Kinh số 21 – Giải Thích Kinh Ví Dụ Cái Cưa

(Kakacūpamasuttavaṇṇanā)

STT

Pāḷi

Việt

1

222. evaṃ me sutanti kakacūpamasuttaṃ. tattha moḷiyaphaggunoti moḷīti cūḷā vuccati. yathāha —

♦ “chetvāna moḷiṃ varagandhavāsitaṃ,

♦ vehāyasaṃ ukkhipi sakyapuṅgavo.

♦ ratanacaṅkoṭavarena vāsavo,

♦ sahassanetto sirasā paṭiggahī”ti.

[(Điều đó) được nghe bởi tôi như vầy], chỉ đến bài kinh Kakacūpamasutta (kinh ví dụ về cái cưa). Ở đoạn kinh đó, [moḷiyaphagguna], [búi tóc – moḷi] tức [búi tóc – cūḷā]. Giống như (người ta) đã nói:

‘Cắt đứt búi tóc được thấm mùi hương thượng hạng; bậc Ngưu Nhân(i) dòng Sakya đã ném (nó) lên trời. Vāsava(ii) – bậc Nghìn Mắt(iii) – đã bắt lấy nó bằng cái giỏ (đựng) châu báu thượng hạng (được đặt) ở trên đầu.’

—–

(i) Một tôn hiệu của Đức Bồ Tát theo văn hoá Ấn Độ xưa.

(ii) & (iii) đều là tên gọi của Sakka.

2

♦ sā tassa gihikāle mahatī ahosi, tenassa moḷiyaphaggunoti saṅkhā udapādi. pabbajitampi naṃ teneva nāmena sañjānanti. ativelanti velaṃ atikkamitvā. tattha kālavelā, sīmavelā, sīlavelāti tividhā velā. “tāyaṃ velāyaṃ imaṃ udānaṃ udānesī”ti (dhammapade vaggānamuddānaṃ, gāthānamuddānaṃ; mahāva. 1-3) ayaṃ kālavelā nāma. “ṭhitadhammo velaṃ nātivattatī”ti (cūḷava. 384; udā. 45; a. ni. 8.19) ayaṃ sīmavelā nāma. “velāanatikkamo setughāto”ti (dha. sa. 299-301) ca, “velā cesā avītikkamanaṭṭhenā”ti ca, ayaṃ sīlavelā nāma. taṃ tividhampi so atikkamiyeva.

bhikkhuniyo hi ovadituṃ kālo nāma atthi, so atthaṅgatepi sūriye ovadanto taṃ kālavelampi atikkami. bhikkhunīnaṃ ovāde pamāṇaṃ nāma atthi sīmā mariyādā. so uttarichappañcavācāhi ovadanto taṃ sīmavelampi atikkami. kathento pana davasahagataṃ katvā duṭṭhullāpattipahonakaṃ katheti, evaṃ sīlavelampi atikkami.

Vào thời (còn làm) cư sĩ, vị ấy có búi tóc lớn; do đó, danh xưng ‘Moḷiyaphagguna’ (Phagguna Búi Tóc) đã phát sinh cho vị ấy. Và khi vị ấy đã xuất gia; người ta biết đến vị ấy bằng chính cái tên ấy. [Ativelaṃ], tức: [vượt quá velā]. Trong chủ đề này, có 3 loại [velā]: [velā] là [thời gian – kāla]; [velā] là [giới hạn – sīma]; [velā] là [giới hạnh – sīla]. Ở câu ‘Vào lúc đó (tāyaṃ velāyaṃ), (Đức Phật) đã thốt lời cảm hứng này’ (dhammapade vaggānamuddānaṃ, gāthānamuddānaṃ; mahāva. 1-3); đó được gọi là [velā theo nghĩa thời gian – kālavelā]. Ở câu: ‘(Đại dương) có đặc tính là ổn định; không vượt quá giới hạn’ (cūḷava. 384; udā. 45; a. ni. 8.19); đó được gọi là [velā theo nghĩa giới hạn – sīmavelā]. Ở cụm từ ‘[Sự kềm thúc, sự không vượt quá – velāanatikkama], sự không liên hệ’ (dha. sa. 299-301), và cụm từ ‘từ [velā] đó (được dùng) theo nghĩa là sự không vượt qua’; đó được gọi là [velā theo nghĩa giới hạnh – sīlavelā]. Và vị ấy đã vượt quá cả 3 loại ấy. Quả thật, vị ấy có thời gian phù hợp để giáo giới các Tỳ Kheo Ni; nhưng vị ấy lại giáo giới vào lúc mặt trời đã lặn nên đã vượt quá velā theo nghĩa thời gian. Trong việc giáo giới các Tỳ Kheo Ni, có thời lượng, giới hạn, thời hạn; vị ấy giáo giới quá 5, 6 lời, nên đã vượt quá velā theo nghĩa giới hạn. Hơn nữa, vị ấy thuyết giảng những điều đủ vi phạm (lỗi) về lời nói thô tục bằng cách bỡn cợt; như vậy, vị ấy cũng đã vượt quá velā theo nghĩa giới hạnh.

3

saṃsaṭṭhoti missībhūto samānasukhadukkho hutvā. sammukhāti purato. avaṇṇaṃ bhāsatīti tā pana pacanakoṭṭanādīni karontiyo disvā natthi imāsaṃ anāpatti nāma, imā bhikkhuniyo anācārā dubbacā pagabbhāti aguṇaṃ katheti. adhikaraṇampi karotīti imesaṃ bhikkhūnaṃ imā bhikkhuniyo diṭṭhakālato paṭṭhāya akkhīni dayhanti, imasmiṃ vihāre pupphapūjā vā āsanadhovanaparibhaṇḍakaraṇādīni vā imāsaṃ vasena vattanti. kuladhītaro etā lajjiniyo, tumhe imā idañcidañca vadatha, ayaṃ nāma tumhākaṃ āpatti hoti, vinayadharānaṃ santikaṃ āgantvā vinicchayaṃ me dethāti adhikaraṇaṃ ākaḍḍhati.

[Chung chạ – saṃsaṭṭha], tức: [chung lẫn – missībhūta], có chung khổ lạc. [Trước mặt – sammukhā], tức: [ở trước mặt – purato]. [Nói lời chê trách – avaṇṇaṃ bhāsati], tức: và khi đã nhìn thấy các Tỳ Kheo Ni đó làm các công việc như vo (gạo) nấu vân vân; (vị Tỳ Kheo ấy) nói lời chê trách rằng: ‘Các Tỳ Kheo Ni đó không phải không có sự vi phạm; các Tỳ Kheo Ni đó có hạnh sai trái, có lời nói xấu ác, kiêu ngạo.’ [Vị ấy tiến hành tranh cãi – adhikaraṇampi karoti], tức: vị ấy gây ra sự tranh cãi rằng: ‘Kể từ thời điểm nhìn thấy các Tỳ Kheo Ni này, đôi mắt của các Tỳ Kheo đó bị thiêu đốt. Ở tu viện này, việc dâng hoa cũng như các việc chuẩn bị chỗ ngồi, chùi rửa, trải sàn vân vân diễn ra nhờ những (vị Tỳ Kheo Ni) này. Các (vị Tỳ Kheo Ni) này là các cô con gái gia tộc, biết hổ thẹn; chính các ông nói này nói kia; đó là sự vi phạm của các ông. Các ông hãy đến chỗ các vị trì Luật rồi báo cho tôi quyết định (của các vị trì Luật).’

