Kinh số 11 – Giải Thích Tiểu Kinh Sư Tử Hống

(Cūḷasīhanādasuttavaṇṇanā)

11.1. Nội dung dịch

STT

Pāḷi

Việt

1

139. evaṃ me sutanti cūḷasīhanādasuttaṃ. yasmā panassa atthuppattiko nikkhepo, tasmā taṃ dassetvā cassa anupubbapadavaṇṇanaṃ karissāma. katarāya panidaṃ atthuppattiyā nikkhittanti? lābhasakkārapaccayā titthiyaparidevite. bhagavato kira dhammadāyādasutte vuttanayena mahālābhasakkāro uppajji. catuppamāṇiko hi ayaṃ lokasannivāso, rūpappamāṇo rūpappasanno, ghosappamāṇo ghosappasanno, lūkhappamāṇo lūkhappasanno, dhammappamāṇo dhammappasannoti imesaṃ puggalānaṃ vasena catudhā ṭhito.

Cụm từ [(Điều này) đã được nghe bởi tôi như vầy] chỉ đến bài kinh Tiểu Sư Tử Hống [Cūḷasīhanādasutta]. Và bởi vì nguồn gốc ý nghĩa của (bài kinh) ấy đã bị loại bỏ (khỏi nội dung bài kinh); cho nên chúng tôi sẽ trình bày nó (nguồn gốc ý nghĩa của bài kinh) rồi giải thích câu từ của (bài kinh) ấy một cách tuần tự(i). Vậy (bài kinh) ấy đã được sắp xếp dựa trên nguồn gốc ý nghĩa nào? Do duyên là quyền lợi & sự tôn kính (dành cho giáo pháp) trong cảnh than van của ngoại đạo(ii). Quả thật, quyền lợi & sự tôn kính lớn lao (dành cho giáo pháp) đã phát sinh theo như phương thức đã được nói bởi Đức Thế Tôn trong bài kinh Dhammadāyāda. Quả thật, người sống trong thế gian này thì đánh giá (người khác, sự việc…) theo 4 (tiêu chuẩn): (1) Một loại người đánh giá theo hình dáng, tin tưởng theo hình dáng; (2) Một loại người đánh giá theo tiếng tăm, tin tưởng theo tiếng tăm; (3) Một loại người đánh giá theo tính thô kém, tin tưởng theo tính thô kém; và (4) Một loại người đánh giá theo giáo pháp, tin tưởng theo giáo pháp. Sự (đánh giá) gồm 4 loại đó tồn tại nơi những loại người đó. 

—–

(i) Nguồn gốc ý nghĩa bài kinh tức hoàn cảnh, bối cảnh liên quan đến bài kinh.

 

(ii) Tức đạo Phật đi lên về quyền lợi & sự kính tín từ tín đồ trong khi ngoại đạo đi xuống.

2

tesaṃ idaṃ nānākaraṇaṃ —katamo ca puggalo rūpappamāṇo rūpappasanno?

idhekacco puggalo ārohaṃ vā passitvā pariṇāhaṃ vā passitvā saṇṭhānaṃ vā passitvā pāripūriṃ vā passitvā tattha pamāṇaṃ gahetvā pasādaṃ janeti, ayaṃ vuccati puggalo rūpappamāṇo rūpappasanno.

Đây là sự khác biệt của những loại người ấy:

Loại người đánh giá theo hình dáng, tin tưởng theo hình dáng là loại người nào? Ở đây, một người nào đó nhìn thấy độ cao, nhìn thấy độ rộng, nhìn thấy hình dạng, nhìn thấy sự hoàn chỉnh (về hình dáng) rồi kế đến, tiến hành đánh giá, khởi sinh sự tin tưởng. Đó được gọi là loại người đánh giá theo hình dáng, tin tưởng theo hình dáng.

3

♦ katamo ca puggalo ghosappamāṇo ghosappasanno? idhekacco puggalo paravaṇṇanāya parathomanāya parapasaṃsanāya paravaṇṇahārikāya, tattha pamāṇaṃ gahetvā pasādaṃ janeti, ayaṃ vuccati puggalo ghosappamāṇo ghosappasanno.

Loại người đánh giá theo tiếng tăm, tin tưởng theo tiếng tăm là loại người nào? Ở đây, một người nào đó dựa vào lời khen người khác, dựa vào lời ngợi khen người khác, dựa vào lời tán dương người khác, dựa vào sự ca ngợi người khác(i) mà tiến hành đánh giá, khởi sinh sự tin tưởng. Đó được gọi là loại người đánh giá theo tiếng tăm, tin tưởng theo tiếng tăm.

—–

(i) [Người khác – para]; [para] có thể chỉ [người khác, vật khác], nên ở đây có thể hiểu việc đánh giá này không chỉ áp dụng cho người, mà còn áp dụng cho sự vật, sự việc – chẳng hạn: đánh giá một ngôi trường, một công ty…

4

♦ katamo ca puggalo lūkhappamāṇo lūkhappasanno?

Idhe kacco puggalo cīvaralūkhaṃ vā passitvā pattalūkhaṃ vā passitvā, senāsanalūkhaṃ vā passitvā vividhaṃ vā dukkarakārikaṃ passitvā tattha pamāṇaṃ gahetvā pasādaṃ janeti, ayaṃ vuccati puggalo lūkhappamāṇo lūkhappasanno.

Loại người đánh giá theo tính thô kém, tin tưởng theo tính thô kém là loại người nào? Ở đây, một người nào đó nhìn thấy tính thô kém của y, nhìn thấy tính thô kém của bát, nhìn thấy tính thô kém của nơi ngụ, nhìn thấy nhiều việc làm khó khăn đa dạng(i) rồi kế đến, tiến hành đánh giá, khởi sinh sự tin tưởng. Đó được gọi là loại người đánh giá theo tính thô kém, tin tưởng theo tính thô kém.

—–

(i) Sự đánh giá ở đây áp dụng cho việc đánh giá một vị Tỳ Kheo. Người đánh giá theo tính thô kém chỉ tin tưởng vào vị Tỳ Kheo khi thấy vị ấy ăn ở, sinh hoạt… trong các điều kiện khó khăn, thiếu thốn.

5

♦ katamo ca puggalo dhammappamāṇo dhammappasanno? idhekacco puggalo sīlaṃ vā passitvā samādhiṃ vā passitvā paññaṃ vā passitvā tattha pamāṇaṃ gahetvā pasādaṃ janeti, ayaṃ vuccati puggalo dhammappamāṇo dhammappasannoti.

Loại người đánh giá theo giáo pháp, tin tưởng theo giáo pháp là loại người nào? Ở đây, một người nào đó nhìn thấy giới, nhìn thấy định, nhìn thấy tuệ rồi kế đến, tiến hành đánh giá, khởi sinh sự tin tưởng. Đó được gọi là loại người đánh giá theo giáo pháp, tin tưởng theo giáo pháp.

6

imesu catūsu puggalesu rūpappamāṇopi bhagavato ārohapariṇāhasaṇṭhānapāripūrivaṇṇapokkharataṃ, asītianubyañjanappaṭimaṇḍitattā nānāratanavicittamiva suvaṇṇamahāpaṭaṃ, dvattiṃsamahāpurisalakkhaṇasamākiṇṇatāya tārāgaṇasamujjalaṃ viya gaganatalaṃ sabbaphāliphullaṃ viya ca yojanasatubbedhaṃ pāricchattakaṃ aṭṭhārasaratanubbedhaṃ byāmappabhāparikkhepaṃ sassirikaṃ anopamasarīraṃ disvā sammāsambuddheyeva pasīdati.

Trong 4 loại người đó:

Loại người đánh giá theo hình dáng nhìn thấy vẻ đẹp hình thể với chiều cao, chiều rộng, hình dạng, sự hoàn chỉnh (về hình dáng) của Đức Thế Tôn – tức thân hình vô song của Ngài với đầu được bao quanh bởi hào quang, có chiều cao là 18 Cubit(i) – do sự đầy đủ 32 đặc điểm của bậc đại nhân giống như vòm trời rực rỡ nhờ các chòm sao hay giống như cây Pāricchattaka có chiều cao là 100 Yojana đang trổ đầy hoa, nhờ sự tô điểm của 80 đặc điểm phụ giống như miếng vải lớn đẹp đẽ được trang trí bởi nhiều món trang sức; rồi (người ấy) mới tin vào chính bậc Chánh Đẳng Chánh Giác.

—–

(i) Đơn vị đo chiều dài thời xưa; 1 Cubit = 45,72 cm.

7

♦ ghosappamāṇopi, bhagavatā kappasatasahassādhikāni cattāri asaṅkhyeyyāni dasa pāramiyo dasa upapāramiyo dasa paramatthapāramiyo pūritā aṅgapariccāgo puttadārapariccāgo, rajjapariccāgo attapariccāgo nayanapariccāgo ca katotiādinā nayena pavattaṃ ghosaṃ sutvā sammāsambuddheyeva pasīdati.

Loại người đánh giá theo tiếng tăm nghe tiếng tăm (của Đức Thế Tôn) xảy ra theo kiểu ‘10 Ba La Mật, 10 Ba La Mật bậc trung, 10 Ba La Mật bậc thượng đã được hoàn thành bởi Đức Thế Tôn trong 4 A Tăng Kỳ và 100.000 đại kiếp; việc cho đi tứ chi, việc cho đi vợ con, việc cho đi vương quốc, việc cho đi bản thân, việc cho đi con mắt đã được làm bởi Đức Thế Tôn vân vân’; rồi (người ấy) mới tin vào chính bậc Chánh Đẳng Chánh Giác.  

8

♦ lūkhappamāṇopi bhagavato cīvaralūkhaṃ disvā “sace bhagavā agāraṃ ajjhāvasissa, kāsikavatthameva adhārayissa. pabbajitvā panānena sāṇapaṃsukūlacīvarena santussamānena bhāriyaṃ katan”ti sammāsambuddheyeva pasīdati. pattalūkhampi disvā — “iminā agāraṃ ajjhāvasantena rattavarasuvaṇṇabhājanesu cakkavattibhojanārahaṃ sugandhasālibhojanaṃ paribhuttaṃ, pabbajitvā pana pāsāṇamayaṃ pattaṃ ādāya uccanīcakuladvāresu sapadānaṃ piṇḍāya caritvā laddhapiṇḍiyālopena santussamāno bhāriyaṃ karotī”ti sammāsambuddheyeva pasīdati. senāsanalūkhaṃ disvāpi — “ayaṃ agāraṃ ajjhāvasanto tiṇṇaṃ utūnaṃ anucchavikesu tīsu pāsādesu tividhanāṭakaparivāro dibbasampattiṃ viya rajjasiriṃ anubhavitvā idāni pabbajjūpagato rukkhamūlasenāsanādīsu dāruphalaka silāpaṭṭa pīṭha mañcakādīhi santussamāno

bhāriyaṃ karotī”ti sammāsambuddheyeva pasīdati. dukkarakārikamassa disvāpi — “chabbassāni nāma mugga yūsa kulatthayūsa hareṇuyūsādīnaṃ pasaṭamattena yāpessati, appāṇakaṃ jhānaṃ jhāyissati, sarīre ca jīvite ca anapekkho

viharissati, aho dukkarakārako bhagavā”ti sammāsambuddheyeva pasīdati.

Loại người đánh giá theo tính thô kém nhìn thấy tính thô kém của bộ y của Đức Thế Tôn, (nghĩ rằng) ‘Nếu Đức Thế Tôn sống tại gia; thì Ngài sẽ mặc vải Kāsi thôi. Nhưng Ngài đã xuất gia, rồi phận sự (xuất gia) đã được thực hiện bởi Ngài trong khi Ngài thoả mãn với bộ y thô, được làm từ những mảnh giẻ ở những nơi bụi bặm’; rồi (người ấy) mới tin vào chính bậc Chánh Đẳng Chánh Giác. (Người ấy) nhìn thấy tính thô kém của cái bát của Đức Thế Tôn, (nghĩ rằng) ‘Trong khi (Đức Thế Tôn) sống tại gia; thực phẩm từ gạo Sāli, có hương thơm, xứng với bậc Chuyển Luân Vương, (được đựng) trong những cái bát đẹp đẽ, có màu sắc đẹp nhất, đã được Ngài thọ dụng. Nhưng Ngài đã xuất gia; lấy một cái bát được làm từ đá; đi khất thực liên tục nơi những cửa nhà thuộc tầng lớp cao và tầng lớp thấp; rồi thực hiện phận sự (xuất gia) một cách thoả mãn với từng nắm vật thực được đạt được (như vậy)’; rồi (người ấy) mới tin vào chính bậc Chánh Đẳng Chánh Giác. (Người ấy) nhìn thấy tính thô kém của nơi ngụ của Đức Thế Tôn, (nghĩ rằng) ‘Vị ấy trong khi sống tại gia, đã trải nghiệm sự giàu có của vương quốc mình giống như (trải nghiệm) hạnh phúc cõi trời – (vị ấy) có 3 nhóm tuỳ tùng, vũ công ở 3 lâu đài phù hợp với 3 mùa – rồi giờ đây; (vị ấy) đi đến trạng thái xuất gia, thực hiện phận sự (xuất gia) một cách thoả mãn với giường nhỏ, ghế, phiến đá, tấm ván gỗ vân vân ở những nơi ngụ như gốc cây vân vân’; rồi (người ấy) mới tin vào chính bậc Chánh Đẳng Chánh Giác. (Người ấy) nhìn thấy việc làm khó khăn của Ngài, (nghĩ rằng) ‘Trong suốt 6 năm, (Đức Thế Tôn) có thể dùng nước ép đậu xanh, nước ép đậu tằm, nước ép đậu Hareṇu vân vân với số lượng một nắm tay; có thể vào tầng thiền không hơi thở; có thể sống một cách không mong cầu về thân thể hay mạng sống. Ôi! Đức Thế Tôn là người làm việc khó làm’; rồi (người ấy) mới tin vào chính bậc Chánh Đẳng Chánh Giác. 

