Kinh số 22 – Giải Thích Kinh Ví Dụ Con Rắn

(Alagaddūpamasuttavaṇṇanā)

STT

Pāḷi

Việt

1

♦ 234. evaṃ me sutanti alagaddūpamasuttaṃ. tattha gaddhe bādhayiṃsūti gaddhabādhino, gaddhabādhino pubbapurisā assāti gaddhabādhipubbo, tassa gaddhabādhipubbassa, gijjhaghātakakulappasutassāti attho. saggamokkhānaṃ antarāyaṃ karontīti antarāyikā. te kammakilesavipākaupavādāaṇāvītikkamavasena pañcavidhā. tattha pañcānantariyadhammā kammantarāyikā nāma. tathā bhikkhunīdūsakakammaṃ, taṃ pana mokkhasseva antarāyaṃ karoti, na saggassa. niyatamicchādiṭṭhidhammā kilesantarāyikā nāma. paṇḍakatiracchānagataubhatobyañjanakānaṃ paṭisandhidhammā vipākantarāyikā nāma. ariyūpavādadhammā upavādantarāyikā nāma, te pana yāva ariye na khamāpenti, tāvadeva, na tato paraṃ. sañcicca vītikkantā satta āpattikkhandhā āṇāvītikkamantarāyikā nāma. tepi yāva bhikkhubhāvaṃ vā paṭijānāti, na vuṭṭhāti vā, na deseti vā, tāvadeva, na tato paraṃ.

[(Điều đó) được nghe bởi tôi như vầy], chỉ đến bài kinh Alagaddūpamasutta. Ở đoạn kinh đó, [những thợ bẫy kền kền – gaddhabādhino], tức: (những người) đã bẫy kền kền. [Người trước đây là thợ bẫy kền kền – gaddhabādhipubba], tức (chỉ đến) những người vào lúc trước là thợ bẫy kền kền. [(Sinh lên) cho vị trước đây là thợ bẫy kền kền đó – tassa gaddhabādhipubbassa], tức: (sinh lên) cho vị xuất thân từ tầng lớp thợ giết kền kền đó. Ý nghĩa là như vậy. [Các tác nhân chướng ngại – antarāyikā], tức: chúng gây chướng ngại cho (việc sinh lên) cõi trời và sự giải thoát. Chúng có 5 loại: (1) nghiệp; (2) phiền não; (3) quả; (4) phỉ báng; (5) phạm quy. Trong chủ đề này, 5 pháp vô gián được gọi là [nghiệp chướng ngại – kammantarāyika]. Còn nghiệp giống như nghiệp làm nhơ uế Tỳ Kheo Ni – nghiệp ấy chỉ gây chướng ngại cho sự giải thoát, (không gây chướng ngại) cho (việc sinh lên) cõi trời. Các loại Tà Kiến cố định được gọi là [phiền não chướng ngại – kilesantarāyika]. Các dạng tái hợp(i) làm người đồng tính, súc sinh, bán nam bán nữ được gọi là [quả chướng ngại – vipākantarāyika]. Các phương thức xúc phạm bậc thánh được gọi là [phỉ báng chướng ngại – upavādantarāyika]. Nhưng trong khi nào họ (những người xúc phạm bậc thánh) chưa xin các bậc thánh thứ lỗi thì chính trong khi đó (họ có phỉ báng chướng ngại); sau khi (họ xin các bậc thánh thứ lỗi) thì (họ) không (còn phỉ báng chướng ngại). 7 nhóm tội bị cố ý vi phạm được gọi là [phạm quy chướng ngại – āṇāvītikkamantarāyika]. Nhưng trong khi nào họ (những người đã phạm tội) chưa cải tội, chưa xưng tội hay còn tuyên bố tư cách Tỳ Kheo (của mình) thì chính trong khi đó (họ có phạm quy chướng ngại); sau khi (họ xưng tội, cải tội) thì (họ) không (còn phạm quy chướng ngại).

—–

(i) Tức tái sinh.

2

♦ tatrāyaṃ bhikkhu bahussuto dhammakathiko sesantarāyike jānāti, vinaye pana akovidattā paṇṇattivītikkamantarāyike na jānāti, tasmā rahogato evaṃ cintesi — ime āgārikā pañca kāmaguṇe paribhuñjantā sotāpannāpi sakadāgāminopi anāgāminopi honti. bhikkhūpi manāpikāni cakkhuviññeyyāni rūpāni passanti … pe … kāyaviññeyye phoṭṭhabbe phusanti, mudukāni attharaṇapāvuraṇādīni paribhuñjanti, etaṃ sabbaṃ vaṭṭati. kasmā itthīnaṃyeva rūpasaddagandharasaphoṭṭhabbā na vaṭṭanti? etepi vaṭṭantīti. evaṃ rasena rasaṃ saṃsandetvā sacchandarāgaparibhogañca nicchandarāgaparibhogañca ekaṃ katvā thūlavākehi saddhiṃ atisukhumasuttaṃ upanento viya, sāsapena saddhiṃ sineruṃ upasaṃharanto viya, pāpakaṃ diṭṭhigataṃ uppādetvā, “kiṃ bhagavatā mahāsamuddaṃ bandhantena viya mahatā ussāhena paṭhamapārājikaṃ paññattaṃ, natthi ettha doso”ti sabbaññutaññāṇena saddhiṃ paṭivirujjhanto vesārajjañāṇaṃ paṭibāhanto ariyamagge khāṇukaṇṭakādīni pakkhipanto methunadhamme doso natthīti jinassa āṇācakke pahāraṃ adāsi. tenāha — “tathāhaṃ bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmī”tiādi.

Ở tình huống này, vị Tỳ Kheo ấy – vốn là người đa văn, bậc thuyết Pháp – biết các chướng ngại còn lại. Nhưng do không am tường về Luật, vị ấy không biết các phạm luật chướng ngại(i). Do đó, khi ở nơi độc cư, vị ấy suy nghĩ như vầy: ‘Các cư sĩ này tuy thọ hưởng 5 loại dục vẫn là các bậc Nhập Lưu, bậc Nhất Lai hay bậc Bất Lai. Các Tỳ Kheo cũng thấy các sắc khả ái, được mắt nhận biết… cũng xúc chạm các xúc chạm khả ái, được thân nhận biết. (Các vị ấy) cũng thọ dụng những tấm trải, mền vân vân êm ái. Mọi việc đó đều phù hợp. Tại sao sắc, thanh, hương, vị, xúc của chính những người nữ lại không phù hợp? Chúng cũng phù hợp vậy.’ Vị ấy so sánh [vị này với vị kia – rasena rasaṃ] như vậy; đánh đồng việc thọ dụng có tham dục với việc thọ dụng không có tham dục giống như sử dụng sợi chỉ cực vi tế chung với sợi vải thô, giống như thu gom núi Sineru chung với hạt cải; (vị ấy) khởi lên ác kiến rằng: ‘Tại sao Đức Thế Tôn quy định điều luật Pārājika thứ nhất với nỗ lực lớn lao giống như người đang chặn đại dương vậy? Trong tình huống này, chẳng có lỗi gì’; (vị ấy) đối nghịch với Toàn Giác Trí, phủ nhận Vô Uý Trí, quẳng gai góc, gậy cọc vân vân vào Thánh Đạo và giáng một đòn vào luật định của Đấng Chiến Thắng với tư duy rằng ‘Không có lỗi đối với việc hành dâm.’ Do đó, (vị ấy) đã nói rằng: ‘Tôi hiểu Pháp được Đức Thế Tôn thuyết như vầy’ vân vân.

—–

(i) Tức phạm quy chướng ngại.

3

♦ evaṃ byā khoti evaṃ viya kho. samanuyuñjantītiādīsu kiṃ 

laddhiko tvaṃ, laddhiṃ vadehīti 

pucchamānā samanuyuñjanti nāma. diṭṭhiṃ patiṭṭhāpentā 

samanuggāhanti nāma. Kena kāraṇena evaṃ vadasīti 

kāraṇaṃ pucchantā samanubhāsanti nāma. aṭṭhikaṅkalūpamātiādīsu (ma. ni. 2.42-48) aṭṭhikaṅkalūpamā appassādaṭṭhena. maṃsapesūpamā bahusādhāraṇaṭṭhena. tiṇukkūpamā anudahanaṭṭhena. aṅgārakāsūpamā mahābhitāpanaṭṭhena. supinakūpamā ittarapaccupaṭṭhānaṭṭhena. yācitakūpamā tāvakālikaṭṭhena. rukkhaphalūpamāsabbaṅgapaccaṅgapalibhañjanaṭṭhena. asisūnūpamā adhikuṭṭanaṭṭhena. sattisūlūpamā vinivijjhanaṭṭhena. sappasirūpamā sāsaṅkasappaṭibhayaṭṭhena. thāmasātidiṭṭhithāmena. parāmāsātidiṭṭhiparāmāsena. abhinivissa voharatīti 

adhiṭṭhahitvā voharati dīpeti vā.

[Quả thật, như vậy – evaṃ byā kho], tức: quả thật, y như vậy. Ở những câu [họ truy vấn – samanuyuñjanti] vân vân; họ truy vấn bằng cách hỏi rằng: ‘Tại sao ông có quan điểm đó? Ông hãy nói quan điểm đó!’ Họ tra vấn bằng cách xác lập quan điểm. Họ thảo luận bằng cách hỏi nguyên nhân rằng: ‘Ông nói như vậy do nguyên nhân nào?’ Ở cụm từ [ví dụ về bộ xương – aṭṭhikaṅkalūpamā] vân vân (ma. ni. 2.42-48); [ví dụ về bộ xương – aṭṭhikaṅkalūpamā] (nên được hiểu) theo nghĩa là ít ngọt ngào. [Ví dụ về miếng thịt – maṃsapesūpamā] – (nên được hiểu) theo nghĩa là của chung cho nhiều người. [Ví dụ về đuốc cỏ – tiṇukkūpamā] (nên được hiểu) theo nghĩa là tính cháy. [Ví dụ về hố than – aṅgārakāsūpamā] (nên được hiểu) theo nghĩa là sức nóng dữ dội. [Ví dụ về giấc mơ – supinakūpamā] (nên được hiểu) theo nghĩa là sự tồn tại ngắn ngủi. [Ví dụ về vật được mượn – yācitakūpamā] (nên được hiểu) theo nghĩa là tính chất tạm thời. [Ví dụ về trái cây – rukkhaphalūpamā] (nên được hiểu) theo nghĩa là tan vỡ mọi chi phần lớn nhỏ. [Ví dụ về lò mổ – asisūnūpamā] (nên được hiểu) theo nghĩa là cái thớt (của đồ tể). [Ví dụ về lao kiếm – sattisūlūpamā] (nên được hiểu) theo nghĩa là sự đâm xuyên. [Ví dụ về đầu rắn – sappasirūpamā] (nên được hiểu) theo nghĩa là có sự sợ hãi, có sự kinh sợ. [Với sự cương quyết – thāmasā], tức: với sự cương quyết do tà kiến. [Với sự dính mắc – parāmāsā], tức: với sự dính mắc vào tà kiến. [Chấp giữ mà phát biểu – abhinivissa voharati], tức: chấp giữ mà phát biểu hay giải thích.

4

♦ 235. yato kho te bhikkhūti 

yadā te bhikkhū. evaṃ byā kho 

ahaṃ, bhante,bhagavatāti idaṃ esa attano ajjhāsayena natthīti 

vattukāmopi bhagavato 

ānubhāvena sampaṭicchati, buddhānaṃ kira sammukhā dve 

kathā kathetuṃ samattho nāma 

natthi.

[Khi nào các vị Tỳ Kheo ấy – yato kho te bhikkhū], tức: khi nào những vị Tỳ Kheo ấy. [Quả thật, như vậy. Thưa Ngài! Con… bởi Đức Thế Tôn], tức: mặc dù theo ý muốn của bản thân, vị ấy muốn nói: ‘Không có (việc đó)’, nhưng lại thừa nhận việc đó do uy lực của Đức Thế Tôn. Quả thật, ở trước mặt chư Phật, không có ai có thể nói 2 lời.

5

♦ 236. kassa kho nāma tvaṃ moghapurisāti tvaṃ moghapurisa kassa khattiyassa vā 

brāhmaṇassa vā vessassa vā suddassa vā gahaṭṭhassa vā 

pabbajitassa vā devassa vā manussassa vā 

mayā evaṃ dhammaṃ desitaṃ 

ājānāsi. atha kho bhagavā bhikkhū 

āmantesīti ayaṃ pāṭiyekko anusandhi. 

ariṭṭho kira cintesi —“bhagavā maṃ moghapurisoti 

vadati, na kho pana moghapurisāti 

vuttamattakena

maggaphalānaṃ upanissayo na 

hoti. upasenampi hi vaṅgantaputtaṃ, 

‘atilahuṃ kho 

tvaṃ, moghapurisa, bāhullāya 

āvatto’ti(mahāva. 75) bhagavā 

moghapurisavādena ovadi. thero 

aparabhāge ghaṭento vāyamanto 

cha abhiññā sacchākāsi. ahampi tathārūpaṃ vīriyaṃ 

paggaṇhitvā maggaphalāni 

nibbattessāmī”ti. athassabhagavā bandhanā 

pavuttassa paṇḍupalāsassa viya 

aviruḷhibhāvaṃ dassento imaṃ 

desanaṃ ārabhi.

[Này kẻ mê muội kia! Ông… của ai? – kassa kho nāma tvaṃ moghapurisa], tức: này kẻ mê muội kia! Ông hiểu Pháp được thuyết như vậy bởi ta (là Pháp) của Sát Đế Lỵ nào, của Bà La Môn nào, của Vessa nào, của Sudda nào, của cư sĩ nào, của người xuất gia nào, của vị trời nào hay của người nào? [Thế rồi, Đức Thế Tôn gọi các vị Tỳ Kheo], (câu) này là yếu tố kết nối (đoạn văn) tách biệt (với đoạn văn trước). Quả thật, Ariṭṭha đã nghĩ rằng: ‘Đức Thế Tôn đã gọi ta là ‘kẻ mê muội’. Thế nhưng, chỉ bằng lời nói ‘này kẻ mê muội kia!’ thì nền tảng cho Đạo & Quả không phải không còn. Bởi vì Đức Thế Tôn cũng đã chỉ dạy Upasena Vaṅgantaputta bằng lời nói ‘kẻ mê muội’ rằng: ‘Này kẻ mê muội kia! Ngươi đã trở nên tự mãn một cách hấp tấp’ (mahāva. 75). Về sau, trưởng lão ấy đã thực chứng 6 thắng trí nhờ sự nỗ lực, nhờ sự cố gắng. Ta cũng sẽ đạt đến các Đạo & Quả sau khi ra sức tinh tấn như thế.’ Khi đó, Đức Thế Tôn đã khởi đầu lời nói này nhằm cho thấy tình trạng không thể tiến bộ của vị ấy giống như (tình trạng) của chiếc lá vàng đã rời khỏi thân cây.

—–

(i) Tức Pháp này do ta thuyết, ông không hiểu theo ý ta mà hiểu theo ý ai?

6

♦ usmīkatopīti, bhikkhave, tumhe kinti maññatha, ayaṃ ariṭṭho 

evaṃladdhiko sabbaññutaññāṇena paṭivirujjhitvā vesārajjañāṇaṃ paṭibāhitvā 

tathāgatassa āṇācakke pahāraṃ 

dadamāno api nu imasmiṃ 

dhammavinaye usmīkatopi? Yathā nibbutepi mahante 

aggikkhandhe khajjupanakamattāpi aggipapaṭikā hotiyeva, yaṃ nissāya puna 

mahāaggikkhandho bhaveyya. kiṃ nu kho evaṃ 

imassa appamattikāpi ñāṇusmā 

atthi, yaṃ nissāya vāyamanto 

maggaphalāni nibbatteyyāti? No hetaṃ, bhanteti, bhante, 

evaṃladdhikassa kuto evarūpā 

ñāṇusmāti? maggaphalānaṃ paccayasamatthāya ñāṇusmāya usmīkatabhāvaṃ paṭikkhipantā 

vadanti. maṅkubhūtoti nittejabhūto. pattakkhandhoti patitakkhandho. appaṭibhānoti kiñci paṭibhānaṃ 

apassanto bhinnapaṭibhāno evarūpampi nāma niyyānikasāsanaṃ labhitvā 

aviruḷhidhammo kiramhi 

samugghātitapaccayo jātoti attano abhabbataṃ 

paccavekkhanto

pādaṅguṭṭhakena bhūmiṃ 

khaṇamāno nisīdi.

