Kinh số 19 – Giải Thích Kinh Song tầm
(Dvedhāvitakkasuttavaṇṇanā)|
STT |
Pāḷi |
Việt |
|
1 |
♦ 206. me sutanti dvedhāvitakkasuttaṃ. tattha dvidhā katvā dvidhā katvāti dve dve bhāge katvā. kāmavitakkoti kāmapaṭisaṃyutto vitakko. byāpādavitakkoti byāpādapaṭisaṃyutto vitakko. vihiṃsāvitakkoti vihiṃsāpaṭisaṃyutto vitakko. ekaṃ bhāganti ajjhattaṃ vā bahiddhā vā oḷāriko vā sukhumo vā sabbo pāyaṃ vitakko akusalapakkhikoyevāti tayopi kāmabyāpādavihiṃsāvitakke ekaṃ koṭṭhāsamakāsiṃ. kāmehi nissaṭo nekkhammapaṭisaṃyutto vitakko nekkhammavitakko nāma, so yāva paṭhamajjhānā vaṭṭati. abyāpādapaṭisaṃyutto vitakko abyāpādavitakko, so mettāpubbabhāgato paṭṭhāya yāva paṭhamajjhānā vaṭṭati. avihiṃsāpaṭisaṃyutto vitakko avihiṃsāvitakko, so karuṇāpubbabhāgato paṭṭhāya yāva paṭhamajjhānā vaṭṭati. dutiyaṃ bhāganti sabbopāyaṃ kusalapakkhikoyevāti dutiyaṃ koṭṭhāsamakāsiṃ. iminā bodhisattassa vitakkaniggahaṇakālo kathito. |
[(Điều này) được nghe bởi tôi] chỉ đến bài kinh Dvedhāvitakkasutta. Ở đoạn kinh đó, [phân đôi – dvidhā katvā dvidhā katvā] tức: làm thành 2 nhóm. [Dục tư duy – kāmavitakka] tức: tư duy liên hệ đến dục. [Ác ý tư duy – byāpādavitakka] tức tư duy liên hệ đến ác ý. [Hại tư duy – vihiṃsāvitakka] tức tư duy liên hệ đến sự hãm hại. [Một nhóm – ekaṃ bhāgaṃ] tức: ta (Đức Phật) xếp cả 3 tư duy đó – dục, ác ý & hại – thành một loại; (bởi vì) mọi tư duy đó – dù mang tính bên trong hay bên ngoài, thô hay tế – thì đều thuộc nhóm bất thiện. Cái được gọi là [tư duy xuất ly – nekkhammavitakka] là tư duy liên hệ đến sự xuất ly – tức sự thoát ly khỏi các dục. Tư duy đó hoạt động cho đến Sơ Thiền(i). [Tư duy không ác ý – abyāpādavitakka] là tư duy liên hệ đến sự không ác ý. Tư duy đó hoạt động từ giai đoạn sơ khởi của Từ (thiền Tâm Từ) cho đến Sơ Thiền. [Tư duy vô hại – avihiṃsāvitakka] là tư duy liên hệ đến sự vô hại. Tư duy đó hoạt động từ giai đoạn sơ khởi của Bi (thiền Tâm Bi) cho đến Sơ Thiền. [Nhóm thứ 2 – dutiyaṃ bhāgaṃ] tức: ta (Đức Phật) đã xếp (chúng) thành nhóm thứ 2; (bởi vì) mọi tư duy đó đều thuộc nhóm thiện. Thông qua cụm từ đó, Đức Bồ Tát nói đến thời điểm mà Ngài đối trị tư duy(ii). —– (i) Tức hành giả có thể tư duy xuất ly: suy nghĩ, suy xét… về sự xuất ly, sự thoát ly khỏi các dục vào bất kỳ lúc nào phù hợp cho đến đỉnh điểm là lúc nhập Sơ Thiền. (ii) Tức Ngài đối trị các tư duy bất thiện bằng các tư duy thiện. |
|
2 |
♦ bodhisattassa hi chabbassāni padhānaṃ padahantassa nekkhammavitakkādayo puñjapuñjā mahānadiyaṃ oghā viya pavattiṃsu. satisammosena pana sahasā kāmavitakkādayo uppajjitvā kusalavāraṃ pacchinditvā sayaṃ akusalajavanavārā hutvā tiṭṭhanti. tato bodhisatto cintesi — “mayhaṃ ime kāmavitakkādayo kusalavāraṃ pacchinditvā tiṭṭhanti, handāhaṃ ime vitakke dve bhāge katvā viharāmī”ti kāmavitakkādayo akusalapakkhikāti ekaṃ bhāgaṃ karoti nekkhammavitakkādayo kusalapakkhikāti ekaṃ. atha puna cintesi — “akusalapakkhato āgataṃ vitakkaṃ mantena kaṇhasappaṃ uppīḷetvā gaṇhanto viya amittaṃ gīvāya akkamanto viya ca niggahessāmi, nāssa vaḍḍhituṃ dassāmi. kusalapakkhato āgataṃ vitakkaṃ meghasamaye meghaṃ viya sukhette sālakalyāṇipotakaṃ viya ca sīghaṃ vaḍḍhessāmī”ti. so tathā katvā akusalavitakke niggaṇhi, kusalavitakke vaḍḍhesi. evaṃ iminā bodhisattassa vitakkaniggahaṇanakālo kathitoti veditabbo. |
Bởi vì trong khi Đức Bồ Tát nỗ lực suốt 6 năm, các tư duy xuất ly vân vân (của Ngài) hoạt động giống như những dòng lũ vô cùng lớn lao trên một con sông lớn. Tuy nhiên, do việc thất niệm (của Ngài), dục tư duy vân vân đột nhiên sinh lên, cắt đứt cơ hội của (các loại tâm) thiện để rồi chính chúng tồn tại (trong dòng tương tục tâm) nhờ (đạt được) cơ hội cho các tốc hành tâm bất thiện. Do đó, Đức Bồ Tát đã nghĩ rằng: ‘Những dục tư duy vân vân ấy cắt đứt cơ hội của (các loại tâm) thiện rồi đang tồn tại cho ta; vậy thì ta hãy sống dựa vào việc chia các tư duy ấy thành 2 phần.’ Ngài xếp dục tư duy vân vân thành một nhóm (do) ‘chúng thuộc loại bất thiện.’ Ngài xếp tư duy xuất ly vân vân thành một nhóm (do) ‘chúng thuộc loại thiện.’ Thế rồi, Ngài lại nghĩ rằng: ‘Ta sẽ kềm chế tư duy xuất hiện từ phe bất thiện, ta sẽ không cho (nó) tăng trưởng giống như người dẫm lên kẻ thù ở nơi cổ, giống như người nắm con rắn hung ác bằng cách trấn áp (nó) bằng thần chú. Ta sẽ nhanh chóng phát triển tư duy xuất hiện từ phe thiện giống như cây Sāla nhỏ đẹp ở cánh đồng tốt tươi, giống như mây trong mùa mưa.’ Ngài đã kềm chế các tư duy bất thiện, phát triển các tư duy thiện bằng cách làm như thế. Như vậy, thông qua cụm từ đó, Đức Bồ Tát nói đến thời điểm mà Ngài đối trị tư duy. (Điều đó) nên được hiểu như vậy. |
|
3 |