9

♦ dhammappamāṇopi bhagavato sīlaguṇaṃ samādhiguṇaṃ paññāguṇaṃ jhānavimokkhasamādhisamāpattisampadaṃ abhiññāpāripūriṃ yamakapāṭihāriyaṃ devorohaṇaṃ pāthikaputtadamanādīni ca anekāni acchariyāni disvā sammāsambuddheyeva pasīdati, te evaṃ pasannā bhagavato mahantaṃ lābhasakkāraṃ abhiharanti. titthiyānaṃ pana bāverujātake kākassa viya lābhasakkāro parihāyittha. yathāha —

Loại người đánh giá theo giáo pháp nhìn thấy nhiều sự phi thường của Đức Thế Tôn – như: việc điều ngự Pāthikaputta(i) vân vân, việc giáng xuống từ bầu trời, song thông, sự viên mãn thắng trí, thành quả, thành tựu về Định – tức sự giải thoát nhờ tầng thiền, phẩm chất về giới, phẩm chất về định, phẩm chất về tuệ; rồi (người ấy) mới tin vào chính bậc Chánh Đẳng Chánh Giác. Những người đó tin tưởng như vậy, mang lại quyền lợi & sự tôn kính lớn lao cho Đức Thế Tôn. Còn quyền lợi & sự tôn kính dành cho các ngoại đạo thì suy giảm giống như (quyền lợi & sự tôn kính) dành cho con quạ trong chuyện Bāverujātaka. Giống như (Đức Phật) đã nói:

—–

(i) Có bản ghi là [Pāṭikaputta].

10

♦ “adassanena morassa, sikhino mañjubhāṇino.

♦ kākaṃ tattha apūjesuṃ, maṃsena ca phalena ca.

♦ yadā ca sarasampanno, moro bāverumāgamā.

♦ atha lābho ca sakkāro, vāyasassa ahāyatha.

♦ yāva nuppajjati buddho, dhammarājā pabhaṅkaro.

♦ tāva aññe apūjesuṃ, puthū samaṇabrāhmaṇe.

♦ yadā ca sarasampanno, buddho dhammamadesayi.

♦ atha lābho ca sakkāro, titthiyānaṃ ahāyathā”ti. (jā. 1.4.153-156).

Do việc không nhìn thấy con công – con vật có mào, có tiếng kêu thu hút – người ta đã tôn vinh con quạ tại đó, bằng thịt hay bằng trái cây(i). Và khi con công – chín muồi về âm giọng – đi đến Bāveru; thì quyền lợi & sự tôn kính dành cho con quạ suy giảm. Trong khi nào Đức Phật – bậc Pháp Vương, bậc làm ra ánh sáng – chưa sinh lên; thì trong khi ấy, người ta tôn vinh các Sa Môn, Bà La Môn thông thường khác. Khi nào Đức Phật – bậc đầy đủ về âm giọng – thuyết Pháp; thì khi đó, quyền lợi & sự tôn kính dành cho các ngoại đạo suy giảm. (jā. 1.4.153-156)

—–

(i) Tức cúng thịt hay cúng trái cây cho con quạ.

11

♦ te evaṃ pahīnalābhasakkārā rattiṃ ekadvaṅgulamattaṃ obhāsetvāpi sūriyuggamane khajjopanakā viya hatappabhā ahesuṃ.

♦ yathā hi khajjopanakā, kāḷapakkhamhi rattiyā.

♦ nidassayanti obhāsaṃ, etesaṃ visayo hi so.

♦ yadā ca rasmisampanno, abbhudeti pabhaṅkaro.

♦ atha khajjupasaṅghānaṃ, pabhā antaradhāyati.

♦ evaṃ khajjupasadisā, titthiyāpi puthū idha.

♦ kāḷapakkhūpame loke, dīpayanti sakaṃ guṇaṃ.

♦ yadā ca buddho lokasmiṃ, udeti amitappabho.

♦ nippabhā titthiyā honti, sūriye khajjupakā yathāti.

Họ có quyền lợi & sự tôn kính bị huỷ hoại như vậy giống như những con đom đóm sau khi chiếu sáng với phạm vi 1, 2 đốt ngón tay lúc ban đêm thì vào thời điểm xuất hiện của mặt trời, chúng có ánh sáng bị huỷ hoại. 

Quả thật, giống như những con đom đóm toả ra ánh sáng vào buổi đêm thuộc nửa tháng trăng mờ; bởi vì đó là phạm vi của chúng. Còn khi vật có đầy đủ các tia sáng (mặt trời) – vật làm ra ánh sáng – hiện lên; thì ánh sáng của đàn đom đóm biến mất. Ở đây, những thường nhân ngoại đạo thì giống như những con đom đóm như thế. Khi thế gian giống như nửa tháng trăng mờ, họ (các ngoại đạo) toả sáng phẩm chất của mình. Còn khi Đức Phật – bậc có ánh sáng vô lượng – hiện lên trong thế gian; thì các ngoại đạo mất ánh sáng, giống như những con đom đóm khi mặt trời mọc lên.

12

♦ te evaṃ nippabhā hutvā kacchupiḷakādīhi kiṇṇasarīrā paramapārijuññapattā yena buddho yena dhammo yena saṅgho yena ca mahājanassa sannipāto, tena tena gantvā antaravīthiyampi siṅghāṭakepi catukkepi sabhāyampi ṭhatvā paridevanti —

Họ mất ánh sáng như vậy; đạt đến sự thiệt hại tột cùng, với thân thể bị bao phủ bởi ghẻ nhọt vân vân; Đức Phật ở đâu, Đức Pháp ở đâu, Đức Tăng ở đâu hay sự tụ hội của đại chúng diễn ra ở đâu thì họ đi đến những chỗ đó; đứng ở giữa đường, ở giao lộ, ở ngã 4 hay ở nhà công cộng rồi than van rằng: 

13

♦ “kiṃ bho samaṇoyeva gotamo samaṇo, mayaṃ assamaṇā; samaṇasseva gotamassa sāvakā samaṇā, amhākaṃ sāvakā assamaṇā? samaṇasseva gotamassa sāvakānañcassa dinnaṃ mahapphalaṃ, na amhākaṃ, sāvakānañca no dinnaṃ mahapphalaṃ? nanu samaṇopi gotamo samaṇo, mayampi samaṇā. samaṇassapi gotamassa sāvakā samaṇā, amhākampi sāvakā samaṇā. samaṇassapi gotamassa sāvakānañcassa dinnaṃ mahapphalaṃ, amhākampi sāvakānañca no dinnaṃ mahapphalañceva? samaṇassapi gotamassa sāvakānañcassa detha karotha, amhākampi sāvakānañca no detha sakkarotha? nanu samaṇo gotamo purimāni divasāni uppanno, mayaṃ pana loke uppajjamāneyeva uppannā”ti.

Này các ông! Sa Môn Gotama thật là Sa Môn, còn chúng tôi chẳng phải Sa Môn ư? Các đệ tử của chính Sa Môn Gotama là Sa Môn, còn các đệ tử của chúng tôi chẳng phải Sa Môn ư? Vật được cho đến những đệ tử của chính Sa Môn Gotama thì có quả lớn, còn vật được cho đến những đệ tử của chính chúng tôi thì không có quả lớn ư? Chẳng phải Sa Môn Gotama là Sa Môn, thì chúng tôi cũng là Sa Môn ư? Các đệ tử của Sa Môn Gotama là Sa Môn, thì các đệ tử của chúng tôi cũng là Sa Môn ư? Vật được cho đến những đệ tử của Sa Môn Gotama có quả lớn, thì vật được cho đến những đệ tử của chính chúng tôi cũng có quả lớn ư? Các ông cúng dường, tôn kính các đệ tử của chính Sa Môn Gotama mà không cúng dường, tôn kính các đệ tử của chúng tôi ư? Chẳng phải Sa Môn Gotama xuất hiện vào mấy ngày trước, còn chúng tôi xuất hiện khi thế gian xuất hiện ư(i)?

—–

(i) Tức Đức Phật & Phật Pháp mới xuất hiện thôi, còn các ngoại đạo có truyền thống từ rất lâu rồi – từ buổi ‘khai thiên lập địa.’

14

♦ evaṃ nānappakāraṃ viravanti. atha bhikkhū bhikkhuniyo upāsakā upāsikāyoti catasso parisā tesaṃ saddaṃ sutvā bhagavato ārocesuṃ “titthiyā bhante idañcidañca kathentī”ti. taṃ sutvā bhagavā — “mā tumhe, bhikkhave, titthiyānaṃ vacanena ‘aññatra samaṇo atthī’ti saññino ahuvatthā”ti vatvā aññatitthiyesu samaṇabhāvaṃ paṭisedhento idheva ca anujānanto imissā atthuppattiyā idheva, bhikkhave, samaṇoti idaṃ suttaṃ abhāsi.

Họ kêu ca theo nhiều phương thức như vậy. Thế rồi 4 hội chúng – Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Nam Cận Sự, Nữ Cận Sự – nghe lời nói của họ rồi báo với Đức Thế Tôn rằng: ‘Bạch Ngài! Các ngoại đạo nói điều này, điều kia!’ Đức Thế Tôn nghe điều đó; nói rằng: ‘Này các Tỳ Kheo! Các con chớ tưởng rằng ‘Có Sa Môn ở nơi khác (ngoài Phật Pháp)’ bởi lời nói của các ngoại đạo!’; rồi nhằm bác bỏ trạng thái Sa Môn ở các ngoại đạo cũng như tán thành việc đạt đến mục đích đó ngay tại đây (Giáo Pháp này), (Đức Thế Tôn) đã nói bài kinh này ‘Này các Tỳ Kheo, có Sa Môn ngay tại đây.’

15

♦ tattha idhevāti imasmiṃyeva sāsane. ayaṃ pana niyamo sesapadesupi veditabbo. dutiyādayopi hi samaṇā idheva, na aññattha. samaṇoti sotāpanno. tenevāha — “katamo ca, bhikkhave, paṭhamo samaṇo? idha, bhikkhave, bhikkhu tiṇṇaṃ saṃyojanānaṃ parikkhayā sotāpanno hoti avinipātadhammo niyato sambodhiparāyaṇo, ayaṃ, bhikkhave, paṭhamo samaṇo”ti (a. ni. 4.241).

Trong chủ đề này, [ngay tại đây – idheva] tức ngay tại giáo pháp này. Và định nghĩa này cũng nên được hiểu tại những câu kinh còn lại. Bởi vì hạng Sa Môn thứ 2 vân vân cũng tồn tại ngay tại đây, không tồn tại ở đâu khác. [Sa Môn – samaṇa] tức vị Nhập Lưu. Bởi vì (Đức Thế Tôn) quả đã nói: ‘Này các Tỳ Kheo! Hạng Sa Môn thứ nhất là gì? Này các Tỳ Kheo! Ở đây, nhờ sự cạn kiệt hoàn toàn 3 loại trói buộc, vị Tỳ Kheo trở thành vị Nhập Lưu, có đặc điểm là không sa đoạ, vững vàng, sẽ thành tựu giác ngộ. Này các Tỳ Kheo! Đó là hạng Sa Môn thứ nhất.’ (a. ni. 4.241)

16

dutiyoti sakadāgāmī. tenevāha — “katamo ca? bhikkhave, dutiyo samaṇo. idha, bhikkhave, bhikkhu tiṇṇaṃ saṃyojanānaṃ parikkhayā rāgadosamohānaṃ tanuttā sakadāgāmī hoti, sakideva imaṃ lokaṃ āgantvā dukkhassantaṃ karoti. ayaṃ, bhikkhave, dutiyo samaṇo”ti.

[(Hạng Sa Môn) thứ 2] tức vị Nhất Lai. Bởi vì (Đức Thế Tôn) quả đã nói: ‘Này các Tỳ Kheo! Hạng Sa Môn thứ 2 là gì? Này các Tỳ Kheo! Ở đây, nhờ sự cạn kiệt hoàn toàn 3 loại trói buộc và sự giảm thiểu tham, sân, si; vị Tỳ Kheo trở thành vị Nhất Lai, sau khi đến thế gian này chỉ một lần; vị ấy thực hiện sự chấm dứt khổ. Này các Tỳ Kheo! Đó là hạng Sa Môn thứ 2.’

17

tatiyoti anāgāmī. tenevāha — “katamo ca, bhikkhave, tatiyo samaṇo? idha, bhikkhave, bhikkhu pañcannaṃ orambhāgiyānaṃ saṃyojanānaṃ parikkhayā opapātiko hoti tattha parinibbāyī anāvattidhammo tasmā lokā. ayaṃ, bhikkhave, tatiyo samaṇo”ti.

[(Hạng Sa Môn) thứ 3] tức vị Bất Lai. Bởi vì (Đức Thế Tôn) quả đã nói: ‘Này các Tỳ Kheo! Hạng Sa Môn thứ 3 là gì? Này các Tỳ Kheo! Ở đây, nhờ sự cạn kiệt hoàn toàn 5 loại trói buộc thuộc phần thấp kém, vị Tỳ Kheo trở thành vị hoá sinh, nhập diệt tại đó, có đặc điểm là không trở lại thế gian này. Này các Tỳ Kheo! Đó là hạng Sa Môn thứ 3.’

18

catutthoti arahā. tenevāha — “katamo ca, bhikkhave, catuttho samaṇo? idha, bhikkhave, bhikkhu āsavānaṃ khayā anāsavaṃ cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharati. ayaṃ, bhikkhave, catuttho samaṇo”ti (a. ni. 4.241). iti imasmiṃ ṭhāne cattāro phalaṭṭhakasamaṇāva adhippetā.

[(Hạng Sa Môn) thứ 4] tức vị A La Hán. Bởi vì (Đức Thế Tôn) quả đã nói: ‘Này các Tỳ Kheo! Hạng Sa Môn thứ 4 là gì? Này các Tỳ Kheo! Ở đây, nhờ sự cạn kiệt hoàn toàn các lậu hoặc, vị Tỳ Kheo tự mình thực chứng bằng thắng trí ngay trong hiện tại sự giải thoát tâm – tức trạng thái không còn lậu hoặc – và sự giải thoát về tuệ; (vị ấy) đạt đến rồi sống. Này các Tỳ Kheo! Đó là hạng Sa Môn thứ 4.’ (a. ni. 4.241). Như vậy, tại nơi này (giáo pháp này), chính 4 hạng Sa Môn vững vàng về Quả đó được kỳ vọng.

