủ đề đó; bởi vì những người biết lẫn những người không biết – dù thuộc ngoại đạo hay bổn đạo(i) – đều nói ‘người có Chánh Kiến’ do ảnh hưởng từ truyền thống vân vân cũng như do tự chứng; do đó, sau khi tiếp nhận lời nói đó của nhiều người, Ngài (Sāriputta) đã nói bằng cách nhấn 2 lần ‘Này các ông, ‘Người có Chánh Kiến, người có Chánh Kiến’ được nói.’ 

—–

(i) [Bổn đạo] tức thuộc đạo Phật.

4

ayañhi ettha adhippāyo, aparehipi

sammādiṭṭhīti vuccati, athāparehipi

sammādiṭṭhīti vuccati, svāyaṃ evaṃ vuccamāno atthañca lakkhaṇañca

upādāya kittāvatā nu kho, āvuso,

ariyasāvako sammādiṭṭhi hotīti.

Ở điểm này, quả thật đây là ý định (của lời nói Ngài Sāriputta): ‘Người có Chánh Kiến’ được nói bởi những người này; ‘Người có Chánh Kiến’ cũng được nói bởi những người kia; chính lời nói đó trong khi được nói như vậy, thì có phạm vi ra sao về mặt ý nghĩa và đặc điểm? Và này các ông, trong chừng mực nào vị thánh đệ tử là người có Chánh Kiến?  

5

tattha sammādiṭṭhīti sobhanāya

pasatthāya ca diṭṭhiyā samannāgato. yadā pana dhammeyeva ayaṃ

sammādiṭṭhisaddo vattati, tadāssa

sobhanā pasatthā ca diṭṭhi

sammādiṭṭhīti evamattho veditabbo.

Ở câu kinh đó, ‘Người có Chánh Kiến’ là người có Kiến trong sáng và được tán dương. Và khi nào tiếng nói ‘người có Chánh Kiến’ ấy xuất hiện ngay trong Pháp; thì khi ấy, ‘Chánh Kiến’ là Kiến trong sáng và được tán dương; ý nghĩa (của cụm từ đó) nên được hiểu như vậy.

6

sā cāyaṃ sammādiṭṭhi duvidhā hoti

lokiyā lokuttarāti. tattha

kammassakatāñāṇaṃ

saccānulomikañāṇañca lokiyā

sammādiṭṭhi, saṅkhepato vā

sabbāpi sāsavā paññā.

Chính Chánh Kiến ấy thì có 2 loại: Hiệp Thế, Siêu Thế. Trong chủ đề này, Trí về bản chất của Nghiệp và Trí phù hợp với Chân Lý là Hiệp Thế Chánh Kiến; hay tóm lại, tất cả Hữu Lậu Tuệ (là Hiệp Thế Chánh Kiến).

7

ariyamaggaphalasampayuttā paññā

lokuttarā sammādiṭṭhi. puggalo

pana tividho hoti puthujjano sekkho asekkho ca. tattha puthujjano duvidho hoti

bāhirako sāsaniko ca.

Tuệ hiệp hành với Thánh Đạo, Thánh Quả là Siêu Thế Chánh Kiến. Còn con người cũng có 3 hạng: thường nhân, hữu học và vô học. Trong chủ đề này, thường nhân có 2 hạng: ngoại đạo và bổn đạo.

8

tattha bāhirako kammavādī

kammassakatādiṭṭhiyā sammādiṭṭhi hoti, no saccānulomikāya

attadiṭṭhiparāmāsakattā.

Trong chủ đề này, người chủ trương Nghiệp thuộc ngoại đạo là người có Chánh Kiến theo dạng Kiến về bản chất của Nghiệp, không phải theo dạng Kiến phù hợp với Chân Lý do trạng thái tự mình chứng thấy. 

9

sāsaniko dvīhipi. sekkho niyatāya

sammādiṭṭhiyā sammādiṭṭhi.

asekkho asekkhāya.

Người thuộc bổn đạo có 2 hạng. Bậc hữu học là người có Chánh Kiến theo dạng Chánh Kiến chắc chắn. Bậc vô học là người có Chánh Kiến theo dạng vô học Chánh Kiến.

10

idha pana niyatāya niyyānikāya

lokuttarakusalasammādiṭṭhiyā

samannāgato “sammādiṭṭhī”ti

adhippeto.

Và ở đây, người có Chánh Kiến về cái thiện và cái siêu thế một cách chắc chắn, dẫn đến giải thoát thì được hiểu là ‘người có Chánh Kiến’.

11

tenevāha “ujugatāssa diṭṭhi dhamme aveccappasādena samannāgato

āgato imaṃ saddhamman”ti,

lokuttarakusalasammādiṭṭhiyeva hi

antadvayamanupagamma

ujubhāvena gatattā, kāyavaṅkādīni

ca sabbavaṅkāni samucchinditvā

gatattā ujugatā hoti, tāyeva ca

diṭṭhiyā samannāgato navappakārepi lokuttaradhamme

aveccappasādena acalappasādena

samannāgato hoti,

Chính bởi vậy, Đức Phật đã nói: ‘Người có Đức Tin không dao động trong Pháp, đã đến Chánh Pháp này là người có Kiến ngay thẳng.’; bởi vì chính người có Chánh Kiến về cái thiện và cái siêu thế không đi theo 2 cực đoan rồi có sự đi(i) bằng trạng thái ngay thẳng; và sau khi bứng lên hoàn toàn mọi cái cong vạy(ii) gồm những cái cong vạy về thân vân vân, người ấy có trạng thái đi một cách ngay thẳng; chính người có Kiến đó là người có Đức Tin không dao động, có Đức Tin không lay động trong Siêu Thế Pháp thể theo 9 loại.  

—–

(i) [Đi] có thể hiểu là [sống]; cách đi là cách sống, sinh hoạt… ở đời.

(ii) [Cong vạy] ám chỉ đến bất thiện, phiền não…

12

sabbadiṭṭhigahanāni ca

vinibbeṭhento sabbakilese pajahanto jātisaṃsārā nikkhamanto

paṭipattiṃ pariniṭṭhapento ariyena

maggena āgato imaṃ

sambuddhappaveditaṃ

amatogadhaṃ nibbānasaṅkhātaṃ

saddhammanti vuccati.

Để giải tan mọi Kiến Lâm(i), từ bỏ mọi phiền não, ra khỏi Sinh Luân(ii), hoàn thành sự thực hành bằng Thánh Đạo, người ấy đã đến Chánh Pháp này, được tuyên bố bởi bậc Toàn Giác, chìm vào trạng thái bất tử – tức tên gọi cho Niết Bàn; điều đó được nói như vậy.

—–

(i) [Kiến Lâm] tức khu rừng các Tà Kiến.

(ii) [Sinh Luân – jātisaṃsāra] tức vòng luân hồi sinh tử.

13

 yato khoti

kālaparicchedavacanametaṃ,

yasmiṃ kāleti vuttaṃ hoti.

[Khi], đây là một từ chỉ đến sự phân chia thời gian, tức vào thời điểm đó; điều đó được nói như vậy.

14

akusalañca pajānātīti

dasākusalakammapathasaṅkhātaṃ

akusalañca pajānāti,

nirodhārammaṇāya pajānanāya

kiccavasena “idaṃ dukkhan”ti

paṭivijjhanto akusalaṃ pajānāti.

[Vị ấy rõ biết cái Bất Thiện], vị ấy rõ biết cái Bất Thiện – là tên gọi của 10 con đường Bất Thiện Nghiệp; vị ấy rõ biết cái Bất Thiện do vị ấy thấu đạt rằng ‘Cái này là Khổ.’ do sức mạnh của phận sự thuộc về Tri Năng(i) có đối tượng là sự Diệt.

—–

(i) [Tri Năng – Pajānanā] xuất phát từ động từ [Pajānāti – rõ biết]; theo từ điển Pāḷi Text Society, từ này trong văn học luận giải tương đương với [Trí Tuệ – Paññā]. 

15

akusalamūlañca pajānātīti tassa

mūlapaccayabhūtaṃ

akusalamūlañca pajānāti, teneva

pakārena “ayaṃ dukkhasamudayo”ti paṭivijjhanto.

[Vị ấy rõ biết Bất Thiện Căn], vị ấy rõ biết Bất Thiện Căn bao gồm Căn và Duyên do vị ấy thấu đạt bằng chính lối ấy rằng ‘Cái này là Nguồn Gốc của Khổ.’

16

esa nayo kusalañca kusalamūlañcāti etthāpi. yathā cettha, evaṃ ito

paresu sabbavāresu kiccavaseneva

vatthupajānanā veditabbā.

Và đó là phương pháp (luận giải) đối với cụm từ ‘Cái Bất Thiện, Bất Thiện Căn’ ở đây. Cũng giống như ở đây, như vậy ở mọi chỗ khác kể từ đây, Tri Năng nền tảng nên được hiểu theo sức mạnh của phận sự.

17

ettāvatāpīti ettakena iminā

akusalādippajānanenāpi.

[Và trong chừng mực ấy], và bằng sự rõ biết Bất Thiện vân vân như thế ấy.

18

sammādiṭṭhi hotīti vuttappakārāya

lokuttarasammādiṭṭhiyā

samannāgato hoti.

[Vị ấy là người có Chánh Kiến], vị ấy có Siêu Thế Chánh Kiến theo lối được nói đó.

19

ujugatāssa … pe … imaṃ

saddhammanti ettāvatā

saṃkhittadesanā niṭṭhitā hoti.

desanāyeva cesā saṃkhittā, tesaṃ

pana bhikkhūnaṃ vitthāravaseneva

sammāmanasikārappaṭivedho

veditabbo.

[Ngay thẳng… Chánh Pháp này], lời giảng tóm lược như thế ấy được chấm dứt. Nếu chính lời giảng mang tính tóm lược thì sự thấu đạt dựa vào Chánh Tác Ý về phương diện chi tiết sẽ được các vị Tỳ Kheo ấy hiểu (i).

—–

(i) Ở đoạn kinh này, Ngài Sāriputta chỉ giảng về người có Chánh Kiến một cách tóm lược, các vị Tỳ Kheo muốn hiểu chi tiết phải có Chánh Tác Ý về chi tiết.

20

dutiyavāre pana desanāpi vitthārena manasikārappaṭivedhopi

vitthāreneva vuttoti veditabbo.

Còn ở lần thứ 2, lời giảng về phương diện chi tiết và sự thấu đạt dựa vào Tác Ý về chính phương diện chi tiết đã được nói; điều đó nên được hiểu như vậy.

21

tattha “saṃkhittadesanāya dve

heṭṭhimamaggā, vitthāradesanāya

dve uparimamaggā kathitā”ti

bhikkhū āhaṃsu

vitthāradesanāvasāne “sabbaso

rāgānusayaṃ pahāyā”tiādivacanaṃ sampassamānā.

Ở đoạn đó, vào cuối lời giảng chi tiết, khi các vị Tỳ Kheo suy xét lời nói ‘Sau khi từ bỏ hoàn toàn Luyến Ái Tùy Miên’ vân vân; họ đã nói rằng ‘Hai Đạo bậc thấp đã được giảng bằng lời giảng tóm lược, hai Đạo bậc cao đã được giảng bằng lời giảng chi tiết.’

22

thero panāha “saṃkhittadesanāyapi cattāro maggā rāsito kathitā,

vitthāradesanāyapī”ti.

Thế nhưng, vị Trưởng lão (Sāriputta) đã nói rằng ‘4 Đạo đã được giảng thành một khối bằng lời giảng tóm lược lẫn lời giảng chi tiết.’

23

yā cāyaṃ idha

saṃkhittavitthāradesanāsu vicāraṇā āvikatā, sā sabbavāresu idha

vuttanayeneva veditabbā.

apubbānuttānapadavaṇṇanāmattameva hi ito paraṃ karissāma.

Và ở đây, chính sự khảo sát nào đối với các lời giảng tóm lược và chi tiết thì sự khảo sát ấy nên được hiểu theo chính phương pháp được nói trên trong mọi lúc tại đây (tại bài kinh này)(i). Bởi vì từ đây về sau, chúng tôi(ii) sẽ tiến hành chú giải chỉ trong chừng mực các câu từ chưa rõ ràng, chưa (được chú giải) trước đây.

—–

(i) Tức hiểu theo lời Ngài Sāriputta: cả 4 Đạo đều được giảng tóm lược và giảng chi tiết.

(ii) [Chúng tôi tiến hành – karissāma], đây là động từ mô tả cách, chủ động, thì tương lai, ngôi 1, số nhiều (Indicative, Active, Future, First Person, Plural). Tuy nhiên, theo cách dùng đặc trưng của Pāḷi, có thể hiểu số nhiều ở đây mang tính lịch sự, vì soạn giả bộ Chú Giải này được thừa nhận là Ngài Buddhaghosa.

24

tattha paṭhamavārassa tāva

vitthāradesanāya “pāṇātipāto kho,

āvuso, akusalan”tiādīsu

akosallappavattiyā akusalaṃ

veditabbaṃ, parato

vattabbakusalappaṭipakkhato vā.

Ở đoạn kinh đó, xuyên suốt lời giảng chi tiết ở lần thứ nhất, ở những câu ‘Này các ông, việc giết hại sinh mạng là bất thiện.’ vân vân, cái Bất Thiện nên được hiểu theo phương diện là sự tiến hành cái không tốt đẹp(i) và hơn nữa, theo phương diện là cái đối lập với cái Thiện sẽ được nói (ở đoạn kế).

—–

(i) Hoặc [sự tiến hành một cách không khéo léo], do từ Pāḷi [kosalla] có cả 2 nghĩa là [khéo léo, tốt đẹp]. 

25

taṃ lakkhaṇato

sāvajjadukkhavipākaṃ saṃkiliṭṭhaṃ vā.  ayaṃ tāvettha

sādhāraṇapadavaṇṇanā.

Nó bị ô nhiễm và có quả đáng chê trách, quả Khổ là đặc điểm. Tính đến chỗ này, đó là phần chú giải câu từ tổng quát.

26

asādhāraṇesu pana pāṇassa atipāto

pāṇātipāto, pāṇavadho pāṇaghātoti

vuttaṃ hoti.

0

27

pāṇoti cettha vohārato satto,

paramatthato jīvitindriyaṃ.

[Sinh mạng], ở câu kinh này, đó là Chúng Sinh về mặt tên gọi, là Mạng Quyền về mặt Chân Đế(i).

—–

(i) Khi nói [Sát Sinh], về mặt tên gọi theo Tục Đế, ta hiểu [Sinh] là [Chúng Sinh], nhưng về mặt Chân Đế, cần hiểu [Sinh] là [Mạng Quyền].

28

tasmiṃ pana pāṇe pāṇasaññino

jīvitindriyupacchedakaupakkamasamuṭṭhāpikā kāyavacīdvārānaṃ

aññataradvārappavattā

vadhakacetanā pāṇātipāto.

Sự Sát Sinh là Tư Sát Hại(i) của kẻ nhận biết về chúng sinh ấy(ii), (Tư ấy) diễn tiến thông qua một môn nào đó trong số Thân Môn, Khẩu Môn, có tính kích hoạt những biện pháp cắt đứt mạng quyền đối với chúng sinh ấy.

—–

(i) [Tư – Cetanā] là một Tâm Sở, Tư Sát Hại là Tư nhắm đến việc Sát Hại.

(ii) Ở đây có 2 đối tượng: kẻ sát sinh là A, chúng sinh bị kẻ ấy giết là B. A là kẻ nhận biết về chúng sinh B nghĩa là A nhận biết được B là một chúng sinh có sinh mạng. Nếu A nhầm B là vật vô tri giác như cây cỏ rồi dẫm đạp làm chết B hay A vô tình đạp trúng B chết thì A không sát sinh.

29

so guṇavirahitesu tiracchānagatādīsu pāṇesu khuddake pāṇe appasāvajjo, mahāsarīre mahāsāvajjo.

Sự Sát Sinh đó có lỗi nhỏ đối với chúng sinh nhỏ(i) trong số các chúng sinh thuộc cõi súc sinh vân vân, vốn thiếu phẩm chất(ii); có lỗi lớn đối với chúng sinh có thân thể lớn.

—–

(i) Chúng sinh nhỏ ở đây là chúng sinh bị sát hại.

(ii) Các cõi khổ như súc sinh, ngạ quỷ… thiếu phẩm chất: trí tuệ, giới hạnh…

30

kasmā? payogamahantatāya. payogasamattepi vatthumahantatāya.

Vì sao? Do mức độ lớn lao trong việc thực hiện. Và do mức độ lớn lao của nền tảng cho việc hoàn thành sự thực hiện ấy.

31

guṇavantesu manussādīsu appaguṇe pāṇe appasāvajjo, mahāguṇe

mahāsāvajjo.

Trong số chúng sinh như con người vân vân vốn (là loại chúng sinh) có phẩm chất, (Sự Sát Sinh đó) có lỗi nhỏ đối với chúng sinh có phẩm chất ít, có lỗi lớn đối với chúng sinh có phẩm chất nhiều. 

32

sarīraguṇānaṃ pana samabhāve sati kilesānaṃ upakkamānañca

mudutāya appasāvajjo, tibbatāya

mahāsāvajjoti veditabbo.

Và khi kích cỡ thân thể hay mức độ phiền não ngang bằng nhau, thì (sự Sát Sinh ấy) có lỗi nhỏ bởi tính nhẹ nhàng của sự tấn công, có lỗi lớn bởi tính quyết liệt của sự tấn công; điều đó nên được hiểu như vậy(i).

—–

(i) Nếu sát sinh 2 con vật có cơ thể cùng kích cỡ, thì cách ra tay nhẹ nhàng ít lỗi, ra tay quyết liệt nhiều lỗi; nếu sát sinh 2 người có cùng mức độ phiền não như nhau, thì cách ra tay nhẹ nhàng ít lỗi, ra tay quyết liệt nhiều lỗi.

33

tassa pañca sambhārā honti pāṇo,

pāṇasaññitā, vadhakacittaṃ,

upakkamo, tena maraṇanti.

5 thành phần của sự Sát Sinh ấy là: (1) Chúng sinh, (2) Sự nhận biết chúng sinh, (3) Tâm sát hại, (4) Sự tấn công, (5) Cái chết (của chúng sinh) do sự tấn công đó. 

34

cha payogā sāhatthiko, āṇattiko,

nissaggiyo, thāvaro, vijjāmayo,

iddhimayoti.

6 kiểu thực hiện của sự Sát Sinh ấy là: (1) Tự tay mình, (2) Sai khiến, (3) Ném Phóng(i), (4) Bất Chuyển(ii), (5) Được làm bằng Bí Thuật(iii), (6) Được làm bằng Thần Thông(iv).

—–

Theo Chú Giải Tạng Luật,

(i) Sát Sinh kiểu Ném Phóng tức kẻ giết đứng từ xa ném phóng mũi tên, dao găm, đá…

(ii) [Bất Chuyển – Thāvara] tức giết bằng cách chuẩn bị thuốc (độc), đặt bẫy… Có thể hiểu Bất Chuyển ở đây là kẻ sát nhân không phải di chuyển đến tận chỗ nạn nhân để ra tay hoặc các phương tiện sử dụng ở đây – thuộc độc, cạm bẫy vân vân – không có tính di chuyển như mũi tên, dao găm…

(iii) [Được làm bằng Bí Thuật] tức giết dựa vào ma thuật, phù phép…

(iv) [Được làm bằng Thần Thông] tức giết dựa vào Thần Thông – Thần Thông này có được do quả của nghiệp. Chẳng hạn như Thần Thông của loài Rồng, chư Thiên…

35

imasmiṃ panettha vitthārīyamāne

atipapañco hoti, tasmā naṃ na

vitthārayāma, aññañca evarūpaṃ.

Ở đây, khi chủ đề này được giảng giải thì sẽ có sự chậm trễ lớn; do đó, chúng tôi không giảng giải chủ đề này hay các chủ đề khác tương tự vậy.

36

atthikehi pana samantapāsādikaṃ

vinayaṭṭhakathaṃ (pārā. aṭṭha. 2.172) oloketvā gahetabbo.

Còn những ai quan tâm nên xem và tiếp thu trong bộ Chú Giải Tạng Luật Samantapāsādika (pārā. aṭṭha. 2.172).

37

adinnassa ādānaṃ adinnādānaṃ, parassa haraṇaṃ theyyaṃ, corikāti vuttaṃ hoti.

0

38

tattha adinnanti parapariggahitaṃ,

yattha paro yathākāmakāritaṃ

āpajjanto adaṇḍāraho anupavajjo ca hoti.

Ở câu kinh đó, [của không được cho] tức là Sở Hữu Vật của người khác; khi đó, người khác ấy (tức người chủ món vật) định lãi suất(i) theo ý muốn thì không có lỗi, không bị chê trách(ii).

—–

(i) Theo từ điển PTS, từ Pāḷi [Kārita] không có nghĩa nào phù hợp trong bối cảnh này. Từ điển Sanskrit Monier-Williams có ghi một nghĩa phù hợp là [Lãi suất]. Tức ở đây, người A lấy trộm của người B một món vật nào đó, khi người B phát hiện, có quyền yêu cầu người A bồi thường món vật cộng thêm một mức lãi suất tùy ý người B định. Tuy nhiên, không rõ cách giải quyết này thuộc tập quán hay pháp luật thời đó.

(ii) Như chú thích (i) đã nói, người B nếu định một mức lãi suất rất cao cũng không có lỗi gì, vì người A đã phạm tội lấy cắp.

39

tasmiṃ pana parapariggahite

parapariggahitasaññino

tadādāyakaupakkamasamuṭṭhāpikā

theyyacetanā adinnādānaṃ. taṃ hīne parasantake appasāvajjaṃ, paṇīte mahāsāvajjaṃ.

