Kinh số 16 – Giải Thích Kinh Tâm hoang vu

(Cetokhilasuttavaṇṇanā)

16.1. Nội dung dịch

STT

Pāḷi

Việt

1

♦ 185. evaṃ me sutanti cetokhilasuttaṃ. tattha cetokhilāti cittassa thaddhabhāvā kacavarabhāvā khāṇukabhāvā. cetaso vinibandhāti cittaṃ bandhitvā muṭṭhiyaṃ katvā viya gaṇhantīti cetaso vinibandhā. vuddhintiādīsu sīlena vuddhiṃ, maggena viruḷhiṃ, nibbānena vepullaṃ. sīlasamādhīhi vā vuddhiṃ, vipassanāmaggehi viruḷhiṃ, phalanibbānehi vepullaṃ. satthari kaṅkhatīti satthu sarīre vā guṇe vā kaṅkhati. sarīre kaṅkhamāno dvattiṃsavaralakkhaṇappaṭimaṇḍitaṃ nāma sarīraṃ atthi nu kho natthīti kaṅkhati, guṇe kaṅkhamāno atītānāgatapaccuppannajānanasamatthaṃ sabbaññutaññāṇaṃ atthi nu kho natthīti kaṅkhati. vicikicchatīti vicinanto kicchati, dukkhaṃ āpajjati, vinicchetuṃ na sakkoti. nādhimuccatīti evametanti adhimokkhaṃ na paṭilabhati. na sampasīdatīti guṇesu otaritvā nibbicikicchabhāvena pasīdituṃ, anāvilo bhavituṃ na sakkoti. ātappāyāti kilesasantāpakavīriyakaraṇatthāya. anuyogāyāti punappunaṃ yogāya. sātaccāyāti satatakiriyāya padhānāyāti padahanatthāya. ayaṃ paṭhamo cetokhiloti ayaṃ satthari vicikicchāsaṅkhāto paṭhamo cittassa thaddhabhāvo, evametassa bhikkhuno appahīno hoti. dhammeti pariyattidhamme ca paṭivedhadhamme ca. pariyattidhamme kaṅkhamāno, tepiṭakaṃ buddhavacanaṃ caturāsīti dhammakkhandhasahassānīti vadanti, atthi nu kho etaṃ natthīti kaṅkhati. paṭivedhadhamme kaṅkhamāno vipassanānissando maggo nāma, magganissando phalaṃ nāma, sabbasaṅkhārapaṭinissaggo nibbānaṃ nāmāti vadanti. taṃ atthi nu kho natthīti kaṅkhati. saṅghe kaṅkhatīti suppaṭipannotiādīnaṃ padānaṃ vasena evarūpaṃ paṭipadaṃ paṭipannā cattāro maggaṭṭhā cattāro phalaṭṭhāti aṭṭhannaṃ puggalānaṃ samūhabhūto saṅgho nāma, so atthi nu kho natthīti kaṅkhati. sikkhāya kaṅkhamāno adhisīlasikkhā nāma adhicittasikkhā nāma adhipaññāsikkhā nāmāti vadanti. sā atthi nu kho natthīti kaṅkhati. ayaṃ pañcamoti ayaṃ sabrahmacārīsu kopasaṅkhāto pañcamo cittassa thaddhabhāvo kacavarabhāvo khāṇukabhāvo.