[Có nhiệt khí – usmīkatopi], tức: này các Tỳ Kheo! Các ông nghĩ gì? Vị Ariṭṭha này với quan điểm như vậy, đối nghịch với Toàn Giác Trí, phủ nhận Vô Uý Trí và giáng một đòn vào luật định của Đức Như Lai thì liệu còn có nhiệt khí trong Pháp và Luật này chăng? Giống như một khối lửa lớn dù đã tắt, mà còn có một miếng vỏ cây bén lửa dù kích cỡ chỉ bằng con đom đóm; thì dựa vào đó khối lửa lớn vẫn có thể xuất hiện trở lại. Tương tự, liệu vị này có nhiệt trí(i) dầu ít ỏi hay không; mà dựa vào đó vị ấy có thể nỗ lực đạt đến các Đạo & Quả? [Quả thật, điều đó không có, thưa Ngài! – no hetaṃ, bhante], tức: thưa Ngài! Người có quan điểm như vậy thì có nhiệt trí như thế từ đâu? (Các vị Tỳ Kheo ấy) nói như vậy để bác bỏ trạng thái tồn tại nhiệt khí của nhiệt trí (của vị đó) có khả năng làm duyên cho các Đạo & Quả. [Trở nên bối rối – maṅkubhūta], tức: [trở nên lúng túng – nittejabhūta]. [Ủ rũ – pattakkhandha], tức: [ủ rũ – patitakkhandha]. [Mất tự tin – appaṭibhāna], tức: do không thấy sự tự tin nào, tiêu tan sự tự tin, vị ấy ngồi cào mặt đất bằng ngón chân cái trong khi suy xét về sự vô năng của bản thân mình rằng: ‘Ta đạt đến giáo lý xuất ly như vậy rồi giờ đây, ta lại không thể tiến bộ, (ta đã) bứng gốc duyên (cho Đạo & Quả).’

—–

(i) Tức [nhiệt khí – usmā] là ẩn dụ cho [trí – ñāṇa].

7

paññāyissasi khoti ayampi pāṭiyekko anusandhi. ariṭṭho kira cintesi — “bhagavā mayhaṃ maggaphalānaṃ upanissayo pacchinnoti vadati, na kho pana buddhā saupanissayānaṃyeva dhammaṃ desenti, anupanissayānampi desenti, ahaṃ satthu santikā sugatovādaṃ labhitvā attano sampattūpagaṃ kusalaṃ karissāmī”ti. athassa bhagavā ovādaṃ paṭipassambhento “paññāyissasī”tiādimāha. tassattho, tvaṃyeva, moghapurisa, iminā pāpakena diṭṭhigatena nirayādīsu paññāyissasi, mama santikā tuyhaṃ sugatovādo nāma natthi, na me tayā attho, idhāhaṃ bhikkhū paṭipucchissāmīti.

[Quả thật, (ông) sẽ xuất hiện… – paññāyissasi kho], (câu) này là yếu tố kết nối (đoạn văn) tách biệt (với đoạn văn trước). Quả thật, vị Ariṭṭha đã nghĩ rằng: ‘Đức Thế Tôn nói rằng: ‘Nền tảng cho các Đạo & Quả của ta đã bị cắt đứt’; nhưng chư Phật không chỉ thuyết Pháp cho cho những người có nền tảng, mà còn thuyết cho những người không có nền tảng. Ta có thể có được lời dạy của Đấng Thiện Thệ khi ở gần Bậc Đạo Sư; rồi làm việc thiện dẫn đến các thành quả cho bản thân mình.’ Khi đó Đức Thế Tôn đã nói: ‘(Ông) sẽ xuất hiện’ vân vân nhằm nhấn chìm lời dạy(i) đối với vị ấy. (Đây là) ý nghĩa của (cụm từ) đó: ‘Chính ông, này kẻ mê muội kia, sẽ xuất hiện ở địa ngục vân vân do Tà Kiến ác ấy. Không có cái gọi là lời dạy của Đấng Thiện Thệ cho ông khi ông ở gần ta; không có mục đích giữa ta với ông; giờ đây, ta sẽ chất vấn các vị Tỳ Kheo.’

—–

(i) Tức nói ví von là Đức Phật sẽ không dạy ông Tỳ Kheo Ariṭṭha này nữa mà chuyển sang hỏi các vị Tỳ Kheo khác.

8

♦ 237. atha kho bhagavāti ayampi pāṭiyekko anusandhi. imasmiñhi ṭhāne bhagavā parisaṃ sodheti, ariṭṭhaṃ gaṇato nissāreti. sace hi parisagatānaṃ kassaci evaṃ bhaveyya — “ayaṃ ariṭṭho bhagavatā akathitaṃ kathetuṃ kiṃ sakkhissati, kacci nu kho parisamajjhe bhagavatā kathāya samāraddhāya sahasā kathitan”ti. evaṃ kathitaṃ pana na ariṭṭhova suṇāti, aññenapi sutaṃ bhavissati. athāpissa siyā “yathā satthā ariṭṭhaṃ niggaṇhāti, mampi evaṃ niggaṇheyyāti sutvāpi tuṇhībhāvaṃ āpajjeyyā”ti. “taṃ sabbaṃ na karissantī”ti. mayāpi na kathitaṃ, aññena sutampi natthīti “tumhepi me, bhikkhave”tiādinā parisāya laddhiṃ sodheti. parisāya pana laddhisodhaneneva ariṭṭho gaṇato nissārito nāma hoti.

[Thế rồi Đức Thế Tôn], (câu) này là yếu tố kết nối (đoạn văn) tách biệt (với đoạn văn trước). Quả thật, ở chỗ này, Đức Thế Tôn làm trong sạch hội chúng, đuổi vị Ariṭṭha ấy đi khỏi hội chúng. Bởi vì nếu trong số những vị đã đến hội chúng, một vị nào đó có (lời nói) như vầy: ‘Vị Ariṭṭha này sẽ có thể nói điều không được thuyết bởi Đức Thế Tôn chăng? Giờ đây, khi Đức Thế Tôn đã bắt đầu lời giảng ở giữa hội chúng, liệu ông ta sẽ nói xen chăng?’ Nhưng không chỉ vị Ariṭṭha nghe được lời nói như vậy, mà người khác cũng sẽ nghe. Thế rồi vị ấy (vị có lời nói trên) cũng có thể có (lời nói) rằng: ‘Bậc Đạo Sư quở trách vị Ariṭṭha như thế nào thì Ngài cũng có thể quở trách ta như vậy.’ Và (người khác) nghe (điều đó) rồi có thể trở nên im lặng. (Hoặc vị đó có thể có lời nói rằng) ‘Họ không thể làm mọi việc đó. Mình cũng không nói; thì người khác không nghe được.’(i) (Do đó) Đức Phật làm trong sạch quan điểm của hội chúng bằng lời nói ‘Này các Tỳ Kheo! Các ông… bởi ta’ vân vân. Còn vị Ariṭṭha bị trục xuất khỏi tập thể do bởi chính việc thanh lọc quan điểm của hội chúng.

—–

(i) Đoạn này khó hiểu. Nhưng nhìn chung có thể thấy ra ý chính hợp với tình huống lúc đó: Đức Phật đã chê trách Tỳ Kheo Ariṭṭha công khai giữa hội chúng như vậy; thì không thể để yên cho vị ấy ở trong hội chúng. Với bầu không khí căng thẳng đó, những người xung quanh sẽ xì xào, bàn ra tán vô với đủ loại suy nghĩ. Muốn để vị Ariṭṭha ngồi lại, Ngài phải công khai thứ lỗi; bằng không, Ngài buộc phải trục xuất khéo léo.

9

♦ idāni ariṭṭhassa laddhiṃ 

pakāsento so vata, bhikkhavetiādim āha. tattha aññatreva 

kāmehītiādīsu yo so, bhikkhave, 

bhikkhu “te paṭisevato nālaṃ 

antarāyāyā”ti evaṃladdhiko, so 

vata 

kilesakāmehi ceva kilesakāmasampayuttehi 

saññāvitakkehi ca aññatra, ete 

dhamme pahāya, vinā etehi 

dhammehi, vatthukāme 

paṭisevissati, methunasamācāraṃ 

samācarissatīti netaṃ ṭhānaṃ 

vijjati. idaṃ kāraṇaṃ nāma 

natthi, aṭṭhānam etaṃ 

anavakāsoti.

Giờ đây, Đức Phật đã nói: ‘Này các Tỳ Kheo! Quả thật, người đó’ vân vân nhằm soi sáng quan điểm của vị Ariṭṭha. Ở đoạn kinh đó, ở cụm từ [thiếu vắng các dục – aññatreva 

kāmehi] vân vân; tức: này các Tỳ Kheo! Người nào có quan điểm rằng: ‘(Những tác nhân chướng ngại) đó không đủ là chướng ngại cho người theo đuổi chúng’; thì người đó quả thật có thể theo đuổi các đối tượng dục mà thiếu vắng các phiền não dục, các tưởng và tư duy liên hệ với các phiền não dục, từ bỏ các pháp ấy (các tác nhân chướng ngại), không có các pháp ấy; người ấy có thể thực hiện việc hành dâm. Điều đó là không thể; không có cơ sở đó; điều đó là bất khả, là không khả thi.

10

♦ 238. evaṃ bhagavā ayaṃ ariṭṭho yathā nāma rajako sugandhānipi 

duggandhānipi jiṇṇānipi navānipi suddhānipi asuddhānipi vatthāni 

ekato bhaṇḍikaṃ karoti, evameva bhikkhūnaṃ 

nicchandarāgapaṇītacīvarādiparibhogañca anibaddhasīlānaṃ gahaṭṭhānaṃ 

antarāyakaraṃ sacchandarāgaparibhogañca nibaddhasīlānaṃ bhikkhūnaṃ āvaraṇakaraṃ 

sacchandarāgaparibhogañca sabbaṃ ekasadisaṃkarotīti ariṭṭhassa laddhiṃ pakāsetvā idāni duggahitāyapariyattiyā dosaṃ 

dassento idha, bhikkhave, 

ekaccetiādim āha. tattha pariyāpuṇantīti 

uggaṇhanti. Suttantiādīsu ubhatovibhaṅganiddesakhandhakaparivārā, suttanipāte maṅgalasuttaratanasutta nālakasuātuvaṭṭakasuttāni, 

aññampi ca suttanāmakaṃ 

tathāgatavacanaṃ suttanti 

veditabbaṃ. sabbampi sagāthakaṃ suttaṃ 

geyyanti veditabbaṃ, visesena saṃyuttake sakalopi 

sagāthāvaggo. sakalaṃ abhidhammapiṭakaṃ, 

niggāthakaṃ suttaṃ, yañca 

aññampi aṭṭhahi aṅgehi 

asaṅgahitaṃ buddhavacanaṃ, taṃveyyākaraṇanti veditabbaṃ. dhammapadaṃ, theragāthā, therigāthā, suttanipāte 

nosuttanāmikā 

suddhikagāthā ca gāthāti veditabbā. somanassañāṇamayikagāthāpaṭisaṃyuttādveasītisuttantā udānanti 

veditabbā. “vuttañhetaṃ bhagavatā”tiādinayappavattā (itivu. 1,2) 

dasuttarasatasuttantā itivuttakanti veditabbā. apaṇṇakajātakādīni 

paṇṇāsādhikānipañcajātakasatāni 

jātakanti veditabbāni. “cattārome, bhikkhave, acchariyā 

abbhutā dhammā ānande”tiādinayappavattā (a. ni.4.129) sabbepi 

acchariyābbhutadhammappaṭisaṃyuttā suttantā abbhutadhammanti veditabbā. cūḷavedalla mahāvedalla sammādiṭṭhi sakkapañha saṅkhāra bhājaniyamahāpuṇṇama suttādayo sabbepi 

vedañca tuṭṭhiñca laddhā laddhā 

pucchitasuttantā vedallanti 

veditabbā.

Như vậy, Đức Thế Tôn sau khi soi sáng quan điểm của vị Ariṭṭha; thì giờ đây, Ngài đã nói: ‘Này các TKheo! đây, một số người…’ vân vân nhằm trình bày lỗi lầm của việc nắm bắt sai lạc kinh điển rằng: giống như một người thợ giặt chất thành một đống các tấm vải sạch sẽ lẫn không sạch sẽ, cũ lẫn mới, có mùi thơm lẫn có mùi hôi; hệt vậy, vị Ariṭṭha đó đã đánh đồng tất cả (các sự thọ dụng): sự thọ dụng y thượng hạng vân vân không có dục tham của các vị Tỳ Kheo; sự thọ dụng có dục tham, tạo thành chướng ngại cho những người tại gia, không có giới bắt buộc và sự thọ dụng có dục tham, tạo thành trở ngại cho các vị Tỳ Kheo có giới bắt buộc. Ở đoạn kinh đó [(vị ấy) học tập – pariyāpuṇanti], tức: (vị ấy) học tập. Ở cụm từ [kinh – sutta] vân vân; [kinh – sutta] nên được hiểu là lời của Đức Như Lai – mà (lời ấy) có tên là [kinh – sutta] – cùng những loại khác (tức không có tên là kinh) như: 2 bộ Vibhaṅga, bộ Niddesa, bộ Khandhaka và bộ Parivāra; các bài kinh Maṅgalasutta, Ratanasutta, Nālakasutta, Tuvaṭṭakasutta trong bộ Suttanipāta (Kinh Tập). [Geyya] nên được hiểu là tất cả những bài kinh có kệ – đặc biệt là toàn bộ [sagāthāvaggo – Phẩm Có Kệ] trong [saṃyuttaka – Tương Ưng Bộ]. Toàn bộ tạng [Abhidhamma – Vi Diệu Pháp], các bài kinh không có kệ cùng những Phật ngôn khác không được tập hợp theo 8 loại đó thì nên được hiểu là [Veyyākaraṇa]. [Gāthā – kệ] nên được hiểu là [Dhammapada – Pháp Cú], [Theragāthā – Trưởng Lão Kệ], [Therigāthā – Trưởng Lão Ni Kệ] và những bài kệ thuần túy không có tên gọi là kinh trong [Suttanipāta – Kinh Tập]. [Udāna – Cảm Hứng Ngữ] nên được hiểu là 82 bài kinh có kệ được tạo nên từ Trí và sự Hân Hoan của Đức Phật. [Itivuttaka – Phật thuyết như vậy] nên được hiểu là hơn 110 bài kinh diễn tiến theo thể thức là ‘Quả thật, điều này đã được nói bởi Đức Thế Tôn’ vân vân (itivu. 1,2). [Jātaka – Bổn Sanh] nên được hiểu là hơn 550 chuyện bổn sanh – bắt đầu từ bổn sanh Apaṇṇakajātaka. [Abbhutadhamma – Pháp Chưa Từng Có] nên được hiểu là tất cả những bài kinh liên quan đến Pháp Chưa Từng Có, Pháp Kỳ Diệu diễn biến theo thể thức là ‘Này các Tỳ Kheo! Này Ānanda! Đây là bốn Pháp Chưa Từng Có, Pháp Kỳ Diệu’ vân vân (a. ni.4.129). [Vedalla] nên được hiểu là tất cả các bài kinh có câu hỏi nhằm đạt được sự hân hoan, sự hoan hỷ(i) chẳng hạn như các bài kinh: Cūḷavedalla, Mahāvedalla, Sammādiṭṭhi, Sakkapañha, Saṅkhāra, Bhājaniya, Mahāpuṇṇama vân vân.

—–

(i) Tức thông qua việc giải đáp câu hỏi, thính giả hân hoan, hoan hỷ.

11

♦ atthaṃ na upaparikkhantīti 

atthatthaṃ kāraṇatthaṃ na passanti na pariggaṇhanti. Anupaparikkhatanti anupaparikkhantānaṃ. na nijjhānaṃ khamantīti na upaṭṭhahanti na āpāthaṃ 

āgacchanti, imasmiṃ ṭhāne 

sīlaṃ samādhi vipassanā maggo 

phalaṃ vaṭṭaṃ vivaṭṭaṃ kathitantievaṃ jānituṃ na sakkā hontīti 

attho. te upārambhānisaṃsā cevāti te 

paresaṃ vāde dosāropanānisaṃsā hutvā pariyāpuṇantīti attho. itivādappamokkhānisaṃsā cāti 

evaṃvādapamokkhānisaṃsā, 

parehi sakavāde dose āropite 

taṃ dosaṃ evaṃ mocessāmāti 

imināva kāraṇena pariyāpuṇantīti attho. tañcassa atthaṃ nānubhontīti 

yassa ca maggassa vā phalassa vā 

atthāya kulaputtā dhammaṃ 

pariyāpuṇanti, tañcassa dhammassa 

atthaṃ ete duggahitaggāhino 

nānubhonti. apica parassa vāde upārambhaṃ 

āropetuṃ attano vādaṃ mocetuṃ asakkontāpi tañca 

atthaṃ nānubhontiyeva.

[(Họ) không suy xét ý nghĩa – atthaṃ na upaparikkhanti], tức: họ không nhận thấy, không nắm bắt ý nghĩa về mặt lợi ích và ý nghĩa về mặt nguyên nhân. [Trong khi (họ) không suy xét – anupaparikkhataṃ], tức: [trong khi (họ) không suy xét – anupaparikkhantānaṃ]. [(Họ) không hài lòng với sự hiểu biết – na nijjhānaṃ khamanti], tức: họ không hiểu; (các bài kinh ấy) không rõ ràng (về ý nghĩa đối với họ); họ không thể biết được rằng ‘Điều được thuyết ở chỗ đó là Giới, Định, Vipassanā, Đạo, Quả, Luân Hồi hay Ly Luân Hồi.’ Ý nghĩa là như vậy. [Họ… chỉ với mục đích là chê trách – te upārambhānisaṃsā ceva], tức: họ học tập với mục đích là vạch lỗi trong lời nói của những người khác. Ý nghĩa là như vậy. [(Họ)… với mục đích là xoá lỗi như vậy – itivādappamokkhānisaṃsā ca], tức: với mục đích là xoá lỗi như thế; họ học tập do chính nguyên nhân này: ‘Khi những người khác vạch lỗi trong lời nói của chúng ta, chúng ta sẽ xóa lỗi ấy như thế.’ Ý nghĩa là như vậy. [(Họ) không trải nghiệm lợi ích của (pháp) ấy – tañcassa atthaṃ nānubhonti], tức: những người con trai gia tộc học tập Pháp vì mục đích là Đạo nào hay Quả nào; thì họ – do nắm bắt sai lạc – không trải nghiệm chính lợi ích của pháp ấy. Và hơn nữa, họ không hề trải nghiệm lợi ích do không thể xóa lỗi của bản thân hay không thể chê trách đối với lời nói của người khác.