4

moḷiyaphaggunassa avaṇṇaṃ bhāsatīti natthi imassa bhikkhuno anāpatti nāma. niccakālaṃ imassa pariveṇadvāraṃ asuññaṃ bhikkhunīhīti aguṇaṃ katheti. adhikaraṇampi karontīti imesaṃ bhikkhūnaṃ moḷiyaphaggunattherassa diṭṭhakālato paṭṭhāya akkhīni dayhanti. imasmiṃ vihāre aññesaṃ vasanaṭṭhānaṃ oloketumpi na sakkā. vihāraṃ āgatabhikkhuniyo ovādaṃ vā paṭisanthāraṃ vā uddesapadaṃ vā therameva nissāya labhanti, kulaputtako lajjī kukkuccako, evarūpaṃ nāma tumhe idañcidañca vadatha, etha vinayadharānaṃ santike vinicchayaṃ dethāti adhikaraṇaṃ ākaḍḍhanti.

[(Vị Tỳ Kheo ấy) nói lời chê trách Moḷiyaphagguna], tức: (vị Tỳ Kheo ấy) nói lời chê trách rằng: ‘Vị Tỳ Kheo đó (Moḷiyaphagguna) không phải không có sự vi phạm. Cánh cửa cốc của vị ấy chẳng bao giờ thiếu vắng các Tỳ Kheo Ni.’ [(Các Tỳ Kheo Ni đó) tiến hành tranh cãi – adhikaraṇampi karonti], tức: (các Tỳ Kheo Ni đó) gây ra sự tranh cãi rằng: ‘Kể từ thời điểm nhìn thấy trưởng lão Moḷiyaphagguna, đôi mắt của các Tỳ Kheo đó bị thiêu đốt. Ở tu viện này, việc nhìn đến nơi ở của những người khác còn không thể. Các Tỳ Kheo Ni nào đã đến tu viện, đạt được sự giáo giới, sự chào đón hay lời chỉ dạy dựa vào chính trưởng lão ấy. (Vị ấy) là con trai gia tộc, biết hổ thẹn, tận tâm. Chính các ông nói này nói kia như vậy. Các ông hãy đến chỗ các vị trì Luật rồi báo cho tôi quyết định (của các vị trì Luật).’

5

so bhikkhu bhagavantaṃ etadavocāti neva piyakamyatāya na bhedādhippāyena, atthakāmatāya avoca. ekaṃ kirassa ahosi — “imassa bhikkhussa evaṃ saṃsaṭṭhassa viharato ayaso uppajjissati. so sāsanassāpi avaṇṇoyeva. aññena pana kathito ayaṃ na oramissati, bhagavatā dhammaṃ desetvā ovadito oramissatī”ti tassa atthakāmatāya bhagavantaṃ etaṃ, “āyasmā, bhante”tiādivacanaṃ avoca.

[Vị Tỳ Kheo đó đã nói điều này với Đức Thế Tôn], tức: (vị Tỳ Kheo đó) đã nói (điều này) hoàn toàn không phải do mong muốn điều ưa thích, không phải do ý định chia rẽ mà do mong muốn lợi ích. Quả thật, một (ý nghĩ) đã khởi lên cho vị đó rằng: ‘Khi vị Tỳ Kheo ấy (Moḷiyaphagguna) sống chung chạ như vậy, tiếng xấu sẽ sinh lên (cho vị ấy). Vị ấy còn là điều tai tiếng cho Giáo Pháp. Nhưng khi được góp ý bởi người khác, vị ấy sẽ không hài lòng. Vị ấy sẽ hài lòng khi được khuyên dạy bởi Đức Thế Tôn thông qua việc (Thế Tôn) thuyết Pháp.’ Do mong muốn lợi ích cho vị ấy (Moḷiyaphagguna), vị Tỳ Kheo đó đã nói với chính Đức Thế Tôn lời nói: ‘Bạch Ngài! Đại Đức…’ vân vân.

6

♦ 223. āmantehīti jānāpehi. āmantetīti pakkosati.

[Hãy gọi – āmantehi], tức: hãy cho (người đó) biết. [Gọi – āmanteti], tức: [gọi – pakkosati].

7

♦ 224. saddhāti saddhāya. tasmāti yasmā tvaṃ kulaputto ceva saddhāpabbajito ca, yasmā vā te etāhi saddhiṃ saṃsaṭṭhassa viharato ye tā akkosissanti vā, paharissanti vā, tesu domanassaṃ uppajjissati, saṃsagge pahīne nuppajjissati, tasmā. tatrāti tasmiṃ avaṇṇabhāsane. gehasitāti pañcakāmaguṇanissitā. chandāti taṇhāchandāpi paṭighachandāpi. vipariṇatanti rattampi cittaṃ vipariṇataṃ. duṭṭhampi, mūḷhampi cittaṃ vipariṇataṃ. idha pana taṇhāchandavasena rattampi vaṭṭati, paṭighachandavasena duṭṭhampi vaṭṭati. hitānukampīti hitena anukampamāno hitena pharamāno. na dosantaroti na dosacitto bhavissāmi.

[Bởi đức tin – saddhā] tức: [bởi đức tin – saddhāya]. [Do đó – tasmā], tức: bởi vì ông – tức một người con trai gia tộc – đã xuất gia chỉ bởi đức tin. Hoặc bởi vì: khi ông sống chung chạ với những (vị Tỳ Kheo Ni) đó; thì những người nào mắng nhiếc các (Tỳ Kheo Ni) đó hoặc đánh đập các (Tỳ Kheo Ni đó); sự buồn bực đối với những người đó sẽ sinh lên cho ông. Cho nên: khi sự liên hệ đó đã được từ bỏ; thì (sự buồn bực đó) sẽ không sinh lên (cho ông). [Trong (tình huống) đó – tatrā], tức: trong việc nói lời chê trách đó. [Ràng buộc với đời sống thế tục – gehasita], tức: dính mắc với 5 loại dục. [Dục – chanda], tức: [ái dục – taṇhāchanda] và [oán dục – paṭighachanda]. [Bị biến đổi – vipariṇata], tức: (tâm) tham lam là tâm bị biến đổi; (tâm) sân hận, (tâm) si mê là tâm bị biến đổi. Và ở đây, tâm tham lam diễn tiến do ái dục; tâm sân hận diễn tiến do oán dục. [Thương tưởng đến lợi lạc – hitānukampī], tức: thương tưởng về lợi lạc; ban rải lợi lạc. [Không có sân bên trong – na dosantaro], tức: ta sẽ không có tâm sân.