[Điều đó được nghe bởi tôi như vầy] (chỉ đến) bài kinh Cetokhilasutta. Trong cụm từ đó, [các sự chai cứng của tâm – cetokhilā] tức: các trạng thái cứng rắn, các trạng thái uế bẩn, các trạng thái gai góc(i) của tâm. [Các sự trói buộc tâm – cetaso vinibandhā], các sự trói buộc tâm: chúng nắm bắt tâm bằng cách kềm buộc giống như cách (người ta) làm với nắm tay. Ở cụm từ [sự tăng trưởng – vuddhi] vân vân, tức: [sự tăng trưởng – vuddhi] với ý nghĩa là [giới – sīla]; [sự phát triển – viruḷhi] với ý nghĩa là [Đạo – magga]; [sự viên mãn – vepulla] với ý nghĩa là [Niết Bàn – nibbāna]. Hoặc [sự tăng trưởng – vuddhi] với ý nghĩa là [Giới & Định – sīlasamādhi]; [sự phát triển – viruḷhi] với ý nghĩa là [(tuệ) Vipassanā & Đạo – vipassanāmagga]; [sự viên mãn – vepulla] với ý nghĩa là [Quả & Niết Bàn – phalanibbāna]. [(Vị Tỳ Kheo) nghi ngờ đối với bậc Đạo Sư – satthari kaṅkhati] tức: (vị Tỳ Kheo) nghi ngờ đối với xác thân và phẩm chất của bậc Đạo Sư. Khi nghi ngờ đối với xác thân (của bậc Đạo Sư), (vị Tỳ Kheo) nghi ngờ rằng: ‘Cái được gọi là xác thân gồm 32 đặc điểm tối thượng đó (của bậc Đạo Sư) tồn tại hay không tồn tại?’ Khi nghi ngờ đối với phẩm chất (của bậc Đạo Sư), (vị Tỳ Kheo) nghi ngờ rằng: ‘Toàn Giác Trí (của bậc Đạo Sư) – vốn có thể biết quá khứ, vị lai, hiện tại – tồn tại hay không tồn tại?’ [(Vị Tỳ Kheo) hoài nghi – vicikicchati] tức: (vị Tỳ Kheo) khổ sở trong khi cân nhắc (việc gì đó), gặp khó khăn, không thể phân định. [(Vị Tỳ Kheo) không xác quyết – nādhimuccati] tức: (vị Tỳ Kheo) không đạt được sự xác quyết rằng ‘Điều đó là như vậy.’ [(Vị Tỳ Kheo) không tịnh tín – na sampasīdati] tức: (vị Tỳ Kheo) không thể trở nên yên tâm, (không thể) tịnh tín nhờ sự không hoài nghi dựa vào việc thâm nhập các phẩm chất (của Đức Phật). [(Hướng đến) sự nhiệt tâm – ātappāyā] tức: (hướng đến) mục tiêu là việc tạo ra sự tinh tấn thiêu đốt phiền não. [(Hướng đến) việc thực hành – anuyogāyā] tức: (hướng đến) sự thực hành hết lần này đến lần khác. [(Hướng đến) sự bền bĩ – sātaccāya] tức: (hướng đến) việc thực hiện một cách liên tục. [(Hướng đến) sự nỗ lực – padhānāya] tức: (hướng đến) mục tiêu là sự nỗ lực. [Đó là sự chai cứng thứ nhất của tâm  – ayaṃ paṭhamo cetokhilo] tức: đó là trạng thái cứng rắn thứ nhất của tâm – có tên gọi là sự hoài nghi đối với bậc Đạo Sư – chưa được từ bỏ bởi vị Tỳ Kheo ấy như vậy. [(Vị Tỳ Kheo nghi ngờ đối với) Giáo Pháp – dhamme] tức: đối với [Pháp Học – pariyattidhamme] và [Pháp Thành – paṭivedhadhamme]. Khi nghi ngờ đối với Pháp Học, vị ấy nghi ngờ rằng: ‘Người ta nói rằng ‘Phật Ngôn gồm Tam Tạng có 84.000 pháp uẩn.’ Thế thì sự việc đó có hay không có?’ Khi nghi ngờ đối với Pháp Thành, vị ấy nghi ngờ rằng: ‘Người ta nói rằng ‘Cái được gọi là Đạo là thành quả từ Vipassanā, cái được gọi là Quả là thành quả từ Đạo, cái được gọi là Niết Bàn là sự từ bỏ mọi pháp hữu vi.’ Thế thì sự việc đó có hay không có?’ [(Vị Tỳ Kheo) nghi ngờ đối với Tăng – saṅghe kaṅkhati] tức: vị ấy nghi ngờ rằng ‘Cái được gọi là [Tăng – saṅgha], tức đoàn thể gồm 8 hạng người – 4 hạng người đắc Đạo, 4 hạng người đắc Quả – đã thực hành phương pháp theo như (nội dung) của những lời nói: ‘(Tăng Chúng của Đức Thế Tôn) đã thực hành tốt đẹp’ vân vân; thế thì (đoàn thể) ấy có hay không có?’ [Khi (vị Tỳ Kheo) nghi ngờ đối với việc học tập – sikkhāya kaṅkhamāno], (vị ấy) nghi ngờ rằng: ‘Người ta nói rằng ‘Có cái được gọi là việc học tập về Tăng Thượng Giới, có cái được gọi là việc học tập về Tăng Thượng Tâm, có cái được gọi là việc học tập về Tăng Thượng Tuệ’. Thế thì (việc học tập) ấy có hay không có?’ [Đó là (sự chai cứng) thứ 5 (của tâm) – ayaṃ pañcamo] tức: cái được gọi là sự bực tức đối với các đồng phạm hạnh ấy là trạng thái cứng rắn, trạng thái uế bẩn, trạng thái gai góc thứ 5 của tâm.

