Kinh số 15 – Giải Thích Kinh Tư lượng

(Anumānasuttavaṇṇanā)

15.1. Nội dung dịch

STT

Pāḷi

Việt

1

♦ 181. evaṃ me sutanti anumānasuttaṃ. tattha bhaggesūti evaṃnāmake janapade, vacanattho panettha vuttānusāreneva veditabbo. susumāragireti evaṃnāmake nagare. tassa kira nagarassa vatthupariggahadivase avidūre udakarahade suṃsumāro saddamakāsi, giraṃ nicchāresi. atha nagare niṭṭhite suṃsumāragiraṃ tvevassa nāmaṃ akaṃsu. bhesakaḷāvaneti bhesakaḷānāmake vane. “bhesagaḷāvane”tipi pāṭho. migadāyeti taṃ vanaṃ migapakkhīnaṃ abhayadinnaṭṭhāne jātaṃ, tasmā migadāyoti vuccati.

[(Điều đó) được nghe bởi tôi như vầy], chỉ đến bài kinh Anumānasutta. Ở đoạn kinh đó, [ở Bhagga – bhaggesu] tức: ở xứ sở có tên như vậy; tuy nhiên, ở đây, ý nghĩa của lời nói đó nên được hiểu đúng theo điều được nói. [Ở Susumāragira] tức: ở thành phố có tên như vậy. Quả thật, vào ngày nhận đất cho thành phố đó, tại một cái hồ nước không xa (vị trí thành phố), một con cá sấu phát ra tiếng động, cất giọng. Thế rồi, khi đã hoàn thành (việc xây dựng) thành phố, người ta đặt tên cho chính nó là [Susumāragira – giọng của cá sấu]. [Ở Bhesakaḷāvana – Rừng Bhesakaḷā] tức: ở khu rừng có tên Bhesakaḷā. Tuy nhiên, bản kinh ghi ‘Bhesagaḷāvana’(i). [Ở Migadāya] tức: khu rừng đó (Migadāya) là nơi mang đến sự không sợ hãi cho những bầy nai; do đó, nó được gọi là [Migadāya – rừng nai/nơi mang đến (sự không sợ hãi) cho bầy nai](ii).

—–

(i) Tức nói cho chặt chẽ thì tên riêng của khu rừng chỉ là [Bhesagaḷā] thôi; còn [vana = khu rừng]. 

(ii) Thủ pháp chơi chữ: [Migadāya] = [Miga – nai] + [dāya]. [dāya] vừa có nghĩa [khu rừng] vừa có nghĩa [sự ban cho, sự trao tặng, món quà…].

2

pavāretīti icchāpeti. vadantūti ovādānusāsanivasena vadantu, anusāsantūti attho. vacanīyomhīti ahaṃ tumhehi vattabbo, anusāsitabbo ovaditabboti attho. so ca hoti dubbacoti so ca dukkhena vattabbo hoti, vutto na sahati. dovacassakaraṇehīti dubbacabhāvakārakehi upari āgatehi soḷasahi dhammehi. appadakkhiṇaggāhī anusāsaninti yo hi vuccamāno tumhe maṃ kasmā vadatha, ahaṃ attano kappiyākappiyaṃ sāvajjānavajjaṃ atthānatthaṃ jānāmīti vadati. ayaṃ anusāsaniṃ padakkhiṇato na gaṇhāti, vāmato gaṇhāti, tasmā appadakkhiṇaggāhīti vuccati.

[Mời – pavāreti] tức: [khẩn cầu – icchāpeti]. [(Các ngài) hãy thuyết dạy – vadantu] tức: (các ngài) hãy thuyết dạy theo phương cách là khuyên dạy, chỉ bảo; (các ngài) hãy hướng dẫn. Ý nghĩa là như vậy. [(Con) nên được thuyết dạy – vacanīyomhi] tức: con nên được thuyết giảng, nên được hướng dẫn, nên được dạy bảo bởi các ngài. Ý nghĩa là như vậy. [Và vị ấy thì khó nói – so ca hoti dubbaco] tức: và vị ấy sẽ được thuyết dạy một cách khó khăn; khi được thuyết dạy, vị ấy không chấp nhận. [Tạo nên tính khó nói – dovacassakaraṇehi] tức: 16 yếu tố xuất hiện ở dưới (ở đoạn kinh dưới), tạo nên trạng thái khó nói. [Không nắm bắt một cách kính trọng lời dạy bảo – appadakkhiṇaggāhī anusāsaniṃ] tức: quả thật, người nào trong khi được thuyết dạy, nói rằng: ‘Vì sao các ngài thuyết dạy tôi? Tôi biết điều lợi ích & bất lợi, điều có lỗi & vô lỗi, điều phù hợp & bất phù hợp cho bản thân tôi!’ Vị ấy không nắm bắt lời dạy bảo một cách kính trọng, vị ấy nắm bắt (lời dạy bảo) một cách trái lẽ; do đó, vị ấy được gọi là [(người) không nắm bắt một cách kính trọng – appadakkhiṇaggāhī].

