Kinh số 14 – Giải Thích Tiểu kinh Khổ uẩn
(Cūḷadukkhakkhandhasuttaṃ)14.1. Nội dung dịch
STT |
Pāḷi |
Việt |
1 |
♦ 175. evaṃ me sutanti cūḷadukkhakkhandhasuttaṃ. tattha sakkesūti evaṃnāmake janapade. so hi janapado sakyānaṃ rājakumārānaṃ vasanaṭṭhānattā sakyātveva saṅkhyaṃ gato. sakyānaṃ pana uppatti ambaṭṭhasutte āgatāva. kapilavatthusminti evaṃnāmake nagare. tañhi kapilassa isino nivāsaṭṭhāne katattā kapilavatthūti vuttaṃ, taṃ gocaragāmaṃ katvā. nigrodhārāmeti nigrodho nāma sakko, so ñātisamāgamakāle kapilavatthuṃ āgate bhagavati attano ārāme vihāraṃ kāretvā bhagavato niyyātesi, tasmiṃ viharatīti attho. mahānāmoti anuruddhattherassa bhātā bhagavato cuḷapituputto. suddhodano sukkodano sakkodano dhotodano amitodanoti ime pañca janā bhātaro. amitā nāma devī tesaṃ bhaginī. tissatthero tassā putto. tathāgato ca nandatthero ca suddhodanassa puttā, mahānāmo ca anuruddhatthero ca sukkodanassa. ānandatthero amitodanassa, so bhagavato kaniṭṭho. mahānāmo mahallakataro sakadāgāmī ariyasāvako. |
[(Điều đó) được nghe bởi tôi như vầy] (chỉ đến) bài kinh cūḷadukkhakkhandhasutta. Ở đoạn kinh đó; [ở Sakka – Sakka] tức: ở xứ sở có tên như thế. Bởi vì xứ sở đó quả thật có tên gọi Sakya(i) do các hoàng tử Sakya sinh sống (tại đó). Còn nguồn gốc của (thị tộc) Sakya được nói đến (xuất hiện) trong bài kinh Ambaṭṭhasutta. [Ở Kapilavatthu] tức: ở thành phố có tên như thế. Bởi vì (thành phố) đó được gọi là ‘Kapilavatthu’ do (nó) là nơi ở của bậc hiền sĩ Kapila; nó đã trở thành một ngôi làng (ưa thích) việc bố thí. Ở cụm từ [tu viện Nigrodha]; một vị thuộc dòng Sakka có tên Nigrodha. Vào lúc thân quyến hội họp khi Đức Thế Tôn đến Kapilavatthu, vị ấy cho chuẩn bị nơi ở (cho Ngài) ở trong khu vườn của mình, rồi dâng cho Đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn đang ngụ tại đó. Ý nghĩa là như vậy. [Mahānāma] tức: huynh đệ của trưởng lão Anuruddha, con trai của chú bác Đức Thế Tôn. ‘Suddhodana, Sukkodana Sakkodana, Dhotodana, Amitodana’; 5 người đó là huynh đệ. Hoàng hậu có tên ‘Amitā’ là tỷ muội của họ. Trưởng lão Tissa là con trai của bà. Đức Như Lai và trưởng lão Nanda là con trai của Suddhodana. Mahānāma và trưởng lão Anuruddha là con trai của Sukkodana. Trưởng lão Ānanda là con trai của Amitodana, ngài là (huynh đệ) nhỏ tuổi hơn của Đức Thế Tôn. Mahānāma là (huynh đệ) lớn tuổi hơn (của Đức Thế Tôn), là vị thánh đệ tử Nhất Lai. —– (i) [Sakya] là một biến thể của [Sakka]; đều chỉ đến dòng tộc Sakka của Đức Phật. |
2 |
♦ dīgharattanti mayhaṃ sakadāgāmiphaluppattito paṭṭhāya cirarattaṃ jānāmīti dasseti. lobhadhammāti lobhasaṅkhātā dhammā, nānappakārakaṃ lobhaṃyeva sandhāya vadati. itaresupi dvīsu eseva nayo. pariyādāya tiṭṭhantīti khepetvā tiṭṭhanti. idañhi pariyādānaṃ nāma “sabbaṃ hatthikāyaṃ pariyādiyitvā sabbaṃ assakāyaṃ sabbaṃ rathakāyaṃ sabbaṃ pattikāyaṃ pariyādiyitvā jīvantaṃyeva naṃ osajjeyyan”ti (saṃ. ni. 1.126) ettha gahaṇe āgataṃ. “aniccasaññā, bhikkhave, bhāvitā bahulīkatā sabbaṃ kāmarāgaṃ pariyādiyatī”ti (saṃ. ni. 3.102) ettha khepane. idhāpi khepane adhippetaṃ. tena vuttaṃ “pariyādiyitvāti khepetvā”ti. |