—–

(i) Hình ảnh ẩn dụ: gai góc tức các chướng ngại, cản trở. [Khāṇu] = gốc cây, cọc, cột…Con đường nào có nhiều những thứ như vậy thì gồ ghề, khó đi.

2

♦ 186. vinibandhesu kāmeti vatthukāmepi kilesakāmepi. kāyeti attano kāye. rūpeti bahiddhā rūpe. yāvadatthanti yattakaṃ icchati, tattakaṃ. udarāvadehakanti udarapūraṃ. tañhi udaraṃ avadehanato udarāvadehakanti vuccati. seyyasukhanti mañcapīṭhasukhaṃ, utusukhaṃ vā. passasukhanti yathā samparivattakaṃ sayantassa dakkhiṇapassavāmapassānaṃ sukhaṃ hoti, evaṃ uppannasukhaṃ. middhasukhanti niddāsukhaṃ. anuyuttoti yuttapayutto viharati.

[Đối với dục – kāme] tức: [đối với các sự trói buộc – vinibandhesu], gồm [vật dục – vatthukāme] và [phiền não dục – kilesakāme]. [Đối với thân – kāye] tức: đối với thân của mình. [Đối với sắc – rūpe] tức: đối với sắc bên ngoài. [Theo lượng thoả thích – yāvadatthaṃ] tức: (người ta) thích bao nhiêu; thì (ăn) bấy nhiêu. [Đẫy bụng – udarāvadehaka] tức: [đầy bụng – udarapūra]. Quả thật, tình trạng đó (đầy bụng) được gọi là đẫy bụng (hiểu theo nghĩa là) tích trữ (đầy) bụng. [Lạc ngủ nghỉ – seyyasukha] tức: lạc do giường, ghế hoặc lạc do thời tiết. [Lạc tư thế – passasukha], giống như người ngủ lăn qua lăn lại có được lạc (từ việc quay mình) bên trái bên phải; (lạc tư thế) là lạc sinh lên như vậy. [Lạc thuỵ miên – middhasukha] tức: lạc từ việc ngủ. [Gắn bó – anuyutto] tức: sống một cách gắn bó mật thiết.

3

paṇidhāyāti patthayitvā. sīlenātiādīsu sīlanti catupārisuddhisīlaṃ. vatanti vatasamādānaṃ. tapoti tapacaraṇaṃ. brahmacariyanti methunavirati. devo vā bhavissāmīti mahesakkhadevo vā bhavissāmi. devaññataro vāpi appesakkhadevesu vā aññataro.