19

suññāti rittā tucchā. parappavādāti cattāro sassatavādā, cattāro ekaccasassatikā, cattāro antānantikā, cattāro amarāvikkhepikā, dve adhiccasamuppannikā, soḷasa saññīvādā, aṭṭha asaññīvādā, aṭṭha nevasaññīnāsaññīvādā, satta ucchedavādā, pañca diṭṭhadhammanibbānavādāti ime sabbepi brahmajāle āgatā dvāsaṭṭhi diṭṭhiyo. ito bāhirānaṃ paresaṃ vādā parappavādā nāma. te sabbepi imehi catūhi phalaṭṭhakasamaṇehi suññā, na hi te ettha santi. na kevalañca eteheva suññā, catūhi pana maggaṭṭhakasamaṇehipi catunnaṃ maggānaṃ atthāya āraddhavipassakehipīti dvādasahipi samaṇehi suññā eva. imameva atthaṃ sandhāya bhagavatā mahāparinibbāne vuttaṃ —

[Trống rỗng – suñña] tức không có, thiếu vắng. [Các giáo lý khác – parappavāda] tức 4 giáo lý về Trường Tồn; 4 giáo lý về Trường Tồn một phần; 4 giáo lý về Hữu Biên Vô Biên; 4 giáo lý mang tính trườn uốn như con lươn; 2 giáo lý về Vô Nhân Sanh; 16 giáo lý về Hữu Tưởng; 8 giáo lý về Vô Tưởng; 8 giáo lý về Phi Tưởng Phi Phi Tưởng; 7 giáo lý về Đoạn Diệt; 5 giáo lý về Hiện Tại Niết Bàn. Tất cả 62 quan điểm này xuất hiện trong kinh [Brahmajāla – Lưới Pháp cao thượng]. [Các giáo lý khác – parappavāda] tức các giáo lý của những người khác bên ngoài (giáo lý) này. Và tất cả những giáo lý đó đều trống rỗng 4 hạng Sa Môn vững vàng về Quả ấy; bởi vì (4 hạng Sa Môn) ấy không tồn tại ở đó. Và họ không chỉ trống rỗng những (hạng Sa Môn) ấy. Họ còn trống rỗng cả 12 hạng Sa Môn – tức những hành giả có tuệ quán vững chắc (hướng đến) mục đích là 4 Đạo và 4 hạng Sa Môn vững vàng về Đạo. Điều này đã được nói bởi Đức Thế Tôn liên quan đến chính ý nghĩa đó trong bài kinh [Mahāparinibbāna – Đại Niết Bàn]:

20

♦ “ekūnatiṃso vayasā subhadda,

♦ yaṃ pabbajiṃ kiṃ kusalānuesī.

♦ vassāni paññāsa samādhikāni,

♦ yato ahaṃ pabbajito subhadda.

♦ ñāyassa dhammassa padesavattī,

♦ ito bahiddhā samaṇopi natthi.

♦ “dutiyopi samaṇo natthi, tatiyopi samaṇo natthi, catutthopi samaṇo natthi. suññā parappavādā samaṇebhi aññehī”ti (dī. ni. 2.214).

Này Subhadda! Vào tuổi 29, ta đã xuất gia, tầm cầu cái thiện. Này Subhadda! Hơn 50 năm kể từ lúc ta xuất gia; không có người thực hành trong phạm vi của Pháp đúng đắn ở bên ngoài nơi này (giáo pháp này); không có Sa Môn ở bên ngoài nơi này (giáo pháp này). Không có hạng Sa Môn thứ 2, hạng Sa Môn thứ 3, hạng Sa Môn thứ 4 (ở bên ngoài nơi này). Các ngoại đạo trống rỗng những hạng Sa Môn khác nhau. (dī. ni. 2.214)

21

♦ ettha hi padesavattīti āraddhavipassako adhippeto. tasmā sotāpattimaggassa āraddhavipassakaṃ maggaṭṭhaṃ phalaṭṭhanti tayopi ekato katvā samaṇopi natthīti āha. sakadāgāmimaggassa āraddhavipassakaṃ maggaṭṭhaṃ phalaṭṭhanti tayopi ekato katvā dutiyopi samaṇo natthīti āha. itaresupi dvīsu eseva nayo.

Ở đây, bởi vì cụm từ [padesavattī] được hàm ý đến [hành giả có tuệ quán vững chắc]; cho nên (Đức Phật) đã nói ‘không có Sa Môn’ dựa trên việc gôm chung 3 loại người: hành giả có tuệ quán vững chắc hướng đến Nhập Lưu Đạo, vị vững vàng về Nhập Lưu Đạo, vị vững vàng về Nhập Lưu Quả. (Đức Phật) đã nói ‘không có hạng Sa Môn thứ 2’ dựa trên việc gôm chung 3 loại người: hành giả có tuệ quán vững chắc hướng đến Nhất Lai Đạo, vị vững vàng về Nhất Lai Đạo, vị vững vàng về Nhất Lai Quả. Chính phương pháp (giải thích) đó (nên được áp dụng) ở 2 (trường hợp) kia(i).

—–

(i) Hạng Sa Môn thứ 3, hạng Sa Môn thứ 4.

22

♦ kasmā panete aññattha natthīti? akhettatāya. yathā hi na āragge sāsapo tiṭṭhati, na udakapiṭṭhe aggi jalati, na piṭṭhipāsāṇe bījāni ruhanti, evameva bāhiresu titthāyatanesu na ime samaṇā uppajjanti, imasmiṃyeva pana sāsane uppajjanti. kasmā? khettatāya. tesaṃ akhettatā ca khettatā ca ariyamaggassa abhāvato ca bhāvato ca veditabbā. tenāha bhagavā —

Vậy do đâu những hạng Sa Môn đó không tồn tại ở nơi khác? Do sự không phù hợp. Bởi vì giống như hạt mù tạc không đứng được ở đầu nhọn mũi tên, lửa không cháy được ở bề mặt thấm nước, các hạt giống không mọc được ở tảng đá nhẵn; cũng như vậy, các hạng Sa Môn đó không xuất hiện trong phạm vi của các ngoại đạo; mà xuất hiện trong chính giáo pháp này. Do đâu? Do sự phù hợp. Sự phù hợp và sự không phù hợp của (các giáo lý) ấy nên được hiểu là sự tồn tại hay sự không tồn tại của Thánh Đạo. Do đó, Đức Thế Tôn đã nói:

23

♦ “yasmiṃ kho, subhadda, dhammavinaye ariyo aṭṭhaṅgiko maggo na upalabbhati, samaṇopi tattha na upalabbhati, dutiyopi tattha samaṇo na upalabbhati, tatiyopi tattha samaṇo na upalabbhati, catutthopi tattha samaṇo na upalabbhati. yasmiñca kho, subhadda, dhammavinaye ariyo aṭṭhaṅgiko maggo upalabbhati, samaṇopi tattha upalabbhati, dutiyopi tattha … pe …. catutthopi tattha samaṇo upalabbhati. imasmiṃ kho, subhadda, dhammavinaye ariyo aṭṭhaṅgiko maggo upalabbhati, idheva, subhadda, samaṇo, idha dutiyo samaṇo, idha tatiyo samaṇo, idha catuttho samaṇo, suññā parappavādā samaṇebhi aññehī”ti (dī. ni. 2.214).

‘Quả thật, này Subhadda! Trong pháp & luật nào, Bát Thánh Đạo không tồn tại; thì tại đó Sa Môn không tồn tại, tại đó hạng Sa Môn thứ 2 không tồn tại, tại đó hạng Sa Môn thứ 3 không tồn tại, tại đó hạng Sa Môn thứ 4 không tồn tại. Quả thật, này Subhadda! Còn trong pháp & luật nào, Bát Thánh Đạo tồn tại; thì tại đó Sa Môn tồn tại, tại đó hạng Sa Môn thứ 2… hạng Sa Môn thứ 4 tồn tại. Quả thật, này Subhadda! Trong pháp & luật này Bát Thánh Đạo tồn tại. Này Subhadda! Ngay tại đây, Sa Môn tồn tại, tại đây hạng Sa Môn thứ 2 tồn tại, tại đây hạng Sa Môn thứ 3 tồn tại, tại đây hạng Sa Môn thứ 4 tồn tại. Các ngoại đạo trống rỗng những hạng Sa Môn khác nhau.’ (dī. ni. 2.214)

24

evaṃ yasmā titthāyatanaṃ akhettaṃ, sāsanaṃ khettaṃ, tasmā yathā surattahatthapādo sūrakesarako sīho migarājā na susāne vā saṅkārakūṭe vā paṭivasati,

tiyojanasahassavitthataṃ pana himavantaṃ ajjhogāhetvā maṇiguhāyaṃyeva paṭivasati. yathā ca chaddanto nāgarājā na gocariyahatthikulādīsu navasu nāgakulesu uppajjati, chaddantakuleyeva uppajjati. yathā ca valāhako assarājā na gadrabhakule vā ghoṭakakule vā uppajjati, sindhuyā tīre pana sindhavakuleyeva uppajjati. yathā ca sabbakāmadadaṃ manoharaṃ maṇiratanaṃ na saṅkārakūṭe vā paṃsupabbatādīsu vā uppajjati, vepullapabbatabbhantareyeva uppajjati. yathā ca timirapiṅgalo maccharājā na khuddakapokkharaṇīsu uppajjati, caturāsītiyojanasahassagambhīre mahāsamuddeyeva uppajjati. yathā ca diyaḍḍhayojanasatiko supaṇṇarājā na gāmadvāre eraṇḍavanādīsu paṭivasati, mahāsamuddaṃ pana ajjhogāhetvā simbalidahavaneyeva paṭivasati. yathā ca dhataraṭṭho suvaṇṇahaṃso na gāmadvāre āvāṭakādīsu paṭivasati, navutihaṃsasahassaparivāro hutvā cittakūṭapabbateyeva paṭivasati. yathā ca catuddīpissaro cakkavattirājā na nīcakule uppajjati, asambhinnajātikhattiyakuleyeva pana uppajjati. evameva imesu samaṇesu ekasamaṇopi na aññatitthāyatane uppajjati, ariyamaggaparikkhitte pana buddhasāsaneyeva uppajjati. tenāha bhagavā “idheva, bhikkhave, samaṇo … pe … suññā parappavādā samaṇehi samaṇebhi aññehī”ti.

Bởi vì phạm vi của ngoại đạo thì không phù hợp, giáo pháp thì phù hợp như vậy; cho nên giống như con sư tử – chúa muôn loài – có bờm (rực rỡ) như mặt trời, có chân trước chân sau (vàng rực) như mặt trời, không sống ở nghĩa địa hay đống rác; mà nó đi vào dãy Tuyết Sơn(i) – trải rộng 3.000 Yojana – rồi sống tại chính hang động Maṇiguhā. Hay giống như con voi chúa có 6 ngà không sinh lên trong 9 dòng voi như dòng voi Gocariya vân vân; mà sinh lên trong chính dòng voi 6 ngà. Hay giống như con ngựa chúa Valāhaka không sinh lên trong dòng ngựa chưa thuần hay dòng ngựa Gadrabha; mà sinh lên trong chính dòng ngựa Sindhava ở bờ sông Sindhu. Hay giống như món châu báu là ngọc Maṇi – hấp dẫn, thoả mọi điều mong muốn – không xuất hiện ở đống rác hay nơi đất, đá vân vân; mà xuất hiện trong chính ngọn núi Vepulla. Hay giống như con cá chúa Timirapiṅgala không sinh lên ở những hồ nước nhỏ; mà sinh lên ở chính đại dương sâu 84.000 Yojana. Hay giống như con chim chúa Supaṇṇa – có kích cỡ 150 Yojana – không sống ở cổng làng hay rừng cây Eraṇḍa vân vân; mà nó đi vào đại dương rồi sống ở chính khu rừng Simbalidaha. Hay giống như con thiên nga vàng Dhataraṭṭha không sống ở cổng làng hay hốc lỗ vân vân; mà nó sống ở chính ngọn núi Cittakūṭa với tuỳ tùng gồm 90.000 con thiên nga. Hay giống như Chuyển Luân Vương – vị chúa 4 châu – không sinh lên trong dòng tộc thấp kém; mà sinh lên trong chính dòng tộc Khattiya có phả hệ không bị lẫn tạp. Cũng như vậy, trong các hạng Sa Môn đó, ngay cả một hạng Sa Môn cũng không xuất hiện trong phạm vi của ngoại đạo; mà xuất hiện trong chính giáo lý của Đức Phật – được bao bọc bởi Thánh Đạo. Do đó, Đức Thế Tôn đã nói: ‘Này các Tỳ Kheo! Ngay tại đây, Sa Môn… các ngoại đạo trống rỗng những hạng Sa Môn khác nhau.’

—–

(i) Tức dãy Himalaya.

25

sammā sīhanādaṃ nadathāti ettha sammāti hetunā nayena kāraṇena. sīhanādanti seṭṭhanādaṃ abhītanādaṃ appaṭinādaṃ. imesañhi catunnaṃ samaṇānaṃ idheva atthitāya ayaṃ nādo seṭṭhanādo nāma hoti uttamanādo. “ime samaṇā idheva atthī”ti vadantassa aññato bhayaṃ vā āsaṅkā vā natthīti abhītanādo nāma hoti. “amhākampi sāsane ime samaṇā atthī”ti pūraṇādīsu ekassāpi uṭṭhahitvā vattuṃ asamatthatāya ayaṃ nādo appaṭinādo nāma hoti. tena vuttaṃ “sīhanādanti seṭṭhanādaṃ abhītanādaṃ appaṭinādan”ti.

[(Các con) hãy rống lên tiếng rống sư tử một cách phù hợp – sammā sīhanādaṃ nadatha]; ở đây, [một cách phù hợp – sammā] tức dựa vào cơ sở [hetu], dựa vào phương pháp [naya], dựa vào nền tảng [kāraṇa]. [Tiếng rống sư tử – sīhanāda] tức tiếng rống tối thượng, tiếng rống không sợ hãi, tiếng rống không bị chống nghịch. Bởi do sự tồn tại của 4 hạng Sa Môn đó ngay tại đây; tiếng rống đó được gọi là tiếng rống tối thượng, tiếng rống tối cao. Do không có sự sợ hãi, sự e sợ cho người biết, người nói rằng: ‘những hạng Sa Môn đó tồn tại ngay tại đây’; nên tiếng rống đó được gọi là tiếng rống không sợ hãi. Do một vị nào đó trong số 6 (vị thầy ngoại đạo) như Pūraṇa Kassapa vân vân cũng không thể đứng lên nói rằng: ‘những hạng Sa Môn đó tồn tại trong giáo lý của chúng tôi’; nên tiếng rống đó được gọi là tiếng rống không bị chống nghịch. Do đó, điều này đã được nói (bởi Đức Phật): ‘‘tiếng rống sư tử’ – tức tiếng rống tối thượng, tiếng rống không sợ hãi, tiếng rống không bị chống nghịch.’