8

♦ 225. atha kho bhagavāti kasmā ārabhi? phaggunassa kira ettakaṃ ovādaṃ sutvāpi, “bhikkhunisaṃsaggato oramissāmi viramissāmī”ti cittampi na uppannaṃ, bhagavatā pana saddhiṃ paṭāṇī viya paṭiviruddho aṭṭhāsi, athassa bhagavato yathā nāma jighacchitassa bhojane, pipāsitassa pānīye, sītena phuṭṭhassa uṇhe dukkhitassa sukhe patthanā uppajjati. evameva imaṃ dubbacaṃ bhikkhuṃ disvā paṭhamabodhiyaṃ subbacā bhikkhū āpāthaṃ āgamiṃsu. atha tesaṃ vaṇṇaṃ kathetukāmo hutvā imaṃ desanaṃ ārabhi.

[Thế rồi Đức Thế Tôn – atha kho bhagavā], tại sao đoạn kinh khởi đầu (bằng cụm từ đó)? Quả thật, sau khi nghe lời giáo giới như vậy; suy nghĩ của Phagguna không sinh lên rằng: ‘Ta sẽ dừng việc liên hệ với các Tỳ Kheo Ni; ta sẽ kềm tránh việc liên hệ với các Tỳ Kheo Ni.’ Mà vị ấy lại chống đối với Đức Thế Tôn giống như cái chốt cửa. Thế rồi, Đức Thế Tôn phát sinh mong muốn giống như người đói (phát sinh mong muốn) về vật thực; người khát (phát sinh mong muốn) về thức uống; người bị cái lạnh xúc chạm (phát sinh mong muốn) về sự ấm áp; người chịu khổ (phát sinh mong muốn) về cái lạc. Hệt như vậy, sau khi nhìn thấy vị Tỳ Kheo khó nói(i) đó; (Đức Phật) tưởng đến các vị Tỳ Kheo dễ nói trong thời kỳ giác ngộ thứ nhất. Thế rồi, Đức Phật muốn nói lời khen ngợi các vị Tỳ Kheo ấy; nên đã khởi đầu bài thuyết giảng này.

—–

(i) [Dubbaca] = [khó nói, khó dạy, khó khuyên bảo…]

9

♦ tattha ārādhayiṃsūti gaṇhiṃsu pūrayiṃsu. ekaṃ samayanti ekasmiṃ samaye. ekāsanabhojananti ekaṃ purebhattabhojanaṃ. sūriyuggamanato hi yāva majjhanhikā sattakkhattuṃ bhuttabhojanampi idha ekāsanabhojananteva adhippetaṃ. appābādhatanti nirābādhataṃ. appātaṅkatanti niddukkhataṃ. lahuṭṭhānanti sarīrassa sallahukaṃ uṭṭhānaṃ. balanti kāyabalaṃ. phāsuvihāranti kāyassa sukhavihāraṃ. iminā kiṃ kathitaṃ? divā vikālabhojanaṃ pajahāpitakālo kathito. bhaddālisutte pana rattiṃ vikālabhojanaṃ pajahāpitakālo kathito. imāni hi dve bhojanāni bhagavā na ekappahārena pajahāpesi. kasmā? imāneva hi dve bhojanāni vaṭṭe sattānaṃ āciṇṇāni. santi kulaputtā sukhumālā, te ekato dvepi bhojanāni pajahantā kilamanti. tasmā ekato apajahāpetvā ekasmiṃ kāle divā vikālabhojanaṃ, ekasmiṃ rattiṃ vikālabhojananti visuṃ pajahāpesi. tesu idha divā vikālabhojanaṃ pajahāpitakālo kathito. tattha yasmā buddhā na bhayaṃ dassetvā tajjetvā pajahāpenti, ānisaṃsaṃ pana dassetvā pajahāpenti, evañhi sattā sukhena pajahanti. tasmā ānisaṃsaṃ dassento ime pañca guṇe dassesi. anusāsanī karaṇīyāti punappunaṃ sāsane kattabbaṃ nāhosi. “idaṃ karotha, idaṃ mā karothā”ti satuppādakaraṇīyamattameva ahosi. tāvattakeneva te kattabbaṃ akaṃsu, pahātabbaṃ pajahiṃsu, paṭhamabodhiyaṃ, bhikkhave, subbacā bhikkhū ahesuṃ assavā ovādapaṭikarāti.

Ở đoạn kinh đó, [làm hài lòng – ārādhayiṃsu], tức: [tin tưởng – gaṇhiṃsu], [thoả mãn – pūrayiṃsu]. [Vào một thời nọ – ekaṃ samayaṃ], tức: [vào một dịp nọ – ekasmiṃ samaye]. [Cách ăn nhất thực – ekāsanabhojanaṃ], tức: [cách ăn vào một (thời), tức trước ngọ – ekaṃ purebhattabhojanaṃ]. Quả thật, cách ăn vật thực dù đến 7 lần từ lúc mặt trời mọc cho đến giữa trưa là cách ăn nhất thực trong (chủ đề) này. Chính đó là điều được hàm ý. [Sự ít bệnh – appābādhata], tức: sự không bệnh. [Sự ít bệnh tật – appātaṅkata], tức: sự không khổ nhọc. [Sự nhẹ nhàng – lahuṭṭhāna], tức: sự hoạt động nhẹ nhàng của thân thể. [Sức khoẻ – bala], tức: sức lực của thân thể. [Sự sống thoải mái – phāsuvihāra], tức: sự sống an lạc của thân thể. Thông qua cụm từ đó, điều gì đã được thuyết? Khoảng thời gian (thọ thực) bị cấm (bởi Đức Phật) – tức sự ăn phi thời vào ban ngày – đã được thuyết. Thế nhưng, trong bài kinh Bhaddālisutta, khoảng thời gian (thọ thực) bị cấm (bởi Đức Phật) – tức sự ăn phi thời vào ban đêm – đã được thuyết. Quả thực, Đức Thế Tôn đã không cấm(i) 2 sự ăn (phi thời) đó cùng một lúc(ii). Do đâu? Bởi vì chính 2 cách ăn đó đã được các chúng sinh thực hành trong vòng luân hồi. Có những con trai gia tộc mảnh khảnh; nếu họ từ bỏ cả 2 sự ăn (phi thời) cùng một lúc thì họ sẽ mệt mỏi. Do đó, (Đức Thế Tôn) không cấm (2 sự ăn đó) cùng một lúc, mà cấm lần lượt: lần này, (Ngài cấm) sự ăn phi thời vào ban ngày; lần kia, (Ngài cấm) sự ăn phi thời vào ban đêm. Trong (2 sự ăn) ấy, khoảng thời gian (thọ thực) bị cấm (bởi Đức Phật) – tức sự ăn phi thời vào ban ngày – đã được thuyết ở đoạn kinh này. Trong (chủ đề) này; bởi vì: chư Phật cấm không phải bằng cách trình bày sự nguy hiểm, không phải bằng cách gây lo sợ; mà các Ngài cấm bằng cách trình bày lợi ích; như vậy các chúng sinh mới từ bỏ (2 sự ăn đó) một cách thoải mái. Cho nên: để trình bày lợi ích, Đức Thế Tôn trình bày 5 ưu điểm đó. [Sự khuyên dạy không cần được thực hiện – anusāsanī karaṇīyā], tức: (Đức Phật) không cần thực hiện việc khuyên dạy hết lần này đến lần khác rằng: ‘Hãy làm điều này! Chớ làm điều kia!’ Ngài chỉ cần khiến (các vị Tỳ Kheo ấy) khởi niệm. Chỉ sau một thời gian ngắn, (các vị Tỳ Kheo) ấy thực hiện điều nên được làm; từ bỏ điều nên được từ bỏ. Này các Tỳ Kheo! Trong thời kỳ giác ngộ thứ nhất, các vị Tỳ Kheo dễ nói, nghe lời, làm theo lời giáo giới.   