[Khao khát – paṇidhāya] tức: [mong cầu – patthayitvā]. Ở cụm từ [dựa vào giới – sīlena] vân vân, [giới – sīla] tức: tứ thanh tịnh giới. [Phận sự – vata] (chỉ đến) việc tuân thủ phận sự. [Nan hạnh – tapas] (chỉ đến) việc thực hành nan hạnh(i). [Phạm hạnh – brahmacariya] tức: sự kềm tránh khỏi việc đôi lứa. [Ta sẽ trở thành một vị trời] tức: ta sẽ trở thành một vị trời có vinh quang lớn. [Hoặc một vị trời nào đó] tức: một vị trời nào đó trong số các vị trời có vinh quang nhỏ.

—–

(i) [Nan hạnh] tức hạnh khó làm, khó thực hiện như phép Đầu Đà.

4

♦ 189. iddhipādesu chandaṃ nissāya pavatto samādhi chandasamādhi. padhānabhūtā saṅkhārā padhānasaṅkhārā. samannāgatanti tehi dhammehi upetaṃ. iddhiyā pādaṃ, iddhibhūtaṃ vā pādanti iddhipādaṃ. sesesupi eseva nayo, ayamettha saṅkhepo. vitthāro pana iddhipādavibhaṅge āgato yeva. visuddhimaggepissa attho dīpito. iti imehi catūhi iddhipādehi vikkhambhanappahānaṃ kathitaṃ. ussoḷhīyeva pañcamīti ettha ussoḷhīti sabbattha kattabbavīriyaṃ dasseti. ussoḷhīpannarasaṅgasamannāgatoti pañca cetokhilappahānāni pañca vinibandhappahānāni cattāro iddhipādā ussoḷhīti evaṃ ussoḷhiyā saddhiṃ pannarasahi aṅgehi samannāgato. bhabboti anurūpo, anucchaviko. abhinibbhidāyāti ñāṇena kilesabhedāya. sambodhāyāti catumaggasambodhāya. anuttarassāti seṭṭhassa. yogakkhemassāti catūhi yogehi khemassa arahattassa. adhigamāyāti paṭilābhāya. seyyathāti opammatthe nipāto. ti sambhāvanatthe. ubhayenapi seyyathāpi nāma, bhikkhaveti dasseti.

[Dục Định – chandasamādhi] tức: Định diễn tiến dựa vào Dục. [Các hoạt động nỗ lực – padhānasaṅkhārā] tức: các hoạt động có trạng thái là nỗ lực. [Liên quan đến – samannāgata] tức: liên hệ đến những pháp đó. [Nền tảng thành tựu – iddhipāda] tức: [nền tảng cho sự thành tựu – iddhiyā pādaṃ], hoặc [nền tảng có trạng thái là sự thành tựu – iddhibhūtaṃ vā pādaṃ]. Chính đó là lối (giải nghĩa) ở những cụm từ còn lại; ở đây, đó là (ý nghĩa) tóm lược. Còn phần ý nghĩa chi tiết đã xuất hiện trong mục Iddhipādavibhaṅga. Ý nghĩa của cụm từ đó cũng đã được giải thích trong bộ Thanh Tịnh Đạo. Như vậy, sự từ bỏ theo kiểu đè nén đã được nói (bởi Đức Phật) thông qua 4 nền tảng thành tựu đó. [Chính sự gắng sức là (yếu tố) thứ 5 – ussoḷhīyeva pañcamī], ở đây, [sự gắng sức – ussoḷhī] chỉ đến sự tinh tấn nên được tiến hành ở mọi nơi. [Có 15 thành tố gồm sự gắng sức – ussoḷhīpannarasaṅgasamannāgata] tức: có 15 thành tố luôn cả sự gắng sức – như thế này: ‘5 sự từ bỏ sự chai cứng của tâm, 5 sự từ bỏ sự trói buộc, 4 nền tảng thành tựu & sự gắng sức.’ [Có thể – bhabba] tức: phù hợp (cho việc gì đó), thích hợp (cho việc gì đó). [Cho việc phá tan – abhinibbhidāya] tức: cho việc phá vỡ phiền não bằng Trí. [Cho sự giác ngộ – sambodhāya] tức: cho sự giác ngộ dựa vào 4 Đạo. [Vô thượng – anuttarassa] tức: cao nhất. [Sự an ổn khỏi trói buộc – yogakkhemassa] tức: trạng thái A La Hán – sự an ổn khỏi 4 sự trói buộc. [Cho việc đạt đến – adhigamāya] tức: cho việc đạt được. [Giống như – seyyathā] là phụ từ với (sắc thái) ý nghĩa là so sánh. [Và – pi] với (sắc thái) ý nghĩa là giả định. Và thông qua cả 2 từ đó, (Đức Phật) trình bày rằng: ‘Này các Tỳ Kheo! [Giả như – seyyathāpi]…’