26

♦ 140. ṭhānaṃ kho panetaṃ vijjatīti idaṃ kho pana kāraṇaṃ vijjati. yaṃ aññatitthiyāti yena kāraṇena aññatitthiyā. ettha ca titthaṃ jānitabbaṃ, titthakaro jānitabbo titthiyā jānitabbā, titthiyasāvakā jānitabbā. titthaṃnāma dvāsaṭṭhi diṭṭhiyo. ettha hi sattā taranti uppalavanti ummujjanimujjaṃ karonti, tasmā titthanti vuccanti. tāsaṃ diṭṭhīnaṃ uppādetā titthakaro nāma. tassa laddhiṃ gahetvā pabbajitā titthiyā nāma. tesaṃ paccayadāyakā titthiyasāvakāti veditabbā. paribbājakāti gihibandhanaṃ pahāya pabbajjūpagatā. assāsoti avassayo patiṭṭhā upatthambho. balanti thāmo. yena tumheti yena assāsena vā balena vā evaṃ vadetha.

[Và điều kiện này tồn tại – ṭhānaṃ kho panetaṃ vijjati] tức: và cơ sở này tồn tại. [Điều kiện đó các ngoại đạo…] tức: do cơ sở đó, các ngoại đạo… Và ở đây, (khái niệm) [giáo lý – tittha] nên được hiểu; (khái niệm) [tổ sư – titthakara(i)] nên được hiểu; (khái niệm) [ngoại đạo đồ đệ – titthiya] nên được hiểu; (khái niệm) [ngoại đạo tín đồ – titthiyasāvaka] nên được hiểu. [Giáo lý – tittha] tức 62 quan điểm (tà kiến). Bởi vì các chúng sinh vượt qua (dòng nước), nổi lên, trồi lên lặn xuống tại đó; cho nên nó được gọi là [giáo lý](ii). [Tổ sư – titthakara] là người tạo ra các quan điểm đó. [Ngoại đạo đồ đệ – titthiya] là những người xuất gia sau khi đã tiếp nhận quan điểm của tổ sư. [Ngoại đạo tín đồ – titthiyasāvaka(iii)] nên được hiểu là những ai bố thí các vật dụng cho các vị ấy. [Người xuất gia – paribbājakā] tức những người đi đến trạng thái xuất gia sau khi từ bỏ sự trói buộc (thuộc đời sống) cư sĩ. [Cơ sở – assāso] tức sự nương dựa, nền tảng, sự nâng đỡ. [Sức mạnh – balaṃ] tức nguồn sức mạnh. [Dựa vào đó các ông – yena tumhe] tức: dựa vào cơ sở đó, dựa vào sức mạnh đó, các ông nói như vậy.

—–

(i) [Tổ sư] tức [người lập ra giáo lý – titthakara].

(ii) Đây là cách giải thích theo kiểu ẩn dụ, ‘chơi chữ’. [Giáo lý – tittha] còn có những nghĩa là [chỗ cạn, bãi cạn…] – tức chỗ dòng sông cạn nước, giúp người ta qua sông dễ dàng hơn. Nên [giáo lý] có thể hiểu là cái giúp người ta sống tốt hơn.  

(iii) Ở đây có điểm mâu thuẫn: đoạn chú giải ở đầu bài khẳng định [sāvaka] là [Sa Môn – samaṇa] – tức phải là người xuất gia, không phải là cư sĩ bố thí vật dụng.

27

atthi kho no, āvuso, tena bhagavatā jānatā passatā arahatā sammāsambuddhenāti ettha ayaṃ saṅkhepattho — yo so bhagavā samatiṃsa pāramiyo pūretvā sabbakilese bhañjitvā anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho, tena bhagavatā tesaṃ tesaṃ sattānaṃ āsayānusayaṃ jānatā, hatthatale ṭhapitaṃ āmalakaṃ viya sabbaṃ ñeyyadhammaṃ passatā. apica pubbenivāsādīhi jānatā, dibbena cakkhunā passatā. tīhi vijjāhi chahi vā pana abhiññāhi jānatā, sabbattha appaṭihatena samantacakkhunā passatā. sabbadhammajānanasamatthāya paññāya jānatā, sabbasattānaṃ cakkhuvisayātītāni tirokuṭṭādigatāni vāpi rūpāni ativisuddhena maṃsacakkhunā passatā. attahitasādhikāya samādhipadaṭṭhānāya paṭivedhapaññāya jānatā, parahitasādhikāya karuṇāpadaṭṭhānāya desanāpaññāya passatā. arīnaṃ hatattā paccayādīnaṃ arahattā ca arahatā, sammā sāmañca saccānaṃ buddhattā sammāsambuddhena. antarāyikadhamme vā jānatā, niyyānikadhamme passatā. kilesārīnaṃ hatattā arahatā, sammā sāmaṃ sabbadhammānaṃ buddhattā sammāsambuddhenāti, evaṃ catuvesārajjavasena catūhi ākārehi thomitena cattāro dhammā akkhātā, ye mayaṃ attani sampassamānā evaṃ vadema, na rājarājamahāmattādīnaṃ upatthambhaṃ kāyabalanti.

[Này các ông! Có (4 điều được tuyên bố) bởi Đức Thế Tôn đó – bậc biết, bậc thấy, bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác], trong chủ đề này, đây là ý nghĩa tóm lược:

Chính Đức Thế Tôn nào hoàn thành toàn bộ 30 Ba La Mật, phá tan mọi phiền não, giác ngộ quả vị Chánh Đẳng Chánh Giác vô thượng; thì (4 điều đó được tuyên bố) bởi Đức Thế Tôn đó – bậc biết xu hướng, khuynh hướng ngầm của mọi chúng sinh, bậc thấy mọi pháp nên được biết giống như (thấy) cây Āmalaka được đặt trong lòng bàn tay; hơn nữa, bậc biết các trạng thái tồn tại quá khứ (của chúng sinh) vân vân, bậc thấy bằng thiên nhãn; bậc biết dựa vào 3 minh, 6 thắng trí, bậc thấy bằng con mắt toàn tri – không thể bị phá huỷ ở mọi nơi; bậc biết bằng trí tuệ có khả năng biết mọi pháp, bậc thấy bằng con mắt thịt cực kỳ sáng trong những hình sắc di chuyển ở bên ngoài vách tường vân vân – vốn vượt ngoài phạm vi con mắt của mọi chúng sinh; bậc biết bằng trí tuệ thấu đạt – có nhân gần là định, có lợi ích vượt trội cho bản thân, bậc thấy bằng trí tuệ thuyết giảng – có nhân gần là tâm bi, có lợi ích vượt trội cho chúng sinh khác(i); bậc A La Hán theo nghĩa là sự giết các kẻ thù hay sự phá huỷ các căm xe là duyên vân vân; bậc Chánh Đẳng Chánh Giác theo nghĩa là sự giác ngộ các chân lý một cách chân chánh và tự mình; bậc biết các pháp chướng ngại, bậc thấy các pháp xuất ly; bậc A La Hán theo nghĩa là sự giết các kẻ thù phiền não; bậc Chánh Đẳng Chánh Giác theo nghĩa là sự giác ngộ tất cả các pháp một cách chân chánh và tự mình; 4 điều đó được tuyên bố bởi người được khen ngợi theo 4 phương thức dựa vào 4 sự tự tin như vậy. Chúng ta nói như vậy trong khi nhìn thấy những điều đó ở bản thân mình; không (dựa vào) vũ lực (sức mạnh cơ thể) hay quyền lực của vua chúa, thừa tướng vân vân.  

—–

(i) Trí tuệ thấu đạt là trí tuệ giác ngộ, giải thoát – nó mang lại lợi ích vô cùng lớn lao cho chính bản thân Đức Phật. Còn trí tuệ thuyết giảng là trí tuệ Đức Phật dùng để giảng dạy, thuyết pháp, giúp chúng sinh khác giác ngộ, nên nó có lợi ích vô cùng lớn lao cho chúng sinh khác.

28

satthari pasādoti “itipi so bhagavā”tiādinā nayena buddhaguṇe anussarantānaṃ uppannappasādo. dhamme pasādoti “svākkhāto bhagavatā dhammo”tiādinā nayena dhammaguṇe anussarantānaṃ uppannappasādo. sīlesu paripūrakāritāti ariyakantesu sīlesu paripūrakāritā. ariyakantasīlāni nāma pañcasīlāni. tāni hi bhavantaragatopi ariyasāvako attano ariyasāvakabhāvaṃ ajānantopi na vītikkamati. sacepi hi naṃ koci vadeyya — “imaṃ sakalaṃ cakkavattirajjaṃ sampaṭicchitvā khuddakamakkhikaṃ jīvitā voropehī”ti, aṭṭhānametaṃ, yaṃ so tassa vacanaṃ kareyya. evaṃ ariyānaṃ sīlāni kantāni piyāni manāpāni. tāni sandhāya vuttaṃ “sīlesu paripūrakāritā”ti.

[Đức tin nơi bậc Đạo Sư] tức: đức tin sinh lên cho những người niệm tưởng các phẩm chất của Đức Phật theo lối ‘Thật như vậy, Đức Thế Tôn đó’ vân vân. [Đức tin nơi Giáo Pháp] tức: đức tin sinh lên cho những người niệm tưởng các phẩm chất của Giáo Pháp theo lối ‘Giáo Pháp được khéo thuyết giảng bởi Đức Thế Tôn’ vân vân. [Những người làm cho đầy đủ đối với các giới] tức: những người làm cho đầy đủ đối với các giới được ưa thích bởi bậc thánh. [Ngũ giới] được gọi là các giới được ưa thích bởi bậc thánh. Bởi vì vị thánh đệ tử(i) đi đến sự hiện hữu khác (kiếp khác), tuy không nhận ra trạng thái thánh đệ tử của mình, nhưng vẫn không phá các giới đó. Bởi vì nếu người nào đó nói với vị ấy rằng: ‘(Ông) đã tiếp nhận ngôi vị Chuyển Luân Vương rồi, hãy cướp mạng sống của con ruồi trâu đi’(ii); điều đó là không thể, vị ấy không thể thực hiện lời nói đó của người đó. Các giới thì đáng ưa thích, đáng yêu thích, đáng mến thích đối với các bậc thánh như vậy. Cụm từ ‘Những người làm cho đầy đủ đối với các giới’ được nói liên quan đến các giới đó.

—–

(i) Chỉ vị thánh Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm khi tái sinh kiếp sau vẫn tự nhiên không phá 5 giới dù không biết bản thân mình là bậc thánh.

(ii) Tức ông đã đạt đến đỉnh điểm trong kiếp người rồi – làm Chuyển Luân Vương – ông còn sợ gì việc giết một con ruồi nhỏ nhoi.

29

sahadhammikā kho panāti bhikkhu bhikkhunī sikkhamānā sāmaṇero sāmaṇerī upāsako upāsikāti ete satta sahadhammacārino. etesu hi bhikkhu bhikkhūhi saddhiṃ sahadhammaṃ carati samānasikkhatāya. tathā bhikkhunī bhikkhunīhi … pe … upāsikā upāsikāhi, sotāpanno sotāpannehi, sakadāgāmī … pe … anāgāmīhi sahadhammaṃ carati. tasmā sabbepete sahadhammikāti vuccanti. apicettha ariyasāvakāyeva adhippetā. tesañhi bhavantarepi maggadassanamhi vivādo natthi, tasmā te accantaṃ ekadhammacāritāya sahadhammikā. iminā, “suppaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho”tiādinā nayena saṅghaṃ anussarantānaṃ uppannappasādo kathito. ettāvatā cattāri sotāpannassa aṅgāni kathitāni honti.

[Và các đồng đạo hữu], [các đồng hành đạo hữu – sahadhammacārino] tức 7 hạng người này: Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Nữ Tập Sự, Sa Di, Sa Di Ni, Nam Cận Sự, Nữ Cận Sự. Trong các hạng người đó: Tỳ Kheo sống đồng đạo với các Tỳ Kheo do sự học tập giống nhau. Giống vậy, Tỳ Kheo Ni với các Tỳ Kheo Ni… Nữ Cận Sự với các Nữ Cận Sự… vị Nhập Lưu với các vị Nhập Lưu… vị Nhất Lai với các vị Nhất Lai… vị Bất Lai sống đồng đạo với các vị Bất Lai do sự học tập giống nhau. Cho nên, tất cả những hạng người đó được gọi là [các đồng đạo hữu]. Và hơn nữa, ở đây, chính các vị thánh đệ tử cũng được chỉ đến. Bởi vì ở sự hiện hữu khác (kiếp khác), các vị đó không có sự tranh cãi về việc chứng đạo; cho nên các vị đó tiếp tục là các đồng đạo hữu do sự thực hành cùng một pháp. Đức tin sinh lên cho những người niệm tưởng các phẩm chất của Tăng Đoàn theo lối ‘Tăng Đoàn đệ tử của Đức Thế Tôn thì thực hành một cách tốt đẹp’ vân vân đã được nói bằng (ý nghĩa) đó(i). Trong chừng mực đó, 4 yếu tố của một vị Nhập Lưu đã được nói.

—–

(i) Tức ý nghĩa về các vị thánh đệ tử ở đoạn trước.

30

ime kho no, āvusoti, āvuso, ime cattāro dhammā tena bhagavatā amhākaṃ assāso ceva balañcāti akkhātā, ye mayaṃ attani sampassamānā evaṃ vadema.

[Này các ông! Quả thật, những điều đó của chúng tôi] tức: này các ông! 4 yếu tố đó được Đức Thế Tôn ấy tuyên bố là chính cơ sở và sức mạnh của chúng tôi; trong khi thấy những yếu tố đó nơi bản thân mình, chúng tôi nói như vậy.

31

♦ 141. yo amhākaṃ satthāti iminā pūraṇakassapādike cha satthāro apadissanti. yathā pana idāni sāsane ācariyupajjhāyādīsu “amhākaṃ ācariyo, amhākaṃ upajjhāyo”ti gehasitapemaṃ hoti. evarūpaṃ pemaṃ sandhāya “satthari pasādo”ti vadanti. thero panāha — “yasmā satthā nāma na ekassa, na dvinnaṃ hoti, sadevakassa lokassa ekova satthā, tasmā titthiyā ‘amhākaṃ satthā’ ti ekapadeneva satthāraṃ visuṃ katvā imināva padena viruddhā parājitā”ti.