[Suốt thời gian dài – dīgharattaṃ] tức: vị ấy (Mahānāma) biểu đạt rằng ‘Con biết (pháp được nói bởi Thế Tôn) suốt thời gian lâu dài kể từ lúc con đắc Nhất Lai Quả.’ [Các pháp thuộc tham – lobhadhamma] tức: các pháp được xem là tham; vị ấy nói (điều đó) về chính tham gồm nhiều loại đa dạng. Và chính phương pháp (giải nghĩa) đó (nên được áp dụng) tại 2 (câu kinh) còn lại. [Nắm bắt rồi lưu lại – pariyādāya tiṭṭhanti] tức: [huỷ hoại rồi lưu lại – khepetvā tiṭṭhanti]. ‘Ta bắt lấy (pariyādiyitvā) toàn bộ bầy voi, toàn bộ bầy ngựa; ta bắt lấy (pariyādiyitvā) toàn bộ đoàn xe, toàn bộ đoàn bộ binh, rồi ta mới thả sống hắn’ (saṃ. ni. 1.126). Quả thật, ở đoạn văn này, từ [sự nắm bắt – pariyādāna] đó xuất hiện theo nghĩa là [sự bắt lấy – gahaṇa]. ‘Này các Tỳ Kheo! Vô thường tưởng khi được phát triển, được trau dồi; huỷ hoại dục tham’ (saṃ. ni. 3.102). Ở đoạn văn này, từ [sự nắm bắt – pariyādāna] đó xuất hiện theo nghĩa là [sự huỷ hoại – khepana]. Ở đây (ở đoạn chánh kinh), từ [sự nắm bắt – pariyādāna] đó cũng được hàm ý theo nghĩa là [sự huỷ hoại – khepana]. Do đó, điều đã được nói rằng ‘[sau khi nắm bắt – pariyādiyitvā]’ (có nghĩa) là ‘[sau khi huỷ hoại – khepetvā].’ |
3 |
♦ yena me ekadā lobhadhammāpīti yena mayhaṃ ekekasmiṃ kāle lobhadhammāpi cittaṃ pariyādāya tiṭṭhantīti pucchati. ayaṃ kira rājā “sakadāgāmimaggena lobhadosamohā niravasesā pahīyantī”ti saññī ahosi, ayaṃ “appahīnaṃ me atthī”tipi jānāti, appahīnakaṃ upādāya pahīnakampi puna pacchatovāvattatīti saññī hoti. ariyasāvakassa evaṃ sandeho uppajjatīti? āma uppajjati. kasmā? paṇṇattiyā akovidattā. “ayaṃ kileso asukamaggavajjho”ti imissā paṇṇattiyā akovidassa hi ariyasāvakassapi evaṃ hoti. kiṃ tassa paccavekkhaṇā natthīti? atthi. sā pana na sabbesaṃ paripuṇṇā hoti. eko hi pahīnakilesameva paccavekkhati. eko avasiṭṭhakilesameva, eko maggameva, eko phalameva, eko nibbānameva. imāsu pana pañcasu paccavekkhaṇāsu ekaṃ vā dve vā no laddhuṃ na vaṭṭati. iti yassa paccavekkhaṇā na paripuṇṇā, tassa maggavajjhakilesapaṇṇattiyaṃ akovidattā evaṃ hoti. |
[Mà bởi pháp đó, các pháp thuộc tham… đối với con – yena me ekadā lobhadhammāpi] (vị ấy) hỏi rằng: ‘… mà bởi pháp đó, vào lúc này lúc khác, các pháp thuộc tham nắm bắt tâm rồi lưu lại đối với con?’ Quả thật, vị vua đó (Mahānāma) đã nhận thức rằng: ‘Bằng Nhất Lai Đạo, tham, sân & si bị từ bỏ không còn dư sót.’ Vị ấy cũng biết rằng: ‘Ta còn pháp chưa được từ bỏ.(i)’ Vị ấy nhận thức rằng: ‘Do pháp chưa được từ bỏ, pháp đã được từ bỏ lại quay trở lại liền.’ Sự hoài nghi như vậy sinh lên cho vị thánh đệ tử được không? Sinh lên được. Vì sao? Do sự không thông hiểu khái niệm. Vị thánh đệ tử không thông hiểu khái niệm đó suy nghĩ rằng: ‘phiền não ấy có thể bị tiêu diệt bởi Đạo như thế ấy.’ Vị ấy không có sự suy xét chăng? Có. Nhưng sự suy xét đó không đầy đủ mọi bề. Bởi vì một sự suy xét suy xét về chính phiền não đã được từ bỏ. Một sự suy xét suy xét về chính phiền não còn lại. Một sự suy xét suy xét về chính Đạo. Một sự suy xét suy xét về chính Quả. Một sự suy xét suy xét về chính Niết Bàn. Thế nhưng, trong 5 loại suy xét đó, thật không thích hợp để (tiến hành) chỉ một hay 2 loại mà thôi(ii). Vị nào không suy xét đầy đủ như thế; thì vị đó không thông hiểu về mặt khái niệm ‘phiền não có thể bị tiêu diệt bởi Đạo’(iii) như vậy. —– (i) Tức vị ấy cho rằng: Nhất Lai Đạo diệt hết tham, sân, si; nhưng ngoài tham, sân, si ra vẫn còn những pháp khác vị ấy chưa từ bỏ. Vị ấy không biết cụ thể những pháp chưa được từ bỏ đó là gì nên hỏi Đức Phật. (ii) Tức cần suy xét đủ cả 5. (iii) Tức phiền não nào bị tiêu diệt bởi Đạo nào. |
4 |
♦ 176. so eva kho teti soyeva lobho doso moho ca tava santāne appahīno, tvaṃ pana pahīnasaññī ahosīti dasseti. so ca hi teti so tuyhaṃ lobhadosamohadhammo. kāmeti duvidhe kāme. na paribhuñjeyyāsīti mayaṃ viya pabbajeyyāsīti dasseti. |
[Chính (pháp) đó của ông – so eva kho te] tức Đức Phật chỉ ra rằng: ‘Chính tham, sân, si đó của ông chưa được từ bỏ trong dòng liên tục(i); nhưng ông tưởng rằng (chúng) đã được từ bỏ.’ [Bởi vì (nếu) (pháp) đó của ông – so ca hi te] tức: pháp tham, pháp sân, pháp si đó của ông. [Các dục] tức: 2 loại dục. [(Ông) không thể thụ hưởng] tức Đức Phật chỉ ra rằng: ‘(Ông) sẽ xuất gia giống như chúng ta.’ —– (i) [santāna] hoặc đầy đủ hơn là [cittasantāna – dòng liên tục của tâm]. |
5 |
♦ 177. appassādāti parittasukhā. bahudukkhāti diṭṭhadhammikasamparāyikadukkhamevettha bahukaṃ. bahupāyāsāti diṭṭhadhammikasamparāyiko upāyāsakilesoyevettha bahu. ādīnavoti diṭṭhadhammikasamparāyiko upaddavo. ettha bhiyyoti etesu kāmesu ayaṃ ādīnavoyeva bahu. assādo pana himavantaṃ upanidhāya sāsapo viya appo, parittako. iti cepi mahānāmāti mahānāma evaṃ cepi ariyasāvakassa. yathābhūtanti yathāsabhāvaṃ. sammā nayena kāraṇena paññāya suṭṭhu diṭṭhaṃ hotīti dasseti. tattha paññāyāti vipassanāpaññāya, heṭṭhāmaggadvayañāṇenāti attho. so cāti so eva maggadvayena diṭṭhakāmādīnavo ariyasāvako. pītisukhanti iminā sappītikāni dve jhānāni dasseti. aññaṃ vā tato santataranti tato jhānadvayato santataraṃ aññaṃ uparijhānadvayañceva maggadvayañca. neva tāva anāvaṭṭī kāmesu hotīti atha kho so dve magge paṭivijjhitvā ṭhitopi ariyasāvako upari jhānānaṃ vā maggānaṃ vā anadhigatattā neva tāva kāmesu anāvaṭṭī hoti, anāvaṭṭino anābhogo na hoti. āvaṭṭino sābhogoyeva hoti. kasmā? catūhi jhānehi vikkhambhanappahānassa, dvīhi maggehi samucchedappahānassa abhāvā. |