♦ 207. idāni yathāssa te vitakkā uppajjiṃsu, yathā ca ne niggahesi, taṃ dassento tassa mayhaṃ, bhikkhavetiādimāha. tattha appamattassāti satiyā avippavāse ṭhitassa. ātāpinoti ātāpavīriyavantassa. pahitattassāti pesitacittassa. uppajjati kāmavitakkoti bodhisattassa chabbassāni padhānaṃ padahato rajjasukhaṃ vā ārabbha, pāsāde vā nāṭakāni vā orodhe vā kiñcideva vā sampattiṃ ārabbha kāmavitakko nāma na uppannapubbo. dukkarakārikāya panassa āhārūpacchedena adhimattakasimānaṃ pattassa etadahosi — “na sakkā āhārūpacchedena visesaṃ nibbattetuṃ, yaṃnūnāhaṃ oḷārikaṃ āhāraṃ āhāreyyan”ti. so uruvelaṃ piṇḍāya pāvisi. manussā — “mahāpuriso pubbe āharitvā dinnampi na gaṇhi, addhāssa idāni manoratho matthakaṃ patto, tasmā sayameva āgato”ti paṇītapaṇītaṃ āhāraṃ upahariṃsu. bodhisattassa attabhāvo nacirasseva pākatiko ahosi. jarājiṇṇattabhāvo hi sappāyabhojanaṃ labhitvāpi pākatiko na hoti. bodhisatto pana daharo. tenassa sappāyabhojanaṃ bhuñjato attabhāvo na cirasseva pākatiko jāto, vippasannāni indriyāni, parisuddho chavivaṇṇo, samuggatatārāgaṇaṃ viya nabhaṃ paripuṇṇadvattiṃsamahāpurisalakkhaṇappaṭimaṇḍitasarīraṃ ahosi. so taṃ oloketvā “tāva kilanto nāma attabhāvo evaṃ paṭipākatiko jāto”ti cintetvā attano paññāmahantatāya evaṃ parittakampi vitakkaṃ gahetvā kāmavitakkoti akāsi. |
Giờ đây, (Đức Phật) đã nói [này các Tỳ Kheo! Trong khi chính ta…] vân vân để trình bày phương thức các tư duy ấy sinh lên cho Ngài cũng như phương thức Ngài đã kềm chế chúng. Ở đoạn kinh đó, [không dễ duôi – appamattassa] tức: [không xa rời Niệm – satiyā avippavāse ṭhitassa]. [Nhiệt tâm – ātāpino] tức: có tinh tấn mãnh liệt. [Quyết tâm – pahitattassa] tức: có tâm được định hướng. [Dục tư duy sinh lên] tức: trong khi Đức Bồ Tát nỗ lực suốt 6 năm; quả thực, dục tư duy về lạc của vua chúa, về các toà lâu đài, về ca múa, về phi tần hay về bất kỳ thành tựu nào cũng chưa từng sinh lên (cho Ngài). Tuy nhiên, do việc thực hành khổ hạnh, Ngài đi đến tình trạng gầy ốm bởi Ngài tuyệt thực và (suy nghĩ) này xảy đến cho Ngài: ‘Ta không thể tạo nên thành quả bằng việc tuyệt thực; hay là ta hãy ăn vật thực thô!’ Ngài đã đi vào thị trấn Uruvelā để khất thực. Người dân mang đến vật thực tuyệt hảo (cho Ngài) với suy nghĩ rằng ‘Trước đây, vị đại nhân này không nhận thí vật (do chúng ta) mang đến; giờ đây, chắc hẳn nguyện vọng của vị ấy đã đến hồi kết thúc; do đó, chính vị ấy tự mình đến đây.’ Thể trạng cá nhân của Đức Bồ Tát đã trở nên bình thường chỉ sau một thời gian ngắn. Bởi vì thể trạng cá nhân của người già cỗi do tuổi già dẫu tiếp nhận vật thực tốt cũng không trở nên bình thường được. Nhưng Đức Bồ Tát còn trẻ. Do đó, khi Ngài ăn vật thực tốt, thể trạng cá nhân (của Ngài) chẳng bao lâu trở nên bình thường; các căn trở nên an tịnh; màu da trở nên trong sáng; thân thể gồm đầy đủ 32 đặc điểm của bậc đại nhân (của Ngài) trở nên giống như bầu trời có các chòm sao đã mọc. Ngài nhìn (thân thể) đó; nghĩ rằng ‘Thể trạng cá nhân (của ta) kiệt quệ đến thế đã trở nên bình thường như vầy’; thông qua sự vĩ đại của trí tuệ của mình, (Ngài) nắm bắt được cái tư duy nhỏ nhặt đến thế (của mình) rồi xác định ‘(Đó là) dục tư duy.’ |
|
4 |
♦ paṇṇasālāya purato nisinno camarapasadagavayarohitamigādike magagaṇe manuññasaddaravane moravanakukkuṭādike pakkhigaṇe nīluppalakumudakamalādisañchannāni pallalāni nānākusumasañchannaviṭapā vanarājiyo maṇikkhandhanimmalajalapavāhañca nadiṃ nerañjaraṃ passati. tassa evaṃ hoti “sobhanā vatime migajātā pakkhigaṇā pallalāni vanarājiyo nadī nerañjarā”ti. so tampi evaṃ parittakaṃ vitakkaṃ gahetvā kāmavitakkamakāsi, tenāha “uppajjati kāmavitakko”ti. |
Trong khi ngồi trước nơi ẩn cư, Ngài nhìn dòng sông Nerañjarā có dòng nước chảy trong suốt như khối ngọc; những dãy rừng xanh thẫm với những cành cây đầy những bông hoa đa dạng; những hồ nhỏ đầy hoa sen, huệ nước trắng, huệ nước xanh vân vân; những đàn chim như gà rừng, công vân vân với những tiếng kêu gáy thích ý; những bầy thú 4 chân như bò Camara, hươu Pasada, bò Gavaya, hươu Rohita vân vân. (Suy nghĩ) như vầy xảy đến cho Ngài: ‘Ôi! Dòng sông Nerañjarā, những dãy rừng, những hồ nhỏ, những đàn chim, những loài thú ấy thật xinh đẹp.’ Ngài nắm bắt được cái tư duy nhỏ nhặt đến thế đó (của mình) rồi xác định ‘(Đó là) dục tư duy.’ Do đó, Ngài đã nói rằng: ‘Dục tư duy sinh lên.’ |
|
5 |
♦ attabyābādhāyapīti attadukkhāyapi. esevanayo sabbattha. kiṃ pana mahāsattassa ubhayadukkhāya saṃvattanakavitakko nāma atthīti? natthi. apariññāyaṃ ṭhitassa pana vitakko yāva ubhayabyābādhāya saṃvattatīti etāni tīṇi nāmāni labhati, tasmā evamāha. paññānirodhikoti anuppannāya lokiyalokuttarāya paññāya uppajjituṃ na deti, lokiyapaññaṃ pana aṭṭhasamāpattipañcābhiññāvasena uppannampi samucchinditvā khipatīti paññānirodhiko. vighātapakkhikoti dukkhakoṭṭhāsiko. asaṅkhataṃ nibbānaṃ nāma, taṃ paccakkhaṃ kātuṃ na detīti anibbānasaṃvattaniko. abbhatthaṃ gacchatīti khayaṃ natthibhāvaṃ gacchati. udakapupphuḷako viya nirujjhati. pajahamevāti pajahimeva. vinodamevāti nīharimeva. byantameva naṃ akāsinti vigatantaṃ nissesaṃ parivaṭumaṃ paricchinnameva naṃ akāsiṃ. |