Việc Lấy Của Không Được Cho là Tư Trộm Cắp của kẻ nhận biết về sở hữu vật của người khác, (Tư ấy) có tính kích hoạt các biện pháp lấy món vật ấy đối với sở hữu vật của người khác. Việc (lấy của không được cho) ấy có lỗi nhỏ đối với tài sản của người khác ở mức thấp kém, có lỗi lớn đối với tài sản của người khác ở mức hảo hạng.

40

kasmā? vatthupaṇītatāya. vatthusamatte sati guṇādhikānaṃ

santake vatthusmiṃ mahāsāvajjaṃ.

Vì sao? Do mức độ tuyệt hảo của món vật. Khi các món vật ngang bằng (về độ tuyệt hảo), việc ấy có lỗi lớn đối với món vật thuộc về những người vượt trội về phẩm chất(i).

—–

(i) Người A lấy trộm một món vật của người B, nếu người B có phẩm chất đạo đức càng cao thì lỗi của người A càng lớn.

41

taṃ taṃ guṇādhikaṃ upādāya tato

tato hīnaguṇassa santake

vatthusmiṃ appasāvajjaṃ.

So với người vượt trội về phẩm chất thế này thế kia, việc ấy có lỗi nhỏ đối với món vật thuộc về người có phẩm chất thấp kém thế này thế kia.

42

tassa pañca sambhārā honti

parapariggahitaṃ,

parapariggahitasaññitā, theyyacittaṃ, upakkamo, tena haraṇanti. cha payogā sāhatthikādayova.

5 thành phần của việc Lấy Của Không Được Cho ấy là: (1) Sở Hữu Vật của người khác; (2) Sự nhận biết Sở Hữu Vật của người khác; (3) Tâm trộm cắp; (4) Sự tiến hành; (5) Sự mang đi (món vật) do sự tiến hành đó. 6 kiểu thực hiện của việc Lấy Của Không Được Cho ấy là: tự tay mình vân vân.

43

te ca kho yathānurūpaṃ

theyyāvahāro, pasayhāvahāro,

paṭicchannāvahāro, parikappāvahāro, kusāvahāroti imesaṃ avahārānaṃ vasena pavattāti ayamettha

saṅkhepo. vitthāro pana

samantapāsādikāyaṃ (pārā. aṭṭha. 1.92) vutto.

Và dựa theo hình thức, chúng bao gồm: (1) Việc lấy đi theo cách trộm cắp; (2) Việc lấy đi bằng vũ lực; (3) Việc lấy đi được che đậy; (4) Việc lấy đi dựa vào mưu thuật; (5) Việc lấy đi khi bắt thăm(i); (các kiểu thực hiện ấy) diễn tiến do bởi các hình thức lấy đi này; ở đây, đó là nội dung tóm lược; còn nội dung chi tiết được nói trong bộ Samantapāsādikā (pārā. aṭṭha. 1.92).

—–

(i) Theo Chú Giải Tạng Luật, đây là hình thức gian lận khi bắt thăm nhằm lấy được món vật vốn đã được chia cho người khác. Từ Pāḷi [kusa] ở đây chỉ một loại cỏ thường được dùng làm lá thăm.

44

kāmesumicchācāroti ettha pana

kāmesūti methunasamācāresu.

micchācāroti ekantanindito

lāmakācāro. lakkhaṇato pana

asaddhammādhippāyena

kāyadvārappavattā agamanīyaṭṭhānavītikkamacetanā kāmesumicchācāro.

[Hành Vi Sai Trái trong các Dục], ở đây, [các Dục] tức là các hành vi đôi lứa. [Hành Vi Sai Trái] tức là hành vi xấu kém, bị chê trách cùng cực. Hành vi sai trái trong các Dục là Tư Vượt Quá điều kiện không nên bị vượt quá, diễn tiến thông qua Thân Môn do ý định sái quấy(i) là đặc điểm.

—–

(i) [Ý định sái quấy] tức ý định quan hệ đôi lứa.  

45

tattha agamanīyaṭṭhānaṃ nāma

purisānaṃ tāva māturakkhitā,

piturakkhitā, mātāpiturakkhitā,

bhāturakkhitā, bhaginirakkhitā,

ñātirakkhitā, gottarakkhitā,

dhammarakkhitā, sārakkhā,

saparidaṇḍāti māturakkhitādayo

dasa; dhanakkītā, chandavāsinī,

bhogavāsinī, paṭavāsinī,

odapattakinī, obhaṭacumbaṭā, dāsī ca bhariyā ca, kammakārī ca bhariyā

ca, dhajāhatā, muhuttikāti etā ca

dhanakkītādayo dasāti vīsati itthiyo.

Ở câu kinh đó, cái được gọi là Điều Kiện Không Nên Bị Vượt Quá bởi những người nam chỉ đến 20 hạng Phụ Nữ: 10 hạng Phụ Nữ được Giám Hộ như Giám Hộ bởi Mẫu Thân vân vân – bao gồm: (1) Được Giám Hộ bởi Mẫu Thân; (2) Được Giám Hộ bởi Phụ Thân; (3) Được Giám Hộ bởi Song Thân; (4) Được Giám Hộ bởi Huynh Đệ; (5) Được Giám Hộ bởi Tỷ Muội; (6) Được Giám Hộ bởi Thân Quyến; (7) Được Giám Hộ bởi Gia Tộc; (8) Được Giám Hộ bởi Pháp(i); (9) Người đã Thành Thân; (10) Người có Hình Phạt Vây Bọc(ii). 10 hạng Phụ Nữ như Được Mua Bằng Tiền vân vân – bao gồm: (1) Được Mua Bằng Tiền; (2) Sống do Ý Nguyện(iii); (3) Sống do Tài Sản(iv); (4) Sống do Quần Áo(v); (5) Dựa vào phép Bát Nước(vi); (6) Có Mạn Được Gỡ Ra(vii); (7) Hầu Gái cũng là Vợ; (8) Người Làm Công cũng là Vợ(viii); (9) Được Mang Đi Bởi Quân Kỳ(ix); (10) Vợ Tạm Thời.

—–

(i) Theo Sớ Giải tương ứng, [Sự Giám Hộ của Pháp] là Sự Giám Hộ bởi những bạn đồng đạo.

(ii) Theo Sớ Giải tương ứng:

Yassā gamane raññā daṇḍo ṭhapito,

sā saparidaṇḍā. = Hình phạt do nhà vua sai áp đặt lên việc đi đến với người phụ nữ nào, thì người phụ nữ ấy là người có Hình Phạt Vây Bọc [Saparidaṇḍā]. Tức nhà vua ra lệnh cấm bất kỳ người nam nào đi đến – tức quan hệ, ở đây thiên về quan hệ đôi lứa – với người phụ nữ ấy, kẻ nào trái lệnh thì bị trừng phạt.

(iii) Theo Chú Giải Tạng Luật, đây chỉ đến người phụ nữ tự nguyện sống cùng người đàn ông – tức người chồng mình.

(iv) Theo Chú Giải Tạng Luật, đây chỉ đến người phụ nữ ở tỉnh chấp nhận làm vợ để được giúp đỡ về nhà cửa vân vân.

(v) Theo Chú Giải Tạng Luật, đây chỉ đến người phụ nữ nghèo khổ chấp nhận làm vợ để có quần áo.

(vi) [odapattakinī] = [người có Bát Nước]. Theo Chú Giải Tạng Luật: theo phép này, đôi nam nữ cầm bát nước rồi có một người khác tuyên đọc ‘Chớ chia lìa, hãy hòa quyện như nước này!’.

(vii) Theo Chú Giải Tạng Luật, đây chỉ đến người phụ nữ sống chung với người đàn ông do người này gỡ được mạn che mặt của cô ta.

(viii) Thời xưa xã hội đa thê, nên có nhóm phụ nữ số (7) và (8). Theo Chú Giải Tạng Luật, Người Làm Công khác với Hầu Gái ở chỗ Người Làm Công được thuê làm theo việc và được trả lương.

(ix) Theo Chú Giải Tạng Luật, đây chỉ đến người phụ nữ thuộc về một vương quốc – có lẽ là phi hậu. Quân đội ngoại bang đến cướp nước, rồi mang người phụ nữ đó về làm vợ một người đàn ông – có lẽ là vương tướng. Quân kỳ là biểu tượng của đội quân đó.

46

itthīsu pana dvinnaṃ

sārakkhāsaparidaṇḍānaṃ,

dasannañca dhanakkītādīnanti

dvādasannaṃ itthīnaṃ aññe purisā,

idaṃ agamanīyaṭṭhānaṃ nāma.

Còn trong số những phụ nữ, những người đàn ông khác(i) (có thể(ii) được đi đến) bởi 12 hạng phụ nữ – gồm 10 hạng như Được Mua Bằng Tiền vân vân và 2 hạng là Người đã Thành Thân và Người có Hình Phạt Vây Bọc; đó được gọi là Điều Kiện Không Nên Bị Vượt Quá (bởi những người phụ nữ)(iii).

—–

(i) [Aññe purisā] = [những người đàn ông khác], dựa vào bối cảnh ở đây, có thể hiểu từ này chỉ đến những người đàn ông khác/không phải người chồng.

(ii) [Có thể] ở đây chỉ khả năng xảy ra, chứ không phải được phép làm.

(iii) Đoạn kinh trên đề cập tổng cộng 20 hạng phụ nữ, nhưng chỉ có 12 hạng được nói ở đây là có chồng. Vì đã có chồng nên khi họ đến với người đàn ông khác sẽ phạm giới Hành Vi Sai Trái trong các Dục. Còn 8 hạng phụ nữ còn lại chưa có chồng, nên có thể đến với người đàn ông mình lựa chọn.  

47

so panesa micchācāro

sīlādiguṇarahite agamanīyaṭṭhāne

appasāvajjo, sīlādiguṇasampanne

mahāsāvajjo.

Chính Hành Vi Sai Trái ấy có lỗi nhỏ đối với Điều Kiện Không Nên Bị Vượt Quá không có phẩm chất như Giới vân vân; có lỗi lớn đối với Điều Kiện Không Nên Bị Vượt Quá có phẩm chất như Giới vân vân.

48

tassa cattāro sambhārā

agamanīyavatthu, tasmiṃ

sevanacittaṃ, sevanapayogo,

maggenamaggappaṭipattiadhivāsananti. eko payogo sāhatthiko eva.

4 thành phần của Hành Vi Sai Trái trong các Dục ấy là: (1) Đối tượng không nên bị vượt quá; (2) Tâm giao hợp đối với đối tượng đó; (3) Việc thực hiện giao hợp; (4) Sự ưng thuận hành động (tiếp xúc) bộ phận sinh dục với bộ phận sinh dục(i). Hành Vi Sai Trái trong các Dục ấy chỉ có một cách thực hiện là tự tay mình.

—–

(i) Từ Pāḷi [magga] dựa theo từ điển PTS không có nghĩa nào phù hợp trong văn cảnh này. Dạng Sanskrit tương ứng của nó là [mārga]; từ điển Benfey Sanskrit-English có ghi nghĩa từ ghép [devamārga] là [dương vật, hậu môn]; từ điển Monier-Williams ghi nghĩa [mārga] là [hậu môn]; từ điển Online sanskritdictionary.com có chú [mārga] tương đương với [yonī, upastha] – 2 từ này cũng chỉ đến bộ phận sinh dục. Ngoài ra, trong đoạn kinh này, từ [sevana] có nghĩa [giao hợp] theo từ điển Monier-Williams.

49

musāti visaṃvādanapurekkhārassa

atthabhañjako vacīpayogo

kāyapayogo vā.

[(Nói) Dối], chỉ đến việc thực hiện bằng thân hay lời, mang tính phá hủy lợi ích, (việc thực hiện này) bởi kẻ xếp đặt sự lường gạt. 

50

visaṃvādanādhippāyena panassa

paravisaṃvādanakakāyavacīpayogasamuṭṭhāpikā cetanā musāvādo.

[Sự Nói Dối] là Tư kích hoạt sự thực hiện bằng thân hay lời của kẻ ấy (kẻ nói dối) nhằm lường gạt người khác với mong muốn lường gạt(i).

—–

(i) Câu này thoạt tưởng như dư thừa, nhưng nó củng cố ý nghĩa câu trước: nói dối là lường gạt nhằm gây hại người khác – tức lường gạt để… lường gạt, lừa đảo. Những trường hợp nói dối vì lợi ích cho người khác được loại trừ. 

51

aparo nayo musāti abhūtaṃ

atacchaṃ vatthu.

Theo thể thức khác, [(nói) dối] chỉ đến tính không đúng, không thật.

52

vādoti tassa bhūtato tacchato viññāpanaṃ. lakkhaṇato pana atathaṃ vatthuṃ

tathato paraṃ viññāpetukāmassa

tathāviññattisamuṭṭhāpikā cetanā

musāvādo.

[Sự nói] là sự thông tin(i) (một điều gì đó) như thể đúng, thật bởi người ấy. Và xét về đặc điểm, sự nói dối là Tư kích hoạt sự không truyền đạt cái thật của người muốn thông tin đến người khác cái không đúng như thể là cái thật(ii).

—–

(i) [Thông tin] ở đây dùng theo ngữ pháp Hán cổ, với [thông] là động từ và [tin] là túc từ trực tiếp cho nó. [Sự thông tin] là danh từ.

(ii) Trong giao tiếp thông thường, trừ những tình huống đùa cợt; một cách tự nhiên, người ta kỳ vọng lời nói của người khác là đúng, thật. Cho nên theo đây, khái niệm [nói] hàm ý với nó là [nói thật].

53

so yamatthaṃ bhañjati, tassa

appatāya appasāvajjo, mahantatāya mahāsāvajjo.

Sự nói dối ấy phá hủy lợi ích nào; thì do sự nhỏ nhoi của lợi ích ấy, sự nói dối ấy có lỗi nhỏ, do sự lớn lao của lợi ích ấy, sự nói dối ấy có lỗi lớn.

54

apica gahaṭṭhānaṃ attano santakaṃ adātukāmatāya

natthītiādinayappavatto appasāvajjo, sakkhinā hutvā atthabhañjanatthaṃ vutto mahāsāvajjo.

Và đối với những cư sĩ, do sự không muốn bố thí tài sản của mình, sự nói dối diễn tiến theo thể thức (nói rằng) ‘không có’ vân vân thì có lỗi nhỏ(i); sự nói dối được nói nhằm mục đích phá hủy lợi ích khi (người cư sĩ) làm chứng nhân thì có lỗi lớn(ii).

—–

(i) Tức người cư sĩ không muốn bố thí nên nói dối là mình không có tài sản, thiếu thốn, không thể bố thí.

(ii) Tức người cư sĩ ra làm chứng việc gì đó lại nói dối để phá lợi ích của bên kia.

55

pabbajitānaṃ appakampi telaṃ vā

sappiṃ vā labhitvā hasādhippāyena “ajja gāme telaṃ nadīmaññe

sandatī”ti purāṇakathānayena

pavatto appasāvajjo, adiṭṭhaṃyeva

pana diṭṭhantiādinā nayena

vadantānaṃ mahāsāvajjo.

Đối với các vị xuất gia, do việc kiếm được ít dầu hay ít bơ, sự nói dối với ý định vui đùa, diễn tiến theo thể thức lời nói kiểu thần thoại rằng ‘hôm nay ở trong làng, dầu chảy cứ như sông’ thì có lỗi nhỏ(i); sự nói dối bởi những kẻ nói theo thể thức ‘(nói) cái không được thấy thành cái được thấy(ii)’ vân vân thì có lỗi lớn.

—–

(i) Nói hoang đường trái sự thật để mua vui.  

(ii) Bản thân không thấy việc đó nhưng nói là có thấy.

56

tassa cattāro sambhārā honti atathaṃ vatthu, visaṃvādanacittaṃ, tajjo

vāyāmo, parassa tadatthavijānananti. eko payogo sāhatthikova.

4 thành phần của sự nói dối ấy là: (1) Câu chuyện không đúng; (2) Tâm lường gạt; (3) Sự nỗ lực tương ứng; (4) Việc nhận biết ý nghĩa đó bởi người khác(i). Sự nói dối chỉ có một cách thực hiện là tự tay mình.

—–

(i) Tức người khác hiểu theo lời nói dối ấy.

57

so kāyena vā kāyappaṭibaddhena vā vācāya vā visaṃvādakakiriyākaraṇe daṭṭhabbo.

Sự nói dối ấy nên được xem là sự tạo nên hành động lường gạt bằng lời, bằng vật dính với thân, hoặc bằng thân(i).

—–

(i) Người ta lường gạt không chỉ bằng lời nói, mà còn bằng hành động – chẳng hạn ra hiệu – hoặc thông qua vật dính với thân mình như trang sức… Chẳng hạn: đeo nhiều trang sức giả để tỏ ra mình giàu có.

58

tāya ce kiriyāya paro tamatthaṃ

jānāti, ayaṃ

kiriyāsamuṭṭhāpikacetanākkhaṇeyeva musāvādakammunā bajjhati.

Nếu người khác hiểu ý nghĩa đó (ý nghĩa giả dối) thông qua 3 hành động đó thì người ấy (người nói dối) bị ràng buộc với nghiệp nói dối vào ngay thời khắc Tư kích hoạt hành động.

59

pisuṇā vācātiādīsu yāya vācāya

yassa taṃ vācaṃ bhāsati, tassa

hadaye attano piyabhāvaṃ parassa

ca suññabhāvaṃ karoti, sā pisuṇā

vācā.

Về cụm từ [Sự Nói Chia Rẽ] vân vân; bằng lời nói nào mà khi người ta nói lời nói ấy đến người nào, người ta gây ra trong tim người ấy trạng thái ưa thích mình và trạng thái dửng dưng đối với người khác; thì đó là sự nói chia rẽ(i).

—–

(i) Tức ở đây có 3 người: người A nói lời nói nào mà khiến cho người C ưa thích người A và dửng dưng với người B thì người A đã chia rẽ B với C.

60

yāya pana attānampi parampi

pharusampi karoti, sā vācā sayampi pharusā neva kaṇṇasukhā na

hadayasukhā vā, ayaṃ pharusā vācā.

Và bằng lời nói nào, người ta làm cho bản thân mình hay người khác trở nên thô lỗ; tự lời nói ấy thì thô lỗ, không hề vui tai cũng không đẹp lòng, đó là sự nói thô lỗ.

61

yena samphaṃ palapati niratthakaṃ, so samphappalāpo.

Bằng lời nói nào người ta nói điều nhảm nhí, vô lợi ích thì đó là sự nói phù phiếm.

62

tesaṃ mūlabhūtā cetanāpi

pisuṇāvācādināmameva labhati, sā

eva ca idha adhippetāti.

Tư vốn là gốc của chúng (lời nói chia rẽ, lời nói thô lỗ…) có chính tên gọi là sự nói chia rẽ vân vân, chính Tư đó được hàm ý ở đây.

63

tattha saṃkiliṭṭhacittassa paresaṃ vā bhedāya attano piyakamyatāya vā

kāyavacīpayogasamuṭṭhāpikā cetanā pisuṇā vācā.

Ở đó, sự nói chia rẽ là Tư của kẻ có tâm bị ô nhiễm, (Tư ấy) kích hoạt sự thực hiện bằng lời hay bằng thân do mong muốn bản thân mình được ưa thích hay vì sự phân rẽ những người khác.

64

sā yassa bhedaṃ karoti, tassa

appaguṇatāya appasāvajjā,

mahāguṇatāya mahāsāvajjā.

Sự nói chia rẽ ấy gây ra sự phân rẽ người nào thì nó có lỗi nhỏ do phẩm chất ít ỏi của người ấy, có lỗi lớn do phẩm chất lớn lao của người ấy. 

65

tassā cattāro sambhārā bhinditabbo paro, “iti ime nānā bhavissanti vinā bhavissantī”ti bhedapurekkhāratā vā, “ahaṃ piyo bhavissāmi vissāsiko”

ti piyakamyatā vā, tajjo vāyāmo,

tassa tadatthavijānananti.

4 thành phần của sự nói chia rẽ ấy là: (1) Người sẽ bị phân rẽ; (2) Sự thuận theo việc phân rẽ rằng ‘Như vậy, những người này sẽ khác biệt nhau, sẽ tách rời nhau.’ và mong muốn được ưa thích rằng ‘Ta sẽ được ưa thích, sẽ được tin cậy.’; (3) Sự nỗ lực tương ứng; (4) Việc nhận biết ý nghĩa đó (bởi người khác)(i).

—–

(i) Tức người khác hiểu và tin theo lời chia rẽ đó. 

66

parassa mammacchedakakāyavacīpayogasamuṭṭhāpikā ekantapharusā

cetanā pharusā vācā.

Sự Nói Thô Lỗ là Tư mang tính cực kỳ thô lỗ, kích hoạt việc thực hiện sự hung hãn thông qua lời hay thân đối với người khác.

67

tassa āvibhāvatthamidaṃ vatthu — eko kira dārako mātuvacanaṃ

anādiyitvā araññaṃ gacchati, taṃ

mātā nivattetuṃ asakkontī “caṇḍā

taṃ mahiṃsī anubandhatū”ti akkosi. athassa tattheva araññe mahiṃsī

uṭṭhāsi.

Câu chuyện này có ý nghĩa minh họa cho điều đó: một cậu bé không nghe lời mẹ mình mà đi đến rừng. Do không thể khiến cậu ta quay lại, người mẹ đã mắng nhiếc: ‘Cầu cho con trâu cái hung tợn dí theo mày!’ Thế rồi, chính ngay tại khu rừng đó, một con trâu cái đã xuất hiện cho cậu bé.   

68

dārako “yaṃ mama mātā mukhena

kathesi taṃ mā hotu, yaṃ cittena

cintesi taṃ hotū”ti

saccakiriyamakāsi. mahiṃsī tattheva baddhā viya

aṭṭhāsi.

Cậu bé đã lập lời thề rằng: ‘Điều nào mẹ ta đã nói bằng miệng, điều đó chớ xảy ra; điều nào mẹ ta đã suy nghĩ bằng tâm, điều đó hãy xảy ra!’ Con trâu cái đã đứng lại ngay tại đó như thể bị trói(i).