[Ít sự thoả mãn – appassāda] tức: ít sự an lạc. [Nhiều đau khổ – bahudukkha] tức: chính đau khổ ở đó (ở các dục) thuộc kiếp này và kiếp sau thì nhiều. [Nhiều khổ sở – bahupāyāsa] tức: chính phiền não và nỗi khổ sở ở đó (ở các dục) thuộc kiếp này và kiếp sau thì nhiều. [Sự nguy hiểm – ādīnava] tức: sự hiểm nguy thuộc kiếp này và kiếp sau. [Tại đó (thì) nhiều hơn – ettha bhiyyo] tức: chính sự nguy hiểm đó tại các dục ấy thì nhiều. Còn sự thoả mãn thì ít, ít ỏi giống như hạt Mù Tạt sánh với Hy Mã Lạp Sơn(i). [Này Mahānāma! Và nếu… như vậy – iti cepi mahānāma] tức: này Mahānāma! Và nếu vị thánh đệ tử… như vậy. [Theo thực tính – yathābhūtaṃ] tức: [theo bản chất – yathāsabhāvaṃ]. Đức Phật chỉ ra rằng: ‘(Vị thánh đệ tử) có Kiến đúng đắn theo trí tuệ dựa trên cơ sở, dựa trên phương pháp chân chánh.’ Ở đoạn kinh đó, [theo trí tuệ – paññāya] tức: theo trí tuệ Vipassanā và Trí của 2 Đạo bậc thấp. Ý nghĩa là như vậy. [Và vị đó] tức: chính vị thánh đệ tử thấy được sự nguy hiểm của dục dựa vào 2 Đạo đó. [Hỷ & lạc], thông qua cụm từ này, Đức Phật chỉ đến 2 tầng thiền có hỷ. [Hoặc (hỷ & lạc) khác an tịnh hơn cái (hỷ & lạc) đó – aññaṃ vā tato santataraṃ] tức: chính 2 tầng thiền khác hoặc 2 Đạo khác cao hơn, an tịnh hơn 2 tầng thiền đó hay 2 Đạo đó. [(Vị đó) vẫn chưa hề hết bị cám dỗ trong các dục – neva tāva anāvaṭṭī kāmesu hoti] tức: thì vị thánh đệ tử đó thấu đạt 2 Đạo (bậc thấp) rồi; vẫn chưa hề hết bị cám dỗ trong các dục do vị ấy chưa đạt đến các tầng thiền hay Đạo cao hơn. Người hết bị cám dỗ thì không thụ hưởng (các dục); người bị cám dỗ vẫn thụ hưởng (các dục). Vì sao? Do (vị đó) không có sự từ bỏ loại trừ dựa vào 4 tầng thiền hoặc sự từ bỏ đoạn tuyệt dựa vào 2 Đạo (cao hơn). —– (i) Tức sự thoả mãn thì bé như hạt Mù Tạt; còn sự nguy hiểm thì lớn như Hy Mã Lạp Sơn. |
6 |
♦ mayhampi khoti na kevalaṃ tuyheva, atha kho mayhampi. pubbeva sambodhāti maggasambodhito paṭhamatarameva. paññāya sudiṭṭhaṃ hotīti ettha orodhanāṭakā pajahanapaññā adhippetā. pītisukhaṃ nājjhagamanti sappītikāni dve jhānāni na paṭilabhiṃ. aññaṃ vā tato santataranti idha upari jhānadvayaṃ ceva cattāro ca maggā adhippetā. paccaññāsinti paṭiaññāsiṃ. |
[Và khi chúng ta… – mayhampi kho] tức: không chỉ các ông; mà cả chúng ta. [Chính trước lúc giác ngộ – pubbeva sambodhā] tức: chính trước thời điểm giác ngộ bằng Đạo. [Có Kiến đúng đắn theo trí tuệ – paññāya sudiṭṭhaṃ hoti] tức: ở đoạn kinh này; Tuệ từ bỏ, thanh lọc các chướng ngại được hàm ý. [Ta chưa đạt đến Hỷ & Lạc – pītisukhaṃ nājjhagamaṃ] tức: ta chưa đạt được 2 tầng thiền có Hỷ. [Hoặc cái khác an tịnh hơn cái đó – aññaṃ vā tato santataraṃ], ở đây, chính 2 tầng Thiền cao hơn hoặc 4 Đạo được hàm ý. [(Ta) thừa nhận – paccaññāsiṃ] tức: [(ta) thừa nhận – paṭiaññāsiṃ]. |