12

♦ 239. alagaddatthikoti 

āsivisātthiko. gadoti hi visassa 

nāmaṃ, taṃ tassa alaṃ paripuṇṇaṃ 

atthīti alagaddo. bhogeti sarīre. Idha pana, bhikkhave, ekacce 

kulaputtā dhammaṃ 

pariyāpuṇantīti 

nittharaṇapariyattivasena 

uggaṇhanti. tisso hi pariyattiyo alagaddapariyatti 

nittharaṇapariyatti 

bhaṇḍāgārikapariyattīti.

[Mong cầu con rắn – alagaddatthika], tức: [mong cầu con rắn độc – āsivisātthika]. [Chất độc – gada] quả thật, từ đó là tên của nọc độc; con vật có đủ, có đầy chất độc – tức là [con rắn – alagadda]. [Ở mình – bhoge], tức: ở thân mình. [Này các Tỳ Kheo! Mà ở đây, một số con trai gia tộc học tập Pháp – Idha pana, bhikkhave, ekacce 

kulaputtā dhammaṃ 

pariyāpuṇanti], tức: họ học tập với kinh điển là (phương tiện) vượt qua(i). Quả thật, có 3 loại kinh điển: kinh điển như con rắn; kinh điển là phương tiện vượt qua; kinh điển (được dùng) theo kiểu người thủ kho.

—–

(i) Tức vượt qua luân hồi.

13

♦ tattha yo buddhavacanaṃ 

uggahetvā evaṃ cīvarādīni vā labhissāmi, catuparisamajjhe 

vā maṃ jānissantīti lābhasakkārahetu pariyāpuṇāti, 

tassa sā pariyatti alagaddapariyatti nāma. evaṃ 

pariyāpuṇato hi buddhavacanaṃ apariyāpuṇitvā niddokkamanaṃ 

varataraṃ.

Trong chủ đề này, người nào học tập do nguyên nhân là sự tôn thờ của cải (với suy nghĩ rằng) ‘Sau khi nắm bắt Phật ngôn; ta sẽ đạt được y vân vân như thế hoặc người ta sẽ biết đến ta ở giữa 4 chúng’; thì kinh điển của vị ấy được gọi là [kinh điển như con rắn – alagaddapariyatti]. Quả thật, đối với người học tập như vậy; thì việc không học tập Phật ngôn mà đi ngủ là tốt hơn.

14

♦ yo pana buddhavacanaṃ 

uggaṇhitvā sīlassa āgataṭṭhāne 

sīlaṃ pūretvā samādhissa 

āgataṭṭhāne 

samādhigabbhaṃ gaṇhāpetvā vipassanāya āgataṭṭhāne 

vipassanaṃ paṭṭhapetvā maggaphalānaṃ āgataṭṭhāne 

maggaṃ bhāvessāmi phalaṃ sacchikarissāmīti uggaṇhāti, tassa sā pariyatti nittharaṇapariyatti nāma hoti.

Còn người nào học tập với suy nghĩ rằng ‘Ta học tập Phật ngôn; làm viên mãn Giới khi cơ hội cho Giới hiện diện; phát triển Định khi cơ hội cho Định hiện diện; cũng cố Vipassanā khi cơ hội cho Vipassanā hiện diện; rồi sẽ phát triển Đạo và thực chứng Quả khi cơ hội cho Đạo và Quả hiện diện’; thì kinh điển của người đó được gọi là [kinh điển là phương tiện vượt qua – nittharaṇapariyatti].

15

♦ khīṇāsavassa pana pariyatti 

bhaṇḍāgārikapariyatti nāma. tassa hi apariññātaṃ appahīnaṃ 

abhāvitaṃ asacchikataṃ vā natthi. so hi pariññātakkhandho 

pahīnakileso bhāvitamaggo sacchikataphalo, tasmā 

buddhavacanaṃ pariyāpuṇanto tantidhārako paveṇipālako 

vaṃsānurakkhakova hutvā 

uggaṇhāti. itissa sā pariyatti 

bhaṇḍāgārikapariyatti nāma hoti.

Còn kinh điển của bậc lậu tận được gọi là [kinh điển (được dùng) theo kiểu người thủ kho – bhaṇḍāgārikapariyatti]. Quả thật, đối với vị ấy, không có cái chưa được thấu triệt, (không có cái) chưa được từ bỏ, (không có cái) chưa được phát triển, và (không có cái) chưa được thực chứng. Bởi vì vị ấy có uẩn đã được thấu triệt, có phiền não đã được từ bỏ, có Đạo đã được phát triển, có Quả đã được thực chứng. Do đó, trong khi học tập Phật ngôn, vị ấy học tập giống như người gìn giữ kinh điển, người bảo vệ truyền thống, người hộ vệ truyền thống. Như vậy, kinh điển của vị ấy được gọi là kinh điển (được dùng) theo kiểu người thủ kho.

16

♦ yo pana puthujjano 

chātabhayādīsu ganthadharesu 

ekasmiṃ ṭhāne vasituṃ 

asakkontesu sayaṃ bhikkhācārena akilamamāno atimadhuraṃ buddhavacanaṃ mā nassatu, tantiṃ dhāressāmi, vaṃsaṃ ṭhapessāmi, paveṇiṃ 

pālessāmīti pariyāpuṇāti, tassa pariyatti bhaṇḍāgārikapariyatti 

hoti, na hotīti? na hoti. kasmā? Na attano ṭhāne ṭhatvā pariyāputattā. puthujjanassa hi pariyatti nāma 

alagaddā vā hoti nittharaṇā vā, sattannaṃ sekkhānaṃ nittharaṇāva, khīṇāsavassa 

bhaṇḍāgārikapariyattiyeva. imasmiṃ pana ṭhāne 

nittharaṇapariyatti adhippetā.

Nhưng trong khi các bậc gìn giữ kinh điển không thể ở một chỗ do sự đói, sự sợ hãi vân vân; người phàm phu nào tự mình không mỏi mệt bởi hạnh khất thực, (người ấy) học tập (với suy nghĩ rằng) ‘Ta sẽ gìn giữ kinh điển, củng cố truyền thống, bảo vệ truyền thống. Mong Phật ngôn có vị ngọt ngào vô cùng không tiêu hoại!’; thì kinh điển của người ấy là kinh điển (được dùng) theo kiểu người thủ kho hay không? Không. Tại sao? Do sự học (của người ấy) không dựa vào vị thế của bản thân (người ấy). Quả thật, cái được gọi là kinh điển của người phàm phu là kinh điển như con rắn hay kinh điển là phương tiện vượt qua. Kinh điển của 7 bậc hữu học chính là kinh điển là phương tiện vượt qua; kinh điển của bậc lậu tận chính là kinh điển (được dùng) theo kiểu người thủ kho. Nhưng ở đoạn kinh này, kinh điển là phương tiện vượt qua được hàm ý.

17

nijjhānaṃ khamantīti sīlādīnaṃ āgataṭṭhānesu idha sīlaṃ kathitaṃ, idha samādhi, idha 

vipassanā, idha maggo, 

idha phalaṃ, idha vaṭṭaṃ, idha 

vivaṭṭanti āpāthaṃ āgacchanti. tañcassa atthaṃ anubhontīti 

yesaṃ maggaphalānaṃ atthāya pariyāpuṇanti. suggahitapariyattiṃ nissāya maggaṃ bhāvetvā phalaṃ sacchikarontā tañcassa 

dhammassa atthaṃ anubhavanti. paravāde 

upārambhaṃ āropetuṃ sakkontāpisakavāde āropitaṃ dosaṃ 

icchiticchitaṭṭhānaṃ gahetvā mocetuṃ sakkontāpi 

anubhontiyeva. dīgharattaṃ 

hitāya sukhāya saṃvattantīti sīlādīnaṃ āgataṭṭhāne sīlādīni pūrentānampi, paresaṃ vāde 

sahadhammena upārambhaṃ āropentānampi, sakavādato dosaṃ harantānampi, arahattaṃ patvā parisamajjhe dhammaṃ 

desetvā dhammadesanāya pasannehi 

upanīte cattāro paccaye 

paribhuñjantānampi dīgharattaṃ 

hitāya sukhāya saṃvattanti.

[(Họ) hài lòng với sự hiểu biết – nijjhānaṃ khamanti], tức: khi cơ hội cho Giới vân vân hiện diện; họ thấy rõ ràng rằng: ‘Giới được thuyết ở đây, Định được thuyết ở đây, Vipassanā được thuyết ở đây, Đạo được thuyết ở đây, Quả được thuyết ở đây, Luân Hồi được thuyết ở đây, Ly Luân Hồi được thuyết ở đây.’ [(Họ) trải nghiệm chính lợi ích ấy – tañcassa atthaṃ anubhonti], tức: họ học tập vì mục đích là các Đạo & Quả nào; thì họ phát triển Đạo dựa vào kinh điển được nắm bắt một cách đúng đắn, thực chứng Quả và trải nghiệm chính lợi ích của pháp ấy (tức Đạo & Quả ấy). Họ cũng trải nghiệm lợi ích khi có thể phê bình lời nói của người khác và có thể tránh lỗi (do họ) gây ra trong lời nói của mình bằng cách nắm bắt điểm cần thiết. [(Chúng) dẫn đến lợi lạc, an lạc suốt thời gian dài – dīgharattaṃ 

hitāya sukhāya saṃvattanti], tức: chúng dẫn đến lợi lạc, an lạc suốt thời gian dài cho những người làm viên mãn Giới vân vân khi cơ hội cho Giới vân vân hiện diện; cho những người phê bình lời nói của những người khác một cách hợp lẽ; cho những người loại bỏ lỗi lầm khỏi lời nói của mình và cho những người thọ hưởng 4 vật dụng được dâng cúng bởi những ai tịnh tín vào bài giảng Pháp (của họ) sau khi họ đạt đến trạng thái A La Hán và thuyết Pháp ở giữa hội chúng.

18

evaṃ suggahite buddhavacane 

ānisaṃsaṃ dassetvā idāni tattheva niyojento tasmā tiha, 

bhikkhavetiādim āha. Tattha tasmāti yasmā duggahitapariyatti duggahitālagaddo viya dīgharattaṃ ahitāya dukkhāya 

saṃvattati, suggahitapariyatti suggahitālagaddo viya 

dīgharattaṃ hitāya sukhāya 

saṃvattati, tasmāti attho. tathā naṃ 

dhāreyyāthāti tatheva naṃ dhāreyyātha, teneva atthena 

gaṇheyyātha. ye vā panāssu 

viyattā bhikkhūti ye vā pana aññe sāriputtamoggallānamahākassapamahākaccānādikā byattā paṇḍitā 

bhikkhū assu, te pucchitabbā. 

ariṭṭhena viya pana mama sāsane na kalalaṃ vā kacavaraṃ 

vā pakkhipitabbaṃ.

Sau khi trình bày lợi ích đối với Phật ngôn được nắm bắt một cách đúng đắn như vậy; giờ đây, ngay tại đó, Đức Phật đã nói [Này các Tỳ Kheo! Do đó ở đây] vân vân nhằm khích lệ (các Tỳ Kheo). Ở đoạn kinh đó, [do đó – tasmā], tức: ‘bởi vì kinh điển được nắm bắt một cách sai lạc dẫn đến phi lợi lạc, đau khổ suốt thời gian dài giống như con rắn bị nắm bắt sai cách; kinh điển được nắm bắt một cách đúng đắn dẫn đến lợi lạc, an lạc suốt thời gian dài giống như con rắn được nắm bắt đúng cách; do đó…’ Ý nghĩa là như vậy. [(Các ông) hãy ghi nhớ điều đó như thế – tathā naṃ dhāreyyātha], tức: (các ông) hãy ghi nhớ điều đó hệt như thế; (các ông) hãy nắm bắt điều đó dựa theo chính ý nghĩa đó. [Hoặc những vị Tỳ Kheo nào hiểu biết… – ye vā panāssu 

viyattā bhikkhū], tức: hoặc những vị Tỳ Kheo nào khác là những vị hiểu biết, là bậc trí như Sāriputta, Moggallāna, Mahākassapa, Mahākaccāna vân vân; thì những vị Tỳ Kheo ấy nên được hỏi. Còn những vị Tỳ Kheo giống như Ariṭṭha thì không nên đưa bùn, rác vào giáo lý của ta.

19

♦ 240. kullūpamanti 

kullasadisaṃ. nittharaṇatthāyāticaturoghanittharaṇatthāya. udakaṇṇavanti yañhi udakaṃ gambhīraṃ na puthulaṃ. 

puthulaṃ vā pana na 

gambhīraṃ, na taṃ aṇṇavoti vuccati. yaṃ pana 

gambhīrañceva puthulañca, 

taṃ aṇṇavoti vuccati. tasmā mahantaṃ udakaṇṇavanti  mahantaṃ puthulaṃ gambhīraṃ 

udakanti ayamettha attho. sāsaṅkaṃ nāma yattha corānaṃ 

nivutthokāso dissati. ṭhitokāso, 

nisinnokāso, nipannokāso dissati. sappaṭibhayaṃ nāma yattha 

corehi manussā hatā dissanti, 

viluttā dissanti, ākoṭitā dissanti. uttarasetūti udakaṇṇavassa upari baddho setu. kullaṃ bandhitvāti kullo nāma 

taraṇatthāya kalāpaṃ katvā 

baddho. pattharitvā baddhā 

pana padaracāṭiādayo uḷumpoti 

vuccanti. uccāretvāti ṭhapetvā. kiccakārīti pattakārī yuttakārī, patirūpakārīti attho. dhammāpi 

vo pahātabbāti ettha 

dhammāti samathavipassanā. bhagavā hi 

samathepi chandarāgaṃ pajahāpesi, vipassanāyapi. 

samathe chandarāgaṃ kattha pajahāpesi? “iti kho, udāyi, nevasaññānāsaññāyatanassapi pahānaṃ vadāmi, passasi no tvaṃ, udāyi, taṃ saṃyojanaṃ aṇuṃ vā 

thūlaṃ vā, yassāhaṃ no pahānaṃ vadāmī”ti (ma. ni. 2.156) ettha 

samathe chandarāgaṃ pajahāpesi.  “imaṃ ce tumhe,bhikkhave, 

diṭṭhiṃ evaṃ parisuddhaṃ evaṃ 

pariyodātaṃ na allīyetha na 

kelāyetha na dhanāyethā”ti 

(ma. ni. 1.401) ettha vipassanāya 

chandarāgaṃ pajahāpesi. idha 

pana ubhayattha pajahāpento 

“dhammāpi vo pahātabbā, 

pageva adhammā”ti āha.

[Ví dụ chiếc bè – kullūpama], tức: thí dụ chiếc bè. [Vì mục đích vượt qua – nittharaṇatthāya], tức: vì mục đích vượt qua 4 dòng lũ. [Biển nước – udakaṇṇava], tức: quả thật, vùng nước nào sâu mà không rộng, hoặc vùng nước nào rộng mà không sâu; thì vùng nước đó không được gọi là biển. Mà vùng nước nào vừa sâu lại vừa rộng; thì vùng nước đó được gọi là biển. Do đó, [biển nước lớn – mahantaṃ udakaṇṇavaṃ], tức: vùng nước lớn lao, sâu và rộng. Đó là ý nghĩa ở đoạn kinh đó. [Có mối nguy – sāsaṅka], tức: có nơi ở của bọn trộm cướp ở đó; có nơi đứng, nơi ngồi, nơi nằm (của chúng). [Có nỗi sợ hãi – sappaṭibhaya], tức: người ta bị giết, bị cướp bóc, bị đánh đập bởi bọn trộm cướp ở đó. [Cây cầu vượt – uttarasetu], tức: cây cầu được nối vượt qua biển nước. [(Ta) kết bè – kullaṃ bandhitvā]; [bè – kulla], tức: cái được kết lại bằng cách tạo nên một khối (từ các vật liệu) nhằm mục đích vượt qua (biển nước). Còn các tấm ván, bình vân vân được kết lại bằng cách trải ra thì được gọi là [cái xuồng – uḷumpa](i). [(Ta) vác lên – uccāretvā], tức: (ta) đặt lên. [Người thực hiện phận sự – kiccakārī], tức: người thực hiện điều phù hợp, người thực hiện điều thích hợp, người thực hiện điều cần thiết. Ý nghĩa là như vậy. [Ngay cả các Pháp cũng nên được từ bỏ bởi các ông – dhammāpi 

vo pahātabbā]; ở đoạn kinh đó, [các Pháp – dhammā], tức: Chỉ & Vipassanā. Bởi vì Đức Thế Tôn đã khuyên dạy các Tỳ Kheo từ bỏ dục tham đối với Chỉ và đối với Vipassanā. Đức Thế Tôn đã khuyên dạy các Tỳ Kheo từ bỏ dục tham đối với Chỉ ở chỗ nào? ‘Như vậy, quả thật, này Udāyi! Ta nói đến sự từ bỏ cả Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ. Ông có thấy sự trói buộc nhỏ hay lớn nào mà ta không nói đến sự từ bỏ nó (sự trói buộc đó) – hay không?’ (ma. ni. 2.156). Ở đoạn kinh đó, (Đức Phật) đã khuyên dạy các Tỳ Kheo từ bỏ dục tham đối với Chỉ. ‘Này các Tỳ Kheo! Nếu các ông không dính mắc, không ham thích, không ham muốn Kiến thanh tịnh như vậy, trong sạch như vậy.’ (ma. ni. 1.401). Ở đoạn kinh đó, (Đức Phật) đã khuyên dạy các Tỳ Kheo từ bỏ dục tham đối với Vipassanā. Nhưng ở đây, (Đức Phật) đã nói: ‘Ngay cả các Pháp cũng nên được từ bỏ bởi các ông; huống hồ là các Phi Pháp’ nhằm khuyên dạy các Tỳ Kheo từ bỏ đối với cả 2 trường hợp (Pháp & Phi Pháp).