[Đến sự hại bản thân – attabyābādhāyapi] tức: đến sự khổ cho bản thân. Chính phương pháp (giải nghĩa) đó (nên được áp dụng) ở mọi chỗ (liên quan). Nhưng liệu loại tư duy dẫn đến sự khổ cho cả 2 (mình và chúng sinh khác) có xảy đến cho bậc đại chúng sinh không? Không xảy đến. Tuy nhiên, tư duy của người chưa thấu triệt dẫn đến cả sự khổ cho cả 2 (mình và chúng sinh khác); (cho nên) tư duy của người chưa thấu triệt có 3 tên gọi đó(i). Do đó, Đức Bồ Tát đã nói như vậy. [Ngăn chặn trí tuệ – paññānirodhika] tức: (nó) không cho trí tuệ hiệp thế & siêu thế chưa sinh sinh lên. Hơn nữa, [ngăn chặn trí tuệ – paññānirodhika] còn có nghĩa: (nó) cắt đứt rồi huỷ diệt trí tuệ hiệp thế đã sinh lên dựa vào 8 thiền chứng & 5 thần thông. [Thuộc loại áp bức – vighātapakkhika] tức: thuộc nhóm khổ. [Không dẫn tới Niết Bàn – anibbānasaṃvattanika] tức: pháp vô vi được gọi là Niết Bàn; (dục tư duy) không cho pháp ấy hiển hiện. [(Nó) đi đến sự biến mất – abbhatthaṃ gacchati] tức: (nó) đi đến sự tuyệt diệt, trạng thái bất tồn. (Nó) biến mất giống như bong bóng nước. [(Ta) đã từ bỏ – pajahameva] tức: [(ta) đã từ bỏ – pajahimeva]. [(Ta) đã loại trừ – vinodameva] tức: [(ta) đã loại bỏ – nīharimeva]. [(Ta) đã làm nó chấm dứt – byantameva naṃ akāsiṃ] tức: (ta) đã làm nó mất đi hoàn toàn, (làm nó) bị khu biệt, (làm nó) bị cắt đứt. —– (i) Tức tư duy dẫn đến sự hại bản thân [attabyābādha]; tư duy dẫn đến sự hại chúng sinh khác [parabyābādha]; tư duy dẫn đến sự hại cả 2 [ubhayabyābādha]. |
|
6 |
♦ 208. byāpādavitakkoti na bodhisattassa parūpaghātappaṭisaṃyutto nāma vitakko citte uppajjati, athassa ativassāccuṇhātisītādīni pana paṭicca cittavipariṇāmabhāvo hoti, taṃ sandhāya “byāpādavitakko”ti āha. vihiṃsāvitakkoti na mahāsattassa paresaṃ dukkhuppādanappaṭisaṃyutto vitakko uppajjati, citte pana uddhatākāro anekaggatākāro hoti, taṃ gahetvā vihiṃsāvitakkamakāsi. paṇṇasālādvāre nisinno hi sīhabyagghādike vāḷamige sūkarādayo khuddamige vihiṃsante passati. atha bodhisatto imasmimpi nāma akutobhaye araññe imesaṃ tiracchānagatānaṃ paccatthikā uppajjanti, balavanto dubbale khādanti, balavantakhāditā vattantīti kāruññaṃ uppādeti. aññepi biḷārādayo kukkuṭamūsikādīni khādante passati, gāmaṃ piṇḍāya paviṭṭho manusse rājakammikehi upaddute vadhabandhādīni anubhavante attano kasivaṇijjādīni kammāni katvā jīvituṃ na labhantīti kāruññaṃ uppādeti, taṃ sandhāya “uppajjati vihiṃsāvitakko”ti āha. tathā tathāti tena tena ākārena. idaṃ vuttaṃ hoti — kāmavitakkādīsu yaṃ yaṃ vitakketi, yaṃ yaṃ vitakkaṃ pavatteti, tena tene cassākārena kāmavitakkādibhāvo cetaso na hi hotīti. pahāsi nekkhammavitakkanti nekkhammavitakkaṃ pajahati. bahulamakāsīti bahulaṃ karoti. tassa taṃ kāmavitakkāya cittanti tassa taṃ cittaṃ kāmavitakkatthāya. yathā kāmavitakkasampayuttaṃ hoti, evamevaṃ namatīti attho. sesapadesupi eseva nayo. |
[Ác ý tư duy – byāpādavitakka] tức: quả thật, tư duy liên kết với sự làm hại chúng sinh khác không sinh lên trong tâm của Đức Bồ Tát. Vậy nhưng, trạng thái biến đổi tâm do việc mưa nhiều, sự nóng quá, sự lạnh quá vân vân cũng xảy đến cho Ngài. Ngài đã nói: (cụm từ) ‘ác ý tư duy’ liên quan đến điều đó. [Hại tư duy – vihiṃsāvitakka] tức: tư duy liên kết với việc gây khổ cho những chúng sinh khác không sinh lên cho bậc Đại Chúng Sinh. Tuy nhiên, trạng thái dao động, trạng thái phân tâm xảy đến trong tâm của Ngài. Ngài nắm bắt nó rồi xác định ‘(đó là) hại tư duy.’ Bởi vì khi ngồi ở ngưỡng cửa của nơi ẩn cư; Ngài nhìn thấy những mãnh thú như sư tử, cọp vân vân hãm hại những con thú nhỏ như heo vân vân. Thế rồi, Đức Bồ Tát khởi lên sự bi mẫn rằng ‘Dẫu ở trong khu rừng không có sự sợ hãi này, các sự thù nghịch vẫn sinh lên cho các loài súc sinh này. Những con thú mạnh ăn những con thú yếu. Những con thú yếu bị ăn bởi những con thú mạnh.’ Ngài nhìn thấy cả những con thú khác như mèo vân vân ăn những con gà, chuột vân vân. Sau khi đi vào làng để khất thực, Ngài khởi lên sự bi mẫn đối với những người bị chèn ép bởi các quan lại hoàng gia, những người đang chịu các hình phạt, ngục tù vân vân; những người làm các nghề nghiệp của mình như nghề nông, nghề buôn vân vân mà vẫn không thể (đủ) sống. Ngài đã nói (cụm từ) ‘hại tư duy sinh lên’ liên quan đến điều đó. [Như vậy như kia – tathā tathā] tức: theo phương thức nọ (phương thức) kia. Điều này đã được nói: ‘(Người ta) tư duy đến điều nào đó trong số các dục tư duy vân vân, tư duy nào đó (trong số các dục tư duy vân vân) diễn tiến (cho người ta); thì khuynh hướng – tức trạng thái dục tư duy vân vân – xảy đến trong tâm cho người ta theo phương thức đó.’ [(Vị ấy) từ bỏ tư duy xuất ly – pahāsi nekkhammavitakkaṃ] tức: [(vị ấy) từ bỏ tư duy xuất ly – nekkhammavitakkaṃ pajahati]. [(Vị ấy) củng cố – bahulamakāsi] tức: [(vị ấy) củng cố – bahulaṃ karoti]. [Tâm đó của vị ấy (hướng đến) dục tư duy – tassa taṃ kāmavitakkāya cittaṃ] tức: tâm đó của vị ấy (hướng đến) mục tiêu là dục tư duy. (Tâm đó của vị ấy) liên kết với dục tư duy như thế nào; thì nó hướng đến (dục tư duy) hệt như thế ấy. Ý nghĩa là như vậy. Cũng chính phương pháp (giải nghĩa) đó (nên được áp dụng) ở những câu còn lại. |