—–

(i) Người mẹ bên ngoài mắng nhiếc con mình, nhưng trong lòng vẫn thương con, không muốn điều xấu cho con.

69

evaṃ mammacchedakopi payogo

cittasaṇhatāya pharusā vācā na hoti. mātāpitaro hi kadāci puttake evampi vadanti “corā vo khaṇḍākhaṇḍikaṃ karontū”ti, uppalapattampi ca nesaṃ upari patantaṃ na icchanti.

Như vậy, sự nói thô lỗ không phải là sự thực hiện việc hung hãn bằng sự dịu dàng của tâm. Bởi vì đôi khi, cha mẹ nói với những đứa con nhỏ thế này: ‘Cầu cho bọn trộm cướp hãy xé tan chúng mày!’, nhưng họ còn không muốn một chiếc lá sen rơi xuống đầu chúng.

70

ācariyupajjhāyā ca kadāci nissitake evaṃ vadanti “kiṃ ime ahirikā

anottappino caranti niddhamatha ne”ti. atha kho nesaṃ

āgamādhigamasampattiṃ icchanti.

Hoặc đôi khi, các vị thầy dạy và thầy tế độ nói với các đệ tử thế này: ‘Những kẻ vô tàm, vô quý này thực hành điều gì? Hãy tống chúng đi!’ Thế nhưng, họ lại mong muốn thành quả, sự thành đạt trong thực hành của các học trò.

71

yathā ca cittasaṇhatāya pharusā vācā na hoti, evaṃ vacanasaṇhatāya

apharusā vācāpi na hoti. na hi mārāpetukāmassa “imaṃ

sukhaṃ sayāpethā”ti vacanaṃ

apharusā vācā hoti. cittapharusatāya panesā pharusā

vācāva.

Giống như không có sự nói thô lỗ dựa vào sự dịu dàng của tâm, như vậy không có sự nói không thô lỗ dựa vào sự dịu dàng của lời nói(i). Bởi vì lời nói của kẻ muốn ta bị giết rằng ‘Hãy làm người này ngủ ngon.’ thì không phải là lời nói không thô lỗ. Mà đó chính là lời nói thô lỗ do sự thô lỗ của tâm.

—–

(i) Nghiệp do Tư [Cetanā] quyết định, nên thô lỗ hay không thô lỗ phải xét ở Tư chứ không xét lời nói bên ngoài.

72

sā yaṃ sandhāya pavattitā, tassa

appaguṇatāya appasāvajjā,

mahāguṇatāya mahāsāvajjā.

Sự nói thô lỗ ấy diễn tiến nhắm đến người nào, thì (sự nói thô lỗ ấy) có lỗi nhỏ do phẩm chất ít ỏi của người ấy, có lỗi lớn do phẩm chất lớn lao của người ấy.

73

tassā tayo sambhārā akkositabbo

paro, kupitacittaṃ, akkosanāti.

 3 thành phần của sự nói thô lỗ ấy là: (1) Người sẽ bị mắng nhiếc; (2) Tâm phẫn nộ; (3) Sự mắng nhiếc.

74

anatthaviññāpakakāyavacīpayogasamuṭṭhāpikā akusalacetanā

samphappalāpo.

Sự Nói Phù Phiếm là Tư bất thiện kích hoạt sự thực hiện việc thông báo chuyện vô ích thông qua thân hay lời.

75

so āsevanamandatāya appasāvajjo,

āsevanamahantatāya mahāsāvajjo.

Sự nói phù phiếm đó có lỗi nhỏ do sự chậm chạp trong việc thi hành; có lỗi lớn do sự mạnh mẽ trong việc thi hành(i).

—–

(i) Theo Sớ Giải tương ứng, ở đây chỉ đến mức độ thường xuyên khi nói phù phiếm. Nói thi thoảng thì lỗi ít, nói thường xuyên thì lỗi nhiều.

76

tassa dve sambhārā bhāratayuddhasītāharaṇādiniratthakakathāpurekkhāratā, tathārūpīkathākathananti.

2 thành phần của sự nói phù phiếm ấy là: (1) Sự ưng thuận câu chuyện vô ích như Chiến tranh Bhārata, Bắt cóc Sītā vân vân(i); (2) Việc nói câu chuyện tương tự như vậy.

—–

(i) Chiến tranh Bhārata [Bhāratayuddha] là một chủ đề trong bộ Mahābhārata; Bắt cóc Sītā [Sītāharaṇa] là một chủ đề trong bộ Rāmāyaṇa. Đây là 2 bộ sử thi lớn của truyền thống Ấn giáo.

77

abhijjhāyatīti abhijjhā,

parabhaṇḍābhimukhī hutvā

tanninnatāya pavattatīti attho.

[Sự Khao khát] chỉ đến việc người ấy khao khát. Sau khi đối mặt với món vật của người khác, người ấy bắt đầu xu hướng (nhắm đến) món vật đó; ý nghĩa là như vậy.

78

sā “aho vata idaṃ mamassā”ti evaṃ parabhaṇḍābhijjhāyanalakkhaṇā. adinnādānaṃ viya appasāvajjā ca

mahāsāvajjā ca.

Sự khao khát ấy có đặc điểm là hành vi khao khát món vật của người khác rằng ‘Ôi chao, mong món vật ấy là của ta!’ Sự khao khát ấy có lỗi nhỏ hay lỗi lớn giống với sự lấy của không được cho.

79

tassā dve sambhārā parabhaṇḍaṃ,

attano pariṇāmanañca. parabhaṇḍavatthuke hi lobhe

uppannepi na tāva

kammapathabhedo hoti, yāva “aho

vatīdaṃ mamassā”ti attano na

pariṇāmeti.

2 thành phần của sự khao khát ấy là: (1) Món vật của người khác; và (2) Sự tìm đoạt của bản thân. Bởi vì khi tham đã sinh lên dựa vào món vật của người khác thì trong lúc nào bản thân người ấy chưa tìm đoạt rằng ‘Ôi chao, mong món vật ấy là của ta!’, trong lúc ấy, không có sự khác biệt về con đường tạo nghiệp(i).

—–

(i) Khi thấy món vật của người khác rồi thích thú, mê thích món vật ấy thì mới chỉ là Tham [Lobha]; nhưng muốn có chính món vật của người khác thì mới là Khao khát [Abhijjhā]. Cần lưu ý: Khao khát là muốn có chính món vật của người khác, muốn lấy món vật đó về cho mình; còn thích món vật đó rồi muốn mua một món giống vậy thì không phải Khao khát, cũng chỉ là Tham mà thôi. 

80

hitasukhaṃ byāpādayatīti byāpādo. so paravināsāya

manopadosalakkhaṇo, pharusā vācā viya appasāvajjo mahāsāvajjo ca.

[Sự Ác Ý] chỉ đến việc người ấy phá hủy lợi ích và an lạc. Sự ác ý ấy có đặc điểm là sự căm ghét của tâm nhằm phá hoại người khác; nó có lỗi nhỏ hay lỗi lớn giống với sự nói thô lỗ.

81

tassa dve sambhārā parasatto ca,

tassa ca vināsacintā. parasattavatthuke hi kodhe

uppannepi na tāva

kammapathabhedo hoti, yāva “aho

vatāyaṃ ucchijjeyya vinasseyyā”ti

tassa vināsaṃ na cinteti.

2 thành phần của sự ác ý ấy là: (1) Chúng sinh khác; và (2) Ý nghĩ phá hoại chúng sinh ấy. Bởi vì khi sự tức giận đã sinh lên dựa vào chúng sinh khác thì trong lúc nào người ấy chưa suy nghĩ sự phá hoại chúng sinh kia rằng ‘Ô, cầu kẻ kia tiêu tan, tiêu tùng!’ trong lúc ấy, không có sự khác biệt về con đường tạo nghiệp.

82

yathābhuccagahaṇābhāvena micchā passatīti micchādiṭṭhi. sā “natthi dinnan”tiādinā nayena

viparītadassanalakkhaṇā. samphappalāpo viya appasāvajjā

mahāsāvajjā ca.

[Tà Kiến] chỉ đến việc người ấy nhìn nhận một cách sai trái, theo trạng thái nghịch với việc nắm bắt cái hợp với sự thật. Tà Kiến có đặc điểm là cái nhìn nghịch đảo theo phương thức ‘Không có vật được bố thí’ vân vân. Tà Kiến có lỗi nhỏ hay lỗi lớn giống với sự nói phù phiếm.

83

apica aniyatā appasāvajjā, niyatā

mahāsāvajjā.  tassā dve sambhārā

vatthuno ca gahitākāraviparītatā,

yathā ca taṃ gaṇhāti, tathābhāvena

tassupaṭṭhānanti.

Hơn nữa, tà kiến bất định thì có lỗi nhỏ; tà kiến cố định thì có lỗi lớn. 2 thành phần của tà kiến ấy là: (1) Trạng thái nghịch đảo trong phương cách nắm bắt đối tượng; và (2) Sự hiểu biết đối tượng ấy theo phương cách nắm bắt ấy.

84

imesaṃ pana dasannaṃ

akusalakammapathānaṃ dhammato koṭṭhāsato ārammaṇato vedanāto

mūlatoti pañcahākārehi vinicchayo

veditabbo.

Sự phân biệt 10 con đường bất thiện nghiệp này nên được hiểu theo 5 phương cách: (1) Về bản chất; (2) Về thành tố; (3) Về đối tượng; (4) Về thọ và (5) Về căn.

85

tattha dhammatoti etesu hi

paṭipāṭiyā satta, cetanādhammāva

honti, abhijjhādayo tayo

cetanāsampayuttā.

Trong chủ đề này, [về bản chất] tức là: quả thật, trong số các con đường bất thiện nghiệp ấy, thì theo tuần tự, 7 con đường có bản chất là tư; 3 con đường gồm sự khao khát vân vân thì hiệp hành với tư(i).

—–

(i) 7 con đường bất thiện nghiệp đầu tiên đều được định nghĩa là tư [cetanā]; 3 con đường sau: sự khao khát, sự ác ý & tà kiến thì không phải là tư mà chúng hiệp hành với tư bất thiện. 

86

koṭṭhāsatoti paṭipāṭiyā satta,

micchādiṭṭhi cāti ime aṭṭha

kammapathā eva honti, no mūlāni. abhijjhābyāpādā kammapathā ceva mūlāni ca. abhijjhā hi mūlaṃ patvā lobho

akusalamūlaṃ hoti. byāpādo doso

akusalamūlaṃ.

[Về thành tố] tức là: theo tuần tự, 7 con đường cùng với tà kiến: 8 cái đó chính là những con đường nghiệp, không phải căn (bất thiện). Sự khao khát và sự ác ý vừa là con đường nghiệp vừa là căn (bất thiện). Bởi vì khi cần nói đến căn, sự khao khát là tham – một bất thiện căn; sự ác ý là sân – một bất thiện căn.  

87

ārammaṇatoti pāṇātipāto

jīvitindriyārammaṇato saṅkhārārammaṇo hoti. adinnādānaṃ sattārammaṇaṃ vā

saṅkhārārammaṇaṃ vā. micchācāro phoṭṭhabbavasena

saṅkhārārammaṇo.

[Về đối tượng] tức là: sự sát sinh có đối tượng thuộc loại hữu vi pháp – tức là mạng quyền. Việc lấy của không được cho có đối tượng là chúng sinh và cả đối tượng thuộc loại hữu vi pháp. Hành vi sai trái (trong các dục) có đối tượng thuộc loại hữu vi pháp – nghĩa là xúc.

88

sattārammaṇotipi eke. musāvādo

sattārammaṇo vā saṅkhārārammaṇo vā. tathā pisuṇā vācā. pharusā vācā

sattārammaṇāva.

Một số (con đường bất thiện nghiệp) thì có đối tượng là chúng sinh. Sự nói dối có đối tượng là chúng sinh và cả đối tượng thuộc loại hữu vi pháp. Sự nói chia rẽ cũng như thế. Sự nói thô lỗ có đối tượng chính là chúng sinh.

89

samphappalāpo

diṭṭhasutamutaviññātavasena

sattārammaṇo vā saṅkhārārammaṇo vā, tathā abhijjhā. byāpādo sattārammaṇova. micchādiṭṭhi

tebhūmakadhammavasena saṅkhārārammaṇā.

Sự nói phù phiếm có đối tượng là chúng sinh – nghĩa là đối tượng được thấy, được nghe, được nghĩ, được tưởng đến – và cả đối tượng thuộc loại hữu vi pháp; sự khao khát cũng như thế. Sự ác ý có đối tượng chính là chúng sinh. Tà kiến có đối tượng thuộc loại hữu vi pháp – nghĩa là các pháp thuộc tam giới.

90

vedanātoti pāṇātipāto dukkhavedano hoti. kiñcāpi hi rājāno coraṃ disvā hasamānāpi “gacchatha naṃ

ghātethā”ti vadanti,

sanniṭṭhāpakacetanā pana nesaṃ

dukkhasampayuttāva hoti.

[Về thọ] tức là: sự sát sinh có khổ thọ. Tuy nhiên, khi các vị vua nhìn thấy tên trộm rồi cười và bảo rằng: ‘(Các ngươi) hãy đến, giết nó’; các vị vua ấy vẫn có tư sai khiến hiệp hành với khổ(i).

—–

(i) Người trực tiếp giết có khổ thọ, người sai giết cũng có khổ thọ. 

91

adinnādānaṃ tivedanaṃ. micchācāro sukhamajjhattavasena

dvivedano, sanniṭṭhāpakacitte pana majjhattavedano na hoti.

Việc lấy của không được cho có 3 thọ. Hành vi sai trái (trong các dục) có 2 thọ – nghĩa là lạc và xả; tâm của người sai khiến không có thọ xả.

92

musāvādo tivedano, tathā pisuṇā

vācā. pharusā vācā dukkhavedanāva. samphappalāpo tivedano. abhijjhā

sukhamajjhattavasena dvivedanā,

tathā micchādiṭṭhi. byāpādo

dukkhavedano.

Sự nói dối có 3 thọ; sự nói chia rẽ cũng vậy. Sự nói thô lỗ chỉ có khổ thọ. Sự nói phù phiếm có 3 thọ. Sự khao khát có 2 thọ – nghĩa là lạc và xả; tà kiến cũng như thế. Sự ác ý có khổ thọ.

93

mūlatoti pāṇātipāto

dosamohavasena dvimūlako hoti.

adinnādānaṃ dosamohavasena vā

lobhamohavasena vā. micchācāro

lobhamohavasena.

[Về căn] tức là: sự sát sinh có 2 căn – nghĩa là sân cùng si. Việc lấy của không được cho có căn sân cùng si hoặc tham cùng si. Hành vi sai trái (trong các dục) có căn tham cùng si.

94

musāvādo dosamohavasena vā

lobhamohavasena vā, tathā pisuṇā

vācā samphappalāpo ca. pharusā

vācā dosamohavasena. abhijjhā

mohavasena ekamūlā, tathā byāpādo. micchādiṭṭhi lobhamohavasena

dvimūlāti.

Sự nói dối có căn sân cùng si hoặc căn tham cùng si; sự nói chia rẽ và sự nói phù phiếm cũng như thế. Sự nói thô lỗ có căn sân cùng si. Sự khao khát có một căn – nghĩa là si; sự ác ý cũng như thế. Tà kiến có 2 căn – nghĩa là tham cùng si.

95

lobho akusalamūlantiādīsu lubbhatīti lobho. dussatīti doso. muyhatīti moho. tesu lobho sayañca akusalo sāvajjadukkhavipākaṭṭhena, imesañca pāṇātipātādīnaṃ akusalānaṃ kesañci sampayuttappabhāvakaṭṭhena kesañci upanissayapaccayaṭṭhena mūlanti akusalamūlaṃ. vuttampi cetaṃ “ratto kho āvuso rāgena abhibhūto pariyādinnacitto pāṇampi hanatī”tiādi. dosamohānaṃ akusalamūlabhāvepi eseva nayo.

0

96

pāṇātipātā veramaṇī kusalantiādīsu pāṇātipātādayo vuttatthā eva.

0

97

veraṃ maṇatīti veramaṇī, veraṃ

pajahatīti attho.

[Sự kềm tránh – veramaṇī] chỉ đến việc người ta nghiền nát cái nghịch, từ bỏ cái nghịch; ý nghĩa là như vậy(i).

—–

(i) Trong ngũ giới, từ Pāḷi [veramaṇī] thường hay được dịch là [tránh xa, cố ý tránh xa…]. Nghĩa đó không sai, tuy nhiên theo Sớ Giải tương ứng, còn một cách hiểu khác: [veramaṇī] là từ ghép, gồm [vera – cái nghịch, điều nghịch, kẻ thù…] và [maṇī – sự nghiền nát, sự phá hủy]. Khái niệm [vera – cái nghịch] ở đây chỉ đến sự sát sinh vân vân, vì chúng sẽ mang lại tai hại cho người thực hiện chúng, là kẻ thù của người thực hiện chúng. Câu Sớ Giải: Veranti pāṇātipātādipāpadhammaṃ.

98

viramati vā etāya karaṇabhūtāya,

vikārassa vekāraṃ katvāpi veramaṇī.

Hoặc [sự kềm tránh – veramaṇī] chỉ đến việc người ta kềm tránh [viramati] nhân tố gây ra việc đó(i), với âm [vi] được thay thế bằng âm [ve](ii).

—–

(i) Việc sát sinh vân vân.

(ii) Động từ [viramati] có nghĩa là [kềm tránh], danh từ phát xuất từ nó sẽ có nghĩa là [sự kềm tránh, việc kềm tránh…]. Danh từ này đáng lẽ phải là [viramaṇī], thì lại trở thành [veramaṇī] do biến âm [vi] thành [ve], có thể theo luật cường hóa nguyên âm Pāḷi. Tuy nhiên, các sự biến âm này đôi khi không thể giải thích được rõ ràng.

99

ayaṃ tāvettha byañjanato vaṇṇanā. atthato pana veramaṇīti

kusalacittasampayuttā virati.

Cho đến đây, đó là sự giải thích theo âm tự. Còn theo ý nghĩa, [sự kềm tránh] là sự tránh thoát hiệp hành với thiện tâm.

100

 yā “pāṇātipātā viramantassa, yā

tasmiṃ samaye pāṇātipātā ārati

viratī”ti evaṃ vuttā

kusalacittasampayuttā virati, sā

bhedato tividho hoti sampattavirati

samādānavirati samucchedaviratīti.

Đối với người đang tránh thoát sự sát sinh, cái nào là sự tránh né [ārati] sự sát sinh, sự tránh thoát [virati] sự sát sinh vào lúc đó, thì cái được nói như thế đó là sự tránh thoát hiệp hành với thiện tâm(i); khi phân chia, sự tránh thoát ấy có 3 loại: (1) Sự tránh thoát khỏi đối tượng hiện đến; (2) Sự tránh thoát do gìn giữ; và (3) Sự tránh thoát do đoạn tuyệt.

—–

(i) Câu này để ví dụ cụ thể, cung cấp bối cảnh cho ta hiểu về sự tránh thoát hiệp hành với thiện tâm. Khi hành giả tránh thoát việc bất thiện như sát sinh… thì sự tránh thoát đó là sự tránh thoát hiệp hành với thiện tâm. Còn như tránh thoát chủ nợ vì thiếu tiền thì không phải.

101

tattha asamādinnasikkhāpadānaṃ

attano jātivayabāhusaccādīni

paccavekkhitvā “ayuttaṃ amhākaṃ evarūpaṃ kātun”ti sampattavatthuṃ avītikkamantānaṃ uppajjamānā

virati sampattaviratīti veditabbā

sīhaḷadīpe cakkanaupāsakassa viya.

Trong chủ đề này, sự tránh thoát khỏi đối tượng hiện đến nên được hiểu là sự tránh thoát đang sinh lên cho những người chưa gìn giữ giới(i), (những người ấy) không xâm phạm đối tượng đã hiện đến, (với suy nghĩ) rằng ‘Việc như vậy thì không thích hợp để được làm bởi chúng ta’, sau khi đã suy xét tri thức sâu sắc về sinh, già vân vân của bản thân mình; giống như (câu chuyện) của vị cận sự nam Cakkana ở đảo Sīhaḷa(ii).

—–

(i) Tức chưa thọ giới.

(ii) Khái niệm này được định nghĩa khá trừu tượng, câu chuyện minh họa sẽ làm rõ hơn.

102

tassa kira daharakāleyeva mātuyā

rogo uppajji. vejjena ca

“allasasamaṃsaṃ laddhuṃ vaṭṭatī”ti vuttaṃ. tato cakkanassa bhātā “gaccha tāta

khettaṃ āhiṇḍāhī”ti cakkanaṃ

pesesi. so tattha gato.

Quả thật, vào chính giai đoạn trẻ tuổi của vị ấy (Cakkana), một căn bệnh đã sinh lên cho thân mẫu vị ấy. Và lời nói của người thầy thuốc là: ‘Cần có được thịt thỏ tươi!’ Vì thế, người anh của Cakkana đã phái Cakkana đi (với lời nói) rằng ‘Em yêu quý! Hãy đi! Hãy lùng sục ở cánh đồng!’ Cakkana đã đi đến đó.

103

tasmiñca samaye eko saso

taruṇasassaṃ khādituṃ āgato hoti,

so taṃ disvā vegena dhāvento

valliyā baddho “kiri kirī”ti

saddamakāsi. cakkano tena saddena gantvā taṃ

gahetvā cintesi “mātu bhesajjaṃ

karomī”ti.

Rồi vào lúc ấy, một con thỏ đã đến (cánh đồng) để ăn hạt và chồi cây; nó nhìn thấy vị ấy, trong khi bỏ chạy thật nhanh, nó bị mắc vào một dây leo và phát ra tiếng ‘Kiri kiri.’ Nhờ âm thanh đó, Cakkana đi đến (đó), bắt lấy nó rồi nghĩ rằng ‘Ta hãy làm thuốc cho mẹ ta!’