—–

(i) Đây là những phương tiện di chuyển thời cổ ở Ấn Độ, ta không có đủ thông tin để thực sự hiểu cách thức chế tạo chúng.

20

♦ tatrāyaṃ adhippāyo — 

bhikkhave, ahaṃ evarūpesu santappaṇītesu dhammesu 

chandarāgappahānaṃ vadāmi, kiṃ pana imasmiṃ asaddhamme 

gāmadhamme vasaladhamme duṭṭhulle odakantike, yattha ayaṃ ariṭṭho moghapuriso niddosasaññī pañcasu kāmaguṇesu chandarāgaṃ nālaṃ antarāyāyāti vadati. ariṭṭhena viya na tumhehi mayhaṃ  sāsane kalalaṃ vā kacavaraṃ vā 

pakkhipitabbanti evaṃ bhagavā 

imināpi ovādena ariṭṭhaṃyeva 

niggaṇhāti.

Đây là hàm ý ở đoạn kinh đó: ‘Này các Tỳ Kheo! Ta nói đến sự từ bỏ dục tham đối với các Pháp tuyệt vời, an tịnh như vậy. Thế thì còn có gì đối với cái Phi Chánh Pháp – tức pháp thô thiển, pháp thấp kém, hạ cấp, cần gột rửa này – mà đối với pháp đó, kẻ mê muội, kẻ có tư tưởng sai lầm Ariṭṭha này lại nói rằng: dục tham đối với 5 loại dục không đủ (tạo thành) chướng ngại?’ Đức Thế Tôn khiển trách chính vị Ariṭṭha bằng lời giáo huấn rằng: ‘Các ông không nên ném bùn rác vào giáo lý của ta giống như Ariṭṭha.’

21

idāni yo pañcasu khandhesu 

tividhaggāhavasena ahaṃ mamanti gaṇhāti, so mayhaṃ 

sāsane ayaṃ ariṭṭho viya kalalaṃ kacavaraṃ pakkhipatīti dassento 

chayimāni,bhikkhavetiādim āha. tattha diṭṭhiṭṭhānānīti 

diṭṭhipi diṭṭhiṭṭhānaṃ, diṭṭhiyā 

ārammaṇampi diṭṭhiṭṭhānaṃ, 

diṭṭhiyā paccayopi. rūpaṃ etaṃ 

mamātiādīsu etaṃ mamāti 

taṇhāggāho. esohamasmīti mānaggāho. eso 

me attāti diṭṭhiggāho. evaṃ rūpārammaṇā taṇhāmānadiṭṭhiyo 

kathitā honti. rūpaṃ pana 

attāti na vattabbaṃ. vedanādīsupi 

eseva nayo. diṭṭhaṃ rūpāyatanaṃ, sutaṃ saddāyatanaṃ, mutaṃ 

gandhāyatanaṃ rasāyatanaṃ phoṭṭhabbāyatanaṃ, tañhi patvā 

gahetabbato mutanti vuttaṃ. avasesāni sattāyatanāni viññātaṃ nāma. pattanti pariyesitvā vā apariyesitvā vā pattaṃ. pariyesitanti pattaṃ vā appattaṃ vā pariyesitaṃ. anuvicaritaṃ 

manasāti cittena anusañcaritaṃ. lokasmiñhi pariyesitvā pattampi 

atthi, pariyesitvā nopattampi. apariyesitvā pattampi atthi, 

apariyesitvā nopattampi. Tattha pariyesitvā pattaṃ pattaṃ nāma. pariyesitvā 

nopattaṃ pariyesitaṃ nāma. apariyesitvā pattañca, apariyesitvā nopattañca manasānuvicaritaṃ 

nāma.

Giờ đây, (Đức Phật) đã nói: ‘Này các Tỳ Kheo! 6 (kiến lập) này’ vân vân nhằm trình bày rằng: ‘Người nào đối với 5 uẩn, nắm bắt (chúng) như ‘ta, của ta’ do 3 loại nắm bắt; thì người ấy đang ném bùn rác vào giáo lý của ta giống như vị Ariṭṭha ấy.’ Ở đoạn kinh đó, [kiến lập – diṭṭhiṭṭhāna], tức: kiến lập là [kiến – diṭṭhi], hoặc kiến lập là [đối tượng của kiến – diṭṭhiyā 

ārammaṇaṃ] hoặc (kiến lập) là [duyên của kiến – diṭṭhiyā paccayo]. Ở cụm từ [(nhìn nhận) sắc rằng ‘cái này là của ta’ – rūpaṃ etaṃ 

mama] vân vân; [cái này là của ta – etaṃ mama], chỉ đến [sự nắm bắt do tham ái – taṇhāggāho]. [Ta là cái này – esohamasmi], chỉ đến [sự nắm bắt do ngã mạn – mānaggāho]. [Cái này là bản ngã của ta – eso 

me attā], chỉ đến [sự nắm bắt do (tà) kiến – diṭṭhiggāho]. Các đối tượng sắc và tham ái, ngã mạn cùng tà kiến đã được nói như vậy. Thế nhưng, sắc không thể được nói là ‘bản ngã’. Và đối với thọ vân vân, cũng chính phương pháp (giải thích) đó (nên được áp dụng). Sắc xứ [được thấy – diṭṭha]; thanh xứ [được nghe – suta]; hương xứ, vị xứ, xúc xứ [được biết – muta]. Quả thật, những (xứ) đó được nói là [được biết – muta] do (chúng) có thể được nắm bắt khi (chúng) đạt đến (giác quan)(i). 7 xứ còn lại được gọi là [được nhận thức – viññāta]. [Được đạt đến – patta], tức: được đạt đến với phương thức suy xét hoặc với phương thức không suy xét. [Được suy xét – pariyesita], tức: cái được đạt đến thì được suy xét hoặc cái chưa được đạt đến thì được suy xét. [Được khảo sát bằng ý – anuvicaritaṃ manasā], tức: được khảo sát bằng tâm. Quả thật, trong thế gian, có cái được đạt đến thông qua việc suy xét và có cái Không được đạt đến thông qua việc suy xét. Có cái được đạt đến thông qua việc Không suy xét và có cái Không được đạt đến thông qua việc Không suy xét. Ở đoạn kinh đó, cái được đạt đến thông qua việc suy xét thì được gọi là cái được đạt đến. Cái Không được đạt đến thông qua việc suy xét thì được gọi là cái được suy xét. Cái được đạt đến thông qua việc Không suy xét và cái Không được đạt đến thông qua việc Không suy xét thì được gọi là cái được khảo sát bằng ý.

—–

(i) Sớ giải: Gandharasaphoṭṭhabbāyatanānaṃ sampattagāhindriyavisayatāya patvā 

gahetabbatā = sự nắm bắt hương, vị, xúc xứ (diễn ra) nhờ việc đạt đến phạm vi của căn – tức cái nắm bắt cái đạt đến (cái đạt đến là xứ, cái nắm bắt là căn).

22

atha vā pariyesitvā pattampi 

apariyesitvā pattampi pattaṭṭhena pattaṃ nāma. pariyesitvā nopattaṃ pariyesitaṃ nāma. apariyesitvā nopattaṃ 

manasānuvicaritaṃ nāma. sabbaṃ vā etaṃ manasā 

anuvicaritattā manasānuvicaritaṃnāma. iminā viññāṇārammaṇā 

taṇhāmānadiṭṭhiyo kathitā, desanāvilāsena heṭṭhā 

diṭṭhādiārammaṇavasena 

viññāṇaṃ dassitaṃ. yampi taṃ 

diṭṭhiṭṭhānanti yampi etaṃ 

solokotiādinā nayena pavattaṃ 

diṭṭhiṭṭhānaṃ.

Hoặc cái được đạt đến thông qua việc suy xét và cái được đạt đến thông qua việc Không suy xét thì đều được gọi là cái được đạt đến do ý nghĩa là được đạt đến. Cái Không được đạt đến thông qua việc suy xét thì được gọi là cái được suy xét. Cái Không được đạt đến thông qua việc Không suy xét thì được gọi là cái được khảo sát bằng ý. Hoặc tất cả những cái đó đều được gọi là cái được khảo sát bằng ý do trạng thái được khảo sát bằng ý (của chúng). Thông qua cụm từ đó, các đối tượng của Thức, Tham Ái, Ngã Mạn, Tà Kiến đã được nói đến. Ở (đoạn kinh) bên dưới, Thức đã được trình bày với vẻ đẹp của bài giảng thông qua các đối tượng được thấy vân vân(i). [Và chính cái nào là kiến lập – yampi taṃ 

diṭṭhiṭṭhānaṃ], tức: và chính cái nào là kiến lập, diễn tiến theo phương thức ‘cái đó là thế gian’ vân vân.

—–

(i) Tức: được thấy, được nghe, được biết…

23

♦ so loko so attāti yā esā “rūpaṃ attato samanupassatī”tiādinā nayena pavattā diṭṭhi loko ca attā 

cāti gaṇhāti, taṃ sandhāya vuttaṃ. so pecca bhavissāmīti so ahaṃ 

paralokaṃ gantvā nicco bhavissāmi, dhuvo sassato 

avipariṇāmadhammo bhavissāmi, sinerumahāpathavīmahāsamuddādīhi sassatīhi samaṃ tatheva ṭhassāmi. tampi etaṃ mamāti 

tampi dassanaṃ etaṃ mama, esohamasmi, eso me attāti 

samanupassati. Iminā diṭṭhārammaṇā taṇhāmānadiṭṭhiyo kathitā. Vipassanāya paṭivipassanākāle viya 

pacchimadiṭṭhiyā purimadiṭṭhiggahaṇakāle evaṃ 

hoti.

[Cái đó là thế gian, cái đó là bản ngã – so loko so attā], tức: chính Tà Kiến nào diễn tiến theo phương thức ‘(Người ấy) nhìn nhận sắc là bản ngã’ vân vân (và) nắm bắt thế gian hoặc nắm bắt bản ngã; thì (cụm từ đó) được nói liên quan đến (Tà Kiến) ấy. [Sau khi chết, chính ta sẽ tồn tại – so pecca bhavissāmi], tức: chính ta sau khi đi đến thế gian khác, sẽ tồn tại mãi mãi; sẽ tồn tại bền vững, vĩnh viễn với bản chất không biến đổi. Ta sẽ tồn tại hoàn toàn chân thực(i), đồng nhất, (sẽ tồn tại) với sự vĩnh hằng như núi Sineru, đại địa, đại dương vân vân. [(Người ấy nhìn nhận) cái đó rằng ‘Cái đó là của ta’ – tampi etaṃ mamāti], tức: người ấy nhìn nhận rằng: ‘Cái nào là cái thấy; thì cái đó là của ta, ta là cái đó, cái đó là bản ngã của ta.’ Thông qua cụm từ đó, các đối tượng được thấy; Tham Ái; Ngã Mạn; Tà Kiến đã được nói đến. (Sự việc) diễn ra như vậy vào thời điểm nắm bắt Tà Kiến liền trước (thời điểm hiện tại) so với Tà Kiến ban đầu thì giống như (sự việc) diễn ra vào thời điểm Paṭivipassanā so với Vipassanā(ii).

—–

(i) [tatheva = tatho eva], có thể hiểu là sự tồn tại thực sự, không phải trải qua biến đổi nào.

(ii) Câu này quá súc tích; có một cách hiểu: theo các Sớ Giải, Paṭivipassanā là Vipassanā lặp đi lặp lại nhiều lần, phát triển mạnh mẽ – có thể hiểu là một dạng Vipassanā cao cấp. Tương tự như vậy, Tà Kiến khởi sinh lặp đi lặp lại, được củng cố thì càng mạnh mẽ. Sớ Giải: vipassanāya paṭivipassananti 

dhammānañca puna vipassanaṃ.

24

♦ sukkapakkhe rūpaṃ netaṃ 

mamāti rūpe taṇhāmānadiṭṭhiggāhā paṭikkhittā. vedanādīsupi eseva nayo. samanupassatīti imassa pana 

padassa taṇhāsamanupassanā mānasamanupassanā 

diṭṭhisamanupassanā ñāṇasamanupassanāti catasso 

samanupassanāti attho. Tā kaṇhapakkhe tissannaṃ 

samanupassanānaṃ, sukkapakkheñāṇasamanupassanāya vasena 

veditabbā. asati na paritassatīti avijjamāne bhayaparitassanāya 

taṇhāparitassanāya vā 

na paritassati. iminā bhagavā 

ajjhattakkhandhavināse aparitassamānaṃ khīṇāsavaṃ 

dassento desanaṃ matthakaṃ pāpesi.

Ở đoạn kinh tích cực, sự nắm bắt Tà Kiến, Ngã Mạn và Tham Ái đối với Sắc bị bác bỏ (thông qua cụm từ) [sắc đó không phải là của ta – rūpaṃ netaṃ 

mama]. Chính phương pháp (giải thích) đó cũng (nên được áp dụng) đối với Thọ vân vân. [(Người ấy) nhìn nhận – samanupassati], tuy nhiên, ý nghĩa của từ đó là: có 4 loại nhìn nhận – tức sự nhìn nhận dựa vào Tham Ái, sự nhìn nhận dựa vào Ngã Mạn, sự nhìn nhận dựa vào Tà Kiến và sự nhìn nhận dựa vào Trí. Ở đoạn kinh tiêu cực, sự nhìn nhận nên được hiểu với ý nghĩa là 3 sự nhìn nhận (dựa vào phiền não). Ở đoạn kinh tích cực, sự nhìn nhận nên được hiểu với ý nghĩa là sự nhìn nhận dựa vào Trí. [(Người ấy) không nôn nao đối với cái không tồn tại – asati na paritassati], tức: đối với cái không hiện tồn, (người ấy) không nôn nao theo kiểu nôn nao do sợ hãi hay theo kiểu nôn nao do tham ái. Thông qua cụm từ đó, Đức Thế Tôn khiến bài giảng đạt đến đỉnh điểm bằng cách chỉ đến bậc có Lậu Hoặc đã cạn kiệt, không nôn nao nhờ việc phá hủy các uẩn gắn với tự ngã(i).

—–

 

(i) Tức các uẩn được nhìn nhận theo Tà Kiến, Tham Ái… Bậc A La Hán khi chưa Vô Dư Niết Bàn thì vẫn còn ngũ uẩn, nhưng không nhìn nhận chúng theo Tà Kiến, Tham Ái…

25

♦ 242. evaṃ vutte aññataro 

bhikkhūti evaṃ bhagavatā vutte aññataro anusandhikusalo bhikkhu — “bhagavatā ajjhattakkhandhavināse 

aparitassantaṃ khīṇāsavaṃ 

dassetvā desanā niṭṭhāpitā, ajjhattaṃ 

aparitassante kho pana sati 

ajjhattaṃ paritassakena bahiddhā 

parikkhāravināse paritassakena aparitassakena cāpi bhavitabbaṃ. iti imehi catūhi kāraṇehi ayaṃ pañho pucchitabbo”ti cintetvā ekaṃsaṃ cīvaraṃ katvā añjaliṃ paggayha bhagavantaṃ etadavoca. bahiddhā asatīti bahiddhā parikkhāravināse. ahu vata meti 

ahosi vata me bhaddakaṃ yānaṃ vāhanaṃ hiraññaṃ suvaṇṇanti 

attho. taṃ vata me natthīti taṃ vata idāni mayhaṃ natthi, rājūhi 

vā corehi vā haṭaṃ, agginā vā daḍḍhaṃ, udakena vā vuḷhaṃ, 

paribhogena vā jiṇṇaṃ. siyā vatameti bhaveyya vata 

mayhaṃ yānaṃ vāhanaṃ 

hiraññaṃ suvaṇṇaṃ sāli vīhi yavo 

godhumo. taṃ vatāhaṃ na 

labhāmīti tamahaṃ alabhamāno 

tadanucchavikaṃ kammaṃ akatvānisinnattā idāni na labhāmīti 

socati, ayaṃ agāriyasocanā, anagāriyassa pattacīvarādīnaṃ 

vasena veditabbā.