|
7 |
♦ idāni atthadīpikaṃ upamaṃ dassento seyyathāpī tiādimāha. tattha kiṭṭhasambādheti sassasambādhe. ākoṭeyyāti ujukaṃ piṭṭhiyaṃ pahareyya. paṭikoṭeyyāti tiriyaṃ phāsukāsu pahareyya. sannirundheyyāti āvaritvā tiṭṭheyya. sannivāreyyāti ito cito ca gantuṃ na dadeyya. tatonidānanti tena kāraṇena, evaṃ arakkhitānaṃ gunnaṃ paresaṃ sassakhādanakāraṇenāti attho. bālo hi gopāloko evaṃ gāvo arakkhamāno “ayaṃ amhākaṃ bhattavetanaṃ khādati, ujuṃ gāvo rakkhitumpi na sakkoti, kulehi saddhiṃ veraṃ gaṇhāpetī”ti gosāmikānampi santikā vadhādīni pāpuṇāti, kiṭṭhasāmikānampi. paṇḍito pana imāni cattāri bhayāni sampassanto gāvo sādhukaṃ rakkhati, taṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ. ādīnavanti upaddavaṃ. okāranti lāmakaṃ, khandhesu vā otāraṃ. saṃkilesanti kiliṭṭhabhāvaṃ. nekkhammeti nekkhammamhi. ānisaṃsanti visuddhipakkhaṃ. vodānapakkhanti idaṃ tasseva vevacanaṃ, kusalānaṃ dhammānaṃ nekkhammamhi visuddhipakkhaṃ addasanti attho. |
Giờ đây, Ngài đã nói [cũng giống như – seyyathāpi] vân vân để trình bày ví dụ soi sáng ý nghĩa (của điều đó). Ở đoạn kinh đó, [vào lúc ngũ cốc sum xuê – kiṭṭhasambādhe] tức: [vào lúc ngũ cốc sum xuê – sassasambādhe]. [(Người ấy) đập – ākoṭeyya] tức: (người ấy) đánh thẳng vào lưng. [(Người ấy) quất – paṭikoṭeyya] tức: (người ấy) đánh ngang vào các xương sườn. [(Người ấy) kềm giữ – sannirundheyya] tức: (người ấy) ngăn cản. [(Người ấy) ngăn giữ – sannivāreyya] tức: (người ấy) không cho (đàn bò) đi chỗ này chỗ kia. [Do nguyên nhân đó – tatonidānaṃ] tức: [do nguyên nhân đó – tena kāraṇena], do nguyên nhân là việc ăn ngũ cốc của những người khác bởi những con bò không được canh phòng như thế. Ý nghĩa là như vậy. Bởi vì một người chăn bò dốt nát do không canh phòng đàn bò như thế, (khiến những người chủ nghĩ rằng) ‘Kẻ (chăn bò) này hưởng vật thực, thù lao của chúng ta mà không thể canh phòng đàn bò một cách đúng đắn. Nó khiến các gia đình xích mích nhau’; rồi rơi vào cảnh bị đánh đập vân vân bởi những người chủ bò và những người chủ ngũ cốc. Còn người chăn bò hiểu biết do nhìn thấy 4 sự nguy hiểm đó nên canh phòng đàn bò một cách chu đáo. (Cụm từ) đó được nói liên quan đến điều đó. [Sự nguy hiểm – ādīnava] tức: [sự nguy hại – upaddava]. [Sự thấp kém – okāra] tức: sự thấp thỏi, hoặc sự đi xuống các uẩn(i). [Phiền não – saṃkilesa] tức: trạng thái không trong sạch. [Về mặt xuất ly – nekkhamme] tức: [về mặt xuất ly – nekkhammamhi]. [Lợi ích – ānisaṃsa] tức: (lợi ích) theo kiểu thanh tịnh. [Phương diện thanh khiết – vodānapakkha] tức: quả thật, ta (Đức Phật) đã thấy phương diện thanh tịnh (visuddhipakkha) về mặt xuất ly (nekkhamma) của các thiện pháp; từ đó (vodānapakkha) chính là là từ đồng nghĩa với từ này (visuddhipakkha). Ý nghĩa là như thế. —– (i) [khandhesu vā otāraṃ], lối nói ẩn dụ: đi xuống các uẩn tức hướng đến các uẩn, không hướng đến Niết Bàn. |
|
8 |
♦ 209. nekkhammanti ca kāmehi nissaṭaṃ sabbakusalaṃ, ekadhamme saṅgayhamāne nibbānameva. tatridaṃ opammasaṃsandanaṃ — kiṭṭhasambādhaṃ viya hi rūpādiārammaṇaṃ, kūṭagāvo viya kūṭacittaṃ, paṇḍitagopālako viya bodhisatto, catubbidhabhayaṃ viya attaparūbhayabyābādhāya saṃvattanavitakko, paṇḍitagopālakassa catubbidhaṃ bhayaṃ disvā kiṭṭhasambādhe appamādena gorakkhaṇaṃ viya bodhisattassa chabbassāni padhānaṃ padahato attabyābādhādibhayaṃ disvā rūpādīsu ārammaṇesu yathā kāmavitakkādayo na uppajjanti, evaṃ cittarakkhaṇaṃ. paññāvuddhikotiādīsu anuppannāya lokiyalokuttarapaññāya uppādāya, uppannāya ca vuddhiyā saṃvattatīti paññāvuddhiko. na dukkhakoṭṭhāsāya saṃvattatīti avighātapakkhiko. nibbānadhātusacchikiriyāya saṃvattatīti nibbānasaṃvattaniko. rattiṃ cepi naṃ, bhikkhave, anuvitakkeyyanti sakalarattiṃ cepi taṃ vitakkaṃ pavatteyyaṃ. tatonidānanti taṃmūlakaṃ. ohaññeyyāti ugghātīyeyya, uddhaccāya saṃvatteyyāti attho. ārāti dūre. samādhimhāti upacārasamādhitopi appanāsamādhitopi. so kho ahaṃ, bhikkhave, ajjhattameva cittanti so ahaṃ, bhikkhave, mā me cittaṃ samādhimhā dūre hotūti ajjhattameva cittaṃ saṇṭhapemi, gocarajjhatte ṭhapemīti attho. sannisādemīti tattheva ca naṃ sannisīdāpemi. ekodiṃ karomīti ekaggaṃ karomi. samādahāmīti sammā ādahāmi, suṭṭhu āropemīti attho. mā me cittaṃ ūhaññīti mā mayhaṃ cittaṃ ugghātīyittha, mā uddhaccāya saṃvattatūti attho. |