3

pāpikānaṃ icchānanti lāmakānaṃ asantasambhavanapatthanānaṃ. paṭippharatīti paṭiviruddho, paccanīko hutvā tiṭṭhati, apasādetīti kiṃ nu kho tuyhaṃ bālassa abyattassa bhaṇitena, tvampi nāma bhaṇitabbaṃ maññissasīti evaṃ ghaṭṭeti. paccāropetīti, tvampi khosi itthannāmaṃ āpattiṃ āpanno, taṃ tāva paṭikarohīti evaṃ paṭiāropeti.

[Những mong muốn xấu ác – pāpikānaṃ icchānaṃ] tức: những mong cầu có được những thứ xấu xa, (những mong muốn) thấp kém. [(Vị ấy) đáp trả – paṭippharati] tức: tranh cãi, đối nghịch. [(Vị ấy) phản bác – apasādeti] tức vị ấy xúc xiểm rằng: ‘Trong khi ông là kẻ ngu, kém hiểu biết về lời nói; sao ông lại có thể cho rằng tôi nên được thuyết dạy bởi ông?’ [(Vị ấy) bắt bẻ – paccāropeti] tức vị ấy bắt bẻ rằng: ‘Ông cũng phạm tội có tên gọi như thế ấy. Ông hãy sửa đổi cái tội như thế!’

4

aññenaññaṃ paṭicaratīti aññena kāraṇena vacanena vā aññaṃ kāraṇaṃ vacanaṃ vā paṭicchādeti. “āpattiṃ āpannosī”ti vutte “ko āpanno, kiṃ āpanno, kismiṃ āpanno, kaṃ bhaṇatha, kiṃ bhaṇathā”ti vā vadati. “evarūpaṃ kiñci tayā diṭṭhan”ti vutte “na suṇāmī”ti sotaṃ vā upaneti. bahiddhā kathaṃ apanāmetīti “itthannāmaṃ āpattiṃ āpannosī”ti puṭṭho “pāṭaliputtaṃ gatomhī”ti vatvā puna “na tava pāṭaliputtagamanaṃ pucchāma, āpattiṃ pucchāmā”ti vutte “tato rājagehaṃ gatomhī”ti, rājagehaṃ vā yāhi brāhmaṇagehaṃ vā, āpattiṃ āpannosīti. tattha me sūkaramaṃsaṃ laddhantiādīni vadanto kathaṃ bahiddhā vikkhipati.

[(Vị ấy) lảng tránh – aññenaññaṃ paṭicarati] tức vị ấy khuất lấp một lập luận này bằng một lập luận khác. Khi người khác nói: ‘Ông đã phạm tội’; thì vị ấy đáp rằng: ‘Ai phạm? Phạm cái gì? Phạm về chuyện gì? Các ông nói ai? Các ông nói cái gì?’ Hoặc khi người khác nói: ‘Ông đã nhìn thấy sự việc như vậy phải không?’; thì vị ấy ám chỉ đến lỗ tai(i) rằng: ‘Tôi không nghe (sự việc đó).’ [Lái câu chuyện ra ngoài – bahiddhā kathaṃ apanāmeti] tức khi người khác hỏi: ‘Ông đã phạm tội có tên gọi như thế ấy phải không?’; thì vị ấy đáp rằng: ‘Tôi đã đi tới Pāṭaliputta.’ Người khác lại nói: ‘Chúng tôi không hỏi về việc đi tới Pāṭaliputta của ông, chúng tôi hỏi về tội của ông’; thì vị ấy đáp rằng: ‘Từ đó tôi đã đi tới cung vua.’ Người khác lại nói: ‘Bất kể ông đi tới cung vua hay tới nhà của Bà La Môn, ông đã phạm tội phải không?’; thì vị ấy đẩy câu chuyện ra ngoài bằng cách nói rằng: ‘Tại đó, tôi đạt được thịt heo’ vân vân. 

—–

(i) Tức người ta hỏi có thấy không – giác quan: con mắt – thì lại trả lời là không nghe – giác quan: lỗ tai.