5

kukkuṭiyā aṇḍāni aṭṭha vā dasa vā dvādasa vāti ettha pana kiñcāpi kukkuṭiyā vuttappakārato ūnādhikānipi aṇḍāni honti, vacanasiliṭṭhatāya pana evaṃ vuttaṃ. evañhi loke siliṭṭhaṃ vacanaṃ hoti. tānassūti tāni assu, bhaveyyunti attho. kukkuṭiyā sammā adhisayitānīti tāya janettiyā kukkuṭiyā pakkhe pasāretvā tesaṃ upari sayantiyā sammā adhisayitāni. sammā pariseditānīti kālena kālaṃ utuṃ gāhāpentiyā suṭṭhu samantato seditāni usmīkatāni. sammā paribhāvitānīti kālena kālaṃ suṭṭhu samantato bhāvitāni, kukkuṭagandhaṃ gāhāpitānīti attho. kiñcāpi tassā kukkuṭiyāti tassā kukkuṭiyā imaṃ tividhakiriyākaraṇena appamādaṃ katvā kiñcāpi na evaṃ icchā uppajjeyya. atha kho bhabbāva teti atha kho te kukkuṭapotakā vuttanayena sotthinā abhinibbhijjituṃ bhabbāva. te hi yasmā tāya kukkuṭiyā evaṃ tīhākārehi tāni aṇḍāni paripālīyamānāni na pūtīni honti. yopi nesaṃ allasineho, sopi pariyādānaṃ gacchati, kapālaṃ tanukaṃ hoti, pādanakhasikhā ca mukhatuṇḍakañca kharaṃ hoti, sayaṃ paripākaṃ gacchati, kapālassa tanuttā bahi āloko anto paññāyati, tasmā “ciraṃ vata mayaṃ saṅkuṭitahatthapādā sambādhe sayimhā, ayañca bahi āloko dissati, ettha dāni no sukhavihāro bhavissatī”ti nikkhamitukāmā hutvā kapālaṃ pādena paharanti, gīvaṃ pasārenti, tato taṃ kapālaṃ dvedhā bhijjati. atha te pakkhe vidhunantā taṅkhaṇānurūpaṃ viravantā nikkhamantiyeva, nikkhamitvā ca gāmakkhettaṃ upasobhayamānā vicaranti.