[Sự xuất ly – nekkhamma], mọi thiện pháp đều có tính cách ly khỏi các dục; nếu tóm gọn về một pháp, thì (pháp đó) chính là Niết Bàn(i). Ở đoạn kinh đó, đây là sự áp dụng ví dụ: quả thật, cánh đồng sai trĩu thì giống như đối tượng sắc vân vân; những con bò hoang dã thì giống như cái tâm hoang dã; người chăn bò có trí thì giống như Đức Bồ Tát; tư duy dẫn tới sự hại bản thân, sự hại chúng sinh khác, sự hại cả 2 thì giống như 4 loại nguy hiểm; sự việc người chăn bò có trí phòng hộ đàn bò một cách không dễ duôi ở cánh đồng sai trĩu sau khi nhìn thấy 4 loại nguy hiểm thì giống như sự việc Đức Bồ Tát nỗ lực suốt 6 năm. Trong lúc Đức Bồ Tát nỗ lực (như thế) sau khi nhìn thấy mối nguy hiểm từ sự hại bản thân vân vân, dục tư duy vân vân (của Ngài) không sinh lên đối với các đối tượng sắc vân vân như thế nào; thì sự phòng hộ tâm (của Ngài) cũng (diễn ra) như thế ấy. Ở cụm từ [tăng trưởng Tuệ – paññāvuddhika] vân vân, [tăng trưởng Tuệ – paññāvuddhika] tức: (tư duy ấy) dẫn đến sự sinh lên của Tuệ hiệp thế và siêu thế chưa sinh lên; cũng như (dẫn đến) sự tăng trưởng của Tuệ hiệp thế và siêu thế đã sinh lên. [Thuộc loại không áp bức – avighātapakkhika] tức: (tư duy ấy) không dẫn đến các dạng khổ. [Dẫn đến Niết Bàn – nibbānasaṃvattanika] tức: (tư duy ấy) dẫn đến sự thực chứng Niết Bàn Giới. [Này các Tỳ Kheo! Và nếu ta tư duy điều đó suốt đêm] tức: và nếu ta để tư duy đó diễn tiến trọn cả đêm. [Do nguyên nhân đó – tatonidānaṁ] tức: do cơ sở đó. [(Tâm ta) hỗn độn – ohaññeyya] tức: xáo động, dẫn tới sự bồn chồn. Ý nghĩa là như vậy. [Cách xa – ārā] tức: [xa – dūre]. [Khỏi Định – samādhimhā] tức: [khỏi Cận Định – upacārasamādhito] và [khỏi An Chỉ Định – appanāsamādhito]. [Này các Tỳ Kheo! Rồi chính ta… tâm bên trong – so kho ahaṃ, bhikkhave, ajjhattameva cittaṃ] tức: này các Tỳ Kheo! Chính ta (với suy nghĩ rằng) ‘Tâm của mình chớ ở xa khỏi Định!’, (ta) ổn định tâm ở ngay bên trong; (ta) thiết lập tâm ở phạm vi bên trong. Ý nghĩa là như vậy. [(Ta) làm (tâm) an tĩnh – sannisādemi] tức: ta làm tâm an tĩnh ngay tại đó. [(Ta) tập trung – ekodiṃ karomi] tức: ta khiến (tâm) trở thành nhất điểm. [(Ta) an định (tâm) – samādahāmi] tức: ta ổn định (tâm) một cách trọn vẹn; ta chuẩn bị (tâm) một cách tốt đẹp. Ý nghĩa là như vậy. [Tâm của ta chớ hỗn độn – mā me cittaṃ ūhaññi] tức: tâm của ta chớ xáo động, chớ dẫn đến sự bồn chồn. Ý nghĩa là như vậy. —– (i) Tức nếu nói về ý niệm xuất ly [nekkhamma] một cách chung chung thì ý niệm này có thể ứng cho mọi thiện pháp, vì thiện pháp nào cũng xuất ly khỏi dục. Nhưng Niết Bàn mới là pháp xuất ly tối cao. |
|
9 |
♦ 210. uppajjati abyāpādavitakko … pe … avihiṃsāvitakkoti ettha yo so imāya heṭṭhā vuttataruṇavipassanāya saddhiṃ uppannavitakko kāmapaccanīkaṭṭhena nekkhammavitakkoti vutto. soyeva byāpādapaccanīkaṭṭhena abyāpādavitakkoti ca vihiṃsāpaccanīkaṭṭhena avihiṃsāvitakkoti ca vutto. |
[Tư duy không ác ý… tư duy bất hại… sinh lên], ở đoạn kinh đó, bên dưới (cụm từ) đó, chính cái nào là tư duy sinh lên cùng với tuệ Vipassanā sơ kỳ đã được nói thì cái đó được gọi là [tư duy xuất ly – nekkhammavitakka] do sự đối nghịch của nó với dục. Chính cái nào là tư duy sinh lên cùng với tuệ Vipassanā sơ kỳ đã được nói thì cái đó được gọi là [tư duy không ác ý – abyāpādavitakka] do sự đối nghịch của nó với sự ác ý. Chính cái nào là tư duy sinh lên cùng với tuệ Vipassanā sơ kỳ đã được nói thì cái đó được gọi là [tư duy bất hại – avihiṃsāvitakka] do sự đối nghịch của nó với sự hại. |
|
10 |
♦ ettāvatā bodhisattassa samāpattiṃ nissāya vipassanāpaṭṭhapanakālo kathito. yassa hi samādhipi taruṇo, vipassanāpi. tassa vipassanaṃ paṭṭhapetvā aticiraṃ nisinnassa kāyo kilamati, anto aggi viya uṭṭhahati, kacchehi sedā muccanti, matthakato usumavaṭṭi viya uṭṭhahati, cittaṃ haññati vihaññati vipphandati. so puna samāpattiṃ samāpajjitvā taṃ paridametvā mudukaṃ katvā samassāsetvā puna vipassanaṃ paṭṭhapeti. tassa puna aticiraṃ nisinnassa tatheva hoti. so puna samāpattiṃ samāpajjitvā tatheva karoti. vipassanāya hi bahūpakārā samāpatti. |
Trong phạm vi (đoạn kinh) đó, (Đức Phật) đã nói đến giai đoạn Bồ Tát củng cố tuệ Vipassanā dựa trên tầng Định. Quả thật, (khi ấy) Định lẫn tuệ Vipassanā của Bồ Tát đều non nớt. Khi Ngài ngồi củng cố tuệ Vipassanā quá lâu, thân của Ngài mỏi mệt; ruột của Ngài cồn cào như lửa; mồ hôi của Ngài thoát ra từ nách; luồng nhiệt bốc lên từ đầu Ngài; tâm của Ngài bị áp bức, bị hành hạ, bức bối. Ngài lại nhập vào tầng Định; thuần phục tâm mình; làm tâm mình nhu nhuyến; Ngài an ổn rồi lại củng cố tuệ Vipassanā. Ngài lại ngồi thật lâu, sự việc hệt như thế lại xảy đến. Ngài lại nhập vào tầng Định rồi làm hệt như vậy. Quả thật, tầng Định hỗ trợ nhiều cho tuệ Vipassanā. |
|
11 |
♦ yathā yodhassa phalakakoṭṭhako nāma bahūpakāro hoti, so taṃ nissāya saṅgāmaṃ pavisati, tattha hatthīhipi assehipi yodhehipi saddhiṃ kammaṃ katvā āvudhesu vā khīṇesu bhuñjitukāmatādibhāve vā sati nivattitvā phalakakoṭṭhakaṃ pavisitvā āvudhānipi gaṇhāti, vissamatipi, bhuñjatipi, pānīyampi pivati, sannāhampi paṭisannayhati, taṃ taṃ katvā puna saṅgāmaṃ pavisati, tattha kammaṃ katvā puna uccārādipīḷito vā kenacideva vā karaṇīyena phalakakoṭṭhakaṃ pavisati. tattha santhambhitvā puna saṅgāmaṃ pavisati, evaṃ yodhassa phalakakoṭṭhako viya vipassanāya bahūpakārā samāpatti. |