104

puna cintesi “na metaṃ patirūpaṃ,

yvāhaṃ mātu jīvitakāraṇā paraṃ

jīvitā voropeyyan”ti. atha naṃ “gaccha araññe sasehi

saddhiṃ tiṇodakaṃ paribhuñjā”ti

muñci.

Vị ấy lại suy nghĩ lần nữa rằng ‘Điều đó thật không thích hợp cho ta; do nguyên nhân là mạng sống của mẹ ta, chính ta lại cướp mất mạng sống khỏi chúng sinh khác. Thế là vị ấy đã thả con thỏ, (với lời nói) rằng: ‘Hãy đi vào trong rừng, hãy ăn cỏ uống nước với những con thỏ khác!’

105

bhātarā ca “kiṃ tāta saso laddho”ti

pucchito taṃ pavattiṃ ācikkhi. tato naṃ bhātā paribhāsi. so mātusantikaṃ gantvā “yatohaṃ

jāto, nābhijānāmi sañcicca pāṇaṃ

jīvitā voropetā”ti saccaṃ vatvā

adhiṭṭhāsi. tāvadevassa mātā arogā ahosi.

Khi được hỏi bởi người anh rằng ‘Em yêu quý! Thỏ có được bắt hay không?’, vị ấy đã thuật lại sự việc đó. Thế là người anh trách mắng Cakkana. Vị ấy bèn đi đến gần người mẹ, nói sự thật rằng ‘Từ khi con được sinh ra, con không biết cố ý cướp sinh mạng khỏi chúng sinh!’ rồi kiên định. Ngay khi ấy, người mẹ của vị ấy đã hết bệnh(i).

—–

(i) Chú giải cho biết vị Cakkana này là cận sự nam [upāsaka], tuy nhiên, bối cảnh câu chuyện cho thấy lúc này vị ấy chưa biết đến 5 giới; đối tượng hiện đến ở đây là con thỏ; vị ấy tha mạng con thỏ vì suy xét đến mạng sống của mẹ mình và mạng sống của con thỏ.

106

samādinnasikkhāpadānaṃ pana

sikkhāpadasamādāne ca tatuttari ca attano jīvitampi pariccajitvā vatthuṃ avītikkamantānaṃ uppajjamānā

virati samādānaviratīti veditabbā

uttaravaḍḍhamānapabbatavāsīupāsakassa viya.

Sự tránh thoát do gìn giữ nên được hiểu là sự tránh thoát đang sinh lên cho những người gìn giữ giới, (những người ấy) không xâm phạm đối tượng bằng cách từ bỏ sinh mạng của bản thân trong khi gìn giữ các điều giới hoặc trong khi (thực hành) những điều cao cả hơn; giống như (câu chuyện) của vị cận sự nam sống ở núi Uttaravaḍḍhamāna.

107

so kira

ambariyavihāravāsīpiṅgalabuddharakkhitattherassa santike sikkhāpadāni gahetvā khettaṃ kassati. athassa

goṇo naṭṭho, so taṃ gavesanto

uttaravaḍḍhamānapabbataṃ āruhi,

tatra naṃ mahāsappo aggahesi.

Khi đó, vị ấy (vị cận sự nam) nhận các điều giới trong sự hiện diện của trưởng lão Piṅgala Buddharakkhita – là người ngụ ở chùa Ambariya, rồi cày ruộng. Thế rồi, một con bò của vị ấy bị mất; trong khi tìm con bò đó, vị ấy đã đi lên núi Uttaravaḍḍhamāna, tại đó, một con rắn lớn đã mổ vị ấy. 

108

so cintesi “imāyassa tikhiṇavāsiyā

sīsaṃ chindāmī”ti. puna cintesi “na metaṃ patirūpaṃ,

yvāhaṃ bhāvanīyassa garuno

santike sikkhāpadaṃ gahetvā

bhindeyyan”ti.

Vị ấy nghĩ: ‘Ta hãy chặt đầu nó bằng con dao nhọn này.’ Vị ấy lại nghĩ: ‘Điều đó thật không thích hợp cho ta, khi ta đã nhận điều giới trong sự hiện diện của vị thầy đáng được kính trọng rồi lại phá vỡ nó.’

109

evaṃ yāvatatiyaṃ cintetvā “jīvitaṃ pariccajāmi, na sikkhāpadan”ti aṃse ṭhapitaṃ tikhiṇadaṇḍavāsiṃ araññe chaḍḍesi. tāvadeva naṃ mahāvāḷo

muñcitvā agamāsīti.

Đến lần thứ 3, vị ấy nghĩ như thế này: ‘Ta hãy từ bỏ mạng sống, chứ đừng từ bỏ điều giới!’ rồi ném con dao và cây gậy nhọn được đặt ở bên vai vào trong rừng. Đúng lúc đó, con rắn lớn thả vị ấy rồi đi.

110

ariyamaggasampayuttā pana virati

samucchedaviratīti veditabbā.  yassā uppattito pabhuti “pāṇaṃ

ghātessāmī”ti ariyapuggalānaṃ

cittampi na uppajjatīti.

Sự tránh thoát do đoạn tuyệt nên được hiểu là sự tránh thoát hiệp hành với thánh đạo. Kể từ lúc sự tránh thoát đó sinh lên, tâm của các thánh nhân không còn sinh lên rằng ‘Ta sẽ giết hại sinh mạng.’ 

111

sā panāyaṃ virati kosallappavattiyā kusalanti vuttā. kucchitasayanato vā kusanti laddhavohāraṃ dussīlyaṃ

lunātītipi kusalaṃ.

Chính sự tránh thoát đó được gọi là ‘thiện’ do sự tiến hành điều thiện. (Hoặc nó là) thiện [kusala] do sự dẹp trừ cái hạ tiện, hoặc do nó cắt bỏ tà giới – còn có biệt danh là cỏ Kusa(i).

—–

(i) Giải thích theo cách chơi chữ: [Kusala – thiện] gồm có [Kusa] + [la], kusa là một giống cỏ. Kusala là cái trừ bỏ cỏ kusa.

112

katamañcāvuso kusalanti imassa pana pañhassa ananurūpattā kusalāti na vuttā.

0

113

yathā ca akusalānaṃ, evaṃ

imesampi kusalakammapathānaṃ

dhammato koṭṭhāsato ārammaṇato

vedanāto mūlatoti pañcahākārehi

vinicchayo veditabbo.

Giống như (sự phân biệt) các bất thiện nghiệp, cũng vậy, sự phân biệt các con đường thiện nghiệp này nên được hiểu theo 5 phương cách: (1) Về bản chất; (2) Về thành tố; (3) Về đối tượng; (4) Về thọ và (5) Về căn.

114

tattha dhammatoti etesu hi

paṭipāṭiyā satta cetanāpi vaṭṭanti,

viratiyopi. ante tayo

cetanāsampayuttāva.

Trong chủ đề này, [về bản chất] tức là: quả thật, trong số các con đường thiện nghiệp ấy, thì theo tuần tự, 7 con đường có bản chất là tư và sự tránh thoát; 3 con đường cuối cùng thì hiệp hành với tư.

115

koṭṭhāsatoti paṭipāṭiyā satta

kammapathā eva, no mūlāni. ante

tayo kammapathā ceva mūlāni ca.

anabhijjhā hi mūlaṃ patvā alobho

kusalamūlaṃ hoti. abyāpādo adoso kusalamūlaṃ. sammādiṭṭhi amoho

kusalamūlaṃ.

[Về thành tố] tức là: theo tuần tự, 7 con đường (đầu tiên) chỉ là con đường nghiệp, không phải là căn; 3 con đường cuối cùng vừa là con đường nghiệp vừa là căn. Bởi vì khi cần nói đến căn, sự không khao khát là vô tham – một thiện căn; sự không ác ý là vô sân – một thiện căn; chánh kiến là vô si – một thiện căn.  

116

 ārammaṇatoti pāṇātipātādīnaṃ

ārammaṇāneva etesaṃ ārammaṇāni, vītikkamitabbatoyeva hi veramaṇī

nāma hoti. yathā pana

nibbānārammaṇo ariyamaggo kilese pajahati, evaṃ

jīvitindriyādiārammaṇāpete

kammapathā pāṇātipātādīni

dussīlyāni pajahantīti veditabbā.

[Về đối tượng] tức là: các đối tượng của những con đường thiện nghiệp ấy cũng chính là các đối tượng của sự sát sinh vân vân; bởi vì (sự tránh thoát) chính là sự kềm tránh khỏi (đối tượng) có thể bị xâm phạm. Giống như thánh đạo trong khi có đối tượng là Niết Bàn thì từ bỏ các phiền não; cũng vậy, các con đường nghiệp ấy trong khi có đối tượng là mạng quyền vân vân thì từ bỏ các tà giới như sát sinh vân vân; chúng nên được hiểu như vậy.

117

 vedanātoti sabbe sukhavedanā vā

honti, majjhattavedanā vā. kusalaṃ patvā hi dukkhavedanā nāma natthi.

[Về thọ] tức là: tất cả các con đường thiện nghiệp đều có khổ thọ hoặc xả thọ. Bởi vì khi nói đến cái thiện thì không có cái được gọi là khổ thọ.

118

 mūlatoti paṭipāṭiyā satta

kammapathā ñāṇasampayuttacittena viramantassa

alobhādosāmohavasena timūlā honti. ñāṇavippayuttacittena viramantassa dvimūlā. anabhijjhā

ñāṇasampayuttacittena viramantassa dvimūlā. ñāṇavippayuttacittena

ekamūlā. alobho pana attanāva

attano mūlaṃ na hoti, abyāpādepi

eseva nayo. sammādiṭṭhi

alobhādosavasena dvimūlāvāti.

[Về căn] tức là: theo tuần tự, 7 con đường nghiệp (đầu tiên) có 3 căn – tức là vô tham, vô sân và vô si – đối với người tránh thoát bằng tâm hiệp hành với trí; có 2 căn đối với người tránh thoát bằng tâm bất hiệp hành với trí. Sự không khao khát có 2 căn đối với người tránh thoát bằng tâm hiệp hành với trí; có một căn đối với người tránh thoát bằng tâm bất hiệp hành với trí. Vô tham tự mình không phải là căn cho mình(i); chính phương thức đó (nên được hiểu) cho vô sân. Chánh kiến có 2 căn – tức là vô tham và vô sân.

—–

(i) Vô tham [alobha] là căn cho các pháp thiện khác, nó không có cái gì làm căn cho nó. Giống như cái nền nhà chống đỡ căn nhà thì không có cái gì làm nền cho nó nữa.

119

 alobho kusalamūlantiādīsu na lobhoti alobho, lobhapaṭipakkhassa dhammassetaṃ adhivacanaṃ. adosāmohesupi eseva nayo.

0

120

tesu alobho sayañca kusalaṃ,

imesañca pāṇātipātā

veramaṇīādīnaṃ kusalānaṃ kesañci sampayuttappabhāvakaṭṭhena

kesañci upanissayapaccayaṭṭhena

mūlanti kusalamūlaṃ.

Trong số chúng (vô tham, vô sân, vô si), vô tham tự mình là thiện; và nó là căn của những con đường thiện ấy – tức sự kềm tránh sát sinh vân vân; đối với một số con đường, (nó là căn) theo nghĩa là sức mạnh hiệp hành; đối với một số con đường, (nó là căn) theo nghĩa là nhân làm nền tảng. Thiện căn là như vậy.

121

adosāmohānampi kusalamūlabhāve eseva nayo.

Cũng chính phương thức đó (nên được hiểu) cho trạng thái thiện căn của vô sân và vô si.

122

 idāni sabbampi taṃ saṅkhepena ca vitthārena ca desitamatthaṃ nigamento yato kho āvusotiādiappanāvāramāha. tattha evaṃ akusalaṃ pajānātīti evaṃ yathāniddiṭṭhadasākusalakammapathavasena akusalaṃ pajānāti. evaṃ akusalamūlantiādīsupi eseva nayo.

0

123

ettāvatā ekena nayena

catusaccakammaṭṭhānikassa yāva

arahattā niyyānaṃ kathitaṃ hoti.

kathaṃ? ettha hi ṭhapetvā abhijjhaṃ dasa akusalakammapathā ca

kusalakammapathā ca

dukkhasaccaṃ.

Cho đến chừng mực ấy, sự giải thoát cho đến trạng thái A La Hán đã được giảng giải bằng một thể thức cho người có đề mục thiền là 4 chân lý. Như thế nào? Trong chủ đề này, quả thực, 10 con đường bất thiện nghiệp ngoại trừ sự khao khát [abhijjhā] và 10 con đường thiện nghiệp là Chân Lý về Khổ.

124

abhijjhā ca lobho akusalamūlañcāti

ime dve dhammā nippariyāyena

samudayasaccaṃ.  pariyāyena pana sabbepi kammapathā dukkhasaccaṃ. sabbāni kusalākusalamūlāni

samudayasaccaṃ. ubhinnaṃ appavatti nirodhasaccaṃ.

Một cách chặt chẽ, sự khao khát hay tham – vốn là bất thiện căn – 2 pháp này là Chân Lý về Nguồn Gốc Khổ. Một cách mở rộng, tất cả các con đường nghiệp là Chân Lý về Khổ; tất cả các thiện và bất thiện căn là Chân Lý về Nguồn Gốc Khổ. Sự không xảy ra của cả 2 cái đó là Chân Lý về Diệt Khổ.

125

dukkhaṃ parijānanto samudayaṃ

pajahamāno nirodhaṃ pajānanto

ariyamaggo maggasaccanti iti dve

saccāni sarūpena vuttāni, dve

āvattahāravasena veditabbāni.

Thánh đạo trong khi thấu biết khổ, từ bỏ nguồn gốc khổ, rõ biết sự diệt khổ chính là Chân Lý về Đạo; như vậy, 2 chân lý được nói dựa theo dạng thức của chúng, 2 chân lý (còn lại) nên được hiểu theo Phép Nghịch Đảo(i).

—–

(i) Phép nghịch đảo [Āvattahāra] là một phương pháp diễn giải, được trình bày trong bộ Nettippakaraṇa – một cẩm nang về luận giải kinh. Theo phương pháp này, khi đọc một bài kinh, người ta quan sát và rút ra từ nội dung bài kinh một khái niệm Phật Pháp, giải thích nội dung, giảng rộng khái niệm đó rồi chỉ ra tiếp một khái niệm khác liên quan đến khái niệm trước và giảng tiếp về nó; khái niệm thứ 2 có thể được nói thẳng, hàm ý hoặc không hề được nói đến trong nội dung bài kinh. 2 khái niệm này thường đi thành cặp liên quan nhau – chẳng hạn: khổ/nguồn gốc khổ; khổ/diệt khổ; tinh tấn/dễ duôi… 

126

 so sabbaso rāgānusayaṃ pahāyāti so evaṃ akusalādīni pajānanto sabbākārena rāgānusayaṃ pajahitvā. paṭighānusayaṃ paṭivinodetvāti paṭighānusayañca sabbākāreneva nīharitvāti vuttaṃ hoti.

0

127

ettāvatā anāgāmimaggo kathito.

Cho đến chừng mực ấy, bất lai đạo đã được nói.

128

asmīti diṭṭhimānānusayaṃ samūhanitvāti pañcasu khandhesu kañci dhammaṃ anavakārīkaritvā “asmī”ti iminā samūhaggahaṇākārena pavattaṃ diṭṭhimānānusayaṃ samugghāṭetvā.

0

129

tattha diṭṭhimānānusayanti

diṭṭhisadisaṃ mānānusayanti vuttaṃ hoti. ayañhi mānānusayo asmīti

pavattattā diṭṭhisadiso hoti, tasmā

evaṃ vutto. imañca asmimānaṃ

vitthārato viññātukāmena

khandhiyavagge khemakasuttaṃ

(saṃ. ni. 3.89) oloketabbanti.

Tại câu kinh đó, Mạn Tùy Miên tương tự như Kiến được gọi là [Kiến Mạn Tùy Miên]. Bởi vì mạn tùy miên ấy thì giống với Kiến do sự diễn tiến của ý niệm ‘Ta là/Ta tồn tại(i)’, do đó, nó được gọi như vậy. Và người nào muốn hiểu chi tiết ngã mạn ‘Ta là/Ta tồn tại’ đó nên xem bài kinh Khemakasutta trong Khandhiyavagga.

—–

 

(i) Động từ Pāḷi [asmi] có 2 chức năng: (1) Làm liên động từ, sẽ có nghĩa [ta là (ai đó)]; (2) Làm nội động từ, sẽ có nghĩa [ta tồn tại].

130

avijjaṃ pahāyāti vaṭṭamūlaṃ avijjaṃ pajahitvā. vijjaṃ uppādetvāti tassā avijjāya samugghāṭikaṃ arahattamaggavijjaṃ uppādetvā. ettāvatā arahattamaggo kathito. ettāvatāpi kho, āvusoti desanaṃ niyyāteti, imāya kammapathadesanāya vuttamanasikārappaṭivedhavasenapīti vuttaṃ hoti. sesaṃ vuttanayameva. evaṃ anāgāmimaggārahattamaggehi desanaṃ niṭṭhapesīti.

0

131

90. sādhāvusoti kho … pe … āgato imaṃ saddhammanti evaṃ āyasmato sāriputtassa kusalākusalamukhena catusaccadesanaṃ sutvā taṃ āyasmato sāriputtassa bhāsitaṃ “sādhāvuso”ti iminā vacanena te bhikkhū abhinanditvā imasseva vacanassa samuṭṭhāpakena cittena anumoditvā vacasā sampaṭicchitvā cetasā sampiyāyitvāti vuttaṃ hoti. idāni yasmā thero nānappakārena catusaccadesanaṃ desetuṃ paṭibalo, yathāha “sāriputto, bhikkhave, pahoti cattāri ariyasaccāni vitthārena ācikkhituṃ desetun”ti yasmā vā uttarimpi desetukāmova hutvā “ettāvatāpi kho”ti avaca, tasmā aparenapi nayena saccadesanaṃ sotukāmā te bhikkhū āyasmantaṃ sāriputtaṃ uttariṃ pañhaṃ apucchiṃsu. tena sayameva pucchitvā vissajjitapañhato uttariṃ siyā kho panāvuso, aññopi pariyāyo bhaveyya aññampi kāraṇanti iminā nayena aññaṃ atirekaṃ pañhaṃ pucchiṃsu, purimapañhassa vā uparibhāge pucchiṃsūti vuttaṃ hoti. atha nesaṃ byākaramāno thero siyā, āvusotiādimāha.

0

132

tatthāyaṃ anuttānapadavaṇṇanā,

āhāranti paccayaṃ. paccayo hi

āharati attano phalaṃ, tasmā

“āhāro”ti vuccati.

Trong chủ đề này, đây là sự giải thích cho từ chưa rõ (nghĩa): [thức ăn] là duyên. Bởi vì duyên nuôi dưỡng quả của chính nó, cho nên nó được gọi là ‘thức ăn’.

133

bhūtānaṃ vā sattānantiādīsu bhūtāti sañjātā, nibbattā. sambhavesīnanti ye sambhavaṃ

jātiṃ nibbattiṃ esanti gavesanti. 

tattha catūsu yonīsu aṇḍajajalābujā

sattā yāva aṇḍakosaṃ vatthikosañca na bhindanti, tāva sambhavesino

nāma. aṇḍakosaṃ vatthikosañca

bhinditvā bahi nikkhantā bhūtā

nāma.

Trong cụm từ [các chúng sinh đã sinh ra] vân vân; [đã sinh ra] tức là đã sinh [sañjāta], đã tái sinh [nibbatta]. [(Những chúng sinh) tìm kiếm hiện hữu] tức những chúng sinh ấy tìm kiếm, tầm cầu sự hiện hữu, sự sinh, sự tái sinh. Trong chủ đề này, trong số 4 loài, các chúng sinh noãn sinh và thai sinh khi nào (chúng) chưa phá vỡ vỏ trứng hay màng thai(i) thì khi ấy (chúng) được gọi là [(những chúng sinh) tìm kiếm hiện hữu]. Khi chúng phá vỡ vỏ trứng hay màng thai, ra ngoài rồi thì được gọi là [(những chúng sinh) đã sinh ra].

—–

(i) Tức màng ối.

134

saṃsedajā opapātikā ca

paṭhamacittakkhaṇe sambhavesino

nāma. dutiyacittakkhaṇato pabhuti

bhūtā nāma. yena yena vā iriyāpathena jāyanti,

yāva te tato aññaṃ na pāpuṇanti,

tāva sambhavesino nāma. tato paraṃ bhūtā nāma.

Các chúng sinh thấp sinh và hóa sinh vào thời khắc tâm đầu tiên được gọi là (những chúng sinh) tìm kiếm hiện hữu; kể từ thời khắc tâm thứ hai, được gọi là (những chúng sinh) đã sinh ra. Hoặc chúng sinh ra trong chính tư thế nào, thì khi nào chúng chưa đạt đến tư thế khác với tư thế đó, thì khi đó chúng được gọi là (những chúng sinh) tìm kiếm hiện hữu; khi nào chúng đạt đến tư thế khác với tư thế đó, thì khi đó chúng được gọi là (những chúng sinh) đã sinh ra.

135

atha vā bhūtāti jātā abhinibbattā, ye bhūtāyeva na puna bhavissantīti

saṅkhyaṃ gacchanti, tesaṃ

khīṇāsavānametaṃ adhivacanaṃ.

sambhavamesantīti sambhavesino.

appahīnabhavasaṃyojanattā

āyatimpi sambhavaṃ esantānaṃ

sekkhaputhujjanānametaṃ

adhivacanaṃ. evaṃ sabbathāpi imehi dvīhi padehi sabbasatte pariyādiyati.