—–

(i) [pajahāpesi] = [khiến cho từ bỏ]; trong bối cảnh này có thể hiểu là [cấm].

(ii) Tức toàn bộ khoảng thời gian từ sau ngọ cho đến bình minh hôm sau là khoảng thời gian cấm thọ thực. Nhưng Đức Phật chia khoảng thời gian đó ra làm 2, và quy định cấm lần lượt cho 2 khoảng đó.

10

♦ idāni nesaṃ subbacabhāvadīpikaṃ upamaṃ āharanto seyyathāpītiādimāha. tattha subhūmiyanti samabhūmiyaṃ. “subhūmyaṃ sukhette vihatakhāṇuke bījāni patiṭṭhapeyyā”ti (dī. ni. 2.438) ettha pana maṇḍabhūmi subhūmīti āgatā. catumahāpatheti dvinnaṃ mahāmaggānaṃ vinivijjhitvā gataṭṭhāne. ājaññarathoti vinītāssaratho. odhastapatodoti yathā rathaṃ abhiruhitvā ṭhitena sakkā hoti gaṇhituṃ, evaṃ ālambanaṃ nissāya tiriyato ṭhapitapatodo. yoggācariyoti assācariyo. sveva assadamme sāretīti assadammasārathi. yenicchakanti yena yena maggena icchati. yadicchakanti yaṃ yaṃ gatiṃ icchati. sāreyyāti ujukaṃ purato peseyya. paccāsāreyyāti paṭinivatteyya.

Giờ đây, (Đức Phật) đã nói: ‘Giống như…’ vân vân nhằm mang lại ví dụ soi sáng tính cách dễ nói của các vị Tỳ Kheo đó. Ở đoạn kinh đó, [trên đất tốt – subhūmiyaṃ], tức: [trên mặt đất bằng phẳng – samabhūmiyaṃ]. ‘Người ta nên gieo hạt xuống mảnh đất tốt – tức cánh đồng tốt, có gốc cây đã được triệt huỷ.’ (dī. ni. 2.438). Và ở đoạn kinh đó, từ [đất tốt – subhūmi] xuất hiện (với nghĩa) [đất sạch sẽ – maṇḍabhūmi]. [Ở chỗ giao 4 đoạn đường lớn – catumahāpatha], tức: ở chỗ tiếp giáp của 2 con đường lớn do chúng đâm xuyên nhau. [Cỗ xe (ngựa) thượng chủng – ājaññaratho], tức: cỗ xe (buộc) vào con ngựa đã được huấn luyện. [Cây roi được đặt gần tay – odhastapatodo], tức: để cho người nài ngựa bước lên xe rồi đứng mà có thể nắm được (cây roi); thì cây roi được đặt nằm ngang dựa vào giá đỡ. [Bậc thầy về xe – yoggācariyo], tức: mã sư. Chính vị ấy huấn luyện những con ngựa cần được thuần hoá, tức: [người thuần hoá ngựa – assadammasārathi]. [Theo con đường hợp ý muốn – yenicchakaṁ], tức: theo bất kỳ con đường nào mà người ấy muốn. [Đến nơi hợp ý muốn – yadicchakaṁ], tức: đến bất kỳ đích đến nào mà người ấy muốn. [Dẫn tới – sāreyya], tức: lái (cỗ xe) thẳng về phía trước. [Dẫn lui – paccāsāreyya], tức: khiến (cỗ xe) trở lui. 

11

evameva khoti yathā hi so yoggācariyo yena yena maggena gamanaṃ icchati, taṃ taṃ assā āruḷhāva honti. yāya yāya ca gatiyā icchati, sā sā gati gahitāva hoti. rathaṃ pesetvā assā neva vāretabbā na vijjhitabbā honti. kevalaṃ tesaṃ same bhūmibhāge khuresu nimittaṃ ṭhapetvā gamanameva passitabbaṃ hoti. evaṃ mayhampi tesu bhikkhūsu punappunaṃ vattabbaṃ nāhosi. idaṃ karotha idaṃ mā karothāti satuppādanamattameva kattabbaṃ hoti. tehipi tāvadeva kattabbaṃ katameva hoti, akattabbaṃ jahitameva. tasmāti yasmā subbacā yuttayānapaṭibhāgā hutvā satuppādanamatteneva pajahiṃsu, tasmā tumhepi pajahathāti attho. elaṇḍehīti elaṇḍā kira sāladūsanā honti, tasmā evamāha. visodheyyāti elaṇḍe ceva aññā ca valliyo chinditvā bahi nīharaṇena sodheyya. sujātāti susaṇṭhitā.

sammā parihareyyāti mariyādaṃ bandhitvā udakāsiñcanenapi kālenakālaṃ mūlamūle khaṇanenapi valligumbādicchedanenapi kipillapūṭakaharaṇenapi makkaṭakajālasukkhadaṇḍakaharaṇenapi sammā vaḍḍhetvā poseyya. vuddhiādīni vuttatthāneva.