Giống như toà vệ thành thì hỗ trợ nhiều cho người lính. Người lính dựa vào nó mà đi vào chiến trận. Tại đó (tại chiến trận), người ấy thực hiện nhiệm vụ cùng với lũ voi, lũ ngựa và những người lính khác; khi lượng vũ khí đã cạn kiệt hay cơn thèm ăn vân vân xảy đến (cho người ấy), người ấy rút lui; đi vào toà vệ thành rồi lấy các vũ khí, nghỉ ngơi, ăn, uống nước hay mặc giáp. Người ấy làm việc này việc kia rồi lại đi vào chiến trận. Tại đó (tại chiến trận), người ấy thực hiện nhiệm vụ; bị bức bách bởi việc đại tiểu tiện vân vân hay bất kỳ việc cần phải làm nào đó, người ấy lại đi vào toà vệ thành. Tại đó (tại toà vệ thành), người ấy củng cố mình rồi lại bước vào chiến trận. Toà vệ thành hỗ trợ nhiều cho người lính như vậy giống như tầng Định hỗ trợ nhiều cho tuệ Vipassanā. |
|
12 |
♦ samāpattiyā pana saṅgāmanittharaṇakayodhassa phalakakoṭṭhakatopi vipassanā bahūpakāratarā. kiñcāpi hi samāpattiṃ nissāya vipassanaṃ paṭṭhapeti, vipassanā pana thāmajātā samāpattimpi rakkhati. thāmajātaṃ karoti. |
Thế nhưng, tuệ Vipassanā còn hỗ trợ nhiều hơn cho tầng Định giống như toà vệ thành (hỗ trợ nhiều) cho người lính vượt qua chiến trận. Bởi vì mặc dù hành giả củng cố tuệ Vipassanā dựa vào tầng Định; nhưng tuệ Vipassanā mạnh mẽ cũng bảo vệ tầng Định. Nó làm (tầng Định) trở nên mạnh mẽ. |
|
13 |
♦ yathā hi thale nāvampi nāvāya bhaṇḍampi sakaṭabhāraṃ karonti. udakaṃ patvā pana sakaṭampi sakaṭabhaṇḍampi yuttagoṇepi nāvābhāraṃ karonti. nāvā tiriyaṃ sotaṃ chinditvā sotthinā supaṭṭanaṃ gacchati, evamevaṃ kiñcāpi samāpattiṃ nissāya vipassanaṃ paṭṭhapeti, vipassanā pana thāmajātā samāpattimpi rakkhati, thāmajātaṃ karoti. thalaṃ patvā sakaṭaṃ viya hi samāpatti. udakaṃ patvā nāvā viya vipassanā. iti bodhisattassa ettāvatā samāpattiṃ nissāya vipassanāpaṭṭhapanakālo kathitoti veditabbo. |
Quả thật, giống như trên cạn, người ta xem thuyền là thuyền và hàng hoá là tải trọng của chiếc xe(i). Nhưng khi xuống nước, người ta xem chiếc xe, hàng hoá trên xe, những con bò được đóng ách (vào chiếc xe) là tải trọng của chiếc thuyền. Chiếc thuyền vượt dòng nước, di chuyển an toàn đến bến cảng. Cũng giống như vậy, mặc dù hành giả củng cố tuệ Vipassanā dựa vào tầng Định; thế nhưng, tuệ Vipassanā mạnh mẽ cũng bảo vệ tầng Định, làm (tầng Định) trở nên mạnh mẽ. Quả thật, tầng Định thì giống như chiếc xe ở trên cạn; tuệ Vipassanā thì giống như chiếc thuyền ở dưới nước. Như vậy, Đức Bồ Tát đã nói đến giai đoạn củng cố tuệ Vipassanā dựa vào tầng Định trong phạm vi (đoạn kinh) đó. Điều đó nên được hiểu như thế. —– (i) Tức ví dụ ở đây lấy bối cảnh về vận tải. Người ta chất hàng lên xe bò, rồi đưa xe bò xuống thuyền để đi đường sông. |
|
14 |
♦ yaññadevātiādi kaṇhapakkhe vuttānusāreneva veditabbaṃ, idhāpi atthadīpikaṃ upamaṃ dassetuṃ seyyathāpītiādimāha. tattha gāmantasambhatesūti gāmantaṃ āhaṭesu. satikaraṇīyameva hotīti etā gāvoti satiuppādanamattameva kātabbaṃ hoti. ito cito ca gantvā ākoṭanādikiccaṃ natthi. ete dhammāti ete samathavipassanā dhammāti satuppādanamattameva kātabbaṃ hoti. iminā bodhisattassa samathavipassanānaṃ thāmajātakālo kathito. tadā kirassa samāpattiṃ appanatthāya nisinnassa aṭṭha samāpattiyo ekāvajjanena āpāthaṃ āgacchanti, vipassanaṃ paṭṭhapetvā nisinno satta anupassanā ekappahāreneva āruḷho hoti. |
Cụm từ [yaññadeva] vân vân nên được hiểu (tương tự) theo điều đã được nói ở đoạn kinh tiêu cực(i); và ở đây, (Đức Phật) đã nói [và giống như – seyyathāpi] vân vân để trình bày ví dụ soi sáng ý nghĩa. Ở đoạn kinh đó, [(khi ngũ cốc) đã được gom trữ tại một góc làng – gāmantasambhatesu] tức: đã được mang đến một góc làng. [Có nghĩa vụ phải ghi nhớ ‘những con bò này’ – satikaraṇīyameva hoti etā gāvoti] tức: có nhiệm vụ – chính là việc khởi trí nhớ. Hoặc khi (người chăn bò & bầy bò) đi chỗ này chỗ kia, (người chăn bò) không phải đánh (bầy bò) vân vân. [Các pháp này – ete dhammā] tức: có nghĩa vụ phải khởi trí nhớ về ‘các pháp Samatha & Vipassanā’ này. Thông qua cụm từ đó, (Đức Phật) nói đến giai đoạn thành thục về Samatha & Vipassanā của Đức Bồ Tát. Quả thật, khi đó, nếu Đức Bồ Tát ngồi để (đạt đến) mức độ An Chỉ của tầng Định; thì (chỉ) bằng một hướng tâm (ekāvajjana), 8 tầng Định xuất hiện (cho Ngài). Ngài ngồi củng cố tuệ Vipassanā rồi tiến hành 7 loại quán chỉ trong cái chớp mắt. —– (i) Tức đoạn kinh nói về suy nghĩ bất thiện, tình huống bất thiện… |
|
15 |
♦ 215. seyyathāpīti idha kiṃ dasseti? ayaṃ pāṭiyekko anusandhi, sattānañhi hitūpacāraṃ attano satthubhāvasampadañca dassento bhagavā imaṃ desanaṃ ārabhi. tattha araññeti aṭaviyaṃ. pavaneti vanasaṇḍe. atthato hi idaṃ dvayaṃ ekameva, paṭhamassa pana dutiyaṃ vevacanaṃ. ayogakkhemakāmoti catūhi yogehi khemaṃ nibbhayaṭṭhānaṃ anicchanto bhayameva icchanto. sovatthikoti suvatthibhāvāvaho. pītigamanīyoti tuṭṭhiṃ gamanīyo. “pītagamanīyo”ti vā pāṭho. pidaheyyāti sākhādīhi thakeyya. vivareyyāti visadamukhaṃ katvā vivaṭaṃ kareyya. kummagganti udakavanapabbatādīhi sanniruddhaṃ amaggaṃ. odaheyya okacaranti tesaṃ oke caramānaṃ viya ekaṃ dīpakamigaṃ ekasmiṃ ṭhāne ṭhapeyya. okacārikanti dīgharajjuyā bandhitaṃyeva migiṃ. |