[Khi điều đó đã được nói như vậy, một vị Tỳ Kheo nào đó – evaṃ vutte aññataro 

bhikkhu], tức: khi điều đó đã được nói như vậy bởi Đức Thế Tôn, một vị Tỳ Kheo nào đó giỏi liên tưởng suy nghĩ rằng: ‘Đức Thế Tôn đã kết thúc bài giảng bằng cách chỉ đến bậc có Lậu Hoặc đã cạn kiệt – tức bậc không nôn nao nhờ việc phá hủy các uẩn gắn với tự ngã. Tuy nhiên, trong khi có hạng người không nôn nao (đối với cái không tồn tại) ở bên trong; thì chắc hẳn cũng có hạng người nôn nao (đối với cái không tồn tại) ở bên trong, có hạng người nôn nao (đối với cái không tồn tại) ở bên ngoài do việc mất mát các vật dụng và cũng có hạng người không nôn nao (đối với cái không tồn tại) ở bên ngoài do việc mất mát các vật dụng. Câu hỏi này nên được hỏi dựa theo 4 trường hợp như vậy’; đắp y lên một vai; chắp tay đảnh lễ rồi đã nói điều đó với Đức Thế Tôn. [Đối với cái không tồn tại ở bên ngoài – bahiddhā asati], tức: (cái không tồn tại) do việc mất mát các vật dụng. [Ôi chao, ta đã có – ahu vata me], tức: ôi chao, ta đã có những tài sản tốt đẹp như xe, cỗ xe, vàng thô, vàng. Ý nghĩa là như vậy. [Ôi chao, (hiện nay) ta không có – taṃ vata me natthi], tức: ôi chao, bây giờ ta không có nó. Nó đã bị lấy đi bởi vua chúa hay trộm cướp; đã bị đốt bởi lửa; đã bị cuốn bởi nước hay đã hư cũ do việc sử dụng. [Ôi chao, mong ta có được (nó) – siyā vatame], tức: ôi chao, mong ta có được xe, cỗ xe, vàng thô, vàng, gạo Sāli, lúa mạch, lúa mì. [Ôi chao, ta không đạt được nó – taṃ vatāhaṃ na labhāmi], tức: người ấy than van rằng: ‘Ta vốn chưa có được nó, thì giờ đây, ta không đạt được nó do ta ngồi không mà không tiến hành công việc thích hợp (để có) nó.’ Đó là sự than van của người tại gia; còn sự than van của người xuất gia nên được hiểu là (sự than van) đối với y, bát vân vân.

26

♦ aparitassanāvāre na evaṃ hotīti yehi kilesehi evaṃ bhaveyya, tesaṃ 

pahīnattā na evaṃ hoti. diṭṭhiṭṭhānādhiṭṭhānapariyuṭṭhānābhinivesānusayānanti diṭṭhīnañca diṭṭhiṭṭhānānañca diṭṭhādhiṭṭhānānañca diṭṭhipariyuṭṭhānānañca abhinivesānusayānañca. sabbasaṅkhārasamathāyāti 

nibbānatthāya. nibbānañhi āgamma 

sabbasaṅkhārāiñjitāni, sabbasaṅkhāracalanāni sabbasaṅkhāravipphanditāni sammanti vūpasammanti, tasmā taṃ, “sabbasaṅkhārasamatho”ti 

vuccati. Tadeva ca āgamma khandhūpadhi kilesūpadhi abhisaṅkhārūpadhi, 

pañcakāmaguṇūpadhīti ime upadhayo paṭinissajjiyanti, taṇhā khīyati virajjati nirujjhati, tasmā taṃ, “sabbūpadhipaṭinissaggo 

taṇhākkhayo virāgo 

nirodho”ti vuccati. nibbānāyāti ayaṃ panassa sarūpaniddeso, iti 

sabbeheva imehi padehi 

nibbānassa sacchikiriyatthāya dhammaṃ desentassāti ayamattho dīpito. tassevaṃ hotīti tassa 

diṭṭhigatikassa ucchijjissāmi nāmassu, 

vinassissāmināmassu, nāssu nāma bhavissāmīti evaṃhoti. 

diṭṭhigatikassa hi tilakkhaṇaṃ 

āropetvā suññatāpaṭisaṃyuttaṃ katvā 

desiyamānaṃ dhammaṃ suṇantassa tāso 

uppajjati. vuttañhetaṃ — “tāso heso, 

bhikkhave, asutavato puthujjanassa no 

cassaṃ, no ca me siyā”ti (saṃ. ni. 3.55).

Ở phần nói về [sự không nôn nao – aparitassanā]; [(suy nghĩ) như vầy không xảy đến – na evaṃ hoti], tức: (suy nghĩ) như vậy dựa theo những phiền não nào có thể xảy đến (cho người ta); thì do sự từ bỏ những phiền não ấy, (suy nghĩ) như vậy không xảy đến (cho vị ấy). [Tà Kiến, Kiến Lập, Tà Quyết Tâm, Tà Khuynh Hướng, Thuỵ Miên Xu Hướng – diṭṭhiṭṭhānādhiṭṭhānapariyuṭṭhānābhinivesānusayāna], tức: [Tà Kiến – diṭṭhi], [Kiến Lập – diṭṭhiṭṭhāna], [Tà Quyết Tâm – diṭṭhādhiṭṭhāna], [Tà Khuynh Hướng – diṭṭhipariyuṭṭhāna] và [Thuỵ Miên Xu Hướng – abhinivesānusaya](i). [Vì sự an tịnh mọi pháp hữu vi – sabbasaṅkhārasamathāya], tức: vì mục tiêu Niết Bàn. Bởi vì dựa vào Niết Bàn, tất cả những sự rúng động do pháp hữu vi; tất cả những sự dao động do pháp hữu vi; tất cả những sự xáo động do pháp hữu vi đều an tịnh, tịnh chỉ. Do đó, nó (Niết Bàn) được gọi là ‘sự an tịnh mọi pháp hữu vi.’ Hoặc dựa vào chính cái đó (Niết Bàn), những sự chấp thủ này – tức: sự chấp thủ các uẩn, sự chấp thủ các phiền não, sự chấp thủ các hành, sự chấp thủ 5 loại dục – bị từ bỏ. Tham ái suy giảm, bị nhàm chán, tiêu tan. Do đó, nó (Niết Bàn) được gọi là ‘sự từ bỏ mọi chấp thủ, sự cạn kiệt tham ái, sự ly tham, sự diệt.’ [Vì (mục tiêu) Niết Bàn – nibbānāya], đây là sự giải thích một cách tương đương cho từ đó (nibbānāya): với toàn bộ các từ đó như vậy (virāgāya nirodhāya…) (Như Lai hay đệ tử của Như Lai) thuyết pháp vì mục tiêu là sự thực chứng Niết Bàn. Ý nghĩa đó được soi sáng như vậy. [(Ý nghĩ) xảy đến cho vị ấy như vầy – tassevaṃ hoti], tức: (ý nghĩ xảy đến) cho người có Tà Kiến ấy (như vầy). [Ôi, ta thật sẽ tiêu tan; ôi, ta thật sẽ tiêu biến; ôi, ta thật sẽ không tồn tại – ucchijjissāmi nāmassu, 

vinassissāmināmassu, nāssu nāma 

bhavissāmi] (ý nghĩ) xảy đến (cho vị ấy) như vậy. Bởi vì nỗi sợ hãi phát sinh cho người có Tà Kiến khi người ấy nghe Pháp được thuyết giảng có liên hệ đến tính chất trống rỗng vào lúc tam tướng được trình bày. Quả thật, điều này đã được nói: ‘Này các Tỳ Kheo! Nỗi sợ hãi ấy phát sinh cho thường nhân chưa học tập; ta không có nỗi sợ hãi ấy, nỗi sợ hãi ấy không phát sinh cho ta.’ (saṃ. ni. 3.55)

—–

(i) Tức những xu hướng ngủ ngầm trong tâm.

27

♦ 243. ettāvatā 

bahiddhāparikkhāravināse tassanakassa ca notassanakassa ca ajjhattakkhandhavināse 

tassanakassa ca notassanakassa cāti imesaṃ 

vasena catukkoṭikā suññatā kathitā. idāni bahiddhā parikkhāraṃ pariggahaṃ nāma katvā, vīsativatthukaṃ sakkāyadiṭṭhiṃ attavādupādānaṃ 

nāma katvā, sakkāyadiṭṭhipamukhā 

dvāsaṭṭhi diṭṭhiyo diṭṭhinissayaṃ 

nāma katvā tikoṭikaṃ suññataṃ dassetuṃ taṃ, bhikkhave, 

pariggahantiādimāha. tattha pariggahanti bahiddhā 

parikkhāraṃ. pariggaṇheyyāthāti yathā 

viññū manusso pariggaṇheyya. ahampi kho taṃ, bhikkhaveti, 

bhikkhave, tumhepi na passatha, 

ahampi na passāmi, 

iti evarūpo pariggaho natthīti 

dasseti. evaṃ sabbattha attho veditabbo.

Trong chừng mực đó, tính chất trống rỗng đã được thuyết theo 4 phương diện này: đối với người nôn nao khi tài sản bên ngoài tiêu tan; đối với người không nôn nao khi tài sản bên ngoài tiêu tan; đối với người nôn nao khi các uẩn gắn với tự ngã tiêu tan; đối với người không nôn nao khi các uẩn gắn với tự ngã tiêu tan. Giờ đây, (Đức Phật) đã nói ‘Này các Tỳ Kheo! (Các ông có thể có được) sự sở hữu đó’ vân vân nhằm trình bày tính chất trống rỗng gồm 3 phương diện dựa theo Tà Kiến: 62 Tà Kiến với Thân Kiến là cái trước tiên; sự chấp thủ vào quan điểm về Bản Ngã dựa theo Thân Kiến với 20 cơ sở; sự sở hữu tài sản bên ngoài. Ở đoạn kinh đó, [sự sở hữu – pariggaha] chỉ đến tài sản bên ngoài. [(Các ông) có thể có được – pariggaṇheyyātha] theo cách người trí có được. [Này các Tỳ Kheo! Quả thật, ta cũng (không thấy sự sở hữu) đó – ahampi kho taṃ, bhikkhave], tức: Đức Phật trình bày rằng: ‘Này các Tỳ Kheo! Các ông không thấy, ta cũng không thấy. Như vậy, sự sở hữu theo kiểu như thế không tồn tại.’ Ý nghĩa nên được hiểu như vậy ở mọi chỗ (liên quan).

28

♦ 244. evaṃ tikoṭikaṃ suññataṃ 

dassetvā idāni ajjhattakkhandhe attāti bahiddhā 

parikkhāre attaniyanti katvā dvikoṭikaṃ 

dassento attani vā, bhikkhave, satītiādimāha. tattha 

ayaṃ saṅkhepattho, bhikkhave, 

attani vā sati idaṃ me parikkhārajātaṃ attaniyanti assa, attaniyeva vā parikkhāre sati ayaṃ me attā 

imassa parikkhārassa sāmīti, evaṃ ahanti. sati mamāti, mamāti sati ahanti yuttaṃ 

bhaveyya. Saccatoti bhūtato, thetatoti tathato thirato 

vā.

Sau khi trình bày tính chất trống rỗng gồm 3 phương diện như vậy; giờ đây, Đức Phật đã nói: ‘Này các Tỳ Kheo! Khi bản ngã tồn tại’ vân vân nhằm trình bày (tính chất trống rỗng) gồm 2 phương diện: ‘bản ngã’ theo nghĩa là các uẩn gắn với tự ngã, ‘cái thuộc bản ngã’ theo nghĩa là tài sản bên ngoài. Ở đoạn kinh đó, đây là ý nghĩa súc tích: ‘Này các Tỳ Kheo! Khi bản ngã tồn tại; thì các loại tài sản, tức cái thuộc bản ngã ấy cũng tồn tại cho ta. Hoặc khi cái thuộc bản ngã, tức tài sản tồn tại; thì bản ngã ấy của ta, tức chủ nhân của tài sản đó cũng tồn tại. Như vậy, ‘cái ta – ahaṃ’ tồn tại khi ‘cái của ta – mama’ tồn tại; ‘cái của ta – mama’ tồn tại khi ‘cái ta – ahaṃ’ tồn tại. (Chúng) ràng buộc (với nhau). [Như thật – saccato], tức: đúng theo thực tính. [Như chân – thetato], tức: đúng theo sự thật hay một cách vững chắc.

29

♦ idāni ime pañcakkhandhe 

aniccaṃ dukkhaṃ anattāti evaṃ tiparivaṭṭavasena 

aggaṇhanto ayaṃ ariṭṭho viya mayhaṃ 

sāsane kalalaṃ kacavaraṃ 

pakkhipatīti dassento taṃ kiṃ maññatha, bhikkhave, rūpaṃ 

niccaṃ tiādimāha. tattha 

aniccaṃ, bhanteti, bhante, yasmā hutvā na hoti, tasmā 

aniccaṃ. Uppādavayavattito vipariṇāmatā vakālikaniccapaṭikkhepaṭṭhena 

vāti catūhi kāraṇehi aniccaṃ. dukkhaṃ, bhanteti, bhante, 

paṭipīḷanākārena dukkhaṃ, santāpadukkhamadukkhavatthukasukhapaṭikkhepaṭṭhena vāti catūhi 

kāraṇehi dukkhaṃ. vipariṇāmadhammanti bhavasaṅkantiupagamanasabhāvaṃ pakatibhāvavijahanasabhāvaṃ. kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ etaṃ mama, 

esohamasmi, eso me attāti yuttaṃ nu kho taṃ 

imesaṃ tiṇṇaṃ taṇhāmānadiṭṭhiggāhānaṃ vasena ahaṃ mamāti evaṃ gahetuṃ. no 

hetaṃ, bhanteti iminā te bhikkhū avasavattanākārena 

rūpaṃ, 

bhante, anattāti paṭijānanti. suññāssāmikānissarāttapaṭikkhepaṭṭhena vāti catūhi kāraṇehi anattā.

Giờ đây, Đức Phật đã nói: ‘Này các Tỳ Kheo! Các ông nghĩ gì về điều này? Sắc là thường hay (vô thường)’ vân vân nhằm trình bày: người không nắm bắt ngũ uẩn này dựa theo 3 vòng tròn như vầy ‘vô thường, khổ, vô ngã’ giống như vị Ariṭṭha này thì ném bùn rác vào trong giáo lý của ta. Ở đoạn kinh đó, [thưa Ngài! Vô thường], tức: ‘Thưa Ngài! Bởi vì sau khi tồn tại, các uẩn không tồn tại; do đó, (nó) vô thường. (Nó) vô thường do 4 nguyên nhân: do sự diễn tiến của nó (theo cách) sinh lên rồi diệt đi; hoặc (nó vô thường) theo nghĩa biến đổi; theo nghĩa (tồn tại) nhất thời và theo nghĩa đối lập với tính chất thường.’ [Thưa Ngài! Khổ], tức: ‘Thưa Ngài! (Nó) khổ theo phương cách là áp bức. (Nó) khổ do 4 nguyên nhân: sự bức bách; sự khó chịu đựng; nền tảng cho khổ(i); (khổ) theo nghĩa đối nghịch với lạc.’ [Có tính chất biến đổi – vipariṇāmadhamma], tức: có bản chất đi đến sự chuyển đổi trạng thái tồn tại, có bản chất từ bỏ trạng thái gốc. [Liệu có thích hợp nhìn nhận cái đó là: ‘cái đó là của ta; ta là cái đó; cái đó là bản ngã của ta’ không? – kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ etaṃ mama, 

esohamasmi, eso me attā], tức: liệu có phù hợp nắm bắt cái đó rằng: ‘Cái đó là của ta; ta là cái đó’ do 3 sự nắm bắt theo Tham Ái, Ngã Mạn, Tà Kiến này hay không? [Quả thật, thưa Ngài! Điều đó không (đúng) – no 

hetaṃ, bhante], tức: thông qua cụm từ đó, các vị Tỳ Kheo ấy thừa nhận rằng: ‘Thưa Ngài! Sắc thì vô ngã theo phương cách là diễn tiến vô kiểm soát.’ (Nó) thì vô ngã do 4 nguyên nhân: do tính trống rỗng; do sự vô chủ nhân; do sự không có người tạo tác; (vô ngã) theo nghĩa là đối nghịch với bản ngã.   

—–

(i) Tức nó (các uẩn) là nền tảng cho khổ luân hồi. Sớ giải: Tissannaṃ dukkhatānaṃ saṃsāradukkhassa adhiṭṭhānatāya dukkhavatthukatā.

30

♦ bhagavā hi katthaci aniccavasena anattattaṃ dasseti, katthaci dukkhavasena, katthaci ubhayavasena. “cakkhu attāti yo vadeyya, taṃ na upapajjati, cakkhussa uppādopi vayopi paññāyati. yassa kho pana 

uppādopi vayopi paññāyati, attā me uppajjati caveti cāti 

iccassa evam āgataṃ hoti, tasmā taṃ na 

upapajjati cakkhu attāti yo vadeyya, iti cakkhu anattā”ti (ma. ni. 3.422) imasmiñhi chachakkasutte aniccavasena anattataṃ dasseti. “rūpañca hidaṃ, bhikkhave, attā abhavissa, nayidaṃ rūpaṃ ābādhāya saṃvatteyya, labbhetha ca rūpe ‘evaṃ me rūpaṃ hotu, evaṃ me rūpaṃ mā ahosī’ti. yasmā ca kho, bhikkhave, rūpaṃ anattā, tasmā rūpaṃ ābādhāya saṃvattati, na ca 

labbhati rūpe ‘evaṃ me rūpaṃ hotu, evaṃ me rūpaṃ mā ahosī’”ti (mahāva. 20; saṃ.ni. 3.59) imasmiṃ anattalakkhaṇasutte dukkhavasena anattataṃ dasseti. “rūpaṃ, bhikkhave, aniccaṃ, yadaniccaṃ taṃ dukkhaṃ, yaṃ dukkhaṃ tadanattā, yadanattā taṃ ‘netaṃ 

mama, nesohamasmi, na meso attā’ti evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya daṭṭhabban”ti (saṃ. ni. 3.76) imasmiṃ arahattasutte ubhayavasena anattataṃ dasseti. kasmā? aniccaṃ dukkhañca pākaṭaṃ. anattāti na pākaṭaṃ.