Hoặc [đã sinh ra] tức là đã sinh [jāta], đã tái sinh [abhinibbatta]; chính những chúng sinh nào được quan niệm là ‘(họ) sẽ không tồn tại trở lại nữa’, thì đó (đã sinh ra) là thuật ngữ gọi các bậc lậu tận ấy(i). Những chúng sinh nào tìm kiếm sự hiện hữu, thì (được gọi là) [(những chúng sinh) tìm kiếm hiện hữu]; đó là thuật ngữ gọi các thường nhân và các bậc hữu học đang tìm kiếm sự hiện hữu trong tương lai do trạng thái trói buộc vào hữu chưa được từ bỏ. Như vậy bằng 2 từ đó, (Đức Phật) bao hàm mọi chúng sinh theo mọi thể thức.

—–

(i) Các bậc lậu tận đã sinh ra (trong kiếp cuối) nhưng sẽ không tái sinh thêm kiếp nào nữa; nên họ được gọi là bậc đã sinh ra (chứ không sinh ra thêm nữa). 

136

vāsaddo cettha sampiṇḍanattho, tasmā bhūtānañca sambhavesīnañcāti ayamattho veditabbo. ṭhitiyāti ṭhitatthaṃ. anuggahāyāti anuggahatthaṃ upakāratthaṃ. vacanabhedo cesa, attho pana dvinnampi padānaṃ ekoyeva.

0

137

atha vā ṭhitiyāti tassa tassa sattassa

uppannadhammānaṃ

anuppabandhavasena avicchedāya. anuggahāyāti anuppannānaṃ

uppādāya. ubhopi cetāni bhūtānaṃ ṭhitiyā ceva anuggahāya ca. sambhavesīnaṃ vā

ṭhitiyā ceva anuggahāya cāti evaṃ

ubhayattha daṭṭhabbāni.

Hoặc [vì sự duy trì] tức là vì sự không đứt đoạn của chúng sinh này chúng sinh kia dựa vào sự tiếp nối của các pháp đã sinh lên. [Vì sự hỗ trợ] tức là vì sự sinh lên của các pháp chưa sinh lên. Cả 2 từ đó nên được hiểu ở cả 2 trường hợp như thế này: ‘Vì sự duy trì và vì sự hỗ trợ của các chúng sinh đã sinh ra; và vì sự duy trì và vì sự hỗ trợ của các chúng sinh tìm kiếm hiện hữu.’

138

kabaḷīkāro āhāroti kabaḷaṃ katvā

ajjhoharitabbato kabaḷīkāro āhāro,

odanakummāsādivatthukāya

ojāyetaṃ adhivacanaṃ. oḷāriko vā sukhumo vāti

vatthuoḷārikatāya oḷāriko,

vatthusukhumatāya sukhumo.

[Đoàn thực(i)] tức là sau khi vo lại, thức ăn đã được vo lại đó sẽ được người ta nuốt lấy; đó là thuật ngữ chỉ đến dưỡng chất từ (vật thực như) cơm, sữa đông vân vân. [Thô hay tế] tức là thô do tính chất thô của vật thực, tế do tính chất tế của vật thực.

 

—–

(i) [Đoàn thực] là một từ Hán Việt, với [thực = thức ăn, đồ ăn], [đoàn = cuộn lại, vo lại]; [đoàn thực] tức là thức ăn được vo nắm lại – hợp với thói quen ăn bốc của người Ấn mà ngày nay vẫn còn.

139

sabhāvena pana

sukhumarūpapariyāpannattā

kabaḷīkāro āhāro sukhumova hoti.

Thế nhưng, về mặt bản chất, đoàn thực có tính chất tế do thuộc về nhóm tế sắc(i).

—–

(i) Về mặt tục đế, thì đoàn thực gồm có 2 loại là thô và tế. Trong đó thô là loại đoàn thực có trong những thực phẩm thô, xấu, không ngon; tế là loại đoàn thực có trong những thực phẩm ngon, hảo hạng. Nhưng về mặt chân đế – theo giáo lý Vi Diệu Pháp – thì đoàn thực chỉ có một loại là tế, vì nó thuộc vào nhóm tế sắc.

140

sāpi cassa vatthuto oḷārikatā sukhumatā ca upādāyupādāya veditabbā.

0

141

kumbhīlānañhi āhāraṃ upādāya

morānaṃ āhāro sukhumo.  kumbhīlā kira pāsāṇe gilanti. te ca nesaṃ kucchippattāva

vilīyanti.  morā sappavicchikādipāṇe khādanti.

Quả thực, thực phẩm của loài công thì tinh tế hơn thực phẩm của loài cá sấu. Thực vậy, cá sấu nuốt những hòn đá. Những hòn đá ấy tiêu tan đi vào lúc đến bao tử của lũ cá sấu. Loài công ăn các sinh vật như rắn, bò cạp vân vân. 

142

morānaṃ pana āhāraṃ upādāya

taracchānaṃ āhāro sukhumo. te kira tivassachaḍḍitāni visāṇāni

ceva aṭṭhīni ca khādanti. tāni ca nesaṃ kheḷena

temitamatteneva kandamūlaṃ viya mudukāni honti.

Nhưng thực phẩm của loài linh cẩu thì tinh tế hơn thực phẩm của loài công. Thực vậy, chúng ăn những khúc xương và sừng đã bị bỏ đi từ 3 năm trước. Những thức ăn này thì mềm như ruột củ ngay khi được thấm ướt bởi nước bọt của chúng.

143

taracchānampi āhāraṃ upādāya

hatthīnaṃ āhāro sukhumo. tepi nānārukkhasākhāyo khādanti. hatthīnaṃ āhārato

gavayagokaṇṇamigādīnaṃ āhāro

sukhumo. te kira nissārāni

nānārukkhapaṇṇādīni khādanti.

Nhưng thực phẩm của loài voi thì tinh tế hơn thực phẩm của loài linh cẩu. Chúng ăn các cành của nhiều loại cây. Thực phẩm của bò tót, hươu, nai vân vân thì tinh tế hơn thực phẩm của loài voi. Thực vậy, chúng ăn các lá cây vân vân không còn nhựa sống thuộc nhiều loại cây.

144

tesampi āhārato gunnaṃ āhāro sukhumo. te allasukkhatiṇāni khādanti. tesaṃ āhārato sasānaṃ āhāro sukhumo. sasānaṃ āhārato sakuṇānaṃ āhāro sukhumo. sakuṇānaṃ āhārato paccantavāsīnaṃ āhāro sukhumo. paccantavāsīnaṃ āhārato gāmabhojakānaṃ āhāro sukhumo. gāmabhojakānaṃ āhārato rājarājamahāmattānaṃ āhāro sukhumo. tesampi āhārato cakkavattino āhāro sukhumo. cakkavattino āhārato bhummadevānaṃ āhāro sukhumo. bhummadevānaṃ āhārato cātumahārājikānaṃ āhāro sukhumo. evaṃ yāva paranimmitavasavattīnaṃ āhāro vitthāretabbo, tesaṃ āhāro sukhumotveva niṭṭhaṃ patto.

0

145

ettha ca oḷārike vatthusmiṃ ojā

parittā hoti dubbalā, sukhume

balavatī. tathā hi ekapattapūrampi yāguṃ

pīvato muhutteneva jighacchito hoti, yaṃkañcideva khāditukāmo. sappiṃ pana pasaṭamattaṃ pivitvā

divasaṃ abhottukāmo hoti.

Trong chủ đề này, dưỡng chất trong vật thực thô thì ít ỏi, yếu kém; trong vật thực tinh tế thì mạnh mẽ. Quả thực như thế này: người nào đã húp một lượng cháo đầy một tô, chỉ trong phút chốc người đó lại thèm ăn; muốn ăn bất kỳ thứ gì. Nhưng người nào húp một ít bơ, cả ngày người ấy chẳng thèm ăn.

146

tattha vatthu parissamaṃ vinodeti,

na pana sakkoti pāletuṃ. ojā pāleti, na sakkoti parissamaṃ vinodetuṃ.

dve pana ekato hutvā

parissamañceva vinodenti pālenti

cāti.

Trong chủ đề này, vật thực triệt tiêu sự mệt nhọc nhưng không thể bảo quản được; dưỡng chất bảo quản được, nhưng không thể triệt tiêu sự mệt nhọc; nhưng khi 2 thứ này trở thành một, chúng vừa triệt tiêu sự mệt nhọc lẫn (có thể) bảo quản được.

147

phasso dutiyoti

cakkhusamphassādi chabbidhopi

phasso. etesu catūsu āhāresu dutiyo āhāroti

veditabbo. desanānayo eva cesa. tasmā iminā

nāma kāraṇena dutiyo vā tatiyo vāti idamettha na gavesitabbaṃ. manosañcetanāti cetanā eva vuccati. viññāṇanti yaṃkiñci cittaṃ.

[Xúc – (loại thức ăn) thứ 2] tức là: Xúc gồm 6 loại, như Nhãn Xúc vân vân. Trong 4 loại thức ăn đó, xúc nên được hiểu là loại thức ăn thứ 2. Và đó chính là phương pháp của bài giảng. Do đó, ở đây, điều đó không nên được khảo sát rằng: do nguyên nhân này kia mà xúc là loại thức ăn thứ 2 hay thứ 3(i). Chính Tư được gọi là [Tư Niệm]. [Thức] tức là bất kỳ tâm gì.  

—–

(i) Việc xem xúc là loại thức ăn thứ 2 là quy định, quy ước của bài giảng như thế, không nên cố tìm nguyên nhân sâu xa gì khác.

148

etthāha, yadi paccayaṭṭho āhāraṭṭho, atha kasmā aññesupi sattānaṃ

paccayesu vijjamānesu imeyeva

cattāro vuttāti?

Trong chủ đề này, người ta hỏi rằng: ‘Nếu ý nghĩa của (khái niệm) thức ăn chính là ý nghĩa của (khái niệm) duyên, thế thì tại sao trong khi có những duyên khác cho (sự tồn tại của) chúng sinh, thì chỉ 4 loại duyên này được nói?’

149

vuccate, ajjhattikasantatiyā

visesapaccayattā. visesapaccayo hi

kabaḷīkārāhārabhakkhānaṃ

sattānaṃ rūpakāyassa kabaḷīkāro

āhāro. nāmakāye vedanāya phasso,

viññāṇassa manosañcetanā,

nāmarūpassa viññāṇaṃ.

Điều đó được giải đáp rằng: (4 loại duyên đó được nói) do trạng thái là duyên đặc biệt cho sự tiếp diễn bên trong (chúng sinh). Bởi vì duyên đặc biệt cho sắc thân của các chúng sinh sống nhờ đoàn thực chính là đoàn thực; duyên đặc biệt cho thọ trong danh thân chính là xúc; duyên đặc biệt cho thức chính là tư niệm; duyên đặc biệt cho danh và sắc chính là thức.

150

yathāha —

“seyyathāpi, bhikkhave, ayaṃ kāyo āhāraṭṭhitiko, āhāraṃ paṭicca tiṭṭhati, anāhāro no tiṭṭhati. tathā

phassapaccayā vedanā,

saṅkhārapaccayā viññāṇaṃ,

viññāṇapaccayā nāmarūpan”ti.

 

Giống như (Đức Phật) đã nói:

‘Này các Tỳ Kheo, giống như thân này phụ thuộc thức ăn, tồn tại dựa vào thức ăn, không tồn tại khi thiếu thức ăn. Cũng vậy, thọ tồn tại do duyên là xúc, thức tồn tại do duyên là các hành, danh & sắc tồn tại do duyên là thức.’

151

ko panettha āhāro, kiṃ āharatīti? kabaḷīkārāhāro ojaṭṭhamakarūpāni

āharati. phassāhāro tisso vedanā,

manosañcetanāhāro tayo bhave,

viññāṇāhāro paṭisandhināmarūpanti.

Thế nhưng, trong chủ đề này, cái gì là thức ăn? Nó nuôi dưỡng cái gì? Đoàn thực nuôi dưỡng các sắc bằng dưỡng chất – tức sắc thứ 8(i). Xúc thực nuôi dưỡng 3 loại thọ. Tư niệm thực nuôi dưỡng 3 loại hữu. Thức thực nuôi dưỡng danh sắc tái hợp(ii).

—–

(i) Theo Vi Diệu Pháp, ở đây chỉ đến nhóm sắc [rūpakalāpa] đơn giản nhất – gồm: 4 đại, màu sắc, mùi, vị & dưỡng chất.

(ii) [Tái hợp – paṭisandhi] trước nay thường được dịch/hiểu là [tái sinh].

152

kathaṃ? kabaḷīkārāhāro tāva mukhe ṭhapitamattoyeva aṭṭha rūpāni

samuṭṭhāpeti. dantavicuṇṇitaṃ pana ajjhohariyamānaṃ ekekaṃ sitthaṃ

aṭṭhaṭṭha rūpāni samuṭṭhāpetiyeva.

evaṃ ojaṭṭhamakarūpāni āharati.

Như thế nào? Đoàn thực – ngay khi được đặt vào trong miệng – tạo ra 8 loại sắc. Thế rồi, từng bụm cơm – được nghiền nát bởi răng – trong khi được nuốt cũng liên tiếp tạo ra 8 loại sắc. Đoàn thực nuôi dưỡng các sắc bằng dưỡng chất – tức sắc thứ 8 – theo cách như vậy. 

153

phassāhāro pana sukhavedaniyo

phasso uppajjamāno sukhavedanaṃ āharati, tathā dukkhavedaniyo

dukkhaṃ,

adukkhamasukhavedaniyo

adukkhamasukhanti evaṃ

sabbathāpi phassāhāro tisso vedanā āharati.

Về xúc thực: loại xúc sinh ra lạc thọ – trong khi sinh lên – nuôi dưỡng lạc thọ; cũng vậy, loại xúc sinh ra khổ thọ – trong khi sinh lên – nuôi dưỡng khổ thọ; loại xúc sinh ra phi khổ phi lạc thọ – trong khi sinh lên – nuôi dưỡng phi khổ phi lạc thọ; như vậy, xúc thực nuôi dưỡng 3 loại thọ theo mọi trường hợp.

154

manosañcetanāhāro

kāmabhavūpagaṃ kammaṃ

kāmabhavaṃ āharati,

rūpārūpabhavūpagāni taṃ taṃ

bhavaṃ. evaṃ sabbathāpi

manosañcetanāhāro tayo bhave

āharati.

Về tư niệm thực: nghiệp dẫn đến dục hữu thì nuôi dưỡng dục hữu; các nghiệp dẫn đến sắc hữu hay phi sắc hữu thì nuôi dưỡng hữu tương ứng; như vậy, tư niệm thực nuôi dưỡng 3 loại hữu theo mọi trường hợp.

155

viññāṇāhāro pana ye ca

paṭisandhikkhaṇe taṃsampayuttakā tayo khandhā, yāni ca

tisantativasena tiṃsarūpāni

uppajjanti, sahajātādipaccayanayena tāni āharatīti vuccati. evaṃ

viññāṇāhāro paṭisandhināmarūpaṃ

āharatīti.

Về thức thực: những cái nào là 3 uẩn hiệp hành với nó (thức) vào thời điểm tái hợp và 30 loại sắc nào sinh lên do tác động của tam trú(i) thì thức nuôi dưỡng chúng bằng phương thức là điều kiện đồng sinh vân vân; điều đó được nói như vậy. Như vậy, thức thực nuôi dưỡng danh sắc tái hợp.

—–

(i) Theo Vi Diệu Pháp, tam trú [tisantati] tức là sự trú – sự tiếp tục, tiếp diễn – của tam thập sắc là thân thập pháp [kāyadasaka], tánh thập pháp [bhāvadasaka] và cơ thập pháp [vatthudasaka].

156

ettha ca manosañcetanāhāro tayo

bhave āharatīti sāsavā

kusalākusalacetanāva vuttā.

viññāṇaṃ paṭisandhināmarūpaṃ

āharatīti paṭisandhiviññāṇameva

vuttaṃ. avisesena pana

taṃsampayuttataṃsamuṭṭhānadhammānaṃ āharaṇato pete āhārāti

veditabbā.

Trong chủ đề này, về chi tiết [tư niệm thực nuôi dưỡng 3 loại hữu]: (tư niệm thực đó) chỉ đến thiện tư và bất thiện tư hữu lậu(i). Về chi tiết [thức thực nuôi dưỡng danh sắc tái hợp]: (thức thực đó) chỉ chỉ đến tái hợp thức. Thế nhưng, chúng được gọi là thức ăn một cách không phân biệt vì (chúng) nuôi dưỡng các pháp hiệp hành với chúng và khởi sinh bởi chúng.

—–

 

(i) Tư được chia thành 2 loại là thiện tư & bất thiện tư; chúng mang tính hữu lậu – tức thuộc về thường nhân cho đến bậc A Na Hàm.

157

etesu catūsu āhāresu kabaḷīkārāhāro upatthambhento āhārakiccaṃ

sādheti. phasso phusantoyeva,

manosañcetanā āyūhamānāva.

viññāṇaṃ vijānantameva.

Trong số 4 loại thức ăn này, đoàn thực hoàn thành chức năng thức ăn bằng cách củng cố (sức khỏe, sinh mạng); xúc thực hoàn thành chức năng thức ăn bằng cách xúc chạm; tư niệm thực hoàn thành chức năng thức ăn bằng cách tích trữ; thức thực hoàn thành chức năng thức ăn bằng cách tỏ biết.

158

kathaṃ? kabaḷīkārāhāro hi

upatthambhentoyeva

kāyaṭṭhapanena sattānaṃ ṭhitiyā

hoti. kammajanitopi hi ayaṃ kāyo

kabaḷīkārāhārena upatthambhito

dasapi vassāni vassasatampi yāva

āyuparimāṇaṃ tiṭṭhati. yathā kiṃ? yathā mātuyā janitopi

dārako dhātiyā thaññādīni pāyetvā

posiyamānova ciraṃ tiṭṭhati, yathā

cupatthambhena

upatthambhitagehaṃ.

Như thế nào? Quả thực, bằng cách củng cố, đoàn thực đạt đến mục đích duy trì các chúng sinh thông qua sự gìn giữ thân. Bởi vì thân này – được sinh ra do nghiệp, được củng cố bằng đoàn thực – tồn tại 10 năm hay 100 năm cho đến giới hạn tuổi thọ. Giống như chuyện gì? Giống như cậu bé trai – được sinh ra bởi người mẹ, được nuôi dưỡng bởi người vú bằng cách cho uống sữa mẹ vân vân – thì sống lâu dài; giống như ngôi nhà được củng cố bằng cái cột.

159

vuttampi cetaṃ —

“yathā mahārāja gehe patante aññena dārunā upatthambhenti, aññena dārunā upatthambhitaṃ santaṃ evaṃ taṃ gehaṃ na patati, evameva kho mahārāja ayaṃ kāyo āhāraṭṭhitiko, āhāraṃ paṭicca tiṭṭhatī”ti.

0

160

evaṃ kabaḷīkāro āhāro

upatthambhento āhārakiccaṃ

sādheti. evaṃ sādhentopi ca

kabaḷīkāro āhāro dvinnaṃ

rūpasantatīnaṃ paccayo hoti

āhārasamuṭṭhānassa ca

upādinnassa ca. kammajānaṃ

anupālako hutvā paccayo hoti.

āhārasamuṭṭhānānaṃ janako hutvā

paccayo hoti.

Đoàn thực hoàn thành chức năng thức ăn bằng cách củng cố (sức khỏe, sinh mạng) như thế. Khi hoàn thành như vậy, đoàn thực là duyên cho 2 sự tiếp diễn của sắc – (sự tiếp diễn) của nhóm sắc được khởi sinh do thức ăn và (sự tiếp diễn) của nhóm thủ sắc(i). Nó là duyên cho các loại sắc được sinh do nghiệp bằng cách trở thành yếu tố gìn giữ (loại sắc đó). Nó là duyên cho các loại sắc được khởi sinh do thức ăn bằng cách trở thành yếu tố tạo sinh.

—–

(i) Theo Vi Diệu Pháp, [Thủ sắc – Upādinnarūpa] là loại sắc sinh ra do nghiệp, nhưng vẫn cần thức ăn hỗ trợ cho sự tiếp diễn của chúng.

161

phasso pana sukhādivatthubhūtaṃ ārammaṇaṃ phusantoyeva sukhādivedanāpavattanena sattānaṃ ṭhitiyā hoti. manosañcetanā kusalākusalakammavasena āyūhamānāyeva bhavamūlanipphādanato sattānaṃ ṭhitiyā hoti. viññāṇaṃ vijānantameva nāmarūpappavattanena sattānaṃ ṭhitiyā hoti.

0

162

evaṃ upatthambhanādivasena

āhārakiccaṃ sādhayamānesu

panetesu cattāri bhayāni

daṭṭhabbāni. seyyathidaṃ,

kabaḷīkārāhāre nikantiyeva bhayaṃ, phasse upagamanameva,

manosañcetanāya āyūhanameva,

viññāṇe abhinipātoyeva bhayanti.

Thế nhưng, trong khi chúng hoàn thành chức năng thức ăn bằng sức mạnh hỗ trợ vân vân, 4 sự nguy hiểm nên được nhìn thấy – tức là: đối với đoàn thực, sự nguy hiểm là sự tham muốn; đối với xúc, sự nguy hiểm là sự tiếp cận; đối với tư niệm, sự nguy hiểm là sự tích trữ; đối với thức, sự nguy hiểm là sự khởi đầu (kiếp sống mới).

163

kiṃ kāraṇā? kabaḷīkārāhāre hi

nikantiṃ katvā sītādīnaṃ

purekkhatā sattā āhāratthāya

muddāgaṇanādikammāni karontā

anappakaṃ dukkhaṃ nigacchanti.