 

dhamme pasādoti idaṃ pana yathā idāni sāsane “amhākaṃ dīghanikāyo amhākaṃ majjhimanikāyo”ti mamāyanti, evaṃ attano attano pariyattidhamme gehasitapemaṃ sandhāya vadanti. sīlesūti ajasīla gosīla meṇḍakasīla kukkurasīlādīsu. idha no āvusoti ettha idhāti pasādaṃ sandhāya vadanti. ko adhippayāsoti ko adhikappayogo. yadidanti yamidaṃ tumhākañceva amhākañca nānākaraṇaṃ vadeyyātha. taṃ kiṃ nāma? tumhākampi hi catūsu ṭhānesu pasādo, amhākampi. nanu etasmiṃ pasāde tumhe ca amhe ca dvedhā bhinnasuvaṇṇaṃ viya ekasadisāti vācāya samadhurā hutvā aṭṭhaṃsu.

[Người nào là bậc đạo sư của chúng tôi] tức: 6 vị thầy như Pūraṇa Kassapa vân vân được thể hiện thông qua cụm từ ấy. Và giống như trong giáo pháp hiện nay, người ta có tình cảm theo kiểu thế gian đối với giáo sư, tế độ sư vân vân (biểu hiện qua suy nghĩ rằng) ‘đó là giáo sư của chúng ta, đó là tế độ sư của chúng ta’; (các vị ngoại đạo ấy) nói ‘đức tin nơi bậc đạo sư’ với hàm ý tình cảm như vậy. Thế nhưng, một vị trưởng lão đã nói rằng: ‘Bởi vì bậc Đạo Sư(i) không phải của một người, không phải của 2 người; bậc Đạo Sư độc nhất ấy là của thế gian gồm luôn chư thiên. Cho nên các vị ngoại đạo đã tách riêng bậc Đạo Sư (Đức Phật) bằng chính mỗi lời nói ‘bậc đạo sư của chúng tôi(ii)’; rồi bị ngăn trở, bị đánh bại bởi chính lời nói ấy(iii). [Đức tin nơi giáo lý] tức giống như trong giáo pháp hiện nay, (người ta nói) ‘Đây là bộ Dīghanikāya của chúng tôi; kia là bộ Majjhimanikāya của chúng tôi’; giống vậy, (các vị ngoại đạo) nói (điều đó) với hàm ý tình cảm theo kiểu thế gian đối với giáo lý kinh điển của chính bản thân họ. [Đối với các giới] tức đối với các giới như giới con dê, giới con bò, giới con cừu, giới con chó vân vân. [Này các ông! Ở đây… của chúng ta], [ở đây – idha] tức ở trong tình huống này; các vị ngoại đạo nói điều đó liên quan đến đức tin. [Cái gì là sự khác biệt?] tức: cái gì là sự dị biệt? [Tức là – yadidaṃ] tức: tức là trạng thái khác biệt của chính các ông và của chúng tôi. Các ông hãy nói! Điều đó là gì? Bởi vì cả các ông và chúng tôi đều có đức tin nơi 4 yếu tố đó. Chẳng phải đối với đức tin đó, các ông lẫn chúng tôi đều hoàn toàn giống nhau dựa trên lời nói giống hệt như thỏi vàng bị chẻ làm 2 sao?

—–

(i) Bậc Đạo Sư ở đây chỉ Đức Phật; với các ngoại đạo thì bậc đạo sư là các vị thầy của họ như Pūraṇa Kassapa…

(ii) Tức các vị ngoại đạo xem thầy của mình là đạo sư của riêng trường phái mình thôi, thì không thể đạt tầm vóc như Đức Phật: bậc Đạo Sư cho cả thế gian.

(iii) Tức các vị ngoại đạo thừa nhận vị thầy của họ chỉ là bậc đạo sư của riêng họ, những trường phái khác có thể không công nhận vị thầy đó cũng như lời dạy của vị thầy đó. Thế thì lời dạy của vị đó không thể xem là tiêu chuẩn cho cả thế gian, không thể dựa vào đó mà khẳng định chân lý cho cả thế gian được.

32

atha nesaṃ taṃ samadhurataṃ bhindanto bhagavā evaṃ vādinotiādimāha. tattha ekā niṭṭhāti yā tassa pasādassa pariyosānabhūtā niṭṭhā, kiṃ sā ekā, udāhu puthūti evaṃ pucchathāti vadati. yasmā pana tasmiṃ tasmiṃ samaye niṭṭhaṃ apaññapento nāma natthi, brāhmaṇānañhi brahmaloko niṭṭhā, mahātāpasānaṃ ābhassarā, paribbājakānaṃ subhakiṇhā, ājīvakānaṃ “anantamānaso”ti evaṃ parikappito asaññībhavo. imasmiṃ sāsane pana arahattaṃ niṭṭhā. sabbeva cete arahattameva niṭṭhāti vadanti. diṭṭhivasena pana brahmalokādīni paññapenti. tasmā attano attano laddhivasena ekameva niṭṭhaṃ paññapenti, taṃ dassetuṃ bhagavā sammā byākaramānātiādimāha.

Thế rồi, để bác bỏ (quan niệm) giống nhau hoàn toàn đó của họ, Đức Thế Tôn đã nói ‘(những vị ấy) nói như vậy’ vân vân. Ở đó, [cứu cánh(i) là một], tức: (Đức Phật) nói rằng: ‘các con hãy hỏi rằng ‘cái nào là cứu cánh – tức cái mục đích – cho đức tin đó; thì cái đó là một hay nhiều?’’ Và bởi vì vào chính giai đoạn đó, không có người ấn định cứu cánh: bởi vì cõi Phạm Thiên là cứu cánh cho các Bà La Môn; chư thiên Ābhassara là cứu cánh cho các đại ẩn sĩ; chư thiên Subhakiṇha là cứu cánh cho các du sĩ; cõi Vô Tưởng được hướng đến bởi các vị Ājīvaka rằng ‘(tôi) có ý niệm về sự vô biên’; còn trong giáo pháp này, trạng thái A La Hán là cứu cánh; chính tất cả các vị (Tỳ Kheo) ấy nói rằng ‘chính trạng thái A La Hán là cứu cánh (cho chúng ta)’; vậy họ ấn định cõi Phạm Thiên vân vân (làm cứu cánh) dựa theo quan điểm (của mình). Cho nên dựa theo quan niệm của chính bản thân mình, họ ấn định chỉ một cứu cánh. Nhằm trình bày điều đó, Đức Thế Tôn đã nói ‘trong khi trả lời một cách phù hợp’ vân vân. 

—–

(i) [Cứu cánh] là mục tiêu cuối cùng, mục tiêu cao nhất; không phải như nhiều người hiện nay hiểu lầm là phương tiện hỗ trợ, ‘cứu’ giúp.

33

♦ idāni bhikkhūnampi ekā niṭṭhā, titthiyānampi ekā niṭṭhāti dvīsu aṭṭakārakesu viya ṭhitesu bhagavā anuyogavattaṃ dassento sā panāvuso, niṭṭhā sarāgassa, udāhu vītarāgassātiādimāha. tattha yasmā rāgarattādīnaṃ niṭṭhā nāma natthi. yadi siyā, soṇasiṅgālādīnampi siyāti imaṃ dosaṃ passantānaṃ titthiyānaṃ “vītarāgassa āvuso sā niṭṭhā”tiādinā nayena byākaraṇaṃ dassitaṃ.

Giờ đây; bởi vì: các vị Tỳ Kheo có một cứu cánh còn các ngoại đạo cũng có một cứu cánh; cho nên để trình bày nhiệm vụ tra vấn đối với 2 phe (các Tỳ Kheo & các ngoại đạo) giống như đối với các bên trong một vụ kiện, Đức Thế Tôn đã nói ‘Vậy này các ông! Cứu cánh đó dành cho người có luyến ái hay dành cho người ly luyến ái’ vân vân. Trong chủ đề này, không có cứu cánh dành cho chúng sinh có luyến ái, chúng sinh tham lam vân vân. Bởi vì nếu có, thì cứu cánh đó cũng dành cho con chó, con chó rừng vân vân(i). Bởi nhìn thấy điều bất cập đó, các ngoại đạo đưa ra câu trả lời theo lối ‘Này các ông! Cứu cánh đó dành cho người ly tham’ vân vân.

—–

(i) Tức loài súc sinh như chó, chó rừng, heo, gà… cũng có tham, sân, si… Nếu thừa nhận cứu cánh đó dành cho chúng sinh có tham, sân, si… thì cũng thừa nhận chó, heo… có thể đạt được cứu cánh đó.

34

♦ tattha viddasunoti paṇḍitassa. anuruddhapaṭiviruddhassāti rāgena anuruddhassa kodhena paṭiviruddhassa. papañcārāmassa papañcaratinoti ettha āramanti etthāti ārāmo. papañco ārāmo assāti papañcārāmo. papañce rati assāti papañcarati. papañcoti ca mattapamattākārabhāvena pavattānaṃ taṇhādiṭṭhimānānametaṃ adhivacanaṃ. idha pana taṇhādiṭṭhiyova adhippetā. sarāgassātiādīsu pañcasu ṭhānesu ekova kileso āgato. tassa ākārato nānattaṃ veditabbaṃ. sarāgassāti hi vuttaṭṭhāne pañcakāmaguṇikarāgavasena gahito. sataṇhassāti bhavataṇhāvasena. saupādānassāti gahaṇavasena. anuruddhapaṭiviruddhassāti yugaḷavasena. papañcārāmassāti papañcuppattidassanavasena. sarāgassāti vā ettha akusalamūlavasena gahito. sataṇhassāti ettha taṇhāpaccayā upādānadassanavasena. sesaṃ purimasadisameva. thero panāha “kasmā evaṃ viddhaṃsetha? ekoyeva hi ayaṃ lobho rajjanavasena rāgoti vutto. taṇhākaraṇavasena taṇhā. gahaṇaṭṭhena upādānaṃ. yugaḷavasena anurodhapaṭivirodho. papañcuppattidassanaṭṭhena papañco”ti.

Tại đó, [cho người có hiểu biết – viddasuno] tức [cho người trí – paṇḍitassa]. [Cho người hài lòng và người không hài lòng – anuruddhapaṭiviruddhassa] tức người hài lòng do tham và người không hài lòng do sự giận ghét. [Cho người có niềm vui là chướng ngại – papañcārāmassa], [cho người ưa thích chướng ngại – papañcaratino], trong chủ đề này: [niềm vui – ārāma] chỉ đến việc ‘người ta vui thích đối với cái gì đó’; [Có niềm vui là chướng ngại – papañcārāmo] tức niềm vui của người đó là chướng ngại. [Người ưa thích chướng ngại – papañcarati] tức người đó có sự ưa thích đối với chướng ngại. [Chướng ngại – papañca], đây là thuật ngữ cho [tham ái – taṇhā], [tà kiến – diṭṭhi], mạn [māna] diễn tiến do sự tồn tại của tính mê say, tính dễ duôi. Nhưng ở đây, chính tham ái và tà kiến được chỉ đến. Chỉ một loại phiền não hiện diện ở 5 chỗ (trong bài kinh): ‘cho người có luyến ái’ vân vân. Sự đa dạng về mặt phương thức (biểu đạt) điều đó nên được hiểu(i). [Cho người có luyến ái– sarāgassa], quả thật, ở chỗ được nói đó, (ý nghĩa) được nắm bắt theo phương diện là luyến ái liên quan đến 5 loại dục. [Cho người có tham ái – sataṇhassa], ở chỗ được nói đó, (ý nghĩa) được nắm bắt theo phương diện là tham ái đối với hữu. [Cho người có thủ – saupādānassa], ở chỗ được nói đó, (ý nghĩa) được nắm bắt theo phương diện là sự bám giữ. [Cho người hài lòng và người không hài lòng – anuruddhapaṭiviruddhassa], ở chỗ được nói đó, (ý nghĩa) được nắm bắt theo cặp. [Cho người có niềm vui là chướng ngại – papañcārāmassa], ở chỗ được nói đó, (ý nghĩa) được nắm bắt theo quan niệm về nguồn gốc của chướng ngại. [Cho người có luyến ái– sarāgassa], hoặc ở đây, (ý nghĩa) được nắm bắt theo phương diện là bất thiện căn. [Cho người có tham ái – sataṇhassa], ở đây, (ý nghĩa) được nắm bắt theo cách nhìn về sự chấp thủ do duyên là tham ái. (Các khái niệm) còn lại cũng giống như (ý nghĩa được giải thích) lúc đầu. Thế nhưng, một vị trưởng lão lại nói rằng: ‘Tại sao các ông lại phá hỏng (ý nghĩa) như vậy? Bởi vì (phiền não) đó chỉ là mỗi tham mà thôi. [Luyến ái – rāga] được nói theo phương diện là phiền não. [Tham ái – taṇhā] được nói theo phương diện là yếu tố tác động. [Thủ – upādāna] được nói theo ý nghĩa là sự bám giữ. [Sự hài lòng và sự không hài lòng – anurodhapaṭivirodha] được nói theo cặp. [Chướng ngại – papañca] được nói theo ý nghĩa là quan niệm về nguồn gốc của chướng ngại.

—–

(i) Tức cùng chỉ đến người có phiền não tham, nhưng dùng 5 từ khác nhau: sarāga, sataṇha…

35

♦ 142. idāni imesaṃ kilesānaṃ mūlabhūtaṃ diṭṭhivādaṃ dassento dvemā, bhikkhave, diṭṭhiyotiādimāha.

Giờ đây, nhằm trình bày nội dung của tà kiến – vốn là gốc cho các phiền não đó, (Đức Phật) đã nói ‘Này các Tỳ Kheo! Đây là 2 tà kiến’ vân vân.

36

♦ tattha bhavadiṭṭhīti sassatadiṭṭhi. vibhavadiṭṭhīti ucchedadiṭṭhi. bhavadiṭṭhiṃ allīnāti taṇhādiṭṭhivasena sassatadiṭṭhiṃ allīnā. upagatāti taṇhādiṭṭhivaseneva upagatā. ajjhositāti taṇhādiṭṭhivaseneva anupaviṭṭhā. vibhavadiṭṭhiyā te paṭiviruddhāti te sabbe ucchedavādīhi saddhiṃ — “tumhe andhabālā na jānātha, sassato ayaṃ loko, nāyaṃ loko ucchijjatī”ti paṭiviruddhā niccaṃ kalahabhaṇḍanapasutā viharanti. dutiyavārepi eseva nayo.