[Và giống như – seyyathāpi], ở đây, (Đức Phật) trình bày điều gì? Đó là sự liên kết (ý nghĩa) một cách tuần tự. Quả thật, Đức Thế Tôn đã khởi đầu lời giảng đó nhằm trình bày sự tiếp cận lợi ích của chúng sinh và sự đạt đến tư cách Đạo Sư của bản thân mình. Ở đoạn kinh đó, [ở trong rừng – araññe] tức: [ở trong khu rừng – aṭaviyaṃ]. [Ở trong khu rừng – pavane] tức: [ở trong rừng rậm – vanasaṇḍe]. Quả thật, về mặt ý nghĩa, cặp từ này (arañña & pavana) chỉ là một. Từ thứ 2 chỉ là từ đồng nghĩa với từ thứ nhất. [Không muốn sự an ổn khỏi trói buộc – ayogakkhemakāmo] tức: không muốn sự an ổn khỏi 4 loại trói buộc, (không muốn) sự bất nguy hiểm; muốn chính sự nguy hiểm. [An toàn – sovatthika] tức: mang lại sự an toàn. [Dẫn tới hỷ – pītigamanīya] tức: sẽ dẫn tới sự an vui. Hoặc dị bản khác là [dẫn tới hỷ – pītagamanīyo]. [Đóng lại – pidaheyya] tức: đóng lại bằng cành cây vân vân. [Mở ra – vivareyya] tức: làm cho lối vào hiện ra; làm cho (lối vào) được mở ra. [Con đường sai – kummagga] tức: (con đường) không phải thật là con đường; (con đường) bị ngăn trở hoàn toàn bởi nước, rừng, núi vân vân. [Giăng con mồi – odaheyya okacaraṃ] tức: đặt một con thú mồi tại một nơi nào đó như thể (con thú ấy) đang đi lại ở môi trường sống của chúng. [Con thú mồi – okacārika] tức: con hươu bị cột bằng một sơi dây thừng dài. |
|
16 |
♦ migaluddako hi araññaṃ migānaṃ vasanaṭṭhānaṃ gantvā “idha vasanti, iminā maggena nikkhamanti, ettha caranti, ettha pivanti, iminā maggena pavisantī”ti sallakkhetvā maggaṃ pidhāya kummaggaṃ vivaritvā okacarañca okacārikañca ṭhapetvā sayaṃ paṭicchannaṭṭhāne sattiṃ gahetvā tiṭṭhati. atha sāyanhasamaye migā akutobhaye araññe caritvā pānīyaṃ pivitvā migapotakehi saddhiṃ kīḷamānā vasanaṭṭhānasantikaṃ āgantvā okacarañca okacārikañca disvā “sahāyakā no āgatā bhavissantī”ti nirāsaṅkā pavisanti, te maggaṃ pihitaṃ disvā “nāyaṃ maggo, ayaṃ maggo bhavissatī”ti kummaggaṃ paṭipajjanti. migaluddako na tāva kiñci karoti, paviṭṭhesu pana sabbapacchimaṃ saṇikaṃ paharati. so uttasati, tato sabbe uttasitvā “bhayaṃ uppannan”ti purato olokentā udakena vā vanena vā pabbatena vā sanniruddhaṃ maggaṃ disvā ubhohi passehi aṅgulisaṅkhalikaṃ viya gahanavanaṃ pavisituṃ asakkontā paviṭṭhamaggeneva nikkhamituṃ ārabhanti. luddako tesaṃ nivattanabhāvaṃ ñatvā ādito paṭṭhāya tiṃsampi cattālīsampi mige ghāteti. idaṃ sandhāya evañhi so, bhikkhave, mahāmigasaṅgho aparena samayena anayabyasanaṃ āpajjeyyāti vuttaṃ. |
Quả thật, người thợ săn nai đi đến khu rừng, đến nơi cư ngụ của lũ nai; khảo sát rằng: ‘Chúng sống ở đây, chúng đi ra bằng con đường này, chúng đi lại ở chỗ này, chúng uống nước ở chỗ kia, chúng đi vào bằng con đường này’; (người ấy) đóng con đường ấy; mở ra con đường sai; đặt các con mồi; (người ấy) tự mình cầm cây lao mà đứng ở nơi ẩn nấp. Thế rồi, vào buổi chiều, bầy nai đi lại trong khu rừng không có sự sợ hãi; uống nước; trong khi chơi đùa với những chú nai con, (chúng) đi đến gần nơi trú ngụ (của mình); nhìn thấy những con thú mồi; chúng tin rằng ‘Các bằng hữu của chúng ta sẽ đến (vào lúc nào đó)’ và đi vào. Chúng nhìn thấy con đường (đúng) bị đóng; (nghĩ rằng) ‘Đây không phải là con đường, kia mới là con đường’; rồi (chúng) đi vào con đường sai. Cho đến lúc đó, người thợ săn nai chưa làm việc gì. Nhưng khi (bầy nai) đã đi vào; (người ấy) chậm rãi đâm con nai ở sau cùng cả bầy. Con nai đó hoảng sợ. Do đó, tất cả (những con nai khác) cũng hoảng sợ; (nghĩ rằng) ‘Nguy hiểm đã xuất hiện’; (chúng) quan sát đằng trước và nhìn thấy con đường đã bị ngăn trở hoàn toàn bởi nước, rừng và núi; không thể đi vào khu rừng rậm rạp như chuỗi ngón tay ở 2 bên (con đường), chúng cố đi ra bằng con đường đã vào. Người thợ săn biết sự quay lui của chúng; giết bầy nai – chừng 30 con hay 40 con – bắt đầu từ con đầu tiên. Điều này đã được nói (bởi Đức Phật) ‘Này các Tỳ-Kheo! Quả thật, vào một dịp khác, bầy nai lớn đó có thể đi đến thảm họa và hiểm nguy như vậy’ liên quan đến (câu chuyện) đó. |
|
17 |
♦ “nandīrāgassetaṃ adhivacanaṃ, avijjāyetaṃ adhivacanan”ti ettha yasmā ime sattā avijjāya aññāṇā hutvā nandīrāgena ābandhitvā rūpārammaṇādīni upanītā vaṭṭadukkhasattiyā ghātaṃ labhanti. tasmā bhagavā okacaraṃ nandīrāgoti, okacārikaṃ avijjāti katvā dassesi. |
[Đó là tên gọi cho hỷ luyến (nandīrāga); đó là tên gọi cho vô minh (avijjā) – nandīrāgassetaṃ adhivacanaṃ, avijjāyetaṃ adhivacanaṁ], ở đoạn kinh đó, bởi vì các chúng sinh ấy không có trí do vô minh; trói buộc với hỷ luyến; tiếp cận các đối tượng sắc vân vân rồi bị giết bởi cây lao – tức (biểu tượng cho) khổ luân hồi. Cho nên Đức Thế Tôn đã trình bày bằng cách (ví von rằng) ‘Con mồi là hỷ tham; con thú mồi là vô minh.’(i) —– (i) [Con mồi – okacara] và [con thú mồi – okacārika] chỉ là 2 từ gần nghĩa. |
|
18 |