Quả thật, có chỗ Đức Thế Tôn trình bày tính vô ngã thông qua tính vô thường; có chỗ (Đức Thế Tôn trình bày tính vô ngã) thông qua tính khổ; có chỗ (Đức Thế Tôn trình bày tính vô ngã) thông qua cả 2 tính đó. Khi một người nào đó nói rằng: ‘Con mắt là Bản Ngã’; thì điều đó không phù hợp. Sự sinh lên và hoại diệt của con mắt hiển hiện(i). Và khi sự sinh lên cũng như hoại diệt của con mắt hiển hiện; thì (kết luận) được đạt đến cho người ấy rằng: ‘Bản Ngã của ta sinh lên và diệt đi.’ Do đó, khi một người nào đó nói rằng: ‘Con mắt là Bản Ngã’; thì điều đó không phù hợp. Như vậy, con mắt thì vô ngã (ma. ni. 3.422). Quả thật, trong bài kinh Chachakkasutta; Đức Phật trình bày tính vô ngã dựa theo tính vô thường. ‘Này các Tỳ Kheo! Quả thật, nếu sắc đó là bản ngã; thì sắc đó không dẫn tới bệnh và (điều này) có thể được đạt đến đối với sắc: ‘Sắc của ta hãy tồn tại như thế này; sắc của ta chớ tồn tại như thế kia.’ Này các Tỳ Kheo! Bởi vì sắc thì vô ngã; cho nên sắc dẫn tới bệnh và (điều này) không thể được đạt đến đối với sắc: ‘Sắc của ta hãy tồn tại như thế này; sắc của ta chớ tồn tại như thế kia.’ (mahāva. 20; saṃ.ni. 3.59). Trong bài kinh Anattalakkhaṇasutta; Đức Phật trình bày tính vô ngã dựa theo tính khổ. ‘Này các Tỳ Kheo! Sắc thì vô thường. Cái gì vô thường; thì cái đó khổ. Cái gì khổ; thì cái đó vô ngã. Cái gì vô ngã; thì chính cái đó nên được nhìn bằng trí tuệ chân chánh theo thực tính rằng: ‘Cái đó không phải của ta. Ta không phải là cái đó. Cái đó không phải là bản ngã của ta.’ (saṃ. ni. 3.76). Trong bài kinh Arahattasutta; Đức Phật trình bày tính vô ngã dựa theo cả 2 tính kia. Tại sao? Tính vô thường và tính khổ thì rõ ràng. Tính vô ngã thì không rõ ràng.

—–

(i) [Hiển hiện – paññāyati], tức xảy ra trong thực tế, được mọi người biết đến rộng rãi.

31

♦ paribhogabhājanādīsu hi bhinnesu aho aniccanti vadanti, aho anattāti vattā nāma natthi. Sarīre gaṇḍapiḷakādīsu vā uṭṭhitāsu kaṇṭakena vā viddhā aho dukkhanti vadanti, aho anattāti pana vattā nāma natthi. kasmā? Idañhi anattalakkhaṇaṃ nāma avibhūtaṃ duddasaṃ duppaññāpanaṃ. tena taṃ bhagavā aniccavasena vā dukkhavasena vā ubhayavasena vā dasseti. tayidaṃ imasmimpi teparivaṭṭe aniccadukkhavaseneva dassitaṃ. vedanādīsupi eseva nayo.

Bởi vì khi những thứ mà người ta hưởng thụ, gắn bó vân vân tan vỡ; thì người ta nói: ‘Ôi chao! Thật vô thường!’ Nhưng quả thật, người ta không nói: ‘Ôi chao! Thật vô ngã!’ Khi những vết phồng, vết phỏng trên thân thể nổi lên hoặc khi người ta bị gai đâm thì người ta nói: ‘Ôi chao! Thật khổ!’ Nhưng người ta không nói: ‘Ôi chao! Thật vô ngã!’ Tại sao? Bởi vì đặc tính vô ngã đó quả thật không rõ ràng, khó thấy, khó được làm cho biết. Do đó, Đức Thế Tôn trình bày điều đó (tính vô ngã) thông qua tính vô thường, tính khổ hay cả 2 tính đó. Và trong 3 vòng tròn này(i), điều đó (tính vô ngã) được trình bày thông qua chính tính vô thường và tính khổ. Chính phương pháp (giải thích) đó cũng (nên được áp dụng) đối với thọ vân vân. 

—–

(i) Tức 3 đặc tính: vô thường, khổ, vô ngã được thuyết trong bài kinh này.

32

♦ tasmā tiha, bhikkhaveti, 

bhikkhave, yasmā etarahi aññadāpi rūpaṃ aniccaṃ dukkhaṃ anattā, tasmāti attho. yaṃ kiñci rūpantiādīni 

visuddhimagge khandhaniddese vitthāritāneva.

[Do đó, ở đây, này các Tỳ Kheo!], tức: ‘Này các Tỳ Kheo! Bởi vì bây giờ và cả lúc khác, sắc thì vô thường, khổ, vô ngã. Do đó…’ Ý nghĩa là như vậy. [Bất kỳ sắc nào] vân vân đã được giảng giải xong trong phần Khandhaniddesa thuộc bộ [Thanh Tịnh Đạo – Visuddhimagga].

33

♦ 245. nibbindatīti ukkaṇṭhati. ettha ca nibbidāti vuṭṭhānagāminī vipassanā adhippetā. vuṭṭhānagāminīvipassanāya hi bahūni nāmāni. esā hi katthaci saññagganti vuttā. Katthaci dhammaṭṭhitiñāṇanti. Katthaci pārisuddhipadhāniyaṅganti. Katthaci paṭipadāñāṇadassanavisuddhīti. Katthaci tammayatāpariyādānanti. katthaci tīhi nāmehi. Katthaci dvīhīti.

[(Người ta) nhàm chán – nibbindati], tức: [(người ta) không thoả mãn – ukkaṇṭhati]. Và ở đoạn kinh đó, [sự nhàm chán – nibbidā] được hàm ý là [Tuệ Vipassanā dẫn đến sự khởi lên – vuṭṭhānagāminī vipassanā]. Quả thật, có nhiều tên gọi cho Tuệ Vipassanā dẫn đến sự khởi lên. Bởi vì có nơi nó được gọi là [Hậu Tưởng Trí – Saññagga]. Có nơi nó được gọi là [Pháp Trụ Trí – Dhammaṭṭhitiñāṇa]. Có nơi nó được gọi là [Yếu tố nỗ lực viên tịnh – Pārisuddhipadhāniyaṅga]. Có nơi nó được gọi là [Sự thanh tịnh Tri Kiến thực hành – Paṭipadāñāṇadassanavisuddhi]. Có nơi nó được gọi là [Sự nắm bắt cái tạo tác – Tammayatāpariyādāna]. Có nơi nó được gọi bằng 3 tên. Có nơi nó được gọi bằng 2 tên.

34

♦ tattha poṭṭhapādasutte tāva “saññā kho, poṭṭhapāda, paṭhamaṃ uppajjati, pacchā ñāṇan”ti (dī. ni. 1.416) evaṃ saññagganti vuttā. Susimasutte “pubbe kho, susima, dhammaṭṭhitiñāṇaṃ, pacchā nibbāne ñāṇan”ti (saṃ. ni. 2.70) evaṃ dhammaṭṭhitiñāṇanti vuttā. Dasuttarasutte “paṭipadāñāṇadassanavisuddhipadhāniyaṅgan”ti (dī. ni. 3.359) evaṃpārisuddhipadāniyaṅganti vuttā. rathavinīte “kiṃ nu kho, āvuso, paṭipadāñāṇadassanavisuddhatthaṃ bhagavati 

brahmacariyaṃ vussatī”ti (ma. ni. 1.257) evaṃ paṭipadāñāṇadassanavisuddhītivuttā. saḷāyatanavibhaṅge “atammayataṃ, bhikkhave, nissāya atammayataṃ āgamma yāyaṃ upekkhā 

nānattā nānattasitā, taṃ 

abhinivajjetvā yāyaṃ upekkhā ekattā ekattasitā, taṃ nissāya taṃ āgamma evametissā pahānaṃ hoti, evametissā 

samatikkamo hotī”ti (dī. ni. 3.310) evaṃ tammayatāpariyādānanti vuttā. paṭisambhidāmagge 

“yā ca muñcitukamyatā, yā ca paṭisaṅkhānupassanā, yā 

ca saṅkhārupekkhā, ime dhammā ekatthā byañjanameva nānan”ti (paṭi. ma. 1.54) evaṃ tīhi nāmehi vuttā. paṭṭhāne “anulomaṃ gotrabhussa anantarapaccayena paccayo, anulomaṃ vodānassa anantarapaccayena paccayo”ti (paṭṭhā. 1.1.417) evaṃ dvīhi nāmehi vuttā. imasmiṃ pana alagaddasutte nibbindatīti nibbidānāmena āgatā.

Trong chủ đề này, như trong bài kinh Poṭṭhapādasutta: ‘Này Poṭṭhapāda! Tưởng sinh lên trước tiên; sau đó, Trí (sinh lên).’ (dī. ni. 1.416). [Hậu Tưởng (Trí) – saññagga] được nói như vậy. Trong bài kinh Susimasutta, [Pháp Trụ Trí – dhammaṭṭhitiñāṇa] đã được nói rằng: ‘Này Susima! Quả thật, Pháp Trụ Trí sinh lên trước; sau đó, Trí về Niết Bàn sinh lên.’ (saṃ. ni. 2.70). Trong bài kinh Dasuttarasutta, [Yếu tố nỗ lực viên tịnh – pārisuddhipadāniyaṅga] đã được nói là: ‘Yếu tố nỗ lực thanh tịnh Tri Kiến thực hành.’ (dī. ni. 3.359). Trong bài kinh Rathavinīta, [Sự thanh tịnh Tri Kiến thực hành – paṭipadāñāṇadassanavisuddhi] đã được nói rằng: ‘Này ông! Phải chăng Phạm Hạnh dưới trướng Đức Thế Tôn đã được sống vì mục đích là sự thanh tịnh Tri Kiến thực hành?’ (ma. ni. 1.257). Trong bộ Saḷāyatanavibhaṅga, [sự nắm bắt cái tạo tác – tammayatāpariyādāna(i)] đã được nói rằng: ‘Này các Tỳ Kheo! Dựa trên cái không tạo tác(ii), dựa vào cái không tạo tác, cái nào là Xả đa dạng, dựa trên tính đa dạng; thì sau khi tránh cái đó, cái nào là Xả đơn nhất, dựa trên tính đơn nhất; thì dựa trên Xả đó, dựa vào Xả đó, có sự từ bỏ Xả kia (Xả đa dạng) như vậy, có sự vượt qua Xả kia (Xả đa dạng) như vậy.’ (dī. ni. 3.310). Trong bộ Paṭisambhidāmagga, (Tuệ Vipassanā dẫn đến sự khởi lên) đã được nói với 3 tên gọi rằng: ‘Cái nào là mong muốn giải thoát, cái nào là sự quán sát, cái nào là Hành Xả; thì những pháp đó tuy đa dạng về mặt tiếng gọi nhưng chỉ một về mặt ý nghĩa.’ (paṭi. ma. 1.54). Trong bộ Paṭṭhāna, (Tuệ Vipassanā dẫn đến sự khởi lên) đã được nói với 2 tên gọi rằng: ‘Tâm thuận thứ là duyên – theo loại là vô gián duyên – cho tâm chuyển tộc. Tâm thuận thứ là duyên – theo loại là vô gián duyên – cho tâm chỉ tịnh.’ (paṭṭhā. 1.1.417). Tuy nhiên, trong bài kinh Alagaddasutta này, (cụm từ) ‘(người ta) nhàm chán’ xuất hiện với danh từ [sự nhàm chán – nibbidā]. 

—–

 

(i) Theo Sớ Giải, [cái tạo tác – tammayatā] là một tên gọi của [tham ái – taṇhā].  

 

(ii) Theo Sớ Giải, [cái không tạo tác – atammayatā] là Tuệ Vipassanā dẫn tới sự khởi lên.

35

♦ nibbidā virajjatīti ettha virāgoti maggo virāgā vimuccatīti ettha virāgena maggena vimuccatīti phalaṃ kathitaṃ. vimuttasmiṃ vimuttamiti ñāṇaṃ hotīti idha 

paccavekkhaṇā kathitā.

[Nhờ sự nhàm chán, (người ta) ly tham – nibbidā virajjati], ở đây, [sự ly tham – virāga], tức: [Đạo – magga]. [Nhờ sự ly tham, (người ta) giải thoát – virāgā vimuccati], ở đây, (người ta) giải thoát nhờ sự ly tham – tức Đạo. Quả đã được nói như vậy. [Khi (người ta) đã giải thoát, Trí tồn tại rằng ‘Đã giải thoát’ – vimuttasmiṃ vimuttamiti ñāṇaṃ hoti], tức: ở đây, sự [quán xét – paccavekkhaṇā] đã được nói.  

36

♦ evaṃ vimuttacittaṃ mahākhīṇāsavaṃ dassetvā idāni tassa yathābhūtehi pañcahi kāraṇehi nāmaṃ gaṇhanto ayaṃ vuccati, bhikkhavetiādimāha. Avijjāti vaṭṭamūlikā avijjā. Ayañhi durukkhipanaṭṭhena palighoti vuccati. Tenesa tassa ukkhittattā ukkhittapalighoti vutto. Tālāvatthukatāti sīsacchinnatālo viya katā, samūlaṃ vā tālaṃ uddharitvā tālassa vatthu viya katā, yathā tasmiṃ vatthusmiṃ puna so tālo na paññāyati, evaṃ puna apaññattibhāvaṃ nītāti attho. Ponobbhavikoti punabbhavadāyako. jātisaṃsārotiādīsu jāyanavasena ceva saṃsaraṇavasena ca evaṃ laddhanāmānaṃ punabbhavakhandhānaṃ paccayo kammābhisaṅkhāro. so hi punappunaṃ uppattikaraṇavasena parikkhipitvā ṭhitattā parikkhāti vuccati, tenesa tassā saṃkiṇṇattā vikiṇṇattā saṃkiṇṇaparikkhoti vutto. taṇhāti vaṭṭamūlikā taṇhā. Ayañhi gambhīrānugataṭṭhena esikāti vuccati. tenesa tassā abbūḷhattā luñcitvā chaḍḍitattā abbūḷhesikoti vutto. Orambhāgiyānīti oraṃ bhajanakāni kāmabhave upapattipaccayāni. etāni hi kavāṭaṃ viya nagaradvāraṃ cittaṃ pidahitvā ṭhitattā aggaḷāti vuccanti. Tenesa tesaṃ nirākatattā bhinnattā niraggaḷoti vutto. Ariyoti nikkileso parisuddho. Pannaddhajoti patitamānaddhajo. Pannabhāroti khandhabhārakilesabhārābhisaṅkhārabhārapañcakāmaguṇabhārā pannā orohitā assāti pannabhāro. apica idha mānabhārasseva oropitattā pannabhāroti adhippeto. visaṃyuttoti catūhi yogehi sabbakilesehi ca visaṃyutto. idha pana mānasaṃyogeneva visaṃyuttattā visaṃyuttoti adhippeto. asmimānoti rūpe asmīti māno, vedanāya… saññāya… saṅkhāresu… viññāṇe asmīti māno.