[Hệt như vậy], tức: cũng giống như bậc thầy về xe ấy muốn lộ trình theo bất kỳ con đường nào; thì lũ ngựa đi đến chính (con đường) đó. Hoặc bậc thầy về xe ấy muốn lộ trình theo bất kỳ đường hướng nào; thì chính đường hướng đó được (lũ ngựa) nắm bắt ngay. Khi (bậc thầy ấy) khiến chiếc xe chạy rồi; thì lũ ngựa không cần bị kềm kẹp cũng không cần bị đánh đập. Bậc thầy ấy chỉ cần ra hiệu về vùng đất bằng phẳng ở dưới móng chân của chúng; thì chúng tất nhìn thấy chính lộ trình ấy. Cũng vậy, ta cũng không cần nói với các Tỳ Kheo ấy hết lần này đến lần khác rằng: ‘Hãy làm điều này! Chớ làm điều kia!’ Ta chỉ cần làm (các vị Tỳ Kheo ấy) khởi niệm. Và ngay lúc đó, các vị ấy làm chính điều nên được làm; từ bỏ chính điều không nên được làm. [Do đó], tức: bởi vì các vị Tỳ Kheo dễ nói giống như cỗ xe đã được cột; (họ) đã từ bỏ (điều nên được từ bỏ). Do đó, các ông cũng hãy từ bỏ. Ý nghĩa là như vậy. [Bởi cây elaṇḍa], các cây Elaṇḍa là những cây Sāla hư xấu; do đó, (Đức Phật) đã nói như vậy. [(Người ấy) làm sạch], tức: (người ấy) làm sạch bằng cách chặt chính những cây Elaṇḍa đó và những cây Vallī(i) khác rồi đem ra ngoài. [Mọc tốt – sujāta], tức: vững chắc. [(Người ấy) coi sóc chu đáo – sammā parihareyya], tức: người ấy định ranh giới (khu vườn) rồi chăm sóc bằng cách nuôi dưỡng chu đáo thông qua việc loại bỏ những cành cây khô & mạng nhện, loại bỏ các ổ mối, chặt các bụi rậm Vallī vân vân, đào xới các gốc cây và tưới nước đều đặn. Cụm từ [sự tăng trưởng – vuddhi] vân vân có ý nghĩa đã được nói (ở trên) rồi.

—–

(i) Một loại dây leo.

12

♦ 226. idāni akkhantiyā dosaṃ dassento bhūtapubbantiādimāha. tattha vedehikāti videharaṭṭhavāsikassa dhītā. atha vā vedoti paññā vuccati, vedena īhati iriyatīti vedehikā, paṇḍitāti attho. gahapatānīti gharasāminī. kittisaddoti kittighoso. soratāti soraccena samannāgatā. nivātāti nivātavutti. upasantāti nibbutā. Dakkhāti bhattapacanasayanattharaṇadīpujjalanādikammesu chekā. analasāti uṭṭhāhikā, susaṃvihitakammantāti suṭṭhu saṃvihitakammantā. ekā analasā hoti, yaṃ yaṃ pana bhājanaṃ gaṇhāti, taṃ taṃ bhindati vā chiddaṃ vā karoti, ayaṃ na tādisāti dasseti.

Giờ đây, để trình bày lỗi lầm của việc không kham nhẫn, Đức Phật đã nói ‘thuở xưa’ vân vân. Ở đoạn kinh đó, [Vedehikā] là một người con gái của một cư dân xứ Videha. Hoặc trí tuệ được gọi là [Vedo]. [Vedehikā] tức: (người con gái) nỗ lực bằng trí tuệ, sống bằng trí tuệ. ‘Người nữ trí tuệ’, ý nghĩa là như vậy. [Bà chủ nhà – gahapatānī], tức: nữ gia chủ. [Tiếng tốt – kittisaddo], tức: tiếng vang tốt. [Hiền lành – soratā], tức: có tính hiền lành. [Khiêm cung – nivātā], tức: có hạnh khiêm cung. [Điềm tĩnh – upasantā], tức: bình tĩnh. [Thành thạo – dakkha], tức: thành thục các công việc như nấu ăn, trải giường, đốt đèn vân vân. [Siêng năng – analasa], tức: chăm chỉ. [Có công việc được sắp đặt chu đáo – susaṃvihitakammanta], tức: có công việc được sắp đặt một cách chu đáo. (Cô Kāḷī) là một cô gái siêng năng; và cô ấy không phải dạng người ‘cầm lấy cái bát cái dĩa nào; cũng làm vỡ làm bể cái bát cái dĩa đó.’ Đức Phật trình bày như thế.

13

divā uṭṭhāsīti pātova kattabbāni dhenuduhanādikammāni akatvā ussūre uṭṭhitā. he je kāḷīti are kāḷi. kiṃ je divā uṭṭhāsīti kiṃ te kiñci aphāsukaṃ atthi, kiṃ divā uṭṭhāsīti? no vata re kiñcīti are yadi te na kiñci aphāsukaṃ atthi, neva sīsaṃ rujjhati, na piṭṭhi, atha kasmā pāpi dāsi divā uṭṭhāsīti kupitā anattamanā bhākuṭimakāsi. divātaraṃ uṭṭhāsīti punadivase ussūrataraṃ uṭṭhāsi. anattamanavācanti are pāpi dāsi attano pamāṇaṃ na jānāsi; kiṃ aggiṃ sītoti maññasi, idāni taṃ sikkhāpessāmītiādīni vadamānā kupitavacanaṃ nicchāresi.

[(Cô) dậy lúc trời trưa], tức: (cô) dậy lúc trời đã trưa (mặt trời đã lên cao), chưa làm các việc cần được làm vào buổi sáng sớm như vắt sữa bò vân vân. [Này Kāḷī ơi – he je kāḷī], tức: Kāḷī ơi. [Tại sao (cô) dậy lúc trời trưa? – kiṃ je divā uṭṭhāsi], tức: cô có điều khó chịu nào không? Tại sao cô dậy lúc trời trưa? [Không (có) gì à – no vata re kiñci], tức: (bà Vedehikā) tức giận, bực bội, giận dữ rằng ‘À, nếu cô không có bất kỳ điều khó chịu nào: đầu cô không bể, lưng cô không vỡ; vậy thì tại sao, con nô tỳ hư hỏng! Mi lại dậy lúc trời trưa?’ [(Cô nô tỳ Kāḷī) đã dậy lúc trời trưa hơn nữa – divātaraṃ uṭṭhāsi], tức: vào ngày khác, (cô nô tỳ Kāḷī) dậy lúc trời đã trưa hơn nữa (mặt trời đã lên cao hơn nữa). [Lời nói bực bội – anattamanavācaṃ], tức: (bà Vedehikā) đã thốt ra lời nói phẫn nộ bằng cách nói rằng: ‘Ô này con nô tỳ hư hỏng! Mi không biết giới hạn của mình ư? Mi cho rằng lửa thì mát ư? Giờ ta sẽ cho mi học điều đó!’ vân vân.

14

paṭivisakānanti sāmantagehavāsīnaṃ. ujjhāpesīti avajānāpesi. caṇḍīti asoratā kibbisā. iti yattakā guṇā, tato diguṇā dosā uppajjiṃsu. guṇā nāma saṇikaṃ saṇikaṃ āgacchanti; dosā ekadivaseneva patthaṭā honti. soratasoratoti ativiya sorato, sotāpanno nu kho, sakadāgāmī anāgāmī arahā nu khoti vattabbataṃ āpajjati. phusantīti phusantā ghaṭṭentā āpāthaṃ āgacchanti.