Do nguyên nhân gì? Do vì các chúng sinh sau khi khởi sự tham muốn đối với đoàn thực, bị theo đuổi bởi lạnh (nóng) vân vân vì mục đích là thức ăn, (chúng) làm các nghề nghiệp như tính toán, kế toán vân vân và đi đến nỗi khổ không nhỏ.

164

ekacce ca imasmiṃ sāsane pabbajitvāpi vejjakammādikāya anesanāya āhāraṃ pariyesantā diṭṭhepi dhamme gārayhā honti. samparāyepi tassa saṅghāṭipi ādittā sampajjalitātiādinā lakkhaṇasaṃyutte vuttanayena samaṇapetā honti. imināva tāva kāraṇena kabaḷīkārāhāre nikantiyeva bhayanti veditabbā.

0

165

phassaṃ upagacchantāpi

phassassādino paresaṃ

rakkhitagopitesu dārādīsu bhaṇḍesu aparajjhanti. te saha bhaṇḍena bhaṇḍasāmikā

gahetvā khaṇḍākhaṇḍikaṃ vā

chinditvā saṅkārakūṭesu chaḍḍenti. rañño vā niyyātenti. tato ne rājā vividhā kammakāraṇā

kārāpeti. kāyassa ca bhedā duggati

nesaṃ pāṭikaṅkhā hoti.

Do tiếp cận xúc, những kẻ thỏa mãn trong xúc xâm phạm hàng hóa, vợ con vân vân vốn được bảo vệ, được canh giữ bởi những kẻ khác. Những người chủ hàng hóa bắt được những kẻ ấy cùng hàng hóa, chặt chúng thành từng mảnh rồi ném vào những đống rác hoặc dẫn chúng đến chỗ nhà vua. Từ đó, nhà vua khiến chúng chịu nhiều hình phạt đa dạng. Vào thời điểm tan rã thân, cõi khổ sẽ được mong chờ bởi chúng.

166

iti phassassādamūlakaṃ diṭṭhadhammikampi samparāyikampi bhayaṃ sabbamāgatameva hoti. iminā kāraṇena phassāhāre upagamanameva bhayanti veditabbaṃ.

0

167

kusalākusalakammāyūhaneneva

pana tammūlakaṃ tīsu bhavesu

bhayaṃ sabbamāgataṃyeva hoti.

iminā kāraṇena manosañcetanāhāre āyūhanameva bhayanti veditabbaṃ.

Toàn bộ sự nguy hiểm trong tam giới đã xuất hiện do chính sự tích trữ thiện nghiệp & bất thiện nghiệp và có gốc là (sự tích trữ) đó. Bởi nguyên nhân đó, đối với tư niệm thực, sự tích trữ nên được hiểu là sự nguy hiểm.

168

paṭisandhiviññāṇañca yasmiṃ

yasmiṃ ṭhāne abhinipatati, tasmiṃ

tasmiṃ ṭhāne paṭisandhināmarūpaṃ gahetvāva nibbattati, tasmiñca

nibbatte sabbabhayāni

nibbattāniyeva honti,

tammūlakattāti, iminā kāraṇena

viññāṇāhāre abhinipātoyeva

bhayanti veditabbo.

Và ở bất kỳ nơi nào, tái hợp thức khởi đầu (kiếp sống mới); thì tại chính nơi đó, nó tái sinh bằng cách nắm bắt tái hợp danh sắc. Khi nó tái sinh, toàn bộ các sự nguy hiểm cũng sinh ra do chúng có gốc là nó. Bởi nguyên nhân đó, đối với thức thực, chính sự khởi đầu nên được hiểu là sự nguy hiểm.

169

evaṃ sabhayesu pana imesu āhāresu sammāsambuddho kabaḷīkārāhāre nikantipariyādānatthaṃ “seyyathāpi, bhikkhave, dve jāyampatikā”tiādinā (saṃ. ni. 2.63) nayena puttamaṃsūpamaṃ desesi. phassāhāre nikantipariyādānatthaṃ “seyyathāpi, bhikkhave, gāvī niccammā”tiādinā nayena niccammagāvūpamaṃ desesi. manosañcetanāhāre nikantipariyādānatthaṃ “seyyathāpi, bhikkhave, aṅgārakāsū”tiādinā nayena aṅgārakāsūpamaṃ desesi. viññāṇāhāre nikantipariyādānatthaṃ “seyyathāpi, bhikkhave, coraṃ āgucārin”tiādinā nayena sattisatāhatūpamaṃ desesi.

0

170

 tatrāyaṃ bhūtamatthaṃ katvā saṅkhepato atthayojanā, dve kira jāyampatikā puttaṃ gahetvā parittena pātheyyena yojanasatikaṃ kantāramaggaṃ paṭipajjiṃsu. tesaṃ paññāsa yojanāni gantvā pātheyyaṃ niṭṭhāsi. te khuppipāsāturā viraḷacchāyāyaṃ nisīdiṃsu. tato puriso bhariyaṃ āha “bhadde ito samantā paññāsa yojanāni gāmo vā nigamo vā natthi, tasmā yaṃ taṃ purisena kātabbaṃ bahumpi kasigorakkhādikammaṃ, na dāni sakkā taṃ mayā kātuṃ, ehi maṃ māretvā upaḍḍhamaṃsaṃ khāditvā upaḍḍhaṃ pātheyyaṃ katvā puttena saddhiṃ kantāraṃ nittharāhī”ti. sāpi āha “sāmi mayā dāni yaṃ taṃ itthiyā kātabbaṃ bahumpi suttakantanādikammaṃ, taṃ kātuṃ na sakkā, ehi maṃ māretvā upaḍḍhamaṃsaṃ khāditvā upaḍḍhaṃ pātheyyaṃ katvā puttena saddhiṃ kantāraṃ nittharāhī”ti. tato so taṃ āha “bhadde mātugāmamaraṇena dvinnaṃ maraṇaṃ paññāyati. na hi mando kumāro mātaraṃ vinā jīvituṃ sakkoti. yadi pana mayaṃ jīvāma, puna dārakaṃ labheyyāma, handa dāni puttakaṃ māretvā maṃsaṃ gahetvā kantāraṃ nittharāmā”ti.

0

171

tato mātā puttamāha “tāta pitu santikaṃ gacchāhī”ti. so agamāsi. athassa pitā “mayā puttakaṃ posessāmīti kasigorakkhādīhi anappakaṃ dukkhamanubhūtaṃ, na sakkomi puttaṃ māretuṃ, tvaṃyeva tava puttakaṃ mārehī”ti vatvā “tāta mātusantikameva gacchāhī”ti āha. so agamāsi. athassa mātāpi “mayā puttaṃ patthentiyā govatakukkuravatadevatāyācanādīhipi tāva anappakaṃ dukkhaṃ anubhūtaṃ, ko pana vādo kucchinā pariharantiyā? na sakkāhaṃ puttaṃ māretun”ti vatvā “tāta pitusantikaṃyeva gacchāhī”ti āha. evaṃ so dvinnaṃ antarā gacchantoyeva mato. te taṃ disvā paridevitvā pubbe vuttanayeneva maṃsāni gahetvā khādantā pakkamiṃsu. tesaṃ so puttamaṃsāhāro navahi kāraṇehi paṭikulattā neva davāya hoti, na madāya na maṇḍanāya na vibhūsanāya, kevalaṃ kantāranittharaṇatthāyeva hoti.

0

172

katamehi navahi kāraṇehi paṭikūloti ce? sajātimaṃsatāya ñātimaṃsatāya puttamaṃsatāya piyaputtamaṃsatāya taruṇamaṃsatāya āmakamaṃsatāya agorasamaṃsatāya aloṇatāya adhūpitatāyāti. tasmā yo bhikkhu kabaḷīkārāhāraṃ evaṃ puttamaṃsasadisaṃ passati, so tattha nikantiṃ pariyādiyati. ayaṃ tāva puttamaṃsūpamāyaṃ atthayojanā.

0

173

niccammagāvūpamāyaṃ pana yathā sā gāvī gīvato yāva khurā, tāva cammaṃ uddāletvā muttā yaṃ yadeva nissāya tiṭṭhati, tattha pāṇakehi khajjamānā dukkhassevādhikaraṇaṃ hoti, evaṃ phassopi yaṃ yadeva vatthuṃ ārammaṇaṃ vā nissāya tiṭṭhati, taṃtaṃvatthārammaṇasambhavassa vedayitadukkhassa adhikaraṇameva hoti. tasmā yo bhikkhu phassāhāraṃ evaṃ niccammagāvisadisaṃ passati, so tattha nikantiṃ pariyādiyati, ayaṃ niccammagāvūpamāyaṃ atthayojanā.

0

174

aṅgārakāsūpamāyaṃ pana yathā sā aṅgārakāsu, evaṃ mahāpariḷāhaṭṭhena tayo bhavā. yathā nānābāhāsu gahetvā tattha upakaḍḍhakā dve purisā, evaṃ bhavesu upakaḍḍhanaṭṭhena manosañcetanā. tasmā yo bhikkhu manosañcetanāhāraṃ evaṃ aṅgārakāsūpakaḍḍhakapurisasadisaṃ passati, so tattha nikantiṃ pariyādiyati, ayaṃ aṅgārakāsūpamāyaṃ atthayojanā.

0

175

sattisatāhatūpamāyaṃ pana yena so puriso pubbaṇhasamaye sattisatena haññati, tamassa sarīre vaṇamukhasataṃ katvā antarā aṭṭhatvā vinivijjhitvā aparabhāgeyeva patati, evaṃ itarāni dve sattisatāni, evamassa patitokāse apatitvā apatitvā gatāhi sattīhi sabbasarīraṃ chiddāvachiddameva hoti, tassa ekavaṇamukhepi uppannassa dukkhassa pamāṇaṃ natthi, ko pana vādo tīsu vaṇamukhasatesu? tattha sattinipātakālo viya paṭisandhiviññāṇanibbattakālo. vaṇamukhajananaṃ viya khandhajananaṃ. vaṇamukhesu dukkhavedanuppādo viya jātesu khandhesu vaṭṭamūlakanānāvidhadukkhuppādo. aparo nayo, āgucārī puriso viya paṭisandhiviññāṇaṃ. tassa sattighātehi uppannavaṇamukhāni viya viññāṇapaccayā nāmarūpaṃ. vaṇamukhapaccayā tassa purisassa kakkhaḷadukkhuppādo viya nāmarūpapaccayā viññāṇassa dvattiṃsakammakāraṇāṭṭhanavutirogādivasena nānappakārakadukkhuppādo daṭṭhabbo. tasmā yo bhikkhu viññāṇāhāraṃ evaṃ sattisatāhatasadisaṃ passati. so tattha nikantiṃ pariyādiyati, ayaṃ sattisatāhatūpamāyaṃ atthayojanā.

0

176

so evaṃ imesu āhāresu nikantiṃ pariyādiyanto cattāropi āhāre parijānāti, yesu pariññātesu sabbampi pariññātaṃ vatthu pariññātameva hoti. vuttañhetaṃ bhagavatā —

0

177

“kabaḷīkāre, bhikkhave, āhāre pariññāte pañcakāmaguṇiko rāgo pariññāto hoti. pañcakāmaguṇike rāge pariññāte natthi taṃ saṃyojanaṃ, yena saṃyojanena saṃyutto ariyasāvako puna imaṃ lokaṃ āgaccheyya. phasse, bhikkhave, āhāre pariññāte tisso vedanā pariññātā honti. tīsu vedanāsu pariññātāsu ariyasāvakassa natthi kiñci uttarikaraṇīyanti vadāmi. manosañcetanāya, bhikkhave, āhāre pariññāte tisso taṇhā pariññātā honti. tīsu taṇhāsu pariññātāsu ariyasāvakassa natthi kiñci uttarikaraṇīyanti vadāmi. viññāṇe, bhikkhave, āhāre pariññāte nāmarūpaṃ pariññātaṃ hoti. nāmarūpe pariññāte ariyasāvakassa natthi kiñci uttarikaraṇīyanti vadāmī”ti (saṃ. ni. 2.63).

0

178

taṇhāsamudayā āhārasamudayoti

purimataṇhāsamudayā paṭisandhikānaṃ āhārānaṃ samudayo nibbatto

hotīti attho.

[Sự sinh lên của thức ăn do sự sinh lên của ái] tức là: sự sinh lên của các thức ăn vào lúc tái hợp xuất hiện do sự sinh lên của ái kiếp trước; ý nghĩa là như vậy.

179

kathaṃ? paṭisandhikkhaṇe hi

tisantativasena

uppannasamatiṃsarūpabbhantare

jātā ojā atthi. ayaṃ taṇhāpaccayā nibbatto

upādinnakakabaḷīkārāhāro.

Như thế nào? Quả thực, vào thời điểm tái hợp, dưỡng chất sinh ra trong số 30 loại sắc cùng sinh lên do tác động của tam trú. Đó là đoàn thực – thuộc loại nghiệp sinh – sinh ra do duyên là tham ái.

180

paṭisandhicittasampayuttā pana

phassacetanā sayañca cittaṃ

viññāṇanti ime taṇhāpaccayā

nibbattā

upādinnakaphassamanosañcetanā

viññāṇāhārāti.

Thế nhưng, xúc & tư hiệp hành với tái hợp tâm và thức – tức chính tâm ấy: chúng là thức thực, tư niệm thực & xúc thực – thuộc loại nghiệp sinh – sinh ra do duyên là tham ái.

181

evaṃ tāva purimataṇhāsamudayā

paṭisandhikānaṃ āhārānaṃ

samudayo veditabbo. yasmā panidha upādinnakāpi

anupādinnakāpi āhārā missetvā

kathitā, tasmā anupādinnakānampi

evaṃ taṇhāsamudayā

āhārasamudayo veditabbo.

Như vậy, cho đến giờ, sự sinh lên của các thức ăn vào lúc tái hợp nên được hiểu là (bắt nguồn từ) sự sinh lên của tham ái kiếp trước. Nhưng ở đây, bởi vì các thức ăn được giảng giải gồm cả thức ăn thuộc loại nghiệp sinh lẫn không thuộc loại nghiệp sinh; cho nên sự sinh lên của các thức ăn thuộc nhóm thức ăn không thuộc loại nghiệp sinh cũng nên được hiểu là (bắt nguồn từ) sự sinh lên của tham ái như vậy.

182

aṭṭhalobhasahagatacittasamuṭṭhitesu hi rūpesu ojā atthi, ayaṃ

sahajātataṇhāpaccayā nibbatto

anupādinnakakabaḷīkārāhāro. lobhasahagatacittasampayuttā

pana phassacetanā sayañca cittaṃ

viññāṇanti ime taṇhāpaccayā

nibbattā

anupādinnakaphassamanosañcetanā viññāṇāhārāti.

Bởi vì dưỡng chất tồn tại trong các sắc khởi sinh bởi 8 loại tâm đi liền với tham; đó là đoàn thực – không thuộc loại nghiệp sinh – sinh ra do duyên là tham ái đi cùng. Còn xúc & tư hiệp hành với tâm đi cùng tham và thức – tức chính tâm ấy: chúng là xúc thực, tư niệm thực & thức thực – không thuộc loại nghiệp sinh – sinh ra do duyên là tham ái.

183

taṇhānirodhā āhāranirodhoti imissā upādinnakānañca anupādinnakānañca āhārānaṃ paccayabhūtāya taṇhāya nirodhena āhāranirodho paññāyati. sesaṃ vuttanayameva. ayaṃ pana viseso, idha cattāripi saccāni sarūpeneva vuttāni. yathā ca idha, evaṃ ito uttarimpi sabbavāresūti. tasmā sabbattha asammuyhantena saccāni uddharitabbāni. sabbavāresu ca “ettāvatāpi kho āvuso”ti idaṃ desanāniyyātanaṃ tattha tattha desitadhammavasena yojetabbaṃ. tassa idha tāva ayaṃ yojanā ettāvatāpīti imāya āhāradesanāya vuttamanasikārappaṭivedhavasenāpīti vuttaṃ hoti. esa nayo sabbatthāpi.

0

184

91. idāni “sādhāvuso”ti purimanayeneva therassa bhāsitaṃ abhinanditvā anumoditvā te bhikkhū uttarimpi pañhaṃ pucchiṃsu. thero ca nesaṃ aññenapi pariyāyena byākāsi. esa nayo ito paresupi sabbavāresu. tasmā ito paraṃ evarūpāni vacanāni anāmasitvā yena yena pariyāyena byākaroti, tassa tasseva atthaṃ vaṇṇayissāma. imassa pana vārassa saṅkhepadesanāyaṃ dukkhañca pajānātīti ettha dukkhanti dukkhasaccaṃ. vitthāradesanāyaṃ pana yaṃ vattabbaṃ siyā, taṃ sabbaṃ visuddhimagge saccaniddese vuttamevāti.

0

185

ito paraṃ paṭiccasamuppādavasena desanā hoti. tattha jarāmaraṇavāre tāva tesaṃ

tesanti ayaṃ saṅkhepato anekesaṃ

sattānaṃ sādhāraṇaniddesoti

ñātabbo.

Kể từ đây, bài giảng dựa theo chuẩn mực là Lý Duyên Khởi. Ở đó, trong đoạn về chủ đề Già & Chết, về cụm từ [của/cho chính chúng](i): cụm từ này là lời mô tả chung cho nhiều loại chúng sinh một cách tổng hợp; điều đó nên được hiểu như vậy.

 

—–

 

(i) [tesaṃ tesaṃ].

186

 yā devadattassa jarā, yā somadattassa jarāti evañhi divasampi kathentassa neva sattā pariyādānaṃ gacchanti. imehi pana dvīhi padehi na koci satto apariyādinno hoti. tasmā vuttaṃ “ayaṃ saṅkhepato anekesaṃ sattānaṃ sādhāraṇaniddeso”ti.

0

187

tamhi tamhīti ayaṃ gatijātivasena anekesaṃ nikāyānaṃ sādhāraṇaniddeso. sattanikāyeti sādhāraṇaniddesena niddiṭṭhassa sarūpanidassanaṃ.

0

188

jarā jīraṇatātiādīsu pana jarāti

sabhāvaniddeso. jīraṇatāti ākāraniddeso.

Về các từ [sự già, sự lão hóa vân vân]: [sự già – jarā] là lời mô tả về bản chất; [sự lão hóa – jīraṇatā] là lời mô tả về phương diện.

189

khaṇḍiccantiādayo kālātikkame kiccaniddesā. pacchimā dve pakatiniddesā. ayañhi jarāti iminā padena sabhāvato dīpitā, tenassāyaṃ sabhāvaniddeso. jīraṇatāti iminā ākārato. tenassāyaṃ ākāraniddeso.

0

190

khaṇḍiccanti iminā kālātikkame

dantanakhānaṃ

khaṇḍitabhāvakaraṇakiccato.

[Sự gẫy vỡ], bằng từ này, lời kinh chỉ đến chức năng tạo ra trạng thái gẫy vỡ của răng & móng vào thời điểm cao niên.

191

pāliccanti iminā kesalomānaṃ palitabhāvakaraṇakiccato. valittacatāti iminā maṃsaṃ milāpetvā tace valittabhāvakaraṇakiccato dīpitā. tenassā ime khaṇḍiccantiādayo tayo kālātikkame kiccaniddesā. tehi imesaṃ vikārānaṃ dassanavasena pākaṭībhūtā pākaṭajarā dassitā. 

0

192

yatheva hi udakassa vā aggino vā

vātassa vā tiṇarukkhādīnaṃ

sambhaggapalibhaggatāya vā

jhāmatāya vā gatamaggo pākaṭo hoti, na ca so gatamaggo tāneva

udakādīni, evameva jarāya

dantādīsu khaṇḍiccādivasena

gatamaggo pākaṭo, cakkhuṃ

ummīletvāpi gayhati. na ca

khaṇḍiccādīneva jarā, na hi jarā

cakkhuviññeyyā hoti.

Bởi vì giống hệt như tiến trình tự nhiên(i) của nước, lửa hay gió được hiển lộ thông qua trạng thái hư vỡ, đổ vỡ hay trạng thái cháy của cỏ cây vân vân; nhưng tiến trình tự nhiên đó không phải là bản thân nước, lửa vân vân. Cũng giống như vậy, tiến trình tự nhiên của sự già được hiển lộ thông qua sự gẫy vỡ vân vân của răng vân vân, (sự già đó) được nhận thấy bằng cách mở mắt (để quan sát); nhưng sự già không phải là bản thân sự gẫy vỡ vân vân, bởi vì sự già không thể được nhận thức bằng mắt.  

—–

(i) [Tiến trình tự nhiên – gatamagga] – nếu dịch sát là [con đường đã được đi qua] chỉ đến tiến trình, lộ trình, sự diễn tiến… trong tự nhiên của nước, lửa hay gió. 

193

āyuno saṃhāni indriyānaṃ paripākoti imehi pana padehi kālātikkameyeva abhibyattatāya āyukkhayacakkhādīndriyaparipākasaññitāya pakatiyā dīpitā. tenassime pacchimā dve pakatiniddesāti veditabbā. tattha yasmā jaraṃ pattassa āyu hāyati, tasmā jarā “āyuno saṃhānī”ti phalūpacārena vuttā. yasmā ca daharakāle suppasannāni sukhumampi attano visayaṃ sukheneva gaṇhanasamatthāni cakkhādīni indriyāni jaraṃ pattassa paripakkāni āluḷitāni avisadāni oḷārikampi attano visayaṃ gahetuṃ asamatthāni honti, tasmā “indriyānaṃ paripāko”tipi phalūpacāreneva vuttā. sā panāyaṃ evaṃ niddiṭṭhā sabbāpi jarā pākaṭā paṭicchannāti duvidhā hoti.