Sau khi trình bày về bậc Đại Lậu Tận(i) có tâm giải thoát như vậy; giờ đây, (Đức Phật) đã nói: ‘Này các Tỳ Kheo! Điều đó được gọi là…’ vân vân nhằm nắm bắt tên gọi của bậc ấy dựa vào 5 cơ sở theo thực tính. [Vô minh – avijjā], tức: vô minh – vốn là gốc cho vòng luân hồi. Quả thật, cái đó (vô minh) được gọi là [thanh sắt – paligha] với ý nghĩa là khó bứng lên(ii). Do đó, bậc (lậu tận) đó được gọi là ‘bậc đã bứng lên thanh sắt’ do trạng thái đã bứng thanh sắt đó. [Bị khiến trở thành như gốc cọ – tālāvatthukata], tức: bị khiến trở thành như cây cọ đã bị chặt phần thân. Hoặc bị khiến trở thành như phần gốc của cây cọ đã bị bứng luôn cả rễ. Giống như cây cọ đó không xuất hiện trở lại ở phần gốc đó; cũng vậy, (vô minh) bị dẫn đến trạng thái không xuất hiện trở lại. Ý nghĩa là như vậy. [Tái hữu – ponobbhavika], tức: gây ra sự tái hữu. Ở cụm từ [luân hồi tái sinh – jātisaṃsāra] vân vân; sự tích luỹ nghiệp về mặt tái sinh hay luân hồi là duyên cho các uẩn tái hữu, (các uẩn đó) có tên gọi được đặt như thế. Quả thật, sau khi (sự tích luỹ) đó với phương diện là gây ra sự sinh hết lần này đến lần khác bị xoá bỏ; thì trạng thái (lúc đó) được gọi là ‘cạn kiệt – parikkhā. Do đó, (bậc lậu tận) đó được gọi là ‘bậc cạn kiệt hoàn toàn’ do trạng thái trọn vẹn, trạng thái đầy đủ của (sự cạn kiệt) đó. [Tham ái – taṇhā], tức: tham ái – vốn là gốc cho vòng luân hồi. Quả thật, nó được gọi là ‘cái trụ’ với ý nghĩa là ngập sâu (vào lòng đất). Do đó, (bậc lậu tận) đó được gọi là ‘bậc đã rút cái trụ’ do vị ấy đã rút lên, bứng lên, nhổ bỏ (cái trụ) đó. [Các hạ phần – orambhāgiyāni], tức: các thành tố thấp kém – vốn là các duyên cho việc sinh lên ở cõi dục. Quả thật, chúng được gọi là ‘các thanh chắn’ do chúng đóng chặn tâm giống như cái chốt cửa (đóng chặn) cái cổng thành. Do đó, (bậc lậu tận) đó được gọi là ‘bậc không còn thanh chắn’ do vị ấy đã tháo rút, đã phá vỡ (các thanh chắn) đó. [Bậc thánh – ariya], tức: bậc không còn phiền não, bậc thanh tịnh. [Có lá cờ đã hạ – pannaddhaja], tức: đã hạ lá cờ ngã mạn. [Có gánh nặng đã hạ – pannabhāra], tức: gánh nặng 5 loại dục, gánh nặng tích luỹ (nghiệp), gánh nặng phiền não và gánh nặng các uẩn đã hạ xuống, đã nằm xuống. Và hơn nữa, ở đây, [có gánh nặng đã hạ – pannabhāra] được hàm ý là ‘có gánh nặng đã hạ’ do việc chính gánh nặng ngã mạn đã hạ xuống. [Không còn ràng buộc – visaṃyutta], tức: không còn ràng buộc bởi mọi phiền não, 4 sự trói buộc. Nhưng ở đây, (cụm từ này) được hàm ý là ‘không còn ràng buộc’ với ý nghĩa là không còn ràng buộc bởi chính sự trói buộc ngã mạn. [Ngã mạn ‘(ta) tồn tại’ – asmimāna], tức: ngã mạn rằng ‘(ta) tồn tại trong sắc’; ngã mạn rằng ‘(ta) tồn tại trong thọ’; ngã mạn rằng ‘(ta) tồn tại trong tưởng’; ngã mạn rằng ‘(ta) tồn tại trong hành’; ngã mạn rằng ‘(ta) tồn tại trong thức’.

—–

(i) Tức vị A La Hán nào đó, không nhất thiết là Đức Phật.

(ii) [Thanh sắt – paligha] là hình ảnh ẩn dụ cho chướng ngại. Có thể hiểu thanh sắt với sức nặng được ghim chặt xuống đất hay lắp vào các công trình nào đó thì khó bứng gỡ.

37

♦ ettāvatā bhagavatā maggena kilese khepetvā nirodhasayanavaragatassa nibbānārammaṇaṃ phalasamāpattiṃ appetvā viharato khīṇāsavassa kālo

dassito. yathā hi dve nagarāni ekaṃ coranagaraṃ, ekaṃ khemanagaraṃ. Atha ekassa mahāyodhassa evaṃ bhaveyya — “yāvimaṃ coranagaraṃ tiṭṭhati, tāva khemanagaraṃ bhayato na muccati, coranagaraṃ anagaraṃ karissāmī”ti sannāhaṃ katvā khaggaṃ gahetvā coranagaraṃ upasaṅkamitvā nagaradvāre ussāpite esikatthambhe khaggena chinditvā sadvārabāhakaṃ kavāṭaṃ chinditvā palighaṃ ukkhipitvā pākāraṃ bhindanto parikkhaṃ saṃkiritvā nagarasobhanatthāya ussite dhaje pātetvā nagaraṃ agginā jhāpetvā khemanagaraṃ pavisitvā pāsādaṃ abhiruyha

ñātigaṇaparivuto surasabhojanaṃ bhuñjeyya, evaṃ coranagaraṃ viya sakkāyo, khemanagaraṃ viya nibbānaṃ, mahāyodho viya yogāvacaro. tassevaṃ hoti, “yāva sakkāyavaṭṭaṃ vattati, tāva dvattiṃsakammakāraṇāṭṭhanavutirogapañcavīsatimahābhayehi parimuccanaṃ natthī”ti. So mahāyodho viya sannāhaṃ sīlasannāhaṃ katvā, paññākhaggaṃ gahetvā khaggena esikatthambhe viya arahattamaggena taṇhesikaṃ luñcitvā, so yodho sadvārabāhakaṃ nagarakavāṭaṃ viya pañcorambhāgiyasaṃyojanaggaḷaṃ ugghāṭetvā, so yodho palighaṃ 

viya, avijjāpalighaṃ ukkhipitvā, so yodho pākāraṃ bhindanto parikkhaṃ viya kammābhisaṅkhāraṃ bhindanto jātisaṃsāraparikkhaṃ saṃkiritvā, so yodho nagarasobhanatthāya ussāpite dhaje viya mānaddhaje pātetvā sakkāyanagaraṃ jhāpetvā, so yodho khemanagare upari pāsāde surasabhojanaṃ viya kilesanibbānaṃ nagaraṃ pavisitvā amatanirodhārammaṇaṃ phalasamāpattisukhaṃ anubhavamāno kālaṃ vītināmeti.

Trong chừng mực đó, Đức Thế Tôn đã trình bày khoảng thời gian bậc Lậu Tận đạt đến chỗ nghỉ ngơi tối thượng – tức sự Diệt – bằng cách triệt bỏ các phiền não thông qua Đạo; (bậc Lậu Tận) sống mà thể nhập Thiền Quả có đối tượng là Niết Bàn. Quả thật, giống như 2 thành luỹ – một thành luỹ của bọn cướp, một thành luỹ an ổn. Thế rồi, một tinh binh(i) có (ý nghĩ) rằng: ‘Chừng nào thành luỹ của bọn cướp này tồn tại; thì chừng đó, thành luỹ an ổn chưa thoát khỏi nỗi sợ hãi. Ta sẽ khiến cho thành luỹ của bọn cướp không còn là thành luỹ.’ (Người đó) mặc giáp; lấy kiếm; đi đến thành luỹ của bọn cướp; khi cổng thành được kéo lên, (người đó) chặt các cột trụ bằng cây kiếm; chặt cửa cùng với trụ cửa; bứng thanh sắt lên; san lấp các con hào bằng cách phá vỡ tường thành(ii); kéo xuống các lá cờ được dựng lên nhằm mục đích tô điểm tòa thành; đốt toà thành đó bằng lửa; (người đó) đi vào thành luỹ an ổn; đi lên tòa lâu đài; rồi được tháp tùng bởi đám đông thân quyến, người đó có thể ăn vật thực có vị ngon lành. Cũng vậy, Thân Kiến thì giống như thành lũy của bọn cướp; Niết Bàn thì giống như thành lũy an ổn; hành giả thì giống như người tinh binh. Vị (hành giả) đó có (ý nghĩ) như vầy: ‘Khi nào vòng tròn Thân Kiến còn diễn tiến; thì khi đó, không có sự giải thoát khỏi 25 nỗi sợ hãi lớn lao, 98 căn bệnh và 32 hình phạt. (Vị hành giả) mặc giáp là Giới giống như tinh binh ấy mặc giáp; lấy thanh kiếm Trí Tuệ; bứng cây trụ Tham Ái lên bằng A La Hán Đạo giống như (tinh binh) bứng các cột trụ lên bằng thanh kiếm; rút thanh chắn là 5 Sự Trói Buộc Hạ Phần giống như người lính ấy phá huỷ cửa thành luỹ cùng với trụ cửa; bứng thanh sắt Vô Minh lên giống như người lính ấy bứng thanh sắt lên; san lấp các con hào là Luân Hồi Tái Sinh bằng cách phá vỡ sự tích luỹ Nghiệp giống như người lính ấy san lấp các con hào bằng cách phá vỡ tường thành; kéo xuống các lá cờ Ngã Mạn giống như người lính ấy kéo xuống các lá cờ được dựng lên nhằm mục đích tô điểm toà thành; đốt cháy thành luỹ Thân Kiến; đi vào thành luỹ là Niết Bàn (thoát khỏi) các phiền não rồi trải qua thời gian thụ hưởng lạc từ Thiền Quả có đối tượng là Sự Diệt – tức Sự Bất Tử – giống như người lính ấy đi vào thành luỹ an ổn, đi lên toà lâu đài rồi ăn vật thực có vị ngon lành.

—–

(i) Tức người lính giỏi, người lính tinh nhuệ [mahāyodha].

(ii) Thời xưa, xây thành chống giặc, người ta đào các con hào xung quanh chân thành để ngăn giặc tiếp cận tường thành. Khi đập vỡ tường thành, thì gạch đá sẽ đổ xuống chính các con hào đó và san lấp chúng.

38

♦ 246. idāni evaṃ vimuttacittassa khīṇāsavassa parehi anadhigamanīyaviññāṇataṃ dassento evaṃ vimuttacittaṃ khotiādimāha. tattha anvesanti 

anvesantā gavesantā. idaṃ nissitanti idaṃ nāma 

nissitaṃ. tathāgatassāti ettha 

sattopi tathāgatoti adhippeto, 

uttamapuggalo khīṇāsavopi. ananuvijjoti asaṃvijjamāno vā avindeyyo vā. tathāgatoti hi satte 

gahite asaṃvijjamānoti attho 

vaṭṭati, khīṇāsave gahite 

avindeyyoti attho vaṭṭati.

Giờ đây, Đức Phật đã nói ‘Quả thật, (vị Tỳ Kheo) có tâm giải thoát như vậy’ vân vân nhằm trình bày trạng thái của Thức không thể được đạt đến(i) bởi những chúng sinh khác, (trạng thái của Thức đó) thuộc về bậc Lậu Tận có tâm giải thoát như vậy. Ở đoạn kinh đó, [trong khi truy tìm – anvesaṃ], tức: [trong khi truy tìm – anvesantā], [trong khi tìm kiếm – gavesantā]. [Dựa vào điều này – idaṃ nissitaṃ], tức: dựa vào chính điều này. [(Thức) của như lai – tathāgatassa], ở đoạn kinh đó, [như lai – tathāgata] được hàm ý là chúng sinh hoặc bậc Lậu Tận – tức tối thượng nhân. [Không được biết đến – ananuvijja], tức: [không tồn tại – asaṃvijjamāna] hoặc [không thể được tìm thấy – avindeyya]. Quả thật, khi bàn về chúng sinh, thì ‘Như Lai’ có ý nghĩa phù hợp là ‘không tồn tại’; khi bàn về bậc Lậu Tận, thì ‘Như Lai’ có ý nghĩa phù hợp là ‘(người) không thể được tìm thấy.’

—–

(i) [Không thể được đạt đến – anadhigamanīya], tức: các chúng sinh khác không hiểu được, không truy dấu vết được.

39

♦ tattha purimanaye 

ayamadhippāyo — bhikkhave, 

ahaṃ diṭṭhevadhamme dharamānakaṃ yeva khīṇāsavaṃ 

tathāgato satto puggaloti na paññapemi. appaṭisandhikaṃ pana parinibbutaṃ khīṇāsavaṃ sattoti 

vā puggaloti vā kiṃ 

paññapessāmi? ananuvijjo 

tathāgato. na hi paramatthato satto nāma koci 

atthi, tassa avijjamānassa idaṃ 

nissitaṃ viññāṇanti anvesantāpi 

kiṃ adhigacchissanti? kathaṃ paṭilabhissantīti attho. dutiyanaye ayamadhippāyo — 

bhikkhave, ahaṃ diṭṭhevadhamme dharamānakaṃyeva khīṇāsavaṃ viññāṇavasena indādīhi avindiyaṃ vadāmi. na hi saindā 

devā sabrahmakā sapajāpatikā anvesantāpi khīṇāsavassa 

vipassanācittaṃ vā maggacittaṃ 

vā phalacittaṃ vā, idaṃ nāma 

ārammaṇaṃ nissāya vattatīti jānituṃ sakkonti. te 

appaṭisandhikassa 

parinibbutassa kiṃ jānissantīti?

Trong chủ đề này, ở thể thức đầu, điều này là hàm ý: ‘Này các Tỳ Kheo! Ta không tuyên bố bậc Lậu Tận vẫn còn đang sống ngay trong hiện tại là ‘Như Lai’, ‘chúng sinh’, ‘người’; nhưng ta sẽ tuyên bố bậc Lậu Tận đã viên tịch, vô sinh là ‘chúng sinh’ hay ‘người’ chăng? Như Lai thì [không được biết đến – ananuvijja]. Quả thật, theo ý nghĩa tối thượng thì chẳng tồn tại bất kỳ chúng sinh nào. Khi (chúng sinh) ấy chẳng tồn tại; thì dẫu truy tìm, làm sao họ (các vị trời) có thể đạt được (kết luận) rằng: ‘Thức (của chúng sinh ấy) thì dựa vào cái đó’? Làm sao họ (các vị trời) có thể có được (kết luận đó)?’ Ý nghĩa là như vậy. Ở thể thức thứ 2, điều này là hàm ý: ‘Này các Tỳ Kheo! Ta nói bậc Lậu Tận vẫn còn đang sống ngay trong hiện tại là ‘không thể được tìm thấy’ về phương diện Thức(i) bởi Inda vân vân. Bởi vì các vị trời cùng với Inda, Phạm Thiên, Pajāpati dẫu truy tìm cũng không thể biết được: ‘Tâm Vipassanā hay Tâm Đạo hay Tâm Quả của bậc Lậu Tận diễn tiến dựa vào đối tượng đó’. Họ có thể biết được điều gì về bậc Lậu Tận đã viên tịch, vô sinh?’(ii)

—–

(i) Tức cái cụ thể không thể được tìm thấy ở đây là Thức.

(ii) Tức lúc bậc Lậu Tận còn sống, các vị trời đã không biết được về Thức của ngài, thì khi ngài viên tịch rồi, họ lại càng không thể biết gì về ngài.

40

♦ asatāti asantena. tucchāti 

tucchakena. musāti musāvādena. abhūtenāti yaṃ natthi, tena. abbhācikkhantīti abhiācikkhanti,abhibhavitvā vadanti. venayikoti vinayati vināsetīti vinayo, so eva venayiko, sattavināsakoti 

adhippāyo. yathā cāhaṃ na, 

bhikkhaveti, bhikkhave, yena vā kārena ahaṃ na sattavināsako. yathā cāhaṃ na vadāmīti yena vā kāraṇena ahaṃ sattavināsaṃ na 

paññapemi. idaṃ vuttaṃ hoti — yathāhaṃ na 

sattavināsako, yathā ca na 

sattavināsaṃ paññapemi, tathā 

maṃ te bhonto samaṇabrāhmaṇā “venayiko samaṇo gotamo”ti vadantā sattavināsako 

samaṇo gotamoti ca, “sato sattassa ucchedaṃ vināsaṃ 

vibhavaṃ 

paññapetī”ti vadantā sattavināsaṃ paññapetīti ca asatā tucchā 

musā abhūtena abbhācikkhantīti.

[(Một cách) không đúng thực – asatā], tức: [(một cách) không có thực – asantena]. [Một cách sai dối – musā], tức: bằng lời nói dối. [Bằng điều không thực – abhūtena], tức: bằng điều không tồn tại. [(Họ) xuyên tạc – abbhācikkhanti], tức: [(họ) xuyên tạc – abhiācikkhanti], [(họ) nói theo lối lấn lướt – abhibhavitvā vadanti]. [(Người) đoạn diệt – venayika]; [(người) phá huỷ – vinaya], tức: (người ấy) phá huỷ, huỷ diệt. Chính người ấy là [(người) đoạn diệt – venayika]; hàm ý là ‘người (có chủ trương) huỷ diệt chúng sinh.’ [Này các Tỳ Kheo! Dựa theo (những gì) ta không (nói)], tức: này các Tỳ Kheo! Dựa theo cơ sở nào ta không phải là người (có chủ trương) huỷ diệt chúng sinh. [Dựa theo (những gì) ta không nói], tức: dựa theo cơ sở nào ta không tuyên bố sự huỷ diệt chúng sinh. Điều này đã được nói (bởi Đức Phật): ‘Theo như việc: ta không phải là người huỷ diệt chúng sinh, theo như việc: ta không tuyên bố sự huỷ diệt chúng sinh; thì các tôn giả Sa Môn, Bà La Môn ấy xuyên tạc ta về việc ấy một cách không đúng thực, một cách rỗng tuếch, một cách sai dối, bằng điều không thực khi nói rằng: ‘Sa Môn Gotama là người đoạn diệt’, ‘Sa Môn Gotama là người (có chủ trương) huỷ diệt chúng sinh’ và nói rằng: ‘Sa Môn Gotama tuyên bố sự phá huỷ, sự huỷ diệt, sự mất đi của chúng sinh đang tồn tại’, ‘Sa Môn Gotama tuyên bố sự huỷ diệt chúng sinh’.’  