[(Làm xấu mặt bà chủ trước) những người hàng xóm – paṭivisakānaṃ], tức: trước những người sống trong những ngôi nhà lân cận. [Làm xấu mặt – ujjhāpesi], tức: làm hổ mặt. [Hung hãn – caṇḍī], tức: [không hiền lành – asoratā], [càn quấy – kibbisā]. Như vậy, dẫu các phẩm chất của người ta nhiều đến bao nhiêu; thì lỗi lầm của người ta sinh lên gấp đôi các phẩm chất. Quả thật, các phẩm chất của người ta xuất hiện dần dần; còn các lỗi lầm lại được lưu truyền chỉ trong vòng một ngày. [Quá hiền lành – soratasorata], tức: rất hiền lành. (Những người khác) có thể nói rằng: ‘(Vị ấy) là bậc Nhập Lưu, bậc Nhất Lai, bậc Bất Lai, bậc A La Hán.’ [Xúc chạm – phusanti], tức: (những cách nói không đẹp lòng) xuất hiện và xúc chạm, tác động (vị ấy).

15

atha bhikkhu soratoti veditabboti atha adhivāsanakkhantiyaṃ ṭhito bhikkhu soratoti veditabbo. yo cīvara … pe … parikkhārahetūti yo etāni cīvarādīni paṇītapaṇītāni labhanto pādaparikammapiṭṭhiparikammādīni ekavacaneneva karoti. alabhamānoti yathā pubbe labhati, evaṃ alabhanto. dhammaññeva sakkarontoti dhammaṃyeva sakkāraṃ sukatakāraṃ karonto. garuṃ karontoti garubhāriyaṃ karonto. mānentoti manena piyaṃ karonto. pūjentoti paccayapūjāya pūjento. apacāyamānoti dhammaṃyeva apacāyamāno apacitiṃ nīcavuttiṃ dassento.

[Thế thì vị Tỳ Kheo đó nên được biết là người hiền lành không? – atha bhikkhu soratoti veditabbo], tức: thế thì vị Tỳ Kheo đó nên được biết là người hiền lành, người vững vàng trong sự kiên nhẫn, sự kham nhẫn không? [Vị (Tỳ Kheo) nào do nhân là y… vật dụng – yo cīvara … pe … parikkhārahetu], tức: vị (Tỳ Kheo) nào thực hiện các việc xoa bóp chân, xoa bóp lưng vân vân chỉ do một lời nói nhằm đạt được y thượng hạng vân vân. [Khi không đạt được – alabhamāna], tức: khi (vị ấy) không đạt được giống như vị ấy đã đạt được lúc trước. [Trong khi tôn kính chính Pháp – dhammaññeva sakkaronto], tức: trong khi tôn kính chính Pháp, kính trọng Pháp trọn vẹn. [Trong khi tôn vinh – garuṃ karonto], tức: trong khi xem (Pháp) là vô cùng quan trọng. [Trong khi quý trọng – mānento], tức: trong khi xem (Pháp) là đối tượng trân quý trong tâm. [Trong khi kính lễ – pūjento], tức: trong khi kính lễ bằng sự kính lễ với các vật dụng(i). [Trong khi tôn vinh – apacāyamāno], tức: trong khi tôn vinh chính Pháp, trong khi thể hiện sự tôn vinh, trong khi thể hiện hành vi khiêm cung (đối với Pháp).

—–

(i) Tức khái niệm [kính lễ – pūjā] có bao hàm khái niệm cúng dường.

16

♦ 227. evaṃ akkhantiyā dosaṃ dassetvā idāni ye adhivāsenti, te evaṃ adhivāsentīti pañca vacanapathe dassento pañcime, bhikkhavetiādimāha. tattha kālenāti yuttapattakālena. bhūtenāti satā vijjamānena. saṇhenāti sammaṭṭhena. atthasañhitenāti atthanissitena kāraṇanissitena. akālenātiādīni tesaṃyeva paṭipakkhavasena veditabbāni. mettacittāti uppannamettacittā hutvā. dosantarāti duṭṭhacittā, abbhantare uppannadosā hutvā. tatrāti tesu vacanapathesu. pharitvāti adhimuccitvā. tadārammaṇañcāti kathaṃ tadārammaṇaṃ sabbāvantaṃ lokaṃ karoti? pañca vacanapathe gahetvā āgataṃ puggalaṃ mettacittassa ārammaṇaṃ katvā puna tasseva mettacittassa avasesasatte ārammaṇaṃ karonto sabbāvantaṃ lokaṃ tadārammaṇaṃ karoti nāma. tatrāyaṃ vacanattho. tadārammaṇañcāti tasseva mettacittassa ārammaṇaṃ katvā. sabbāvantanti sabbasattavantaṃ. lokanti sattalokaṃ. vipulenāti anekasattārammaṇena. mahaggatenāti mahaggatabhūmikena. appamāṇenāti subhāvitena. averenāti niddosena. abyābajjhenāti niddukkhena. pharitvā viharissāmāti evarūpena mettāsahagatena cetasā tañca puggalaṃ sabbañca lokaṃ tassa cittassa ārammaṇaṃ katvā adhimuccitvā viharissāma.

Sau khi trình bày lỗi lầm của việc không kham nhẫn như vậy; giờ đây, (Đức Phật) đã nói: ‘Này các Tỳ Kheo! 5 (điều) này…’ vân vân nhằm trình bày 5 cách nói – (với hàm ý là) ‘Những người nào nhẫn nại; thì những người ấy nhẫn nại như vầy.’ Ở đoạn kinh đó, [đúng thời – kālena], tức: vào thời gian thích hợp. [Đúng thực – bhūtena], tức: [đúng theo cái tồn tại – satā], [đúng theo cái hiện hữu – vijjamānena]. [Bằng lời dịu dàng – saṇhena], tức: bằng lời ôn hoà. [Theo cách gắn với lợi ích – atthasañhitena], tức: theo cách dựa vào lợi ích, theo cách dựa vào cơ sở. Cụm từ [phi thời – akālena] vân vân nên được hiểu theo lối đối nghịch với chính các cụm từ kia. [Với từ tâm – mettacitta], tức: với từ tâm sinh lên. [Với sân bên trong – dosantara], tức: với tâm giận dữ, với sân sinh lên bên trong. [Đối với điều đó – tatra], tức: đối với các cách nói đó. [Thấm nhuần – pharitvā] , tức: [hướng đến – adhimuccitvā]. [Và đối tượng – tadārammaṇañca], làm thế nào (vị Tỳ Kheo) khiến toàn thể thế gian trở thành đối tượng? Quả thật, vị ấy khiến toàn thể thế gian trở thành đối tượng bằng cách: khi vị ấy đã tiếp nhận 5 cách nói ấy; thì (vị ấy) xem người hiện diện là đối tượng cho từ tâm, đồng thời cũng xem các chúng sinh còn lại là đối tượng cho chính từ tâm từ ấy. Đó là ý nghĩa của lời nói ở đoạn kinh đó. [Và đối tượng – tadārammaṇañca], tức: (vị ấy) khiến (người hiện diện & toàn thể thế gian) trở thành đối tượng cho chính từ tâm ấy. [Toàn thể – sabbāvantaṃ], tức: toàn thể chúng sinh. [Thế gian – lokaṃ], tức: thế gian chúng sinh. [Lớn lao – vipula], tức: có đối tượng là nhiều chúng sinh. [Vĩ đại – mahaggata], tức: có trạng thái vĩ đại. [Vô lượng – appamāṇa], tức: được phát triển tốt. [Không oán hận – avera], tức: không sân. [Không khổ sở – abyābajjha], tức: không khốn khổ. [Sau khi thấm nhuần, chúng ta sẽ sống – pharitvā viharissāmāti], tức: bằng tâm đi cùng Từ như thế, (chúng ta) khiến người đó và toàn thể thế gian trở thành đối tượng cho tâm đó; (chúng ta) hướng đến (họ) rồi chúng ta sẽ sống.