0

194

tattha dantādīsu khaṇḍabhāvādidassanato rūpadhammesu jarā pākaṭajarā nāma. arūpadhammesu pana tādisassa vikārassa adassanato paṭicchannajarā nāma. tattha yvāyaṃ khaṇḍādibhāvo dissati, so tādisānaṃ dantādīnaṃ suviññeyyattā vaṇṇoyeva, taṃ cakkhunā disvā manodvārena cintetvā “ime dantā jarāya pahaṭā”ti jaraṃ jānāti udakaṭṭhāne baddhāni gosīsādīni oloketvā heṭṭhā udakassa atthibhāvaṃ jānanaṃ viya. puna avīci savīcīti evampi duvidhā hoti. tattha maṇikanakarajatapavāḷasūriyādīnaṃ mandadasakādīsu pāṇīnaṃ viya pupphaphalapallavādīsu ca apāṇīnaṃ viya antarantarā vaṇṇavisesādīnaṃ duviññeyyattā jarā avīcijarā nāma, nirantarajarāti attho. tato aññesu pana yathāvuttesu antarantarā vaṇṇavisesādīnaṃ suviññeyyattā jarā savīcijarā nāmāti veditabbā.

0

195

ito paraṃ, tesaṃ tesantiādi vuttanayeneva veditabbaṃ. cuti cavanatātiādīsu pana cutīti cavanakavasena vuccati, ekacatupañcakkhandhānaṃ sāmaññavacanametaṃ. cavanatāti bhāvavacanena lakkhaṇanidassanaṃ. bhedoti cutikkhandhānaṃ bhaṅguppattiparidīpanaṃ. antaradhānanti ghaṭasseva bhinnassa bhinnānaṃ cutikkhandhānaṃ yena kenaci pariyāyena ṭhānābhāvaparidīpanaṃ.

0

196

maccu maraṇanti maccusaṅkhātaṃ maraṇaṃ. tena

samucchedamaraṇādīni nisedheti.

 

[Sự tử, sự chết]: [sự chết] được gọi là [sự tử]; thông qua từ này, Ngài (Sariputta) ngăn chặn quan niệm về sự chết như là sự tuyệt diệt.

197

kālo nāma antako, tassa kiriyāti

kālakiriyā. etena lokasammutiyā

maraṇaṃ dīpeti.

0

198

idāni paramatthena dīpetuṃ, khandhānaṃ bhedotiādimāha.

0

199

paramatthena hi khandhāyeva

bhijjanti, na satto nāma koci marati. khandhesu pana bhijjamānesu satto marati, bhinnesu matoti vohāro hoti.

Về mặt chân đế, quả thực, chỉ mỗi các uẩn tan rã mà thôi; không có bất kỳ chúng sinh nào chết. Nhưng khi các uẩn đang tan rã thì người ta nói ‘chúng sinh đang chết’, khi các uẩn đã tan rã rồi thì người ta nói ‘chúng sinh đã chết.’

200

ettha ca catuvokāravasena khandhānaṃ bhedo, ekavokāravasena kaḷevarassa nikkhepo. catuvokāravasena vā khandhānaṃ bhedo, sesadvayavasena kaḷevarassa nikkhepo veditabbo. kasmā? bhavadvayepi rūpakāyasaṅkhātassa kaḷevarassa sambhavato. atha vā yasmā ca cātumahārājikādīsu khandhā bhijjanteva, na kiñci nikkhipanti, tasmā tesaṃ vasena khandhānaṃ bhedo, manussādīsu kaḷevarassa nikkhepo. ettha ca kaḷevarassa nikkhepakāraṇato maraṇaṃ kaḷevarassa nikkhepoti vuttanti evamattho daṭṭhabbo.

iti ayañca jarā idañca maraṇaṃ. idaṃ vuccatāvusoti idaṃ ubhayampi ekato katvā jarāmaraṇanti kathīyati. sesaṃ vuttanayamevāti.

0

201

93. jātivāre jāti sañjātītiādīsu

0

202

jāyanaṭṭhena jāti, sā

aparipuṇṇāyatanavasena yuttā.

sañjāyanaṭṭhena sañjāti, sā

paripuṇṇāyatanavasena yuttā.

[Sự sinh – jāti] với nghĩa là [sự được sinh ra], khái niệm này liên hệ đến (ý niệm) giác quan chưa được trọn vẹn(i). [Sự viên sinh – sañjāti] với nghĩa là [sự được sinh ra đầy đủ], khái niệm này liên hệ đến (ý niệm) giác quan được trọn vẹn(ii).

—–

(i) Tức chỉ đến các chúng sinh được sinh ra với giác quan chưa được trọn vẹn.

(ii) Tức chỉ đến các chúng sinh được sinh ra với giác quan được trọn vẹn.

203

okkamanaṭṭhena okkanti, sā

aṇḍajajalābujavasena yuttā. te hi aṇḍakosañca vatthikosañca

okkamantā pavisantā viya

paṭisandhiṃ gaṇhanti.

[Sự giáng hạ] với ý nghĩa là sự đi xuống, khái niệm này liên hệ đến các chúng sinh được sinh từ trứng và được sinh từ thai. Bởi vì những chúng sinh ấy nắm bắt sự tái hợp như thể đi xuống, nhập vào vỏ trứng hay màng thai.

204

abhinibbattanaṭṭhena abhinibbatti, sā saṃsedajaopapātikavasena yuttā, te hi pākaṭāyeva hutvā nibbattanti.

[Sự hóa sinh] với ý nghĩa là sự biến sinh, khái niệm này liên hệ đến các chúng sinh thấp sinh(i) và hiện sinh(ii). Bởi vì họ sinh ra bằng cách hiện ra.

—–

(i) & (ii) [Thấp sinh] tức sinh ra từ nơi ẩm ướt – đây là hình thức sinh ra của một số sinh vật sống nơi ẩm ướt. [Hiện sinh] tức tự nhiên sinh ra không thấy được nguyên nhân, quá trình sinh ra – đây là hình thức sinh ra của các vị trời.

205

ayaṃ tāva vohāradesanā.

0

206

idāni paramatthadesanā hoti.

khandhāyeva hi paramatthato

pātubhavanti, na satto.

Bây giờ, đây là bài giảng theo chân đế. Quả thực, về mặt chân đế, chỉ các uẩn hiện hữu chứ chúng sinh không hiện hữu.

207

khandhānanti ekavokārabhave ekassa catuvokārabhave catunnaṃ pañcavokārabhave pañcannampi gahaṇaṃ veditabbaṃ. pātubhāvoti uppatti.

0

208

āyatanānanti ettha tatra tatra

uppajjamānāyatanavaseneva

saṅgaho veditabbo.

[Các giác quan], ở đây, sự phân loại(i) (các giác quan) nên được hiểu là các giác quan đang sinh lên ở cõi này cõi kia (vào lúc tái hợp).

—–

(i) Các giác quan có nhiều loại, ở đây nói đến loại giác quan vào lúc tái hợp.

209

paṭilābhoti santatiyaṃ

pātubhāvoyeva. pātubhavantāneva

hi tāni paṭiladdhāni nāma honti.

[Sự đạt được] chính là sự hiện hữu trong sự liên tục. Bởi vì chính khi các giác quan đó đang hiện hữu, chúng được gọi là được đạt được.

210

ayaṃ vuccatāvuso jātīti iminā padena vohārato paramatthato ca desitāya jātiyā nigamanaṃ karotīti.

0

211

bhavasamudayāti ettha pana jātiyā

paccayabhūto kammabhavo

veditabbo. sesaṃ vuttanayamevāti.

Nhưng ở đây, nghiệp hữu nên được hiểu là duyên cho sự sinh. Phần còn lại theo chính phương pháp đã được nói.

212

94. bhavavāre

0

213

kāmabhavoti kammabhavo ca

upapattibhavo ca. tattha kammabhavo nāma

kāmabhavūpagaṃ kammameva.

[Dục Hữu] chỉ đến nghiệp hữu và sinh hữu. Trong chủ đề này, cái được gọi là [nghiệp hữu] chính là nghiệp đi đến cõi dục(i).

—–

 

(i) Tức nghiệp khiến chúng sinh đi đến cõi dục.

214

tañhi upapattibhavassa kāraṇattā

“sukho buddhānamuppādo (dha. pa. 194) dukkho pāpassa uccayo”tiādīni (dha. pa. 117) viya phalavohārena

bhavoti vuttaṃ.

Quả thực, (nghiệp) đó được gọi là hữu – vốn là thuật ngữ chỉ đến quả (của nghiệp đó) – do nó là nguyên nhân cho sinh hữu(i), giống như (cách gọi trong những lời nói) ‘sự sinh lên của chư Phật là lạc’ (dha. pa. 194), ‘sự tích lũy cái ác là khổ’ (dha. pa. 117) vân vân(ii).

—–

(i) Ở đây có 2 khái niệm: Hữu – tức cõi mà chúng sinh tái sinh đến; và Nghiệp (đưa đến cõi đó). Nghiệp là nhân, Hữu là quả, nhưng ở đây dùng cái tên của quả – tức Hữu – để gọi cho nhân – tức Nghiệp. Nên (nghiệp) hữu ở đây chỉ đến nghiệp – là cái đưa đến hữu – chứ không phải chỉ cho chính hữu đó.

(ii) Đây là 2 ví dụ minh họa cho điểm (i). [Sự sinh lên của chư Phật là lạc]; nói một cách chặt chẽ thì [sự sinh lên của chư Phật] là nhân, [lạc (cho chúng sinh] là quả, khi nói [sự sinh lên của chư Phật là lạc] là đang lấy quả – tức  [lạc] – để gọi cho nhân – tức [sự sinh lên của chư Phật]. Tương tự cho [sự tích lũy cái ác là khổ].

215

upapattibhavo nāma tena kammena nibbattaṃ

upādinnakhandhapañcakaṃ. tañhi tattha bhavatīti katvā bhavoti

vuttaṃ. evaṃ sabbathāpi idaṃ kammañca

upapatti ca ubhayampetamidha

“kāmabhavo”ti vuttaṃ. esa nayo

rūpārūpabhavesu.

Cái được gọi là [sinh hữu] là nhóm 5 uẩn sinh ra do nghiệp ấy. Nó (nhóm 5 uẩn) được gọi là [hữu] do nó tồn tại ở đó (cõi đó). Như vậy, cả 2 yếu tố đó – tức nghiệp ấy và sự sinh ấy – đều được gọi là [dục hữu]. Phương pháp này (cũng áp dụng) cho [Sắc Hữu & Vô Sắc Hữu].    

216

upādānasamudayāti ettha pana

upādānaṃ kusalakammabhavassa

upanissayavaseneva paccayo hoti. akusalakammabhavassa

upanissayavasenapi

sahajātādivasenapi. upapattibhavassa pana sabbassāpi

upanissayavaseneva.

[Do sự sinh lên của Thủ]: nhưng ở đây, thủ là duyên cho thiện nghiệp hữu với ý nghĩa là thân y (duyên); thủ là duyên cho bất thiện nghiệp hữu với ý nghĩa là thân y (duyên) và câu sanh (duyên) vân vân; nhưng thủ là duyên cho mọi sinh hữu chỉ với ý nghĩa là thân y (duyên).  

217

sesaṃ vuttanayamevāti.

0

218

95. upādānavāre kāmupādānantiādīsu

0

219

vatthukāmaṃ upādiyati etena,

sayaṃ vā taṃ upādiyatīti

kāmupādānaṃ. kāmo ca so upādānañcāti vā

kāmupādānaṃ. upādānanti daḷhaggahaṇaṃ vuccati. daḷhattho hi ettha upasaddo

[Dục Thủ], tức là: do (dục thủ) này, người ta bám chấp vào đối tượng của dục, hoặc chính (dục thủ) đó bám chấp vào đối tượng của dục. Hoặc [dục thủ] nghĩa là dục & thủ. Sự nắm bắt mạnh mẽ được gọi là [thủ]. Bởi vì ở đây, tiếng (tiền tố) [Upa] có nghĩa là mạnh mẽ.

220

“upāyāsa upakaṭṭhā”tiādīsu viya

0

221

pañcakāmaguṇikarāgassetaṃ

adhivacanaṃ.

Đó là thuật ngữ chỉ đến sự luyến ái 5 loại dục.

222

ayamettha saṅkhepo. vitthārato panetaṃ “tattha katamaṃ kāmupādānaṃ, yo kāmesu kāmacchando”ti (dha. sa. 1220; vibha. 938) vuttanayena veditabbaṃ.

0

223

tathā diṭṭhi ca sā upādānañcāti

diṭṭhupādānaṃ. atha vā diṭṭhiṃ

upādiyati, upādiyanti vā etena

diṭṭhinti diṭṭhupādānaṃ. upādiyati hi purimadiṭṭhiṃ uttaradiṭṭhi.

upādiyanti ca tāya diṭṭhiṃ.

Cũng vậy, [Kiến Thủ] tức là: kiến và thủ. Hoặc [kiến thủ] tức là: do (kiến thủ) này, người ta bám chấp vào kiến; hoặc do (kiến thủ) này, chúng bám chấp vào kiến. Bởi vì kiến sau bám chấp vào kiến trước. Hoặc do (kiến) ấy, chúng bám chấp vào kiến. 

224

yathāha “sassato attā ca loko ca,

idameva saccaṃ

moghamaññan”tiādi (ma. ni. 3.27),

Giống như khi người ta nói: ‘Bản ngã & thế giới thường hằng, chỉ quan điểm đó là đúng, quan điểm khác là sai.’ vân vân (ma. ni. 3.27).

225

sīlabbatupādānāttavādupādānavajjassa sabbadiṭṭhigatassetaṃ

adhivacanaṃ.

Đó là thuật ngữ chỉ đến mọi tà kiến trừ giới cấm thủ & ngã thuyết thủ(i).

—–

(i) [Ngã thuyết thủ] tức sự chấp thủ vào quan điểm về bản ngã. Nói một cách chặt chẽ, giới cấm thủ & ngã thuyết thủ đều là tà kiến, nhưng chúng được liệt riêng ra thành 2 loại chấp thủ riêng, nên không tính vào số các kiến thủ ở đây.

226

ayamettha saṅkhepo. vitthārato panetaṃ “tattha katamaṃ diṭṭhupādānaṃ natthi dinnan”ti (dha. sa. 1220; vibha. 938) vuttanayena veditabbaṃ.

0

227

tathā sīlabbataṃ upādiyanti etena,

sayaṃ vā taṃ upādiyati,

sīlabbatañca taṃ upādānañcāti vā

sīlabbatupādānaṃ.

Cũng vậy, [Giới Cấm Thủ] tức là: do [giới cấm thủ] ấy, chúng bám chấp vào giới cấm; hoặc chính giới cấm thủ ấy bám chấp vào giới cấm; hoặc giới cấm & thủ(i).

—–

(i) [Giới Cấm] là từ Hán Việt, có nghĩa là [những điều ngăn cấm người ta không nên làm]. Từ Hán Việt này dùng để dịch thuật ngữ Pāḷi là [sīlabbata] vốn có nghĩa [sự thực hành về tôn giáo nói chung], chứ không nhất thiết chỉ là những điều ngăn cấm. Do đó, [Giới Cấm] là cách dịch thiếu chính xác; người viết vẫn phải dùng do tính lâu đời và phổ biến của nó.

228

gosīlagovatādīni hi evaṃ suddhīti abhinivesato sayameva upādānāni ayamettha saṅkhepo. vitthārato panetaṃ “tattha katamaṃ sīlabbatupādānaṃ, ito bahiddhā samaṇabrāhmaṇānaṃ sīlena suddhī”ti vuttanayena veditabbaṃ.

0

229

idāni vadanti etenāti vādo.

upādiyanti etenāti upādānaṃ. kiṃ

vadanti, upādiyanti vā? attānaṃ.

attano vādupādānaṃ

attavādupādānaṃ.

Người ta nói dựa vào cái gì, (thì cái đó là) [thuyết]. Người ta bám chấp bằng/bởi cái gì, (thì cái đó là) [thủ]. Hay người ta nói cái gì, bám chấp cái gì? (Người ta nói, bám chấp) Bản Ngã. Sự chấp thủ vào học thuyết về bản ngã là [Ngã Thuyết Thủ].

230

attavādamattameva vā attāti

upādiyati etenāti attavādupādānaṃ, vīsativatthukāya sakkāyadiṭṭhiyā

etaṃ adhivacanaṃ.

Hoặc [ngã thuyết thủ] tức là: do (ngã thuyết thủ) này, người ta bám chấp vào chính ngã thuyết như là ngã(i). Đó là thuật ngữ cho thân kiến gồm 20 loại.

—–

(i) Tức xem chính ngã thuyết đó là bản ngã.

231

ayamettha saṅkhepo. vitthārato panetaṃ “tattha katamaṃ attavādupādānaṃ, idha assutavā puthujjano ariyānaṃ adassāvī”ti (dha. sa. 1223) vuttanayena veditabbaṃ.

0

232

taṇhāsamudayāti ettha taṇhā

kāmupādānassa upanissayavasena

anantarasamanantaranatthivigatāsevanavasena vā paccayo. avasesānaṃ pana sahajātādivasenāpi. sesaṃ

vuttanayamevāti.

[Do sự sinh lên của ái], ở đây, ái là duyên cho dục thủ với ý nghĩa là thân y (duyên) hoặc với ý nghĩa là vô gián (duyên), đẳng vô gián (duyên), vô hữu (duyên), ly khứ (duyên) và tập hành (duyên). Nhưng đối với những yếu tố còn lại, nó là duyên với ý nghĩa là câu sinh (duyên) vân vân. Phần còn lại cũng theo chính phương pháp đã được nói.

233

96. taṇhāvāre rūpataṇhā … pe … dhammataṇhāti evaṃ cakkhudvārādīsu javanavīthiyaṃ pavattāya taṇhāya “seṭṭhiputto brāhmaṇaputto”ti evamādīsu pitito nāmaṃ viya pitisadisārammaṇato nāmaṃ.

0

234

ettha ca rūpārammaṇā taṇhā, rūpe

taṇhāti rūpataṇhā. sā kāmarāgabhāvena rūpaṃ

assādentī pavattamānā kāmataṇhā.

Và ở đây, ái có đối tượng là sắc – tức ái đối với sắc – chính là sắc ái. Trong khi đang diễn tiến và tận hưởng sắc dựa trên yếu tố là dục tham, (sắc ái) đó chính là Dục Ái.

235

sassatadiṭṭhisahagatarāgabhāvena

rūpaṃ niccaṃ dhuvaṃ sassatanti

evaṃ assādentī pavattamānā

bhavataṇhā.

Trong khi đang diễn tiến và tận hưởng dựa trên yếu tố là luyến ái đi liền với thường kiến rằng ‘Sắc là thường, là hằng, là vĩnh viễn.’, (sắc ái) đó chính là Hữu Ái.

236

ucchedadiṭṭhisahagatarāgabhāvena

rūpaṃ ucchijjati vinassati pecca na

bhavissatīti evaṃ assādentī

pavattamānā vibhavataṇhāti evaṃ

tividhā hoti.

Trong khi đang diễn tiến và tận hưởng dựa trên yếu tố là luyến ái đi liền với đoạn kiến rằng ‘Sắc hoại diệt, tiêu tan, sẽ không tồn tại sau khi chết.’, (sắc ái) đó chính là Phi Hữu Ái. (Sắc ái) có 3 loại như vậy. 

237

yathā ca rūpataṇhā, tathā

saddataṇhādayopīti etāni aṭṭhārasa

taṇhāvicaritāni honti. tāni ajjhattarūpādīsu aṭṭhārasa,

bahiddhārūpādīsu aṭṭhārasāti

chattiṃsa. iti atītāni chattiṃsa, anāgatāni

chattiṃsa, paccuppannāni

chattiṃsāti aṭṭhasataṃ.

Sắc ái như thế nào thì thanh ái vân vân cũng giống như thế ấy; có 18 loại sắc ái. Đối với nội sắc vân vân, có 18 loại; đối với ngoại sắc vân vân, có 18 loại; như vậy (tổng cộng) 36 loại. Như vậy, 36 loại thuộc quá khứ, 36 loại thuộc tương lai, 36 loại thuộc hiện tại; như vậy (tổng cộng) 108 loại.

238

“ajjhattikassupādāya ‘asmī’ti hoti,

‘itthasmī’ti hotī”ti (vibha. 973-974) vā evamādīnā

ajjhattikarūpādinissitāni aṭṭhārasa,

“bāhirassupādāya ‘iminā asmī’ti hoti, ‘iminā itthasmī’ti hotī”ti vā

(vibha. 975) evamādinā

bāhirarūpādinissitāni aṭṭhārasāti

chattiṃsa.

Hoặc có 18 loại dựa trên nội sắc vân vân rằng: dựa vào nội sắc có (ý niệm) ‘ta tồn tại’, có (ý niệm) ‘ta là thế này (thế kia).’ (vibha. 973-974). Có 18 loại dựa trên ngoại sắc vân vân rằng: dựa vào ngoại sắc có (ý niệm) ‘ta tồn tại với (sắc) này’, có (ý niệm) ‘ta là thế này (thế kia) với (sắc) này.’ (vibha. 975); như vậy (tổng cộng) 36 loại.

239

iti atītāni chattiṃsa, anāgatāni

chattiṃsa, paccuppannāni

chattiṃsāti evampi

aṭṭhasatataṇhāvicaritāni honti.

Như vậy, 36 loại thuộc quá khứ, 36 loại thuộc tương lai, 36 loại thuộc hiện tại; như vậy (tổng cộng) 108 loại ái.

240

puna saṅgahe karīyamāne rūpādīsu ārammaṇesu chaḷeva taṇhākāyā tissoyeva kāmataṇhādayo hontīti evaṃ —

niddesatthena niddesa-vitthārā vitthārassa ca.

puna saṅgahato taṇhā, viññātabbā vibhāvināti.

0

241

vedanāsamudayāti ettha pana

vedanāti vipākavedanā adhippetā.

[Do sự sinh lên của thọ], ở đây, [thọ] được hàm ý là quả thọ.  