Trong chủ đề này, [hữu kiến – bhavadiṭṭhi] là quan điểm trường tồn. [Phi hữu kiến – vibhavadiṭṭhi] là quan điểm đoạn diệt. [Bám níu hữu kiến] tức bám níu quan điểm trường tồn do tham ái và tà kiến. [Đi đến – upagata] tức đi đến quan điểm trường tồn do tham ái và tà kiến. [Hướng đến – ajjhosita] tức đi theo quan điểm trường tồn do tham ái và tà kiến. [Họ không hài lòng với phi hữu kiến – vibhavadiṭṭhiyā te paṭiviruddhā] tức: tất cả họ luôn luôn gây ra tranh cãi, tranh luận, không hài lòng với các quan điểm đoạn diệt rằng ‘Các ông – những kẻ ngu ngốc, mù quáng – không biết rằng ‘Thế gian này thì trường tồn; thế gian này không diệt đi.’’ Cũng chính phương pháp (giải thích) đó (nên được áp dụng) ở đoạn kinh thứ 2.

37

samudayañcātiādīsu dve diṭṭhīnaṃ samudayā khaṇikasamudayo paccayasamudayo ca. khaṇikasamudayo diṭṭhīnaṃ nibbatti. paccayasamudayo aṭṭha ṭhānāni. seyyathidaṃ, khandhāpi diṭṭhiṭṭhānaṃ, avijjāpi, phassopi, saññāpi, vitakkopi, ayonisomanasikāropi, pāpamittopi, paratoghosopi diṭṭhiṭṭhānaṃ. “khandhā hetu khandhā paccayo diṭṭhīnaṃ upādāya samuṭṭhānaṭṭhena. evaṃ khandhāpi diṭṭhiṭṭhānaṃ. avijjā… phasso… saññā… vitakko… ayonisomanasikāro… pāpamitto… paratoghoso hetu, paratoghoso paccayo diṭṭhīnaṃ upādāya samuṭṭhānaṭṭhena. evaṃ paratoghosopi diṭṭhiṭṭhānaṃ” (paṭi. ma. 1.124). atthaṅgamāpi dveyeva khaṇikatthaṅgamo paccayatthaṅgamo ca. khaṇikatthaṅgamo nāma khayo vayo bhedo paribhedo aniccatā antaradhānaṃ.

 

paccayatthaṅgamo nāma sotāpattimaggo. sotāpattimaggo hi diṭṭhiṭṭhānasamugghātoti vutto.

[Sự khởi lên – samudaya] vân vân; có 2 sự khởi lên của các tà kiến: sự khởi lên tức khắc và sự khởi lên là duyên. [Sự khởi lên tức khắc – khaṇikasamudaya] tức sự sinh ra (trong hiện tại) của các tà kiến. [Sự khởi lên do duyên – paccayasamudaya] gồm 8 điều kiện – tức là: các uẩn – vốn là một điều kiện cho tà kiến; vô minh – vốn là một điều kiện cho tà kiến; xúc – vốn là một điều kiện cho tà kiến; tưởng – vốn là một điều kiện cho tà kiến; tầm – vốn là một điều kiện cho tà kiến; phi như lý tác ý – vốn là một điều kiện cho tà kiến; ác bằng hữu – vốn là một điều kiện cho tà kiến; lời nói từ người khác – vốn là một điều kiện cho tà kiến. Các uẩn là nhân, các uẩn là duyên cho các tà kiến theo nghĩa là điều kiện khởi sinh (cho các tà kiến) do việc dựa vào (chúng). Các uẩn là một điều kiện cho tà kiến như vậy. Vô minh… Xúc… Tưởng… Tầm… Phi như lý tác ý… Ác bằng hữu… Lời nói từ người khác là nhân, lời nói từ người khác là duyên cho các tà kiến theo nghĩa là điều kiện khởi sinh (cho các tà kiến) do việc dựa vào (nó). Lời nói từ người khác là một điều kiện cho tà kiến như vậy. (paṭi. ma. 1.124). Có đến 2 sự diệt đi (của các tà kiến): sự diệt đi tức khắc và sự diệt đi do duyên. [Sự diệt đi tức khắc – khaṇikatthaṅgamo] tức: sự huỷ hoại, sự mất đi, sự tan biến, sự tan hoại, sự không nối tiếp, sự biến mất. [Sự diệt đi do duyên – paccayatthaṅgamo] tức chỉ đến Nhập Lưu Đạo. Bởi vì Nhập Lưu Đạo được gọi là cái bứng gốc trạng thái tà kiến.

38

assādanti diṭṭhimūlakaṃ ānisaṃsaṃ. yaṃ sandhāya vuttaṃ — “yaṃdiṭṭhiko satthā hoti, taṃdiṭṭhikā sāvakā honti. yaṃdiṭṭhikā satthāraṃ sāvakā sakkaronti, garuṃ karonti, mānenti, pūjenti, labhanti tatonidānaṃ cīvarapiṇḍapātasenāsanagilānapaccayabhesajjaparikkhāraṃ. ayaṃ, bhikkhave, diṭṭhiyā diṭṭhadhammiko ānisaṃso”ti. ādīnavanti diṭṭhiggahaṇamūlakaṃ upaddavaṃ. so vaggulivataṃ ukkuṭikappadhānaṃ kaṇṭakāpassayatā pañcātapatappanaṃ sānupapātapatanaṃ kesamassuluñcanaṃ appoṇakaṃ jhānantiādīnaṃ vasenaṃ veditabbo. nissaraṇanti diṭṭhīnaṃ nissaraṇaṃ nāma nibbānaṃ. yathābhūtaṃ nappajānantīti ye etaṃ sabbaṃ yathāsabhāvaṃ na jānanti. na parimuccanti dukkhasmāti sakalavaṭṭadukkhato na parimuccanti. iminā etesaṃ niṭṭhā nāma natthīti dasseti. parimuccanti dukkhasmāti sakalavaṭṭadukkhato parimuccanti. iminā etesaṃ niṭṭhā nāma atthīti dvinnaṃ aṭṭakārakānaṃ aṭṭaṃ chindanto viya sāsanasmiṃyeva niṭṭhāya atthitaṃ patiṭṭhapeti.

[Vị ngọt – assāda] tức lợi ích có gốc là tà kiến. Điều này được nói liên quan đến chuyện đó: ‘Người thầy có tà kiến nào; thì các đệ tử có tà kiến đó. Khi có tà kiến ấy, các đệ tử tôn kính, tôn vinh, kính trọng, kính lễ vị thầy; nhờ đó, họ đạt được các vật dụng là y, vật thực, chỗ ngụ, thuốc men cho người bệnh. Này các Tỳ Kheo! Đó là lợi ích trong kiếp hiện tại từ tà kiến. [Sự bất lợi – ādīnava] tức sự nguy hiểm có gốc là sự nắm bắt tà kiến. Cái đó (sự bất lợi) nên được hiểu là các tầng thiền không dẫn đến (giải thoát) vân vân; hạnh bứt nhổ râu tóc; hạnh nhảy xuống từ đỉnh núi hay vách đá; việc chịu khổ hạnh 5 loại; việc (nằm) nệm gai; nỗ lực trong thế ngồi xổm; hạnh con dơi. [Sự xuất hành – nissaraṇa] tức sự xuất hành khỏi các tà kiến – tức Niết Bàn. [(Họ) không rõ biết theo thực tính – yathābhūtaṃ nappajānanti] tức những vị ấy không biết tất cả những điều đó theo bản chất. [(Họ) không được giải thoát khỏi khổ – na parimuccanti dukkhasmā] tức: (họ) không được giải thoát khỏi toàn bộ khổ luân hồi. Bằng câu kinh đó, (Đức Phật) cho thấy ‘Các vị đó không có được cứu cánh.’ [(Họ) được giải thoát khỏi khổ – parimuccanti dukkhasmā] tức: (họ) được giải thoát khỏi toàn bộ khổ luân hồi. Bằng câu kinh đó, (Đức Phật) cho thấy ‘Các vị đó có được cứu cánh.’ (Đức Phật) khẳng quyết sự tồn tại của cứu cánh trong chính giáo lý này giống như (vị quan toà) phân định vụ kiện của 2 phe trong vụ kiện.

39

♦ 143. idāni diṭṭhicchedanaṃ dassento cattārimāni, bhikkhave, upādānānītiādimāha. tesaṃ vitthārakathā visuddhimagge vuttāyeva.

Giờ đây, nhằm trình bày sự phân loại tà kiến, Đức Phật đã nói: ‘Này các Tỳ Kheo! Đây là 4 loại chấp thủ’ vân vân. Lời giảng chi tiết về chúng đã được nói ngay trong bộ Thanh Tịnh Đạo.

40

sabbupādānapariññāvādā paṭijānamānāti mayaṃ sabbesaṃ upādānānaṃ pariññaṃ samatikkamaṃ vadāmāti evaṃ paṭijānamānā. na sammā sabbupādānapariññanti sabbesaṃ upādānānaṃ samatikkamaṃ sammā na paññapenti. keci kāmupādānamattassa pariññaṃ paññapenti. keci diṭṭhupādānamattassa paññapenti, keci sīlabbatupādānassāpi. attavādupādānassa pana pariññaṃ paññapento nāma natthi. tesaṃ pana bhedaṃ dassento kāmupādānassa pariññaṃ paññapentītiādimāha. tattha sabbepi kāmupādānassa pariññaṃ paññapentiyeva, channavuti pāsaṇḍāpi hi “kāmā kho pabbajitena na sevitabbā”ti vatthupaṭisevanaṃ kāmaṃ kappatīti na paññapenti, akappiyameva katvā paññapenti. ye pana sevanti, te theyyena sevanti. tena vuttaṃ “kāmupādānassa pariññaṃ paññapentī”ti.

[Những người thừa nhận việc thuyết giảng về sự thấu triệt mọi chấp thủ – sabbupādānapariññāvādā paṭijānamānā] tức: những người thừa nhận rằng ‘Chúng tôi nói về sự thấu triệt, sự vượt qua hoàn toàn tất cả những chấp thủ.’ [Không thấu triệt mọi chấp thủ một cách phù hợp – na sammā sabbupādānapariññaṃ] tức: họ không tuyên bố sự vượt qua hoàn toàn tất cả những chấp thủ một cách phù hợp. Một số vị tuyên bố sự thấu triệt mỗi dục chấp thủ. Một số vị tuyên bố sự thấu triệt mỗi kiến chấp thủ. Một số vị tuyên bố sự thấu triệt mỗi giới cấm thủ. Và không có người (trong số họ) tuyên bố sự thấu triệt ngã thuyết chấp thủ. Thế rồi, nhằm trình bày sự phân nhóm những vị ấy, Đức Phật đã nói: ‘Họ tuyên bố sự thấu triệt dục chấp thủ’ vân vân. Ở câu kinh đó, tất cả những vị ấy chỉ tuyên bố sự thấu triệt dục chấp thủ. Bởi vì 96 phái ngoại đạo (do suy nghĩ rằng) ‘Quả thật, các dục thì không nên được liên hệ đến bởi người xuất gia’, đã không tuyên bố rằng: ‘Loại dục do thực hiện các công việc thì phù hợp’; họ tuyên bố bằng cách xem (loại dục đó) là không phù hợp. Và những người nào thực hiện (các công việc), thì những người đó thực hiện theo lối trộm cắp(i). Do đó, điều này đã được nói (bởi Đức Phật): ‘Họ tuyên bố sự thấu triệt dục chấp thủ.’

—–

(i) Các công việc ở đây là các công việc do người đời nhờ vả, sai sử. Các vị ngoại đạo cũng quan niệm việc làm đó là không phù hợp, vì người xuất gia nên chuyên tâm tu tập. Nếu nhận của bố thí của thí chủ mà lơ là tu tập, lại đi làm việc thế gian thì cũng như kẻ trộm cắp, gian lận. 

41

♦ yasmā “natthi dinnan”tiādīni gahetvā caranti. “sīlena suddhi vatena suddhi, bhāvanāya suddhī”ti gaṇhanti, attupaladdhiṃ na pajahanti, tasmā na diṭṭhupādānassa, na sīlabbatupādānassa, na attavādupādānassa pariññaṃ paññapenti. taṃ kissa hetūti taṃ apaññāpanaṃ etesaṃ kissa hetu, kiṃ kāraṇā? imāni hi te bhontoti yasmā te bhonto imāni tīṇi kāraṇāni yathāsabhāvato na jānantīti attho. ye panettha dvinnaṃ pariññānaṃ paññāpanakāraṇaṃ diṭṭhiñceva sīlabbatañca “etaṃ pahātabban”ti yathāsabhāvato jānanti. te sandhāya parato dve vārā vuttā. tattha ye “atthi dinnan”tiādīni gaṇhanti, te diṭṭhupādānassa pariññaṃ paññapenti. ye pana “na sīlena suddhi, na vatena suddhi, na bhāvanāya suddhī”ti gaṇhanti, te sīlabbatupādānassa pariññaṃ paññapenti. attavādupādānassa pariññaṃ pana ekopi paññapetuṃ na sakkoti. aṭṭhasamāpattilābhinopi hi candimasūriye pāṇinā parimajjitvā caramānāpi ca titthiyā tisso pariññā paññapenti. attavādaṃ muñcituṃ na sakkonti. tasmā punappunaṃ vaṭṭasmiṃyeva patanti. pathavijigucchanasasako viya hi ete.