17

♦ 228. idāni tadatthadīpikaṃ upamaṃ āharanto seyyathāpītiādimāha. tattha apathavinti nippathaviṃ karissāmīti attho. tatra tatrāti tasmiṃ tasmiṃ ṭhāne. vikireyyāti pacchiyā paṃsuṃ uddharitvā bījāni viya vikireyya. oṭṭhubheyyāti kheḷaṃ pāteyya. apathaviṃ kareyyāti evaṃ kāyena ca vācāya ca payogaṃ katvāpi sakkuṇeyya apathaviṃ kātunti? gambhīrāti bahalattena dviyojanasatasahassāni cattāri ca nahutāni gambhīrā. appameyyāti tiriyaṃ pana aparicchinnā. evameva khoti ettha idaṃ opammasaṃsandanaṃ — pathavī viya hi mettacittaṃ daṭṭhabbaṃ. kudālapiṭakaṃ gahetvā āgatapuriso viya pañca vacanapathe gahetvā āgatapuggalo. yathā so kudālapiṭakena mahāpathaviṃ apathaviṃ kātuṃ na sakkoti, evaṃ vo pañca vacanapathe gahetvā āgatapuggalo mettacittassa aññathattaṃ kātuṃ na sakkhissatīti.

Giờ đây, Đức Phật đã nói ‘Và giống như’ vân vân nhằm mang lại một ví dụ soi sáng ý nghĩa đó. Ở đoạn kinh đó, [vô địa – apathavī], tức: ta sẽ làm cho (đại địa) trở thành phi địa. Ý nghĩa là như vậy. [Ở đây ở kia – tatra tatra], tức: ở nơi này ở nơi kia. [Rải – vikireyya], tức: xúc đất lên bằng cái giỏ rồi rải ra như rải hạt giống. [Nhổ – oṭṭhubheyya], tức: phun nước bọt. [(Người đó) có thể khiến (đại địa) trở thành vô địa chăng? – apathaviṃ kareyya?], tức: khi dùng các biện pháp bằng thân và lời như thế; (người ấy) có thể khiến (đại địa) trở thành vô địa chăng? [Dày – gambhīra], tức: dày với độ dày 240.000 Yojana. [Vô lượng – appameyya]: tức không có giới hạn về chiều ngang. [Cũng hệt vậy – evameva kho], đây là sự áp dụng ví dụ ở đoạn kinh đó: quả thật, từ tâm nên được xem như đất. Người hiện diện với 5 lối nói thì giống như người xuất hiện (trong ví dụ) với cuốc và giỏ. Giống như người đó không thể khiến đại địa trở thành vô địa bằng cuốc và giỏ; cũng vậy, người hiện diện với 5 lối nói không thể khiến từ tâm của các ông biến đổi.

18

♦ 229. dutiyaupamāyaṃ haliddinti yaṃkiñci pītakavaṇṇaṃ. nīlanti kaṃsanīlaṃ vā palāsanīlaṃ vā. arūpīti arūpo. nanu ca, dvinnaṃ kaṭṭhānaṃ vā dvinnaṃ rukkhānaṃ vā dvinnaṃ seyyānaṃ vā dvinnaṃ selānaṃ vā antaraṃ paricchinnākāsarūpanti āgataṃ, kasmā idha arūpīti vuttoti? sanidassanabhāvapaṭikkhepato. tenevāha “anidassano”ti. tasmiñhi rūpaṃ likhituṃ, rūpapātubhāvaṃ dassetuṃ na sakkā, tasmā “arūpī”ti vutto. anidassanoti dassanassa cakkhuviññāṇassa anāpātho. upamāsaṃsandane panettha ākāso viya mettacittaṃ. tulikapañcamā cattāro raṅgajātā viya pañca vacanapathā, tulikapañcame raṅge gahetvā āgatapuriso viya pañca vacanapathe gahetvā āgatapuggalo. yathā so tulikapañcamehi raṅgehi ākāse rūpapātubhāvaṃ kātuṃ na sakkoti, evaṃ vo pañca vacanapathe gahetvā āgatapuggalo mettacittassa aññathattaṃ katvā dosuppattiṃ dassetuṃ na sakkhissatīti.

Ở ví dụ thứ 2, [vàng – haliddī], tức: bất kỳ sắc vàng nào. [Xanh – nīla], tức: xanh kim loại hay xanh lá cây. [Không có hình dáng – arūpī], tức: không có hình dạng. Nhưng chẳng phải khoảng cách giữa 2 khúc cây, giữa 2 cái cây, giữa 2 cái giường hay giữa 2 tảng đá được gọi là hình dạng của không gian bị giới hạn sao; tại sao ở đây từ ngữ ‘không có hình dáng’ lại được nói? (Nó được nói) theo phương diện là sự phủ định trạng thái hữu hình. Do đó, (Đức Phật) đã nói rằng: ‘vô hình’. Bởi vì không thể khắc hình dạng (của vật này vật kia) tại đó (tại hư không), không thể thể hiện trạng thái hiển hiện của hình dạng (của vật này vật kia) tại đó (tại hư không); do đó, từ ngữ ‘không có hình dáng’ đã được nói. [Vô hình – anidassana], tức: cái thấy – nhãn thức – không có phạm vi (hoạt động) tại đó. Và trong sự áp dụng ví dụ ở đây: từ tâm thì giống như không gian. 5 lối nói thì giống như 4 màu sắc cùng cây cọ là vật thứ 5. Người hiện diện với 5 lối nói thì giống như người xuất hiện (trong ví dụ) với các màu sắc cùng cây cọ là vật thứ 5. Giống như người đó không thể khiến hình dạng (của vật này vật kia) hiển hiện trong không gian bằng các màu sắc cùng cây cọ là vật thứ 5; giống vậy, người hiện diện với 5 lối nói không thể khiến sân sinh lên bằng cách làm từ tâm của các ông biến đổi.