7 |
♦ 179. ekamidāhaṃ mahānāma samayanti kasmā āraddhaṃ? ayaṃ pāṭiyekko anusandhi. heṭṭhā kāmānaṃ assādopi ādīnavopi kathito, nissaraṇaṃ na kathitaṃ, taṃ kathetuṃ ayaṃ desanā āraddhā. kāmasukhallikānuyogo hi eko anto attakilamathānuyogo ekoti imehi antehi muttaṃ mama sāsananti upari phalasamāpattisīsena sakalasāsanaṃ dassetumpi ayaṃ desanā āraddhā. |
Vì sao cụm từ [Này Mahānāma! Vào một thời ấy, ta… – ekamidāhaṃ mahānāma samayaṃ] mở đầu (đoạn kinh đó)? (Cụm từ) đó là sự tiếp nối (mạch văn) một cách riêng biệt. Sự thoả mãn & sự nguy hiểm của các dục đã được nói ở trên; còn sự thoát ly (khỏi các dục) chưa được nói. Lời văn đó mở đầu (đoạn kinh đó) để nói đến (sự thoát ly) ấy. Quả thật, sự gắn bó với việc hưởng thụ dục lạc là một cực đoan; sự gắn bó với việc hành hạ bản thân là một cực đoan khác. Giáo lý của ta thoát khỏi những cực đoan đó. Lời văn đó mở đầu (đoạn kinh đó) để nói đến toàn bộ giáo lý (của Đức Phật) với đỉnh điểm là trạng thái của tầng Thiền Quả cao hơn. |
8 |
♦ gijjhakūṭe pabbateti tassa pabbatassa gijjhasadisaṃ kūṭaṃ atthi, tasmā gijjhakūṭoti vuccati. gijjhā vā tassa kūṭesu nivasantītipi gijjhakūṭoti vuccati. isigilipasseti isigilipabbatassa passe. kāḷasilāyanti kāḷavaṇṇe piṭṭhipāsāṇe. ubbhaṭṭhakā hontīti uddhaṃyeva ṭhitakā honti anisinnā. opakkamikāti ubbhaṭṭhakādinā attano upakkamena nibbattitā. nigaṇṭho, āvusoti aññaṃ kāraṇaṃ vattuṃ asakkontā nigaṇṭhassa upari pakkhipiṃsu. sabbaññū sabbadassāvīti so amhākaṃ satthā atītānāgatapaccuppannaṃ sabbaṃ jānāti passatīti dasseti. aparisesaṃ ñāṇadassanaṃ paṭijānātīti so amhākaṃ satthā aparisesaṃ dhammaṃ jānanto aparisesasaṅkhātaṃ ñāṇadassanaṃ paṭijānāti, paṭijānanto ca evaṃ paṭijānāti “carato ca me tiṭṭhato ca … pe … paccupaṭṭhitan”ti. tattha satatanti niccaṃ. samitanti tasseva vevacanaṃ. |
[Thứu Đỉnh Sơn – gijjhakūṭe pabbate] tức: núi đó có đỉnh giống như con chim kên kên; do đó, nó được gọi là [Thứu Đỉnh – gijjhakūṭo](i). Hoặc những con chim kên kên sống tại đỉnh của núi đó; nên nó được gọi là [Thứu Đỉnh]. [Triền núi Isigili – isigilipassa] tức: triền của núi Isigili. [Hắc thạch – kāḷasilā] tức: khối đá có phần trên màu đen. [(Họ) đứng thẳng – ubbhaṭṭhakā honti] tức: họ chỉ đứng thẳng, không ngồi. [(Đau đớn) bộc phát – opakkamika] tức: (đau đớn) phát sinh theo cách ập đến bản thân mình do việc đứng thẳng vân vân. [Này ông! Nigaṇṭha] tức: (các vị ấy) không thể nói đến cơ sở nào khác, nên viện đến cơ sở là Nigaṇṭha. [Toàn Giác, Toàn Tri – sabbaññū sabbadassāvī] tức: họ chỉ ra rằng: ‘Vị thầy ấy của chúng tôi biết, thấy tất cả những gì thuộc quá khứ, vị lai và hiện tại.’ [(Vị ấy) tuyên bố Trí Kiến không dư sót – aparisesaṃ ñāṇadassanaṃ paṭijānāti] tức: vị thầy ấy của chúng tôi biết toàn bộ pháp nên tuyên bố Trí Kiến – được gọi là (Trí Kiến) không dư sót. Hoặc trong khi tuyên bố, (vị thầy ấy của chúng tôi) tuyên bố rằng: ‘Trong khi ta đi, đứng… hiển hiện.’ Ở đoạn kinh đó, [luôn luôn – satataṃ] tức: [thường hằng – niccaṃ]. [Liên tục – samitaṃ] là từ đồng nghĩa với chính từ đó (luôn luôn – satataṃ). —– (i) Tên núi này vẫn thường được dịch là [Linh Thứu Sơn]. |