Bởi vì họ sống dựa vào việc nắm bắt (quan điểm) rằng ‘Không có vật được bố thí’ vân vân, họ nắm bắt (quan điểm) rằng ‘Sự thanh tịnh (tồn tại) do giới, sự thanh tịnh (tồn tại) do đức hạnh, sự thanh tịnh (tồn tại) do sự phát triển’, họ không từ bỏ quan điểm về ngã; cho nên họ không tuyên bố sự thấu triệt (tà) kiến thủ, không tuyên bố sự thấu triệt giới cấm thủ, không tuyên bố sự thấu triệt ngã kiến thủ. [Điều đó (tồn tại) do nguyên nhân gì?] tức: việc không tuyên bố đó của họ (tồn tại) do nguyên nhân gì? Do lý do gì? [Bởi vì các vị tôn đức đó… những điều đó – imāni hi te bhonto] tức: bởi vì những vị tôn đức đó không biết 3 lý do ấy theo bản chất. Ý nghĩa là như vậy. Và ở phần này, những vị nào biết chính tà kiến hoặc giới cấm thủ – tức lý do cho việc tuyên bố 2 sự thấu triệt(i) – theo bản chất rằng ‘Điều đó nên được từ bỏ’; thì 2 đoạn kinh sau được nói liên quan đến họ. Ở đoạn kinh đó, những vị nào nắm bắt (quan điểm) rằng ‘Có vật được bố thí’ vân vân; thì những vị đó tuyên bố sự thấu triệt kiến thủ. Còn những vị nào nắm bắt (quan điểm) rằng ‘Sự thanh tịnh (tồn tại) không do giới, sự thanh tịnh (tồn tại) không do đức hạnh, sự thanh tịnh (tồn tại) không do sự phát triển’; thì những vị đó tuyên bố sự thấu triệt giới cấm thủ. Nhưng không một vị nào có thể tuyên bố sự thấu triệt ngã kiến thủ. Bởi vì một số vị thầy ngoại đạo đạt được 8 tầng thiền, trong khi du hành, họ chạm vào mặt trăng & mặt trời bằng tay mình và tuyên bố 3 sự thấu triệt đó; nhưng họ không thể thoát khỏi ngã kiến. Do đó, họ rơi vào chính vòng luân hồi hết lần này đến lần khác. Quả thật, họ giống như con thỏ né tránh đất.  

—–

(i) Ở đây, có thể hiểu là các vị đó tuyên bố ít nhất 1 trong 2 sự thấu triệt đó, không nhất thiết là cả 2.

42

tatthāyaṃ atthasallāpikā upamā —  pathavī kira sasakaṃ āha — “bho sasakā”ti. sasako āha — “ko eso”ti. “kasmā mameva upari sabbairiyāpathe kappento uccārapassāvaṃ karonto maṃ na jānāsī”ti. “suṭṭhu tayā ahaṃ diṭṭho, mayā akkantaṭṭhānampi aṅgulaggehi phuṭṭhaṭṭhānaṃ viya hoti, vissaṭṭhaudakaṃ appamattakaṃ, karīsaṃ katakaphalamattaṃ. hatthiassādīhi pana akkantaṭṭhānampi mahantaṃ, passāvopi nesaṃ ghaṭamatto hoti, uccāropi pacchimatto hoti, alaṃ mayhaṃ tayā”ti uppatitvā aññasmiṃ ṭhāne patito. tato naṃ pathavī āha — “are dūraṃ gatopi nanu mayhaṃ upariyeva patitosī”ti. so puna taṃ jigucchanto uppatitvā aññattha patito, evaṃ vassasahassampi uppatitvā patamāno sasako pathaviṃ muñcituṃ na sakkoti. evamevaṃ titthiyā sabbūpādānapariññaṃ paññapentopi kāmupādānādīnaṃ tiṇṇaṃyeva samatikkamaṃ paññapenti. attavādaṃ pana muñcituṃ na sakkonti, asakkontā punappunaṃ vaṭṭasmiṃyeva patantīti.

Ở đây, đó là một truyện ngụ ngôn mang tính đối thoại (để truyền tải) ý nghĩa. Bấy giờ, Đất đã nói với Thỏ rằng: ‘Này bạn Thỏ!’ Thỏ đáp: ‘Ngươi là ai?’ (Đất) ‘Tại sao bạn lại không biết tôi trong khi bạn sinh hoạt đủ mọi tư thế trên chính (người) tôi, bạn đại tiểu tiện (trên chính người tôi)?’ (Thỏ) ‘Tôi đã được bạn nhìn thấy rõ ràng. Chỗ mà tôi bước chân lên, chỗ mà các đầu ngón chân tôi tiếp xúc (cũng được bạn nhìn thấy rõ ràng). Nước được thải ra (nước tiểu của tôi) có lượng ít ỏi. Phân (của tôi) có kích cỡ như trái Kataka. Còn chỗ mà đám voi, ngựa vân vân bước chân lên thì to bự, nước tiểu của chúng có lượng bằng cái bình, phân của chúng có kích cỡ bằng cái giỏ. Thật đủ cho bạn và tôi (tôi với bạn hết chuyện rồi)!’ Thỏ nhảy lên rồi đáp xuống chỗ khác. Thế rồi, Đất nói với nó (Thỏ) rằng: ‘Ui chao! Bạn đi xa thật, chẳng phải bạn đã rơi xuống ngay trên (người) tôi ư?’ Thế là nó (Thỏ) lại nhảy lên rồi đáp xuống chỗ khác để né tránh Đất. Và suốt 1.000 năm, Thỏ nhảy lên và đáp xuống như vậy mà không thể từ bỏ Đất. Cũng giống vậy, các vị thầy ngoại đạo tuy tuyên bố sự thấu triệt mọi chấp thủ, nhưng (thực ra) họ chỉ tuyên bố sự vượt qua 3 loại chấp thủ như dục thủ vân vân. Và họ không thể thoát khỏi ngã kiến. Do không thể, họ rơi vào chính vòng luân hồi hết lần này đến lần khác.

43

♦ evaṃ yaṃ titthiyā samatikkamituṃ na sakkonti, tassa vasena diṭṭhicchedavādaṃ vatvā idāni pasādapacchedavādaṃ dassento evarūpe kho, bhikkhave, dhammavinayetiādimāha. tattha dhammavinayeti dhamme ceva vinaye ca, ubhayenapi aniyyānikasāsanaṃ dasseti. “yo satthari pasādo so na sammaggato”ti aniyyānikasāsanamhi hi satthā kālaṃ katvā sīhopi hoti, byagghopi hoti, dīpipi acchopi taracchopi. sāvakā panassa migāpi sūkarāpi pasadāpi honti, so “ime mayhaṃ pubbe upaṭṭhākā paccayadāyakā”ti khantiṃ vā mettaṃ vā anuddayaṃ vā akatvā tesaṃ upari patitvā lohitaṃ pivati, thūlathūlamaṃsānipi khādati. satthā vā pana biḷāro hoti, sāvakā kukkuṭā vā mūsikā vā. atha ne vuttanayeneva anukampaṃ akatvā khādati. atha vā satthā nirayapālo hoti, sāvakā nerayikasattā. so “ime mayhaṃ pubbe upaṭṭhākā paccayadāyakā”ti anukampaṃ akatvā vividhā kammakāraṇā karoti, ādittepi rathe yojeti, aṅgārapabbatampi āropeti, lohakumbhiyampi khipati, anekehipi dukkhadhammehi sampayojeti. sāvakā vā pana kālaṃ katvā sīhādayo honti, satthā migādīsu aññataro. te “imaṃ mayaṃ pubbe catūhi paccayehi upaṭṭhahimhā, satthā no ayan”ti tasmiṃ khantiṃ vā mettaṃ vā anuddayaṃ vā akatvā vuttanayeneva anayabyasanaṃ pāpenti. evaṃ aniyyānikasāsane yo satthari pasādo, so na sammaggato hoti, kañci kālaṃ gantvāpi pacchā vinassatiyeva.

Như vậy, các vị thầy ngoại đạo không thể vượt qua sự chấp thủ nào; thì giờ đây, dựa theo sự chấp thủ đó, nhằm trình bày sự phân loại đức tin sau khi đã nói về sự phân nhóm tà kiến, Đức Phật đã nói: ‘Này các Tỳ Kheo! Quả thật, trong pháp và luật như vậy’ vân vân. Ở đó, [trong pháp và luật] tức: ở trong chính pháp và luật; bằng 2 từ đó, Đức Phật chỉ đến loại giáo lý không xuất ly. [Cái nào là đức tin nơi vị thầy, cái đó không được định hướng đúng – yo satthari pasādo so na sammaggato]: bởi vì trong loại giáo lý không xuất ly, vị thầy – đến đúng thời điểm – trở thành sư tử, cọp, báo, gấu hay linh cẩu. Còn các đệ tử của vị ấy trở thành nai, heo, hươu. Vị ấy không có kham nhẫn, không có lòng từ, không có lòng bi – rằng ‘Những người này trước đây là tín đồ của ta, là thí chủ vật dụng cho ta’; (vị ấy) nhảy lên người họ rồi uống máu, ăn từng miếng thịt béo. Hoặc vị thầy trở thành mèo; các đệ tử trở thành gà trống hay chuột. Rồi vị ấy cũng không có lòng thương xót theo chính cách đã được nói trên và ăn (thịt) họ. Hoặc vị thầy trở thành kẻ canh địa ngục; các đệ tử trở thành các chúng sinh được sinh ra ở địa ngục. Vị ấy không có lòng thương xót – rằng ‘Những người này trước đây là tín đồ của ta, là thí chủ vật dụng cho ta’; rồi thi hành nhiều hình phạt đa dạng: vị ấy cột họ vào chiếc xe bị đốt cháy. Vị ấy cho họ leo lên núi than. Vị ấy ném họ vào cái nồi đồng. Vị ấy ràng buộc họ với nhiều nỗi khổ. Hoặc các đệ tử – đến đúng thời điểm – trở thành sư tử vân vân, vị thầy trở thành một con trong số các con nai vân vân. Họ không có kham nhẫn, không có lòng từ, không có lòng bi đối với vị ấy – rằng ‘Chúng ta trước đây đã hộ độ vị ấy bằng tứ vật dụng, vị ấy là vị thầy của chúng ta’; họ khiến cho vị ấy đi đến sự thiệt hại, khổ sở theo chính cách đã được nói trên. Cái nào là đức tin nơi vị thầy, cái đó không được định hướng đúng như vậy. Một người đi đến (loại giáo lý đó) vào bất kỳ lúc nào, thì về sau người ấy cũng tiêu tùng.

44

yo dhamme pasādoti aniyyānikasāsanasmiñhi dhamme pasādo nāma, uggahitapariyāpuṭa — dhāritavācittamattake tantidhamme pasādo hoti, vaṭṭamokkho panettha natthi. tasmā yo ettha pasādo, so punappunaṃ vaṭṭameva gambhīraṃ karotīti sāsanasmiṃ asammaggato asabhāvato akkhāyati.

[Cái nào là đức tin nơi pháp – yo dhamme pasādo] tức: đức tin vào chính loại giáo lý không xuất ly. Đó là đức tin nơi pháp thuộc truyền thống (nào đó) – (pháp đó) chỉ là lời nói được truyền thừa, chỉ là cái giỏ (kinh điển) được học tập. Mà ở đó, không có sự giải thoát khỏi vòng luân hồi. Do đó, cái nào là đức tin nơi (pháp) đó, thì cái đó khoét sâu vòng luân hồi hết lần này đến lần khác(i). Đức tin đó được tuyên bố một cách không đúng đắn, không đúng theo bản chất.

—–

(i) [so punappunaṃ vaṭṭameva gambhīraṃ karoti] = [cái đó khiến vòng luân hồi trở nên sâu hết lần này đến lần khác].

45

yā sīlesu paripūrakāritāti yāpi ca aniyyānikasāsane ajasīlādīnaṃ vasena paripūrakāritā, sāpi yasmā vaṭṭamokkhaṃ bhavanissaraṇaṃ na sampāpeti, sampajjamānā pana tiracchānayoniṃ āvahati, vipaccamānā nirayaṃ, tasmā sā na sammaggatā akkhāyati. yā sahadhammikesūti aniyyānikasāsanasmiñhi ye sahadhammikā, tesu yasmā ekacce kālaṃ katvā sīhādayopi honti, ekacce migādayo, tattha sīhādibhūtā “ime amhākaṃ sahadhammikā ahesun”ti

migādibhūtesu khantiādīni akatvā pubbe vuttanayeneva nesaṃ mahādukkhaṃ uppādenti. tasmā ettha sahadhammikesu piyamanāpatāpi asammaggatā akkhāyati.

[Cái nào là sự hoàn thành đối với các giới – yā sīlesu paripūrakāritā] tức: cái nào là sự làm cho đầy đủ về giới con dê vân vân trong loại giáo lý không xuất ly; thì bởi vì cái đó không khiến cho (hành giả) đạt đến sự xuất ly khỏi hữu – tức sự giải thoát khỏi luân hồi, khi cái đó diễn tiến, nó đưa đến cõi súc sinh, khi cái đó trổ quả, nó đưa đến cõi địa ngục; cho nên, cái đó không được tuyên bố một cách đúng đắn. [Cái nào (là tình thân ái) đối với các đồng đạo – yā sahadhammikesu] tức: những ai là đồng đạo trong chính loại giáo lý không xuất ly; thì bởi vì trong số họ, một số kẻ – đến đúng thời điểm – trở thành sư tử vân vân, một số kẻ trở thành nai vân vân và khi đó, những kẻ là sư tử vân vân không có sự kham nhẫn vân vân đối với những kẻ là nai vân vân rằng ‘Những người này đã là các đồng đạo của chúng ta’ và gây ra đau khổ lớn lao cho họ theo chính phương cách đã được nói trước đây; cho nên tại đó, tình thân ái đối với các đồng đạo được tuyên bố một cách không đúng đắn.

46

idaṃ pana sabbampi kāraṇabhedaṃ ekato katvā dassento bhagavā taṃ kissa hetu? evañhetaṃ, bhikkhave, hotītiādimāha. tatrāyaṃ saṃkhepattho — evañhetaṃ, bhikkhave, hoti, yaṃ mayā vuttaṃ “yo satthari pasādo so na sammaggato akkhāyatī”tiādi, taṃ evameva hoti. kasmā? yasmā te pasādādayo durakkhāte dhammavinaye … pe … asammāsambuddhappavediteti, ettha hi yathā tanti kāraṇatthe nipāto. tattha durakkhāteti dukkathite, dukkhathitattāyeva duppavedite. so panesa yasmā maggaphalatthāya na niyyāti, tasmā aniyyāniko. rāgādīnaṃ upasamāya asaṃvattanato anupasamasaṃvattaniko. na sammāsambuddhena sabbaññunā paveditoti asammāsambuddhappavedito. tasmiṃ aniyyānike anupasamasaṃvattanike asammāsambuddhappavedite. ettāvatā bhagavā titthiyesu pasādo surāpītasiṅgāle pasādo viya niratthakoti dasseti.