242

sā kathaṃ chasu dvāresu taṇhāya paccayo hotīti ce? assādanīyato. sukhāya hi vedanāya assādanena sattā vedanaṃ mamāyantā vedanāya taṇhaṃ uppādetvā vedanārāgarattā hutvā cakkhudvāre iṭṭhameva rūpaṃ patthenti, laddhā ca naṃ assādenti, ārammaṇadāyakānañca cittakārādīnaṃ sakkāraṃ karonti. tathā sotadvārādīsu iṭṭhe ca saddādayo patthenti, laddhā ca ne assādenti, ārammaṇadāyakānañca vīṇāvādaka-gandhikasūda-tantavāya-nānāvidhasippasandassakādīnaṃ sakkāraṃ karonti. yathā kiṃ? yathā puttasinehena puttaṃ mamāyantā dhātiyā sakkāraṃ karonti, sappāyasappikhīrādīniyeva naṃ pāyenti ceva bhojenti ca. sesaṃ vuttanayameva.

0

243

97. vedanāvāre vedanākāyāti vedanāsamūhā. cakkhusamphassajā vedanā … pe … manosamphassajā vedanāti etaṃ “cakkhusamphassajā vedanā atthi kusalā, atthi akusalā, atthi abyākatā”ti (vibha. 34) evaṃ vibhaṅge āgatattā cakkhudvārādīsu pavattānaṃ kusalākusalābyākatavedanānaṃ “sāriputto, mantāṇiputto”ti evamādīsu mātito nāmaṃ viya mātisadisavatthuto nāmaṃ.

0

244

vacanattho panettha

cakkhusamphassahetu jātā vedanā

cakkhusamphassajā vedanāti.

Nhưng ở đây, ý nghĩa lời nói là: [nhãn xúc thọ] là thọ được sinh do nhân là nhãn xúc.

245

esa nayo sabbattha. ayaṃ tāvettha sabbasaṅgāhikakathā. vipākavasena pana cakkhudvāre dve cakkhuviññāṇāni, dve manodhātuyo, tisso manoviññāṇadhātuyoti etāhi sampayuttavasena vedanā veditabbā. esa nayo sotadvārādīsu. manodvāre manoviññāṇadhātusampayuttāva.

0

246

phassasamudayāti ettha pana

pañcadvāre

pañcavatthukavedanānaṃ

sahajātacakkhusamphassādisamudayā samudayo hoti.

[Do sự sinh lên của xúc], ở đây, từ sự sinh lên của nhãn xúc đồng sinh vân vân, có sự sinh lên của 5 loại thọ dựa vào ngũ căn(i) tại ngũ môn.

—–

(i) Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân.  

247

avasesānaṃ cakkhusamphassādayo upanissayādivasena paccayā.

Đối với các yếu tố còn lại, nhãn xúc là duyên với ý nghĩa là thân y (duyên).

248

manodvāre tadārammaṇavedanānaṃ advārikānañca paṭisandhibhavaṅgacutivedanānaṃ

sahajātamanosamphassasamudayā

samudayo hotīti veditabbo.

sesaṃ vuttanayameva.

Từ sự sinh lên của thức xúc đồng sinh, có sự sinh lên của các thọ vào giai đoạn đăng ký, các thọ vô môn, các thọ vào giai đoạn chết, hộ kiếp và tái hợp ở thức môn; điều đó nên được hiểu như vậy. Phần còn lại cũng theo phương pháp (luận giải) như (vừa) được nói.

249

98. phassavāre cakkhusamphassoti cakkhumhi samphasso. esa nayo sabbattha. cakkhusamphasso … pe … kāyasamphassoti ettāvatā ca kusalākusalavipākā pañcavatthukā dasa samphassā vuttā honti. manosamphassoti iminā sesā bāvīsati lokiyavipākamanasampayuttaphassā. saḷāyatanasamudayāti channaṃ cakkhādīnaṃ āyatanānaṃ samudayena imassa chabbidhassāpi samphassassa samudayo hotīti veditabbo. sesaṃ vuttanayamevāti.

0

250

99. saḷāyatanavāre cakkhāyatanantiādīsu yaṃ vattabbaṃ, taṃ sabbaṃ visuddhimagge khandhaniddese ceva āyatananiddese ca vuttanayameva. nāmarūpasamudayāti ettha pana yaṃ nāmaṃ yañca rūpaṃ, yañca nāmarūpaṃ yassa āyatanassa paccayo hoti, tassa vasena visuddhimagge paṭiccasamuppādaniddese vuttanayena nāmarūpasamudayā saḷāyatanasamudayo veditabbo. sesaṃ vuttappakāramevāti.

0

251

100. nāmarūpavāre

namanalakkhaṇaṃ nāmaṃ.

ruppanalakkhaṇaṃ rūpaṃ.

Ở đoạn kinh về Danh & Sắc, [Danh] có đặc điểm là sự nghiêng về (đối tượng), [Sắc] có đặc điểm là bị quấy nhiễu (bởi nóng lạnh).

252

vitthāravāre panassa vedanāti vedanākkhandho. saññāti saññākkhandho. cetanā phasso manasikāroti saṅkhārakkhandho veditabbo. kāmañca aññepi saṅkhārakkhandhasaṅgahitā dhammā santi, ime pana tayo sabbadubbalesupi cittesu santi. tasmā etesaṃyeva vasenettha saṅkhārakkhandhopi dassito. cattāri ca mahābhūtānīti ettha cattārīti gaṇanaparicchedo. mahābhūtānīti pathavīāpatejavāyānametaṃ adhivacanaṃ. yena pana kāraṇena tāni mahābhūtānīti vuccanti, yo cettha añño vinicchayanayo, so sabbo visuddhimagge rūpakkhandhaniddese vutto.

0

253

catunnañca mahābhūtānaṃ upādāyāti ettha pana catunnanti upayogatthe sāmivacanaṃ, cattāri ca mahābhūtānīti vuttaṃ hoti. upādāyāti upādiyitvā, gahetvāti attho. nissāyātipi eke. vattamānanti ayañcettha pāṭhaseso. samūhatthe vā etaṃ sāmivacanaṃ. tena catunnañca mahābhūtānaṃ samūhaṃ upādāya pavattamānaṃ rūpanti ayamattho veditabbo. evaṃ sabbatthāpi yāni cattāri pathavīādīni mahābhūtāni, yañca catunnaṃ mahābhūtānaṃ upādāya vattamānaṃ cakkhāyatanādibhedena abhidhammapāḷiyameva vuttaṃ tevīsatividhaṃ rūpaṃ, taṃ sabbampi “rūpan”ti veditabbaṃ. viññāṇasamudayāti ettha pana yaṃ viññāṇaṃ yassa nāmassa yassa ca rūpassa yassa ca nāmarūpassa paccayo hoti, tassa vasena visuddhimagge paṭiccasamuppādaniddese vuttanayeneva viññāṇasamudayā nāmarūpasamudayo veditabbo. sesaṃ vuttanayamevāti.

0

254

101. viññāṇavāre cakkhuviññāṇanti cakkhumhi viññāṇaṃ, cakkhuto vā jātaṃ viññāṇanti cakkhuviññāṇaṃ. evaṃ sotaghānajivhākāyaviññāṇāni. itaraṃ pana manoyeva viññāṇanti manoviññāṇaṃ. dvipañcaviññāṇavajjassa tebhūmakavipākacittassetaṃ adhivacanaṃ. saṅkhārasamudayāti ettha pana yo saṅkhāro yassa viññāṇassa paccayo hoti, tassa vasena saṅkhārasamudayā viññāṇasamudayo veditabbo. sesaṃ vuttanayamevāti.

0

255

102. saṅkhāravāre

abhisaṅkharaṇalakkhaṇo saṅkhāro.

Ở đoạn kinh về Hành, [Hành] có đặc điểm là sự tạo tác.

256

vitthāravāre panassa kāyasaṅkhāroti kāyato pavattasaṅkhāro, kāyadvāre copanavasena pavattānaṃ kāmāvacarakusalato aṭṭhannaṃ, akusalato dvādasannanti vīsatiyā kāyasañcetanānametaṃ adhivacanaṃ. vacīsaṅkhāroti vacito pavattasaṅkhāro, vacīdvāre vacanabhedavasena pavattānaṃ vīsatiyā eva vacīsañcetanānametaṃ adhivacanaṃ. cittasaṅkhāroti cittato pavattasaṅkhāro, kāyavacīdvāre copanaṃ akatvā raho nisīditvā cintayantassa pavattānaṃ lokiyakusalākusalavasena ekūnatiṃsamanosañcetanānametaṃ adhivacanaṃ. avijjāsamudayāti ettha pana kusalānaṃ upanissayavasena akusalānaṃ sahajātādivasenāpi avijjāpaccayo hotīti veditabbā. sesaṃ vuttanayamevāti.

0

257

103. avijjāvāre dukkhe aññāṇanti

dukkhasacce aññāṇaṃ, mohassetaṃ adhivacanaṃ. esa nayo samudaye

aññāṇantiādīsu.

Ở đoạn kinh về Vô Minh, [Vô Trí về Khổ] tức là Vô Trí đối với chân lý về Khổ; đó là thuật ngữ cho Si. Phương pháp (luận giải) đó cũng áp dụng đối với ‘Vô Trí về Nguồn Gốc của Khổ vân vân.’

258

tattha catūhi kāraṇehi dukkhe

aññāṇaṃ veditabbaṃ antogadhato

vatthuto ārammaṇato

paṭicchādanato ca.

Trong chủ đề này, vô trí về khổ nên được hiểu theo 4 phương diện: (1) Về mặt được bao hàm; (2) Về mặt cơ sở; (3) Về mặt đối tượng; và (4) Về mặt ẩn giấu.

259

tathā hi taṃ

dukkhasaccapariyāpannattā dukkhe antogadhaṃ. dukkhasaccañcassa

nissayapaccayabhāvena vatthu. ārammaṇapaccayabhāvena

ārammaṇaṃ. dukkhasaccañca etaṃ

paṭicchādeti,

tassa

yāthāvalakkhaṇappaṭivedhanivāraṇena, ñāṇappavattiyā cettha

appadānena.

Như vậy, quả thật; do trạng thái được bao gồm trong chân lý về khổ, nó (vô trí về khổ) được bao hàm trong khổ. Và chân lý về khổ là cơ sở (cho vô trí về khổ) với ý nghĩa là trợ duyên. Chân lý về khổ là đối tượng với ý nghĩa là đối tượng duyên. Và nó (vô trí về khổ) ẩn giấu chân lý về khổ bằng cách ngăn che sự thấu đạt đặc điểm chính xác của chân lý về khổ và bằng cách không cho phép sự diễn tiến của trí tại đó.

260

samudaye aññāṇaṃ tīhi kāraṇehi

veditabbaṃ vatthuto ārammaṇato

paṭicchādanato ca. nirodhe

paṭipadāyañca aññāṇaṃ ekeneva

kāraṇena veditabbaṃ

paṭicchādanato. nirodhapaṭipadāya hi paṭicchādakameva aññāṇaṃ tesaṃ yāthāvalakkhaṇappaṭivedhanivāraṇena, tesu ca ñāṇappavattiyā

appadānena. na pana tattha

antogadhaṃ, tasmiṃ saccadvaye

apariyāpannattā. na tassa taṃ saccadvayaṃ vatthu,

asahajātattā. nārammaṇaṃ,

tadārabbha appavattanato.

Vô trí về nguồn gốc khổ nên được hiểu theo 3 phương diện: (1) Về mặt cơ sở; (2) Về mặt đối tượng; và (3) Về mặt ẩn giấu. Vô trí về sự diệt khổ & con đường dẫn tới diệt khổ nên được hiểu theo một phương diện thôi: về mặt ẩn giấu. Bởi vì vô trí ẩn giấu sự diệt khổ & con đường dẫn tới diệt khổ bằng cách ngăn che sự thấu đạt đặc điểm chính xác của chúng và bằng cách không cho phép sự diễn tiến của trí đối với chúng. Nhưng vô trí không được bao hàm tại đó do nó không được bao gồm trong 2 chân lý đó. 2 chân lý đó không phải là cơ sở cho vô trí, do trạng thái không đồng sinh. 2 chân lý đó không phải là đối tượng cho vô trí, do trạng thái không diễn tiến liên quan đến chúng.

261

pacchimañhi saccadvayaṃ

gambhīrattā duddasaṃ, na cettha

andhabhūtaṃ aññāṇaṃ pavattati.

purimaṃ pana vañcaniyaṭṭhena

sabhāvalakkhaṇassa duddasattā

gambhīraṃ, tattha

vipallāsaggāhavasena pavattati.

Bởi vì 2 chân lý cuối cùng thì khó thấy do tính thâm sâu của chúng, nên vô trí – vốn có tính mù mòa – không diễn tiến tại đó. Thế nhưng, 2 chân lý đầu tiên thì lại thâm sâu do sự khó thấy đặc tính bản chất của chúng bởi (ý niệm) tốt đẹp ảo ảnh(i); vô trí diễn tiến tại đó theo phương cách là sự nắm bắt cái điên đảo(ii).

—–

(i) Người ta không thấy khổ hay nguồn gốc khổ vì lầm tưởng là cuộc đời tốt đẹp.

(ii) Vô thường lại nắm bắt là thường, khổ lại nắm bắt là lạc, vô ngã lại nắm bắt là ngã, bất tịnh lại nắm bắt là tịnh.

262

apica dukkheti ettāvatā saṅgahato vatthuto ārammaṇato kiccato ca avijjā dīpitā. dukkhasamudayeti ettāvatā vatthuto ārammaṇato kiccato ca. dukkhanirodhe dukkhanirodhagāminiyā paṭipadāyāti ettāvatā kiccato. avisesato pana aññāṇanti etena sabhāvato niddiṭṭhāti ñātabbā.

0

263

āsavasamudayāti ettha pana

kāmāsavabhavāsavā

sahajātādivasena avijjāya paccayā

honti. avijjāsavo

upanissayavaseneva. pubbuppannā

cettha avijjā avijjāsavoti veditabbā.

sā aparāparuppannāya avijjāya

upanissayapaccayo hoti. sesaṃ

vuttanayamevāti.

[Do sự sinh lên của lậu hoặc] tức là: ở đây, dục lậu & hữu lậu là duyên cho vô minh theo phương diện là đồng sinh vân vân. Vô minh lậu là duyên cho vô minh theo phương diện là thân y (duyên). Và ở đây, vô minh sinh lên trước nên được hiểu là vô minh lậu. Nó là thân y duyên cho vô minh sinh lên kế tiếp. Phần còn lại cũng theo chính phương pháp (luận giải) được nói đó.

264

104. āsavavāre avijjāsamudayāti ettha avijjā kāmāsavabhavāsavānaṃ sahajātādivasena paccayo hoti. avijjāsavassa upanissayavaseneva.

Ở đoạn kinh về Lậu Hoặc, [do sự sinh lên của Vô Minh] tức là: trong chủ đề này, Vô Minh là duyên cho Dục Lậu & Hữu Lậu theo phương diện là đồng sinh vân vân; Vô Minh là duyên cho Vô Minh Lậu theo mỗi phương diện là thân y (duyên).

265

aparāparuppannā cettha avijjā avijjāsavoti veditabbā. pubbuppannā avijjāyevassa aparāparuppannassa avijjāsavassa upanissayapaccayo hoti. sesaṃ vuttanayamevāti.

0

266

ayaṃ vāro yā esā

paṭiccasamuppādapadesu jeṭṭhikā

avijjā, tassāpi paccayadassanavasena vutto. evaṃ vuttena vārena saṃsārassa anamataggatā sādhitā hoti.

Đoạn kinh này được nói bằng cách chỉ ra duyên của vô minh – chính vô minh là cái dẫn đầu trong lý duyên khởi. Khởi đầu không thể nhận thức được của vòng luân hồi đã được chứng minh bởi đoạn kinh được nói như vậy.

267

kathaṃ? āsavasamudayena hi

avijjāsamudayo. avijjāsamudayenāpi āsavasamudayo.

Như thế nào? Bởi vì do sự sinh lên của lậu hoặc có sự sinh lên của vô minh; và do sự sinh lên của vô minh có sự sinh lên của lậu hoặc.

268

evaṃ āsavā avijjāya avijjāpi

āsavānaṃ paccayoti katvā pubbakoṭi na paññāyati avijjāya, tassā

apaññāyanato saṃsārassa

anamataggatā siddhā hotīti.

Khi đã cho thấy “lậu hoặc là duyên cho vô minh và vô minh là duyên cho các lậu hoặc” như vậy, khởi điểm của vô minh là điều không thể biết. Do trạng thái không thể biết của vô minh, khởi đầu không thể nhận thức được của vòng luân hồi đã được chứng minh. 

269

evaṃ sabbepime imasmiṃ sutte kammapathavāro āhāravāro dukkhavāro jarā-maraṇa-jāti-bhava-upādāna-taṇhā-vedanā-phassa-saḷāyatana-nāmarūpa- viññāṇa-saṅkhāra-avijjā-āsavavāroti soḷasavārā vuttā.

♦ tesu ekekassa vārassa saṅkhepavitthāravasena dvidhā vibhattā dvattiṃsaṭṭhānāni honti. iti imasmiṃ sutte imesu dvattiṃsaṭṭhānesu cattāri saccāni kathitāni. etesaṃyeva vitthāravasena vuttesu soḷasasu ṭhānesu arahattaṃ kathitaṃ. therassa pana matena dvattiṃsāyapi ṭhānesu cattāri saccāni cattāro ca maggā kathitāti. iti sakalepi pañcamahānikāyasaṅgahite buddhavacane natthi taṃ suttaṃ, yattha dvattiṃsakkhattuṃ cattāri saccāni dvattiṃsakkhattuñca arahattaṃ pakāsitaṃ aññatra imamhā sammādiṭṭhisuttāti.

♦ idamavocāyasmā sāriputtoti idaṃ dvattiṃsāya catusaccapariyāyehi dvattiṃsāya arahattapariyāyehīti catusaṭṭhiyā kāraṇehi alaṅkaritvā sammādiṭṭhisuttaṃ āyasmā sāriputto avoca, attamanā te bhikkhū āyasmato sāriputtassa bhāsitaṃ abhinandunti.

0

9.2. Toàn văn Pāḷi

♦ 89. evaṃ me sutanti sammādiṭṭhisuttaṃ. tattha “sammādiṭṭhi sammādiṭṭhīti, āvuso, vuccati, kittāvatā nu kho, āvuso”ti vā “katamaṃ panāvuso, akusalan”ti vā evaṃ yattakā therena pucchā vuttā, sabbā kathetukamyatā pucchā eva.

♦ tattha yasmā jānantāpi sammādiṭṭhīti vadanti ajānantāpi bāhirakāpi sāsanikāpi anussavādivasenāpi attapaccakkhenāpi, tasmā taṃ bahūnaṃ vacanaṃ upādāya dvikkhattuṃ āmasanto “sammādiṭṭhi sammādiṭṭhīti, āvuso, vuccatī”ti āha. ayañhi ettha adhippāyo, aparehipi sammādiṭṭhīti vuccati, athāparehipi sammādiṭṭhīti vuccati, svāyaṃ evaṃ vuccamāno atthañca lakkhaṇañca upādāya kittāvatā nu kho, āvuso, ariyasāvako sammādiṭṭhi hotīti. tattha sammādiṭṭhīti sobhanāya pasatthāya ca diṭṭhiyā samannāgato. yadā pana dhammeyeva ayaṃ sammādiṭṭhisaddo vattati, tadāssa sobhanā pasatthā ca diṭṭhi sammādiṭṭhīti evamattho veditabbo.

♦ sā cāyaṃ sammādiṭṭhi duvidhā hoti lokiyā lokuttarāti. tattha kammassakatāñāṇaṃ saccānulomikañāṇañca lokiyā sammādiṭṭhi, saṅkhepato vā sabbāpi sāsavā paññā. ariyamaggaphalasampayuttā paññā lokuttarā sammādiṭṭhi. puggalo pana tividho hoti puthujjano sekkho asekkho ca. tattha puthujjano duvidho hoti bāhirako sāsaniko ca. tattha bāhirako kammavādī kammassakatādiṭṭhiyā sammādiṭṭhi hoti, no saccānulomikāya attadiṭṭhiparāmāsakattā. sāsaniko dvīhipi. sekkho niyatāya sammādiṭṭhiyā sammādiṭṭhi. asekkho asekkhāya. idha pana niyatāya niyyānikāya lokuttarakusalasammādiṭṭhiyā samannāgato “sammādiṭṭhī”ti adhippeto. tenevāha “ujugatāssa diṭṭhi dhamme aveccappasādena samannāgato āgato imaṃ saddhamman”ti, lokuttarakusalasammādiṭṭhiyeva hi antadvayamanupagamma ujubhāvena gatattā, kāyavaṅkādīni ca sabbavaṅkāni samucchinditvā gatattā ujugatā hoti, tāyeva ca diṭṭhiyā samannāgato navappakārepi lokuttaradhamme aveccappasādena acalappasādena samannāgato hoti, sabbadiṭṭhigahanāni ca vinibbeṭhento sabbakilese pajahanto jātisaṃsārā nikkhamanto paṭipattiṃ pariniṭṭhapento ariyena maggena āgato imaṃ sambuddhappaveditaṃ amatogadhaṃ nibbānasaṅkhātaṃ saddhammanti vuccati.

♦ yato khoti kālaparicchedavacanametaṃ, yasmiṃ kāleti vuttaṃ hoti. akusalañca pajānātīti dasākusalakammapathasaṅkhātaṃ akusalañca pajānāti, nirodhārammaṇāya pajānanāya kiccavasena “idaṃ dukkhan”ti paṭivijjhanto akusalaṃ pajānāti. akusalamūlañca pajānātīti tassa mūlapaccayabhūtaṃ akusalamūlañca pajānāti, teneva pakārena “ayaṃ dukkhasamudayo”ti paṭivijjhanto. esa nayo kusalañca kusalamūlañcāti etthāpi. yathā cettha, evaṃ ito paresu sabbavāresu kiccavaseneva