♦ migaluddako hi ekadāpi tesaṃ sākhābhaṅgena sarīraṃ puñchitvā manussagandhaṃ apanetvā okacaraṃ ekasmiṃ ṭhāne ṭhapetvā okacārikaṃ saha rajjuyā vissajjetvā attānaṃ paṭicchādetvā sattiṃ ādāya okacarassa santike tiṭṭhati, okacārikā migagaṇassa caraṇaṭṭhānābhimukhī gacchati. taṃ disvā migā sīsāni ukkhipitvā tiṭṭhanti, sāpi sīsaṃ ukkhipitvā tiṭṭhati, te “amhākaṃ samajātikā ayan”ti gocaraṃ gaṇhanti. sāpi tiṇāni khādantī viya saṇikaṃ upagacchati. āraññiko yūthapatimigo tassā vātaṃ labhitvā sakabhariyaṃ vissajjetvā tadabhimukho hoti. |
Rồi quả thật, một lần nọ, người thợ săn nai quét lên thân thể của mình bằng một nhánh cây bị bầy nai (đạp) gẫy để át đi mùi con người(i); đặt con mồi vào một chỗ; thả con thú mồi (bị quấn) với sợi dây; (người ấy) ẩn mình; lấy cây lao; rồi đứng gần con mồi. Con thú mồi đi hướng đến nơi đàn nai đi sinh hoạt. Bầy nai đứng ngẩng đầu nhìn nó. (Con thú mồi) đó cũng đứng ngẩng đầu. (Lũ nai) đó (nghĩ rằng) ‘(Con thú này) là đồng loại của chúng ta’; rồi chấp nhận nó vào khu vực (kiếm ăn). (Con thú mồi) đó chậm rãi tiến đến như thể đang ăn cỏ. Con nai đầu đàn – vốn là thú rừng(ii) –ngửi được mùi của nó; rời bỏ vợ mình rồi (đi) hướng đế nó. —– (i) Tức mùi cơ thể đặc trưng của loài người khác với loài nai. Nai ngửi ra mùi người sẽ cảnh giác; nên người thợ săn phải dùng vật gì có vương mùi nai quệt lên cơ thể mình cho át mùi người đi. (ii) Con thú mồi là con thú mà người thợ săn nuôi & huấn luyện, khác với bầy nai là thú rừng. |
|
19 |
♦ sattānañhi navanavameva piyaṃ hoti. okacārikā āraññikassa migassa accāsannabhāvaṃ adatvā tadabhimukhīva pacchato paṭikkamitvā okacarassa santikaṃ gacchati, yattha yatthassā rajju laggati, tattha tattha khurena paharitvā moceti, āraññiko migo okacaraṃ disvā okacārikāya sammatto hutvā okacare usūyaṃ katvā piṭṭhiṃ nāmetvā sīsaṃ kampento tiṭṭhati, tasmiṃ khaṇe sattiṃ jivhāya lehantopi “kiṃ etan”ti na jānāti, okacaropi sacassa uparibhāgena taṃ migaṃ paharituṃ sukhaṃ hoti, piṭṭhiṃ nāmeti. sacassa heṭṭhābhāgena paharituṃ sukhaṃ hoti, hadayaṃ unnāmeti. atha luddako āraññikaṃ migaṃ sattiyā paharitvā tattheva ghātetvā maṃsaṃ ādāya gacchati. evameva yathā so migo okacārikāya sammatto okacare usūyaṃ katvā sattiṃ jivhāya lehantopi kiñci na jānāti, tathā ime sattā avijjāya sammattā andhabhūtā kiñci ajānantā rūpādīsu nandīrāgaṃ upagamma vaṭṭadukkhasattiyā vadhaṃ labhantīti bhagavā okacaraṃ nandīrāgoti, okacārikaṃ avijjāti katvā dassesi. |
Quả thật, đối với các chúng sinh, bất kỳ cái gì mới mẻ cũng khả ái. Con thú mồi không để con nai rừng (đến) quá gần; (nó) vẫn hướng mặt đến (con nai rừng) ấy mà lùi lại sau; di chuyển đến gần con mồi. Sợi dây dính vào nó (con thú mồi) tại bất kỳ chỗ nào; thì nó chạm vào chính những chỗ đó bằng móng để gỡ ra. Con nai rừng nhìn thấy con mồi; do bị mê hoặc bởi con thú mồi nên (nó) ghen tỵ với con mồi; nó (con nai rừng) khom lưng rồi đứng lắc đầu. Vào thời khắc ấy, nếu nó (con nai rừng) liếm cây lao bằng lưỡi mình; thì (nó) cũng không biết ‘Cái gì đây?’ Và nếu dễ đâm con nai (rừng) đó vào phần trên của (cơ thể) nó; thì con mồi khom lưng xuống. Nếu dễ đâm vào phần dưới của (cơ thể) nó; thì con mồi ưỡn ngực lên. Thế rồi, người thợ săn đâm con nai rừng bằng cây lao; giết (nó) ngay tại đó; lấy thịt rồi đi. Cũng hệt như vậy; Đức Thế Tôn đã trình bày theo cách (ví von rằng) giống như con nai đó bị mê hoặc bởi con thú mồi, (nên) ghen tỵ với con mồi; nếu nó (con nai rừng) liếm cây lao bằng lưỡi mình; thì (nó) cũng không biết gì. Cũng vậy; các chúng sinh đó bị mê hoặc bởi vô minh, (nên) mù loà và không biết gì; (họ) đi đến hỷ tham đối với sắc vân vân; rồi bị giết bằng cây lao là khổ luân hồi. Con mồi (giống như) hỷ tham, con thú mồi (giống như) vô minh. |
|
20 |
♦ iti kho, bhikkhave, vivaṭo mayā khemo maggoti iti kho, bhikkhave, mayā imesaṃ sattānaṃ hitacaraṇena sammāsambodhiṃ patvā ahaṃ buddhosmīti tuṇhībhūtena anisīditvā dhammacakkappavattanato paṭṭhāya dhammaṃ desentena vivaṭo khemo ariyo aṭṭhaṅgiko maggo, pihito kummaggo, aññātakoṇḍaññādīnaṃ bhabbapuggalānaṃ ūhato okacaro nandīrāgo dvedhā chetvā pātito, nāsitā okacārikā avijjā sabbena sabbaṃ samugghātitāti attano hitūpacāraṃ dassesi. sesaṃ sabbattha uttānatthamevāti. ♦ papañcasūdaniyā majjhimanikāyaṭṭhakathāya ♦ dvedhāvitakkasuttavaṇṇanā niṭṭhitā. |
[Và này các Tỳ-Kheo! Con đường an ổn đã được khai mở như vậy bởi ta – iti kho, bhikkhave, vivaṭo mayā khemo maggo], tức: và này các Tỳ-Kheo! Con đường an ổn cao thượng gồm 8 chi đã được khai mở như vậy bởi ta khi ta thuyết Pháp kể từ (thời điểm) chuyển Pháp Luân; ta đã không ngồi im lặng (bởi vì) ‘Ta là Phật theo phương thức đạt đến Chánh Đẳng Giác bởi hành vi lợi ích cho các chúng sinh ấy.’ Con đường sai đã bị đóng lại. Con mồi hỷ tham đã bị bứng nhổ bởi những người có năng lực như Aññātakoṇḍañña vân vân, bị diệt trừ bằng cách chặt làm 2. Con thú mồi vô minh đã bị phá huỷ, bị bứng gốc hoàn toàn. (Đức Phật) đã trình bày việc làm lợi ích của mình như thế. Phần (nội dung) còn lại có ý nghĩa hoàn toàn rõ ràng ở mọi khía cạnh. Sự giải thích bài kinh Dvedhāvitakkasutta thuộc bộ Chú Giải Trung Bộ – Papañcasūdanī được hoàn thành. |