[8 hay 10 hay 12 quả trứng của con gà mái], ở đây, dầu rằng (số lượng) trứng của con gà mái (có thể) nhiều hơn hay ít hơn so với thể thức được nói trên(i); nhưng (lời nói đó) được nói như vậy (với chức năng là) lời kết nối(ii). Bởi vì trong thế gian, lời nói được kết nối như thế. [Những (quả trứng) ấy thì… – tānassu] tức: những (quả trứng) ấy thì (assu), thì (bhaveyyuṃ); ý nghĩa là như vậy. [(Những quả trứng ấy) của con gà mái thì được ấp đúng cách – kukkuṭiyā sammā adhisayitāni] tức: khi con gà mái mẹ đó ngồi lên trên những quả trứng đó mà trải đôi cánh ra, thì những quả trứng đó được ấp đúng cách. [(Những quả trứng ấy) thì được ủ đúng cách – sammā pariseditāni] tức: nhờ (con gà mái mẹ) nắm bắt thời tiết hết lần này đến lần khác; (những quả trứng đó) được làm ấm, được ủ chu đáo mọi bề. [(Những quả trứng ấy) thì được dưỡng đúng cách – sammā paribhāvitāni] tức: (những quả trứng ấy) được trưởng dưỡng chu đáo mọi bề hết lần này đến lần khác; được bắt lấy hơi ấm của con gà mái mẹ. Ý nghĩa là như vậy. [Vậy thì… cho con gà mái ấy – kiñcāpi tassā kukkuṭiya] tức: vậy thì nhờ việc thực hiện điều đó một cách không dễ duôi thông qua 3 loại hành động đó, ước muốn như vầy không khởi lên cho con gà mái đó. [Mà quả thật chúng hoàn toàn có thể – atha kho bhabbāva te] tức: mà quả thật những chú gà con đó hoàn toàn có thể phá vỡ (vỏ trứng) một cách an toàn theo phương thức đã được nói. Quả thật, bởi vì những quả trứng đó của con gà mái đó được bảo vệ theo 3 cách thức như vậy, nên (chúng) không thối rữa. Và cái nào là khuynh hướng ưa thích sự ẩm thấp của chúng; thì cái đó đi đến kết thúc(iii). Vỏ trứng thì mỏng; còn đầu móng chân và mỏ (của chúng) thì dày. Chúng tự mình trưởng thành. Do tính chất mỏng của vỏ trứng, ánh sáng bên ngoài hiển hiện vào bên trong (quả trứng). Do đó, (chúng nghĩ rằng) ‘Ôi, chúng ta đã nằm ở nơi bó buộc thật lâu với chân cánh co rúm, và ánh sáng bên ngoài kia đang hiện ra; giờ đây, sự sống thoải mái sẽ không có ở đây nữa’; chúng muốn đi ra ngoài; (chúng) đạp vỏ trứng bằng chân; (chúng) vươn cổ rồi phá vỡ vỏ trứng đó làm 2. Thế rồi, chúng vẫy đôi cánh, kêu lên (tiếng kêu) phù hợp với thời khắc đó và đi ngay ra ngoài. Và đi ra ngoài rồi, chúng đi quẩn quanh và tô điểm cánh đồng làng.

—–

(i) Tức trong đời thực, một con gà mái có thể đẻ một lúc ít hơn 8 quả trứng hay nhiều hơn 12 quả trứng.

(ii) Tức lời dẫn nhập, kết nối ý của đoạn trước với ví dụ đang trình bày.

(iii) Tức chúng không thích môi trường ẩm thấp nữa.