5

apadāneti attano cariyāya. na sampāyatīti, āvuso, tvaṃ kuhiṃ vasasi, kaṃ nissāya vasasīti vā, yaṃ tvaṃ vadesi “mayā esa āpattiṃ āpajjanno diṭṭho”ti. tvaṃ tasmiṃ samaye kiṃ karosi, ayaṃ kiṃ karoti, kattha vā tvaṃ acchasi kattha vā ayantiādinā nayena cariyaṃ puṭṭho sampādetvā kathetuṃ na sakkoti.

[Về hành vi – apadāna] tức: về hạnh của bản thân mình. [(Vị ấy) không thể giải thích – na sampāyati] tức khi được hỏi về hạnh (của bản thân mình) theo cách thức: ‘Này ông! Ông sống ở đâu? Ông sống dựa vào ai?’ hoặc ‘Khi ông nói rằng: ‘Tôi nhìn thấy vị ấy phạm tội’, thì vào lúc đó, ông làm gì? Vị ấy làm gì? Ông ở đâu? Còn vị ấy ở đâu?’ vân vân; vị ấy cố gắng (giải thích) mà vẫn không thể giải thích được.

6

♦ 183. tatrāvusoti, āvuso, tesu soḷasasu dhammesu. attanāva attānaṃ evaṃ anuminitabbanti evaṃ attanāva attā anumetabbo tuletabbo tīretabbo.

[Trong đó, này ông!] tức: này ông! Trong 16 yếu tố đó. [Bản thân mình nên được đánh giá bởi chính mình rằng – attanāva attānaṃ evaṃ anuminitabbaṃ] tức: bản thân mình nên được đánh giá, nên được đo lường, nên được đối sánh bởi chính mình rằng.

7

♦ 184. paccavekkhitabbanti paccavekkhitabbo. ahorattānusikkhināti divāpi rattimpi sikkhantena, ratiñca divā ca kusalesu dhammesu sikkhantena pītipāmojjameva uppādetabbanti attho.

[(Bản thân mình) nên được suy xét – paccavekkhitabbaṃ] tức: [(bản thân mình) nên được suy xét – paccavekkhitabbo]. [(Vị Tỳ Kheo ấy) rèn luyện suốt ngày đêm – ahorattānusikkhinā] tức: (vị Tỳ Kheo ấy) rèn luyện suốt ngày lẫn đêm; (vị Tỳ Kheo ấy) rèn luyện trong các thiện pháp suốt ngày lẫn đêm; (vị Tỳ Kheo ấy) nên khởi lên sự hoan hỷ, vui thích. Ý nghĩa là như vậy.  

8

acche vā udakapatteti pasanne vā udakabhājane. mukhanimittanti mukhapaṭibimbaṃ. rajanti āgantukarajaṃ. aṅgaṇanti tattha jātakaṃ tilakaṃ vā piḷakaṃ vā. sabbepime pāpake akusale dhamme pahīneti iminā sabbappahānaṃ kathesi. kathaṃ? ettakā akusalā dhammā pabbajitassa nānucchavikāti paṭisaṅkhānaṃ uppādayato hi paṭisaṅkhānappahānaṃkathitaṃ hoti. sīlaṃ padaṭṭhānaṃ katvā kasiṇaparikammaṃ ārabhitvā aṭṭha samāpattiyo nibbattentassa vikkhambhanappahānaṃ kathitaṃ. samāpattiṃ padaṭṭhānaṃ katvā vipassanaṃ vaḍḍhentassa tadaṅgappahānaṃ kathitaṃ. vipassanaṃ vaḍḍhetvā maggaṃ bhāventassa samucchedappahānaṃ kathitaṃ. phale āgate paṭippassaddhippahānaṃ, nibbāne āgate nissaraṇappahānanti evaṃ imasmiṃ sutte sabbappahānaṃ kathitaṃva hoti.