9 |
♦ 180. kiṃ pana tumhe, āvuso, nigaṇṭhā jānātha ettakaṃ vā dukkhaṃ nijjiṇṇanti idaṃ bhagavā puriso nāma yaṃ karoti, taṃ jānāti. vīsatikahāpaṇe iṇaṃ gahetvā dasa datvā “dasa me dinnā dasa avasiṭṭhā”ti jānāti, tepi datvā “sabbaṃ dinnan”ti jānāti. khettassa tatiyabhāgaṃ lāyitvā “eko bhāgo lāyito, dve avasiṭṭhā”ti jānāti. puna ekaṃ lāyitvā “dve lāyitā, eko avasiṭṭho”ti jānāti. tasmimpi lāyite “sabbaṃ niṭṭhitan”ti jānāti, evaṃ sabbakiccesu katañca akatañca jānāti, tumhehipi tathā ñātabbaṃ siyāti dasseti. akusalānaṃ dhammānaṃ pahānanti iminā akusalaṃ pahāya kusalaṃ bhāvetvā suddhantaṃ patto nigaṇṭho nāma tumhākaṃ sāsane atthīti pucchati. |
[Nhưng này các ông Nigaṇṭha! Các ông có biết rằng bấy nhiêu đau khổ đã cạn kiệt không? – kiṃ pana tumhe, āvuso, nigaṇṭhā jānātha ettakaṃ vā dukkhaṃ nijjiṇṇaṃ], Đức Thế Tôn trình bày điều đó – rằng: ‘Thông thường, người ta làm việc gì; thì người ta biết việc đó. (Ví như) một người nào đó vay một món nợ trị giá 20 Kahāpaṇa, trả được 10 Kahāpaṇa thì biết rằng ‘Mình đã trả 10 Kahāpaṇa, còn lại 10 Kahāpaṇa.’ Và sau khi người đó trả số (nợ còn lại) ấy thì biết rằng ‘Mình đã trả toàn bộ (số nợ).’ Một người nào đó sau khi gặt 1/3 cánh đồng; thì biết rằng ‘Mình đã gặt một phần cánh đồng; còn lại 2 phần.’ Sau khi người đó gặt một phần nữa thì biết rằng ‘Mình đã gặt 2 phần, còn lại một phần.’ Và khi phần (còn lại) ấy đã được gặt thì người đó biết rằng ‘Mình đã hoàn thành toàn bộ.’ Như vậy, người ta biết việc đã được làm lẫn việc chưa được làm ở trong mọi phận sự; các ông cũng nên biết như thế.’ [Sự từ bỏ các bất thiện pháp], thông qua cụm từ này, Đức Phật hỏi rằng: ‘Trong giáo lý của các ông, Nigaṇṭha đã từ bỏ bất thiện pháp, phát triển thiện pháp rồi đạt đến cứu cánh thanh tịnh chưa?’ |
10 |
♦ evaṃ santeti tumhākaṃ evaṃ ajānanabhāve sati. luddāti luddācārā. lohitapāṇinoti pāṇe jīvitā voropentā lohitena makkhitapāṇino. pāṇaṃ hi hanantassapi yassa lohitena pāṇi na makkhiyati, sopi lohitapāṇītveva vuccati. kurūrakammantāti dāruṇakammā. mātari pitari dhammikasamaṇabrāhmaṇādīsu ca katāparādhā. māgavikādayo vā kakkhaḷakammā. |
[Trong khi (sự việc) là như vậy – evaṃ sante] tức: trong khi các ông không biết như vậy. [Hung hãn – ludda] tức: có hành vi hung hãn. [Có bàn tay máu – lohitapāṇino] tức: do (những người ấy) cướp đoạt mạng sống của chúng sinh nên có bàn tay bị nhuộm bởi máu. Quả thật, bàn tay của kẻ giết hại sinh vật nào không bị nhuộm bởi máu; thì kẻ ấy cũng vẫn được gọi là (người có) bàn tay máu. [Có công việc hung tợn – kurūrakammanta] tức: có công việc hung dữ. (Họ) xúc phạm mẹ, cha hoặc các Sa Môn, Bà La Môn chân chánh vân vân. Hoặc (họ) có nghề nghiệp thô thiển như thợ săn vân vân. |