19

♦ 230. tatiyaupamāyaṃ ādittanti pajjalitaṃ. gambhīrā appameyyāti imissā gaṅgāya gambhīraṭṭhānaṃ gāvutampi atthi, aḍḍhayojanampi, yojanampi. puthulaṃ panassā evarūpaṃyeva, dīghato pana pañcayojanasatāni. sā kathaṃ gambhīrā appameyyāti? etena payogena parivattetvā uddhane udakaṃ viya tāpetuṃ asakkuṇeyyato. ṭhitodakaṃ pana kenaci upāyena aṅgulamattaṃ vā aḍḍhaṅgulamattaṃ vā evaṃ tāpetuṃ sakkā bhaveyya, ayaṃ pana na sakkā, tasmā evaṃ vuttaṃ. upamāsaṃsandane panettha gaṅgā viya mettacittaṃ, tiṇukkaṃ ādāya āgatapuriso viya pañca vacanapathe gahetvā āgatapuggalo. yathā so ādittāya tiṇukkāya gaṅgaṃ tāpetuṃ na sakkoti, evaṃ vo pañca vacanapathe gahetvā āgatapuggalo mettacittassa aññathattaṃ kātuṃ na sakkhissatīti.

Ở ví dụ thứ 3, [cháy – āditta], tức: cháy bỏng – pajjalita]. [Sâu vô lượng – gambhīrā appameyyā], dòng sông Gaṅgā này có chỗ sâu một Gāvuta, sâu nửa Yojana hay sâu một Yojana. Nó cũng có chiều ngang (với kích thước) tương tự như vậy; và về chiều dài, nó có kích thước 500 Yojana. Dòng sông đó sâu vô lượng như thế nào? (Nó sâu vô lượng) theo nghĩa là không thể nung nóng (nó) như đun nóng nước trong lò khi tiến hành bằng phương tiện đó(i). (Một lượng) nước bất động có kích thước một ngón tay hay nửa ngón tay có thể được nung nóng bằng một biện pháp nào đó; nhưng dòng sông này thì không thể. Do đó, (điều đó) đã được nói như vậy. Và trong sự áp dụng ví dụ ở đây: từ tâm thì giống như dòng sông Gaṅgā. Người hiện diện với 5 lối nói thì giống như người xuất hiện (trong ví dụ) với cây đuốc rơm. Giống như người đó không thể nung nóng dòng sông Gaṅgā bằng cây đuốc rơm bốc cháy; giống vậy, người hiện diện với 5 lối nói không thể làm từ tâm của các ông biến đổi.

—–

(i) Tức dùng cây đuốc rơm.

20

♦ 231. catutthaupamāyaṃ biḷārabhastāti biḷāracammapasibbakā. sumadditāti suṭṭhu madditā. suparimadditāti anto ca bahi ca samantato suparimadditā. tūlinīti simbalitūlalatātūlasamānā. chinnasassarāti chinnasassarasaddā. chinnabhabbharāti chinnabhabbharasaddā. upamāsaṃsandane panettha biḷārabhastā viya mettacittaṃ, kaṭṭhakaṭhalaṃ ādāya āgatapuriso viya pañca vacanapathe gahetvā āgatapuggalo. yathā so kaṭṭhena vā kaṭhalena vā biḷārabhastaṃ sarasaraṃ bharabharaṃ saddaṃ kātuṃ na sakkoti, evaṃ vo pañca vacanapathe gahetvā āgatapuggalo mettacittassa aññathattaṃ katvā dosānugatabhāvaṃ kātuṃ na sakkhissatīti.

Ở ví dụ thứ 4, [túi da mèo – biḷārabhastā], tức: cái túi (được làm) bằng da con mèo. [Được chà xát kĩ càng – sumaddita], tức: được chà xát một cách kĩ càng. [Được chà xát trọn vẹn – suparimaddita], tức: được chà xát trọn vẹn ở mọi chỗ – bên trong lẫn bên ngoài. [(Bằng) vải bông – tūlinī], tức: giống như vải bông Simbalī, vải bông Latā. [Tiếng sột soạt vỡ ra – chinnasassara], tức: âm thanh sột soạt vỡ ra. [Tiếng lạo xạo vỡ ra – chinnabhabbhara], tức: âm thanh lạo xạo vỡ ra. Và trong sự áp dụng ví dụ ở đây: từ tâm thì giống như cái túi da mèo. Người hiện diện với 5 lối nói thì giống như người xuất hiện (trong ví dụ) với củi và sỏi. Giống như người đó không thể tạo ra âm thanh sột soạt, âm thanh lạo xạo ở chiếc túi da mèo bằng củi hay sỏi; giống vậy, người hiện diện với 5 lối nói không thể tạo ra trạng thái hiệp hành với sân (nơi tâm các ông) bằng cách làm từ tâm của các ông biến đổi.

21

♦ 232. ocarakāti avacarakā heṭṭhācarakā, nīcakammakārakāti attho. yo mano padūseyyāti yo bhikkhu vā bhikkhunī vā mano padūseyya, taṃ kakacena okantanaṃ nādhivāseyya. na me so tena sāsanakaroti so tena anadhivāsanena mayhaṃ ovādakaro na hoti. āpatti panettha natthi.

[(Người) có hành vi thấp kém – ocaraka], tức: (người) có hành vi thấp thỏi, (người) có hành vi hạ tiện, người làm việc thấp kém. [Người nào làm ô uế tâm – yo mano padūseyya], tức: vị Tỳ Kheo hay Tỳ Kheo Ni nào làm ô uế tâm, không thể chịu đựng việc chặt xẻ bằng cưa đó. [Do đó, người ấy không phải là người thực hành giáo lý của ta – na me so tena sāsanakaro], tức: do việc không chịu đựng đó, người ấy không phải là người thực hành lời dạy của ta. Tuy nhiên, trong trường hợp này, không có sự vi phạm.

22

♦ 233. aṇuṃ vā thūlaṃ vāti appasāvajjaṃ vā mahāsāvajjaṃ vā. yaṃ tumhe nādhivāseyyāthāti yo tumhehi adhivāsetabbo na bhaveyyāti attho. no hetaṃ, bhanteti, bhante, anadhivāsetabbaṃ nāma vacanapathaṃ na passāmāti adhippāyo. dīgharattaṃ hitāya sukhāyāti iti bhagavā arahattena kūṭaṃ gaṇhanto yathānusandhinā desanaṃ niṭṭhapesīti.

♦ papañcasūdaniyā majjhimanikāyaṭṭhakathāya

♦ kakacūpamasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.

[Tế hay thô], tức: có khiếm khuyết nhỏ hay khiếm khuyết lớn. [Các ông không thể kham nhẫn được điều đó chăng? – yaṃ tumhe nādhivāseyyātha], tức: điều nào nên được kham nhẫn bởi các ông; thì điều đó sẽ không được kham nhẫn bởi các ông chăng? Ý nghĩa là như vậy. [Quả thật, thưa Ngài! Việc đó không (như vậy)], tức: thưa Ngài! Chúng con không xem cách nói đó là không thể được kham nhẫn. Hàm nghĩa là như vậy. [(Dẫn đến) sự an lạc, lợi lạc suốt thời gian dài], Đức Thế Tôn xem tột đỉnh là trạng thái A La Hán và kết thúc bài giảng theo cách liên hệ (với trạng thái đó).

Sự giải thích bài kinh Kakacūpamasutta thuộc bộ Chú Giải Trung Bộ – Papañcasūdanī được hoàn thành.