[Hoặc trong một bát nước trong – acche vā udakapatte] tức [hoặc trong một bình nước trong trẻo – pasanne vā udakabhājane]. [Hình dáng của khuôn mặt – mukhanimitta] tức: hình ảnh của khuôn mặt. [Vết bẩn – raja] tức: vết bẩn mới xuất hiện. [Đốm – aṅgaṇa] tức: vệt hay mụt xuất hiện ở đó. [Tất cả những ác, bất thiện pháp đó đã được từ bỏ – sabbepime pāpake akusale dhamme pahīne] thông qua (cụm từ) đó; Đức Phật nói đến sự từ bỏ toàn bộ (các ác, bất thiện pháp). Như thế nào? (Như thế này) quả thật, [sự từ bỏ dựa vào sự soi xét – paṭisaṅkhānappahāna] được nói (bởi Đức Phật) dành cho người khởi lên sự soi xét rằng: ‘Bấy nhiêu bất thiện pháp ấy thì không phù hợp đối với bậc xuất gia.’ [Sự từ bỏ theo kiểu đè nén – vikkhambhanappahāna] được nói (bởi Đức Phật) dành cho người khởi lên 8 tầng thiền bằng cách tiến hành việc chuẩn bị Kasiṇa sau khi lấy giới làm bàn đạp. [Sự từ bỏ theo kiểu tạm thời – tadaṅgappahāna] được nói (bởi Đức Phật) dành cho người trau dồi Vipassanā sau khi lấy tầng thiền làm bàn đạp. [Sự từ bỏ theo kiểu đoạn trừ – samucchedappahāna] được nói (bởi Đức Phật) dành cho người phát triển Đạo sau khi đã trau dồi Vipassanā. [Sự từ bỏ theo kiểu an tịnh – paṭippassaddhippahāna] được nói (bởi Đức Phật dành cho hành giả) khi Quả xuất hiện. [Sự từ bỏ theo kiểu xuất ly – nissaraṇappahāna] được nói (bởi Đức Phật dành cho hành giả) khi Niết Bàn xuất hiện. Trong bài kinh này, tất cả những loại từ bỏ đều được nói (bởi Đức Phật) như thế.

9

♦ idañhi suttaṃ bhikkhupātimokkhaṃ nāmāti porāṇā vadanti. idaṃ divasassa tikkhattuṃ paccavekkhitabbaṃ. pāto eva vasanaṭṭhānaṃ pavisitvā nisinnena “ime ettakā kilesā atthi nu kho mayhaṃ natthī”ti paccavekkhitabbā. sace atthīti passati, tesaṃ pahānāya vāyamitabbaṃ. no ce passati, supabbajitosmīti attamanena bhavitabbaṃ. bhattakiccaṃ katvā rattiṭṭhāne vā divāṭṭhāne vā nisīditvāpi paccavekkhitabbaṃ. sāyaṃ vasanaṭṭhāne nisīditvāpi paccavekkhitabbaṃ. tikkhattuṃ asakkontena dve vāre paccavekkhitabbaṃ. dve vāre asakkontena pana avassaṃ ekavāraṃ paccavekkhitabbaṃ, appaccavekkhituṃ na vaṭṭatīti vadanti. sesaṃ sabbattha uttānatthamevāti.

♦ papañcasūdaniyā majjhimanikāyaṭṭhakathāya

♦ anumānasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.

Các cổ nhân nói rằng: ‘Quả thật, bài kinh này được gọi là Bhikkhupātimokkha(i).’ Nó nên được suy xét 3 lần trong một ngày. Ngay vào buổi sáng, (vị Tỳ Kheo) đi vào nơi ngụ, ngồi xuống rồi nên suy xét rằng: ‘Bấy nhiêu phiền não ấy có hay không có cho ta?’ Nếu vị ấy thấy rằng: ‘Có!’; thì vị ấy nên nỗ lực từ bỏ chúng. Nếu vị ấy thấy rằng: ‘Không!’; thì vị ấy nên phát triển với sự hân hoan rằng: ‘Ta là vị xuất gia tốt đẹp.’ Sau khi thực hiện phận sự (độ) thực, vào ban ngày hay ban đêm, (vị Tỳ Kheo) ngồi xuống rồi nên suy xét. Vào buổi chiều, (vị Tỳ Kheo) ngồi xuống ở nơi ngụ, rồi nên suy xét. Khi không thể (suy xét) 3 lần (trong ngày), (vị Tỳ Kheo) nên suy xét 2 lần (trong ngày). Còn khi không thể (suy xét) 2 lần (trong ngày), (vị Tỳ Kheo) buộc phải suy xét một lần (trong ngày); các cổ nhân nói rằng: ‘(Vị Tỳ Kheo) không được phép không suy xét.’ Phần còn lại có ý nghĩa hoàn toàn rõ ràng về mọi mặt.

Sự giải thích bài kinh Anumānasutta thuộc bộ Chú Giải Trung Bộ – Papañcasūdanī được hoàn thành.

—–

(i) Bhikkhupātimokkha ở đây có nghĩa tổng quát là lời dạy của Đức Phật về mặt đạo đức, chứ không chỉ đến toàn bộ các điều luật cụ thể mà một vị Tỳ Kheo phải tuân giữ.