6

evameva khoti idaṃ opammasampaṭipādanaṃ. taṃ evaṃ atthena saṃsandetvā veditabbaṃ — tassā kukkuṭiyā aṇḍesu tividhakiriyākaraṇaṃ viya hi imassa bhikkhuno ussoḷhīpannarasehi aṅgehi samannāgatabhāvo. kukkuṭiyā tividhakiriyāsampādanena aṇḍānaṃ apūtibhāvo viya pannarasaṅgasamannāgatassa bhikkhuno tividhānupassanāsampādanena vipassanāñāṇassa aparihāni. tassā tividhakiriyākaraṇena aṇḍānaṃ allasinehapariyādānaṃ viya tassa bhikkhuno tividhānupassanāsampādanena bhavattayānugatanikantisinehapariyādānaṃ. aṇḍakalāpānaṃ tanubhāvo viya bhikkhuno avijjaṇḍakosassa tanubhāvo. kukkuṭapotakānaṃ pādanakhamutuṇḍakānaṃ thaddhakharabhāvo viya bhikkhuno vipassanāñāṇassa tikkhakharavippasannasūrabhāvo. kukkuṭapotakānaṃ pariṇāmakālo viya bhikkhuno vipassanāñāṇassa pariṇāmakālo vaḍḍhitakālo gabbhaggahaṇakālo. kukkuṭapotakānaṃ pādanakhasikhāya vā mukhatuṇḍakena vā aṇḍakosaṃ padāletvā pakkhe papphoṭetvā sotthinā abhinikkhamanakālo viya tassa bhikkhuno vipassanāñāṇagabbhaṃ gaṇhāpetvā vicarantassa tajjātikaṃ utusappāyaṃ vā bhojanasappāyaṃ vā puggalasappāyaṃ vā dhammassavanasappāyaṃ vā labhitvā ekāsane nisinnasseva vipassanaṃ vaḍḍhentassa anupubbādhigatena arahattamaggena avijjaṇḍakosaṃ padāletvā abhiññāpakkhe papphoṭetvā sotthinā arahattappattakālo veditabbo. yathā pana kukkuṭapotakānaṃ pariṇatabhāvaṃ ñatvā mātāpi aṇḍakosaṃ bhindati, evaṃ tathārūpassa bhikkhuno ñāṇaparipākaṃ ñatvā satthāpi —

“ucchinda sinehamattano, kumudaṃ sāradikaṃva pāṇinā.

santimaggameva brūhaya, nibbānaṃ sugatena desitan”ti. (dha. pa. 285) —

ādinā nayena obhāsaṃ pharitvā gāthāya avijjaṇḍakosaṃ paharati, so gāthāpariyosāne avijjāṇḍakosaṃ bhinditvā arahattaṃ pāpuṇāti. tato paṭṭhāya yathā te kukkuṭapotakā gāmakkhettaṃ upasobhayamānā tattha tattha vicaranti, evaṃ ayampi mahākhīṇāsavo nibbānarammaṇaṃ phalasamāpattiṃ appetvā saṅghārāmaṃ upasobhayamāno vicarati.

[Cũng giống vậy – evameva kho] (chỉ đến) sự áp dụng ví dụ đó. (Đoạn kinh) đó nên được hiểu bằng cách so sánh về mặt ý nghĩa như vầy: 3 loại hành vi của con gà mái đó đối với những quả trứng (ấp, ủ, dưỡng) thì thật giống như trạng thái có 15 yếu tố gồm cả Ussoḷhī của vị Tỳ Kheo ấy. Trạng thái không thối rữa của các quả trứng do kết quả từ 3 loại hành động của con gà mái thì giống như sự không suy giảm của Tuệ Vipassanā do kết quả từ 3 kiểu quán sát của vị Tỳ Kheo có 15 yếu tố. Sự kết thúc (khuynh hướng) ưa thích sự ẩm thấp của các quả trứng nhờ 3 loại hành động của con gà mái ấy(i) thì giống như sự kết thúc (khuynh hướng) ưa thích, thích thú thuận theo Tam Giới nhờ 3 kiểu quán sát của vị Tỳ Kheo ấy. Trạng thái mỏng của vỏ trứng thì giống như trạng thái mỏng của vỏ trứng Vô Minh của vị Tỳ Kheo. Trạng thái cứng rắn của móng chân và mỏ của những con gà con thì giống như trạng thái sáng tỏ, trong sáng, sắc bén của Tuệ Vipassanā của vị Tỳ Kheo. Thời gian chuyển hoá, thời gian trong bào thai của những chú gà con thì giống như thời gian chuyển hoá, thời gian trau dồi Trí Vipassanā của vị Tỳ Kheo. Thời điểm những chú gà con bước ra ngoài một cách an toàn sau khi đâm thủng vỏ trứng bằng đầu móng chân hay bằng mỏ rồi vẫy cánh thì nên được hiểu (giống như) thời điểm đạt đến trạng thái A La Hán một cách an ổn của vị Tỳ Kheo du hành ấy sau khi (vị ấy) đạt được dòng tộc phù hợp, thời tiết phù hợp, vật thực phù hợp, con người phù hợp, việc nghe Pháp phù hợp; nuôi ủ thai bào là Trí Vipassanā; ngay khi vị ấy đang ngồi ở nơi độc cư, trau dồi Vipassanā, (vị ấy) đâm thủng vỏ trứng Vô Minh bằng A La Hán Đạo được đạt đến một cách tuần tự, rồi vẫy đôi cánh Thắng Trí. Hoặc giống như gà mẹ biết được trạng thái chuyển hoá của những chú gà con, rồi phá vỡ vỏ trứng (cho chúng); cũng vậy, bậc Đạo Sư biết được sự chín muồi về Trí của vị Tỳ Kheo như thế, (Ngài) lan toả hào quang rồi đập vỡ vỏ trứng Vô Minh (cho vị ấy) bằng một bài kệ – chẳng hạn như:

‘Hãy phá tan sự ham thích của bản thân mình giống như ngắt đứt bông hoa Huệ nước mùa Thu bằng bàn tay. Hãy tăng trưởng chính An Tịnh Đạo; Niết Bàn đã được thuyết giảng bởi Đấng Thiện Thệ.’ (dha. pa. 285).

Vào cuối bài kệ, vị (Tỳ Kheo) ấy đạt đến trạng thái A La Hán sau khi phá vỡ vỏ trứng Vô Minh. Kể từ đó, giống như những chú gà con ấy du hành chỗ này chỗ kia và tô điểm ruộng làng; cũng vậy, bậc Đại Lậu Tận đó cũng du hành và tô điểm Tăng tự bằng cách thể nhập Quả Thiền có đối tượng là Niết Bàn.

—–

(i) Tức nhờ gà mái ấp ủ nên gà con trong trứng ngày càng lớn, đến lúc đủ lớn thì không thích môi trường ẩm thấp trong trứng nữa.

7

♦ iti imasmiṃ sutte cattāri pahānāni kathitāni. kathaṃ? cetokhilānañhi cetovinibandhānaṃ pahānena paṭisaṅkhānappapahānaṃ kathitaṃ, iddhipādehi vikkhambhanappahānaṃ kathita, magge āgate samucchedappahānaṃ kathitaṃ, phale āgate paṭippassaddhippahānaṃ kathitaṃ. sesaṃ sabbattha uttānatthamevāti.

papañcasūdaniyā majjhimanikāyaṭṭhakathāya

cetokhilasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.

Trong bài kinh đó, 4 sự từ bỏ đã được thuyết giảng như thế. Như thế nào? Quả thật, [sự từ bỏ dựa vào sự soi xét – paṭisaṅkhānappapahāna] được thuyết giảng thông qua sự từ bỏ sự chai cứng của tâm và sự trói buộc tâm. [Sự từ bỏ theo kiểu đè nén – vikkhambhanappahāna] được thuyết giảng thông qua các nền tảng thành tựu. [Sự từ bỏ theo kiểu đoạn trừ – samucchedappahāna] được thuyết giảng khi Đạo xuất hiện(i). [Sự từ bỏ theo kiểu an tịnh – paṭippassaddhippahāna] được thuyết giảng khi Quả xuất hiện(ii). Phần còn lại có ý nghĩa hoàn toàn rõ ràng ở mọi điểm.

Sự giải thích bài kinh Cetokhilasutta thuộc bộ Chú Giải Trung Bộ – Papañcasūdanī được hoàn thành.

—–

(i) Tức được thuyết giảng thông qua Đạo.

(ii) Tức được thuyết giảng thông qua Quả.