41

♦ pubbe cāti pubbe 

mahābodhimaṇḍamhiyeva ca. etarahi cāti etarahi dhammadesanāyañca. dukkhañceva paññapemi, 

dukkhassa ca nirodhanti 

dhammacakkaṃ appavattetvā bodhimaṇḍe viharantopi dhammacakkappavattanato 

paṭṭhāya dhammaṃ desentopi catusaccameva paññapemīti attho. ettha hi dukkhaggahaṇena tassa mūlabhūto samudayo, 

nirodhaggahaṇena taṃsampāpako maggo gahitova hotīti veditabbo. tatra ceti tasmiṃ 

catusaccappakāsane. pareti saccāni ājānituṃ 

paṭivijjhituṃ asamatthapuggalā. Akkosantīti dasahi akkosavatthūhi akkosanti. paribhāsantīti vācāya 

paribhāsanti. rosenti vihesentīti rosessāma 

vihesessāmāti adhippāyena 

ghaṭṭenti dukkhāpenti. tatrāti tesu 

akkosādīsu, tesu vā 

parapuggalesu. Āghātoti kopo. appaccayoti 

domanassaṃ. anabhiraddhīti 

atuṭṭhi.

[Trước đây – pubbe ca], tức: trước đây, ở ngay cội Đại Bồ Đề. [Hiện nay – etarahi ca], tức: hiện nay, trong việc thuyết Pháp. [Ta tuyên bố chính sự khổ và sự diệt khổ], tức: khi ta đang ở tại cội Bồ Đề, chưa chuyển Pháp Luân lẫn khi ta thuyết Pháp bắt đầu từ lúc chuyển Pháp Luân; ta tuyên bố mỗi Tứ Đế. Ý nghĩa là như vậy. Trong chủ đề này, quả thật, thông qua việc nắm bắt Khổ, Nguồn Gốc – tức cội rễ – của nó (của Khổ) cũng được nắm bắt; thông qua việc nắm bắt sự Diệt, Đạo – tức cái dẫn đến nó (sự Diệt) cũng được nắm bắt. (Điều đó) nên được hiểu như vậy. [Nếu trong sự việc này – tatra ce], tức: (nếu) trong việc giảng giải Tứ Đế. [Những người khác – pare], tức: những người không thể biết rõ, không thể thể nhập các Đế. [(Họ) chỉ trích – akkosanti], tức: họ chỉ trích dựa vào 10 chủ đề chỉ trích. [(Họ) chê trách – paribhāsanti], tức: họ chê trách bằng lời. [(Họ) kích động, (họ) quấy nhiễu – rosenti vihesenti], tức: họ gây khổ sở, họ công kích với ý định rằng ‘Chúng ta sẽ kích động, chúng ta sẽ quấy nhiễu.’ [Trong sự việc này – tatra], tức: đối với các việc chỉ trích đó vân vân; hoặc đối với những người đó vân vân. [Tức giận – āghāta], tức: [giận dữ – kopa]. [Bất mãn – appaccaya], tức: [ưu – domanassa]. [Không hài lòng – anabhiraddhi], tức: [không thoả lòng – atuṭṭhi].  

42

♦ tatra ceti catusaccappakāsaneyeva. pareti catusaccappakāsanaṃ ājānituṃ paṭivijjhituṃ 

samatthapuggalā. ānandoti 

ānandapīti. uppilāvitattanti uppilāpanapīti. tatra ceti catusaccappakāsanamhiyeva. tatrāti sakkārādīsu. yaṃ kho 

idaṃ pubbe pariññātanti idaṃ khandhapañcakaṃ pubbe 

bodhimaṇḍe tīhi pariññāhi 

pariññātaṃ. Tatthameti tasmiṃ 

khandhapañcake ime. kiṃ vuttaṃ hoti? tatrāpi tathāgatassa ime 

sakkārā mayi karīyantīti vā ahaṃ ete anubhavāmīti vā na hoti. pubbe pariññātakkhandhapañcakaṃyeva ete sakkāre anubhotīti ettakameva hotīti. tasmāti yasmā saccāni 

paṭivijjhituṃ asamatthā tathāgatampi akkosanti, tasmā. 

sesaṃ vuttanayeneva veditabbaṃ.

[Nếu trong sự việc này – tatra ce], tức: (nếu) trong chính sự giảng giải Tứ Đế. [Những người khác – pare], tức: những người có thể biết rõ, có thể thể nhập lời giảng giải Tứ Đế. [sự vui thích – ānanda], tức: [sự vui thích, tức hỷ – ānandapīti]. [Sự hào hứng – uppilāvitatta], tức: [sự hào hứng, tức hỷ – uppilāpanapīti]. [Nếu trong sự việc này – tatra ce], tức: (nếu) trong chính sự giảng giải Tứ Đế. [Trong sự việc này – tatra], tức: đối với sự tôn kính vân vân. [Quả thật, cái nào được thấu triệt trước đây], tức: Ngũ Uẩn đó là cái đã được thấu triệt trước đây ở cội Bồ Đề thông qua 3 sự thấu triệt. [Đối với cái đó, (những sự tôn kính) đó (được làm) – tatthame], tức: đối với Ngũ Uẩn đó, (những sự tôn kính) đó (được làm). Điều đã được nói là gì? Dẫu trong hoàn cảnh đó, Đức Như Lai không có (ý nghĩ) rằng: ‘Những sự tôn kính đó được làm đối với ta’ hay ‘Ta đang kinh qua (những sự tôn kính) đó.’ ‘Chính Ngũ Uẩn được thấu triệt trước đây đang kinh qua những sự tôn kính đó’; (Đức Như Lai) chỉ có (suy nghĩ) như thế ấy. [Do đó… – tasmā], tức: bởi vì những người không thể thể nhập các Đế chỉ trích cả Đức Như Lai; cho nên… Phần (nội dung) còn lại nên được hiểu theo chính phương thức đã được nói. 

43

♦ 247. tasmā tihabhikkhave, 

yaṃ na tumhākanti yasmā attaniyepi chandarāgappahānaṃ 

dīgharattaṃ hitāya sukhāya 

saṃvattati, tasmā yaṃ na tumhākaṃ, taṃ pajahathāti attho. Yathā paccayaṃ vā kareyyāti 

yathā yathā iccheyya tathā tathā 

kareyya. na hi no etaṃ, bhante, 

attā vāti, bhante, etaṃ tiṇakaṭṭhasākhāpalāsaṃ 

amhākaṃ neva attā na amhākaṃ 

rūpaṃ na viññāṇanti vadanti. attaniyaṃ vāti 

amhākaṃ cīvarādiparikkhāropi na hotīti attho. Evameva kho, 

bhikkhave, yaṃ na tumhākaṃ 

taṃ pajahathāti bhagavā, khandhapañcakaṃyeva na 

tumhākanti dassetvā pajahāpeti, tañca kho na uppāṭetvā, luñcitvā vā. 

chandarāgavinayena panetaṃ 

pajahāpeti.

[Này các Tỳ Kheo! Do đó, ở đây, cái nào không thuộc về các ông – tasmā tihabhikkhave, 

yaṃ na tumhākaṃ], tức: ‘Bởi vì sự từ bỏ dục tham đối với cả trạng thái cá nhân của chính mình thì dẫn tới lợi lạc, an lạc suốt thời gian dài; cho nên cái nào không thuộc về các ông, thì (các ông) hãy từ bỏ cái đó.’ Ý nghĩa là như vậy. [(Người ấy) có thể làm theo ý thích – yathā paccayaṃ vā kareyya], tức: người ấy muốn thế nào; thì người ấy làm như thế ấy. [Thưa Ngài! Quả thật, cái đó không phải Bản Ngã của chúng con – na hi no etaṃ, bhante, 

attā vā], tức: (các vị Tỳ Kheo ấy) nói rằng: ‘Thưa Ngài! Cỏ, gỗ, cành, lá đó không phải là chính bản ngã của chúng ta, không phải là sắc của chúng ta, không phải là thức của chúng ta.’ [Hoặc cái thuộc về bản ngã – attaniyaṃ vā], tức: ‘các vật dụng như y vân vân cũng không thuộc về chúng ta’. Ý nghĩa là như vậy. [Quả thật cũng như vậy, này các Tỳ Kheo! Cái nào không thuộc về các ông; các ông hãy từ bỏ cái đó – evameva kho, 

bhikkhave, yaṃ na tumhākaṃ 

taṃ pajahatha], tức: Đức Thế Tôn trình bày rằng: ‘Chính Ngũ Uẩn không thuộc về các ông’ rồi khiến (các Tỳ Kheo) từ bỏ (chúng); hoặc quả thật, nếu họ (các Tỳ Kheo) chưa bứng nó lên, rút nó lên, thì Ngài khiến họ từ bỏ nó bằng cách loại trừ dục tham.

44

♦ 248. evaṃ svākkhātoti ettha 

tiparivaṭṭato paṭṭhāya yāva imaṃ 

ṭhānaṃ āharitumpi vaṭṭati, paṭilomena pemamattakena 

saggaparāyaṇato paṭṭhāya yāva imaṃ ṭhānaṃ āharitumpi vaṭṭati. svākkhātoti sukathito. 

sukathitattā eva uttāno vivaṭo 

pakāsito. chinnapilotikoti 

pilotikā vuccati chinnaṃ bhinnaṃ tattha tattha sibbitaṃ gaṇṭhikataṃ 

jiṇṇaṃ vatthaṃ, taṃ yassa natthi, aṭṭhahatthaṃ vā navahatthaṃ vā 

ahatasāṭakaṃ nivattho, so 

chinnapilotiko nāma. ayampi dhammo tādiso, na hettha 

kohaññādivasena chinnabhinnasibbitagaṇṭhikatabhāvo atthi. apica 

kacavaro pilotikoti vuccati. imasmiñca sāsane 

samaṇakacavaraṃ nāma 

patiṭṭhātuṃ na labhati. tenevāha —

[Được khéo thuyết như vậy – evaṃ svākkhāto], tức: trong chủ đề này, điều phù hợp là tụng đọc bắt đầu từ Tam Luân cho tới chỗ này. Và điều phù hợp là tụng đọc nghịch chiều trong phạm vi (chủ đề) kính yêu bắt đầu từ đích đến cõi trời cho tới chỗ này. [Được khéo thuyết – svākkhāto], tức: được khéo nói. (Giáo Pháp) được tuyên thuyết, được khai mở, được trình bày theo lối hoàn toàn khéo nói. [Không có miếng vá – chinnapilotika], tức: miếng vải cũ, trở thành một nùi, được khâu vào chỗ này chỗ kia – tức chỗ rách, chỗ bị đứt – được gọi là [miếng vá – pilotikā]. (Miếng vải/tấm áo) nào không có (miếng vá) đó thì cái đó được gọi là (miếng vải/tấm áo) không có miếng vá – chẳng hạn: người mặc tấm áo choàng mới có kích thước 8 hattha hay 9 hattha. Pháp này cũng như thế; bởi ở đây (ở trong Pháp) không có trạng thái rách, bị đứt, được khâu, trở thành một nùi hiểu theo nghĩa là sự lừa dối vân vân. Ngoài ra, quần áo cũ được gọi là miếng vá. Và trong Giáo Lý này, các sa môn nào giống như quần áo cũ không thể trụ vững. Chính do đó, (Đức Phật) đã nói:

45

“kāraṇḍavaṃ niddhamatha, 

kasambuñcāpakassatha. tato palāpe vāhetha, assamaṇe 

samaṇamānine. niddhamitvāna pāpicche, pāpā acāragocare. suddhā suddhehi saṃvāsaṃ, 

kappayavho patissatā. tato samaggā nipakā, 

dukkhassantaṃ karissathā”ti. (su. ni. 283-285).

Các ông hãy thổi bay trấu; và hãy ném bỏ rác rưởi. Kế đó, các ông hãy mang trấu đi – tức (mang đi) những kẻ không phải sa môn mà tự hào (mình) là sa môn. Sau khi thổi bay các kẻ có ác ý, có phạm vi (hoạt động) ác; các ông – những người trong sạch, có niệm – hãy sắp xếp chỗ cộng trú với những người trong sạch. Từ đó, các ông – trong trạng thái hoà hợp, có trí – có thể làm chấm dứt Khổ. (su. ni. 283-285)   

46

♦ iti samaṇakacavarassa chinnattāpi ayaṃ dhammo chinnapilotiko nāma hoti. vaṭṭaṃ tesaṃ natthi 

paññāpanāyāti tesaṃ vaṭṭaṃ 

apaññattibhāvaṃ gataṃ nippaññattikaṃ jātaṃ. evarūpo 

mahākhīṇāsavo evaṃ svākkhāte 

sāsaneyeva uppajjati. yathā ca 

khīṇāsavo, evaṃ anāgāmiādayopi.

Như vậy, Pháp này cũng [được gọi là không có miếng vá – chinnapilotiko nāma] do trạng thái tuyệt đứt hạng sa môn giống như quần áo cũ. [Đối với các vị đó, không có vòng luân hồi để tuyên bố – vaṭṭaṃ tesa natthi 

paññāpanāya], tức: đối với các vị đó, vòng luân hồi đã đi đến trạng thái không hiển hiện; trở nên không hiển hiện. Bậc Đại Lậu Tận như thế sinh lên trong chính Giáo Lý được khéo thuyết như vậy. Và giống như bậc Lậu Tận, bậc Bất Lai vân vân cũng như vậy.

47

♦ tattha dhammānusārino 

saddhānusārinoti ime dve 

sotāpattimaggaṭṭhā honti. yathāha — “katamo ca 

puggalo dhammānusārī? yassa 

puggalassa sotāpattiphalasacchikiriyāya 

paṭipannassa paññindriyaṃ 

adhimattaṃ hoti, paññāvāhiṃ paññāpubbaṅgamaṃ ariyamaggaṃ 

bhāveti. ayaṃ vuccati 

puggalo dhammānusārī. 

sotāpattiphalasacchikiriyāya 

paṭipanno puggalo dhammānusārī,phale ṭhito diṭṭhippatto. katamo ca puggalo saddhānusārī? yassa 

puggalassa sotāpattiphalasacchikiriyāya 

paṭipannassa saddhindriyaṃ 

adhimattaṃ hoti, saddhāvāhiṃ 

saddhāpubbaṅgamaṃ 

ariyamaggaṃ bhāveti. ayaṃ vuccati puggalo saddhānusārī. sotāpattiphalasacchikiriyāya 

paṭipanno puggalo saddhānusārī, phale ṭhito 

saddhāvimutto”ti (pu. pa. 30). yesaṃ mayi saddhāmattaṃ pemamattanti iminā yesaṃ añño ariyadhammo 

natthi, tathāgate pana saddhāmattaṃ 

pemamattameva hoti. te 

vipassakapuggalā adhippetā. vipassakabhikkhūnañhi evaṃ vipassanaṃ paṭṭhapetvā 

nisinnānaṃ dasabale ekā saddhā ekaṃ pemaṃ uppajjati. tāya saddhāya tena 

pemena hatthe gahetvā sagge ṭhapitā viya honti, 

niyatagatikā kira ete. porāṇakattherā pana evarūpaṃ bhikkhuṃ 

cūḷasotāpannoti vadanti. sesaṃ 

sabbattha uttānatthamevāti.

papañcasūdaniyā 

majjhimanikāyaṭṭhakathāya

alagaddūpamasuttavaṇṇanā 

niṭṭhitā.

Ở đoạn kinh đó, [Pháp Thuận Hành, Tín Thuận Hành – dhammānusārino 

saddhānusārino], tức: 2 hạng người này là những hạng người đứng ở Nhập Lưu Đạo. Giống như (Đức Phật) đã nói: ‘Pháp Thuận Hành Nhân là ai? Người nào thực hành để thực chứng Nhập Lưu Quả mà có Tuệ Căn vượt trội, (vị ấy) phát triển Thánh Đạo có Tuệ là yếu tố đi đầu, có Tuệ là yếu tố nền tảng; thì người đó được gọi là Pháp Thuận Hành Nhân. Pháp Thuận Hành Nhân thực hành để thực chứng Nhập Lưu Quả, vững chắc trong Quả, đạt đến (Chánh) Kiến. Tín Thuận Hành Nhân là ai? Người nào thực hành để thực chứng Nhập Lưu Quả mà có Tín Căn vượt trội, (vị ấy) phát triển Thánh Đạo có Tín là yếu tố đi đầu, có Tín là yếu tố nền tảng; thì người đó được gọi là Tín Thuận Hành Nhân. Tín Thuận Hành Nhân thực hành để thực chứng Nhập Lưu Quả, vững chắc trong Quả, có Tín giải thoát’ (pu. pa. 30). [Những vị nào có thuần đức tin, có thuần sự kính yêu nơi ta – yesaṃ mayi saddhāmattaṃ pemamattaṃ], tức: thông qua cụm từ đó, (ý nghĩa là) những vị nào không có pháp cao thượng khác, mà chỉ có thuần đức tin, thuần sự kính yêu nơi Đức Như Lai. Những vị đó được hàm ý là những người có Tuệ Vipassanā. Bởi vì khi những vị Tỳ Kheo có Tuệ Vipassanā ngồi xuống củng cố Tuệ Vipassanā như vậy, thì chỉ mỗi đức tin và chỉ mỗi sự kính yêu nơi Đấng Thập Lực sinh lên. Nhờ đức tin đó, nhờ sự kính yêu đó; (những vị ấy) giống như được đặt lên cõi trời bằng cách nắm bàn tay lại. Quả thật, họ có sinh xứ xác định. Nhưng các vị trưởng lão thời xưa nói rằng: vị Tỳ Kheo như thế ấy là vị [Tiểu Nhập Lưu – cūḷasotāpanna]. Phần nội dung còn lại có ý nghĩa hoàn toàn rõ ràng về mọi phương diện.

 

Sự giải thích bài kinh Alagaddūpamasutta thuộc bộ Chú Giải Trung Bộ – Papañcasūdanī được hoàn thành.