11 |
♦ na kho, āvuso, gotamāti idaṃ nigaṇṭhā “ayaṃ amhākaṃ vāde dosaṃ deti, mayampissa dosaṃ āropemā”ti maññamānā ārabhiṃsu. tassattho, “āvuso, gotama yathā tumhe paṇītacīvarāni dhārentā sālimaṃsodanaṃ bhuñjantā devavimānavaṇṇāya gandhakuṭiyā vasamānā sukhena sukhaṃ adhigacchatha, na evaṃ sukhena sukhaṃ adhigantabbaṃ. yathā pana mayaṃ ukkuṭikappadhānādīhi nānappakāraṇaṃ dukkhaṃ anubhavāma, evaṃ dukkhena sukhaṃ adhigantabban”ti. sukhena ca hāvusoti idaṃ sace sukhena ca sukhaṃ adhigantabbaṃ siyā. rājā adhigaccheyyāti dassanatthaṃ vuttaṃ. tattha māgadhoti magadharaṭṭhassa issaro. seniyoti tassa nāmaṃ. bimbīti attabhāvassa nāmaṃ. so tassa sārabhūto dassanīyo pāsādiko attabhāvasamiddhiyā bimbisāroti vuccati. sukhavihāritaroti idaṃ te nigaṇṭhā rañño tīsu pāsādesu tividhavayehi nāṭakehi saddhiṃ sampattianubhavanaṃ sandhāya vadanti. addhāti ekaṃsena. sahasā appaṭisaṅkhāti sāhasaṃ katvā, appaccavekkhitvāva yathā ratto rāgavasena duṭṭho dosavasena mūḷho mohavasena bhāsati, evamevaṃ vācā bhāsitāti dasseti. |
[Này ông Gotama! Không… – na kho, āvuso, gotama] tức: các vị Nigaṇṭha bắt đầu (lời nói) đó vì cho rằng ‘Người này (Đức Thế Tôn) bắt lỗi về giáo lý của chúng ta, chúng ta cũng hãy chỉ ra lỗi của người ấy.’ (Đây là) ý nghĩa của đoạn kinh ấy: ‘Này ông Gotama! Giống như các ông đang đạt đến lạc(i) dựa vào lạc bằng cách mặc những tấm y hảo hạng, ăn cơm gạo thịt, sống trong hương phòng có hình dáng như lâu đài chư thiên; lạc không thể được đạt đến dựa vào lạc như vậy. Còn như chúng tôi đang trải nghiệm khổ đa dạng bằng việc nỗ lực ngồi xổm vân vân, lạc có thể được đạt đến dựa vào khổ như vậy.’ [Và này ông! Bởi vì… dựa vào lạc – sukhena ca hāvuso] tức: điều đó được nói nhằm cho thấy ‘Nếu lạc có thể được đạt đến dựa vào lạc; thì vua chúa có thể đạt đến lạc(ii).’ Ở đoạn kinh đó, [thuộc xứ Magadha – Māgadha] chỉ đến: vị chủ của xứ Magadha. [Seniya] là tên của vị ấy. [Bimbi] là tên gọi theo đặc điểm cá nhân của vị ấy. Do sự thiên phú về đặc điểm cá nhân của mình, vị ấy – vốn là người nổi trội (về dung nhan), ưa nhìn, đẹp mắt – được gọi là [Bimbisāra](iii). [Lạc cư hơn – sukhavihāritara] tức: những vị Nigaṇṭha ấy nói điều đó liên quan đến việc hưởng thụ hạnh phúc của các vị vua cùng các vũ công ở 3 ngôi lâu đài vào 3 thời (trong một năm). [Chắc chắn – addhā] tức: [hiển nhiên – ekaṃsena]. [Một cách hấp tấp, thiếu sự suy xét – sahasā appaṭisaṅkhā] tức Đức Phật cho thấy ‘(Họ) hấp tấp, chẳng hề suy xét. Giống như người tham lam nói do tham, người sân hận nói do sân, người si mê nói do si; lời được nói của họ giống hệt như vậy.’ —– (i) [Lạc – sukha] ở đây là một khái niệm có thể hiểu theo nhiều hàm ý khác nhau. Các đạo sĩ Nigaṇṭha cho rằng Đức Phật & các Tỳ Kheo đang hưởng thụ lạc thú vật chất, chứ không phải là thức ‘lạc’ thanh cao từ việc tu tập; còn chính họ mới đạt đến loại lạc thanh cao này bằng việc trải nghiệm khổ đa dạng. (ii) Tương tự như (i), nếu lấy lạc thú vật chất làm tiêu chuẩn, thì vua chúa còn hưởng nhiều lạc hơn Đức Thế Tôn. (iii) [Bimbisāra] = [nổi trội về sắc màu vàng], có thể ám chỉ đến màu da của nhà vua. |
12 |
♦ tattha paṭipucchissāmīti tasmiṃ atthe pucchissāmi. yathā vo khameyyāti yathā tumhākaṃ rucceyya. pahotīti sakkoti. |
[Ta sẽ hỏi về điều đó – tattha paṭipucchissāmi] tức: ta sẽ hỏi về ý nghĩa đó. [Khi nào (điều đó) phù hợp với các ông – yathā vo khameyya] tức: khi nào điều đó vừa lòng các ông. [Có khả năng – pahoti] tức: [có thể – sakkoti]. |
13 |
♦ aniñjamānoti acalamāno. ekantasukhaṃ paṭisaṃvedīti nirantarasukhaṃ paṭisaṃvedī. “ahaṃ kho, āvuso, nigaṇṭhā pahomi … pe … ekantasukhaṃ paṭisaṃvedī”ti idaṃ attano phalasamāpattisukhaṃ dassento āha. ettha ca kathāpatiṭṭhāpanatthaṃ rājavāre satta ādiṃ katvā pucchā katā. satta rattindivāni nappahotīti hi vutte cha pañca cattārīti sukhaṃ pucchituṃ hoti. suddhavāre pana sattāti vutte puna cha pañca cattārīti vuccamānaṃ anacchariyaṃ hoti, tasmā ekaṃ ādiṃ katvā desanā katā. sesaṃ sabbattha uttānatthamevāti. ♦ papañcasūdaniyā majjhimanikāyaṭṭhakathāya ♦ cūḷadukkhakkhandhasuttavaṇṇanā niṭṭhitā. |
[Không động đậy – aniñjamāna] tức: [không rung động – acalamāna]. [Cảm thọ cực lạc – ekantasukhaṃ paṭisaṃvedī] tức: cảm thọ lạc không dứt. Đức Phật đã nói điều đó nhằm cho thấy lạc từ Thiền Quả(i) của bản thân mình rằng: ‘Này các ông Nigaṇṭha! Ta có thể… cảm thọ cực lạc.’ Và ở đoạn kinh đó, (Đức Phật) đã hỏi (các đạo sĩ Nigaṇṭha) bằng cách đề cập đến 7 (ngày cảm thọ cực lạc) ở tình tiết về nhà vua (Bimbisāra) nhằm củng cố lời giảng của mình. Quả thật, khi điều này được nói: ‘(Nhà vua Bimbisāra) không thể (cảm thọ cực lạc) suốt 7 ngày’; thì (Đức Phật) hỏi về (việc cảm thọ) cực lạc suốt 6, 5, 4 (ngày). Thế nhưng, ở đoạn văn khẳng định(ii), nếu nói về ‘7 ngày’ rồi mới nói về ‘6, 5, 4 ngày’; thì lời nói đó không nổi bật. Do đó, đoạn văn ấy bắt đầu từ ‘một ngày’. Phần còn lại có ý nghĩa hoàn toàn rõ ràng ở mọi điểm. Sự giải thích bài kinh Cūḷadukkhakkhandhasutta thuộc bộ Chú Giải Trung Bộ – Papañcasūdanī được hoàn thành. —– (i) [phalasamāpatti], là tầng thiền siêu-thế, chỉ có bậc Thánh mới vào được. (ii) Tức đoạn văn đầu là đoạn văn phủ định: các đạo sĩ trả lời phủ định khả năng cảm thọ cực lạc của nhà vua Bimbisāra. Đoạn văn sau là đoạn khẳng định: Đức Phật khẳng định khả năng cảm thọ cực lạc của mình. |