Thế rồi, nhằm trình bày sự phân tích nguyên do cho mọi điều đó bằng cách tổng hợp, Đức Phật đã nói: ‘Điều đó (tồn tại) do nguyên nhân gì? Này các Tỳ Kheo! Bởi vì điều đó (diễn ra) như vậy…’ vân vân. Ở (đoạn kinh) đó, đây là ý nghĩa sơ lược: này các Tỳ Kheo! Bởi vì điều đó (diễn ra) như vậy – tức: điều nào đã được nói bởi ta rằng: ‘Cái nào là đức tin nơi vị thầy; thì cái đó không được tuyên bố một cách đúng đắn’ vân vân; thì điều đó (diễn ra) hệt như vậy. Tại sao? Bởi vì những đức tin (nơi vị thầy) vân vân đó (xảy ra) trong pháp và luật được tuyên bố một cách kém cỏi… không được tuyên thuyết bởi bậc Chánh Đẳng Chánh Giác. Quả thật, tại (câu kinh) đó, [Do điều này – yathā taṃ] là phụ từ với ý nghĩa chỉ nguyên nhân. Tại đó, [được tuyên bố một cách kém cỏi – durakkhāte] tức: được nói một cách kém cỏi, [được tuyên thuyết một cách kém cỏiduppavedite] do trạng thái được nói một cách kém cỏi. Và bởi vì chính (pháp & luật) đó không đi đến mục tiêu là Đạo & Quả; cho nên (nó được gọi là) [không xuất ly – aniyyānika]. Do việc không dẫn đến sự an tịnh tham vân vân, (nó được gọi là) [không dẫn đến sự an tịnh – anupasamasaṃvattanika]. Do nó không được tuyên thuyết bởi Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác – bậc Toàn Giác; (nó được gọi là) [không được tuyên thuyết bởi bậc Chánh Đẳng Chánh Giác – asammāsambuddhappavedita]. (Tóm lại), ở trong (pháp & luật) không xuất ly, không dẫn đến sự an tịnh, không được tuyên thuyết bởi bậc Chánh Đẳng Chánh Giác đó. Trong chừng mực đó, Đức Thế Tôn đã chỉ ra: đức tin nơi các vị thầy ngoại đạo là vô lợi ích giống như đức tin nơi con chó rừng uống rượu.

47

eko kira kāḷasiṅgālo rattiṃ nagaraṃ paviṭṭho surājallikaṃ khāditvā punnāgavane nipajjitvā niddāyanto sūriyuggamane pabujjhitvā cintesi “imasmiṃ kāle na sakkā gantuṃ, bahū amhākaṃ verino, ekaṃ vañcetuṃ vaṭṭatī”ti. so ekaṃ brāhmaṇaṃ gacchantaṃ disvā imaṃ vañcessāmīti “ayya brāhmaṇā”ti āha. ko eso brāhmaṇaṃ pakkosatīti. “ahaṃ, sāmī, ito tāva ehīti. kiṃ bhoti? maṃ bahigāmaṃ nehi, ahaṃ te dve kahāpaṇasatāni dassāmīti. sopi nayissāmīti taṃ pādesu gaṇhi. are bāla brāhmaṇa, na mayhaṃ kahāpaṇā chaḍḍitakā atthi, dullabhā kahāpaṇā, sādhukaṃ maṃ gaṇhāhīti. kathaṃ bho gaṇhāmīti? uttarāsaṅgena gaṇṭhikaṃ katvā aṃse laggetvā gaṇhāhīti. brāhmaṇo taṃ tathā gahetvā dakkhiṇadvārasamīpaṭṭhānaṃ gantvā ettha otāremīti pucchi. kataraṭṭhānaṃ nāma etanti? mahādvāraṃ etanti. are bāla, brāhmaṇa, kiṃ tava ñātakā antaradvāre kahāpaṇaṃ ṭhapenti, parato maṃ harā”ti. so punappunaṃ thokaṃ thokaṃ gantvā “ettha otāremi ettha otāremī”ti pucchitvā tena tajjito khemaṭṭhānaṃ gantvā tattha otārehīti vutto otāretvā sāṭakaṃ gaṇhi. kāḷasiṅgālo āha “ahaṃ te dve kahāpaṇasatāni dassāmīti avocaṃ. mayhaṃ pana kahāpaṇā bahū, na dve kahāpaṇasatāneva, yāva ahaṃ kahāpaṇe āharāmi, tāva tvaṃ sūriyaṃ olokento tiṭṭhā”ti vatvā thokaṃ gantvā nivattetvā puna brāhmaṇaṃ āha “ayya brāhmaṇa mā ito olokehi, sūriyameva olokento tiṭṭhā”ti. evañca pana vatvā ketakavanaṃ pavisitvā yathāruciṃ pakkanto. brāhmaṇassapi sūriyaṃ olokentasseva nalāṭato ceva kacchehi ca sedā mucciṃsu. atha naṃ rukkhadevatā āha —

Thuở ấy, một con chó rừng đen đi vào thành phố vào ban đêm; ăn bã rượu; ngủ ở rừng cây Punnāga; trong khi ngủ, nó thức dậy vào lúc mặt trời mọc; rồi nghĩ rằng ‘Vào lúc này, ta không thể đi. Kẻ thù của bọn ta thì nhiều, ta nên lừa một tên.’ Nó nhìn thấy một vị Bà La Môn đang đi, (nghĩ rằng) ‘Ta sẽ lừa tên này’ rồi nói: ‘Ô ngài Bà La Môn!’ (Vị Bà La Môn) ‘Ai gọi Bà La Môn đó?’ (Chó rừng) ‘Tôi, thưa ông! Hãy đến đây!’ (Vị Bà La Môn) ‘Này bạn! Có chuyện gì?’ (Chó rừng) ‘Hãy dẫn tôi ra ngoài làng, tôi sẽ cho ông 200 Kahāpaṇa(i)’ Vị ấy (nghĩ rằng) ‘Ta sẽ dẫn (nó)’ bèn nắm lấy nó ở đôi chân. (Chó rừng) ‘Ôi chao! Tên Bà La Môn ngu ngốc! Những đồng Kahāpaṇa của ta chẳng phải là đồ bỏ đi. Những đồng Kahāpaṇa của ta là những thứ khó kiếm, hãy nắm lấy ta thật khéo léo.’ (Vị Bà La Môn) ‘Tôi nên nắm như thế nào? Này bạn!’ (Chó rừng) ‘Hãy làm cái nút thắt bằng tấm ngoại y (của ông); mang vào vai; rồi nắm lấy (ta).’ Vị Bà La Môn nắm lấy nó theo cách như vậy; đi đến nơi gần với cổng phía Nam; rồi tại đó hỏi: ‘Tôi thả bạn xuống chăng?’ (Chó rừng) ‘Đây là nơi nào?’ (Vị Bà La Môn) ‘Đây là cổng lớn.’ (Chó rừng) ‘Ôi chao! Tên Bà La Môn ngu ngốc! Có chuyện gì với ngươi? Các bà con của ta để tiền Kahāpaṇa ở cổng bên trong, hãy đưa ta đến nơi ấy!’ Vị ấy đi từng chút từng chút hết lần này đến lần khác; hỏi (nó) rằng: ‘Tôi thả bạn xuống nơi đây chăng? Tôi thả bạn xuống nơi này chăng?’; bị nó nhiếc mắng; nó nói rằng: ‘Hãy đi đến một chỗ an ổn rồi thả ta xuống đó!’; vị ấy thả nó xuống rồi lấy tấm y. Con chó rừng đen nói rằng: ‘Ta đã nói (với ông) rằng ‘Ta sẽ cho ông 200 Kahāpaṇa.’ Nhưng tiền Kahāpaṇa của ta thì nhiều, không chỉ có mỗi 200. Ông hãy đứng (đây) và nhìn mặt trời cho đến khi ta mang tới những đồng Kahāpaṇa!’ Nó nói như vậy; đi một chút; dừng lại; rồi lại nói với vị Bà La Môn rằng: ‘Ôi ngài Bà La Môn! Chớ nhìn sang đây! Hãy đứng (đó) và nhìn mặt trời ấy!’ Nhưng nó nói như vậy; đi vào khu rừng Ketaka; rồi bỏ đi theo ý muốn. Còn vị Bà La Môn trong khi chỉ nhìn mặt trời, thì những giọt mồ hôi đổ ra từ trán và nách. Thế rồi, vị mộc thiên đã nói với vị ấy rằng:   

—–

(i) Kahāpaṇa = đơn vị tiền tệ xưa. 

48

♦ “saddahāsi siṅgālassa, surāpītassa brāhmaṇa.

♦ sippikānaṃ sataṃ natthi, kuto kaṃsasatā duve”ti. (jā. 1.1.113).

♦ evaṃ yathā kāḷasiṅgāle pasādo niratthako, evaṃ titthiyesupīti.

Ông tin vào con chó rừng uống rượu, ôi ông Bà La Môn! Nó chẳng có 100 con trai(i), từ đâu nó có được 200 đồng Kaṃsa(ii). (jā. 1.1.113).

Như vậy, đức tin nơi con chó rừng đen thì vô ích như thế nào; (đức tin) nơi những vị thầy ngoại đạo (cũng vô ích) như thế ấy. 

—–

(i) [Con trai] ở đây chỉ đến loài hải sản.

(ii) Chú Giải Tiểu Bộ cho biết Kaṃsa đồng nghĩa với Kahāpaṇa.

49

♦ 144. aniyyānikasāsane pasādassa niratthakabhāvaṃ dassetvā niyyānikasāsane tassa sātthakataṃ dassetuṃ tathāgato ca kho, bhikkhavetiādimāha. tattha kāmupādānassa pariññaṃ paññapetīti arahattamaggena kāmupādānassa pahānapariññaṃ samatikkamaṃ paññapeti, itaresaṃ tiṇṇaṃ upādānānaṃ sotāpattimaggena pariññaṃ paññapeti. evarūpe kho, bhikkhave, dhammavinayeti, bhikkhave, evarūpe dhamme ca vinaye ca. ubhayenapi niyyānikasāsanaṃ dasseti. satthari pasādoti evarūpe sāsane yo satthari pasādo, so sammaggato akkhāyati, bhavadukkhanissaraṇāya saṃvattati.

Sau khi trình bày trạng thái vô lợi ích của đức tin nơi loại giáo lý không xuất ly; nhằm chỉ ra sự hữu ích của đức tin nơi giáo lý xuất ly, Đức Phật đã nói: ‘Này các Tỳ Kheo! Như Lai…’ vân vân. Tại đoạn kinh đó, [(Như Lai) tuyên bố sự thấu triệt dục thủ] tức: (Như Lai) tuyên bố sự thấu triệt – tức sự từ bỏ, sự vượt qua hoàn toàn – dục thủ bằng A La Hán Đạo. (Như Lai) tuyên bố sự thấu triệt 3 loại thủ khác bằng Nhập Lưu Đạo. [Này các Tỳ Kheo! Trong pháp & luật như vậy] tức: này các Tỳ Kheo! Trong pháp như vậy & luật như vậy. Đức Phật chỉ đến giáo lý xuất ly thông qua 2 (từ đó). [Đức tin nơi vị thầy] tức: cái nào là đức tin nơi vị thầy thuộc giáo lý như vậy; thì cái đó được tuyên bố một cách đúng đắn; cái đó dẫn đến sự xuất ly khỏi cái khổ của việc hiện hữu.

50

tatrimāni vatthūni — bhagavā kira vediyakapabbate indasālaguhāyaṃ paṭivasati. atheko ulūkasakuṇo bhagavati gāmaṃ piṇḍāya pavisante upaḍḍhamaggaṃ anugacchati, nikkhamante upaḍḍhamaggaṃ paccuggamanaṃ karoti. so ekadivasaṃ sammāsambuddhaṃ sāyanhasamaye bhikkhusaṅghaparivutaṃ nisinnaṃ pabbatā oruyha vanditvā pakkhe paṇāmetvā añjaliṃ paggayha sīsaṃ heṭṭhā katvā dasabalaṃ namassamāno aṭṭhāsi. bhagavā taṃ oloketvā sitaṃ pātvākāsi. ānandatthero “ko nu kho, bhante, hetu ko paccayo sitassa pātukammāyā”ti pucchi. “passānanda, imaṃ ulūkasakuṇaṃ, ayaṃ mayi ca bhikkhusaṅghe ca cittaṃ pasādetvā satasahassakappe devesu ca manussesu ca saṃsaritvā somanasso nāma paccekabuddho bhavissatī”ti āha —

Trong chủ đề này, đây là những câu chuyện (minh hoạ): thuở ấy, Đức Thế Tôn đang ngụ tại động Indasālaguhā ở núi Vediyaka. Thế rồi, khi Đức Thế Tôn đi vào làng để khất thực; một con chim cú đi theo (Ngài) nửa hành trình (đầu)(i). Khi Đức Thế Tôn rời (làng); nó theo sau (Ngài) nửa hành trình (sau). Vào một ngày nọ, khi Đức Phật Chánh Đẳng Giác đang ngồi vào buổi chiều – được vây quanh bởi Tăng Đoàn Tỳ Kheo; nó (con chim cú) bay xuống từ núi, đảnh lễ (Ngài) bằng cách: giơ đôi cánh lên; nâng cánh cung kính; cúi đầu xuống và đứng trong khi đảnh lễ Đấng Thập Lực. Đức Thế Tôn nhìn nó rồi thị hiện một nụ cười. Trưởng lão Ānanda đã hỏi rằng: ‘Bạch Ngài! Cái gì là nhân, cái gì là duyên cho việc thị hiện nụ cười?’ Đức Thế Tôn đã nói rằng: ‘Này Ānanda! Hãy nhìn con chim cú này! Nó tịnh tín tâm nơi ta & Tăng Đoàn Tỳ Kheo; luân hồi giữa chư thiên & loài người hàng trăm nghìn kiếp rồi sẽ trở thành vị Phật Độc Giác có tên là Somanassa.

—–

(i) Hành trình ở đây tính cả lượt đi và lượt về, nên nửa hành trình đầu là lượt đi, nửa hành trình sau là lượt về.

51

♦ ulūkamaṇḍalakkhika, vediyake ciradīghavāsika.

♦ sukhitosi tvaṃ ayya kosiya, kāluṭṭhitaṃ passasi buddhavaraṃ.

♦ mayi cittaṃ pasādetvā, bhikkhusaṅghe anuttare.

♦ kappānaṃ satasahassāni, duggateso na gacchati.

♦ devalokā cavitvāna, kusalamūlena codito.

♦ bhavissati anantañāṇo, somanassoti vissutoti.

Ôi chú chim cú – kẻ may mắn cùng cực, kẻ sống dài lâu ở Vediyaka!

Ôi chú chim cú chúa! Ngươi thật hạnh phúc, ngươi nhìn thấy Đức Phật tối thượng khởi dậy vào buổi chiều(i). Ngươi tịnh tín tâm nơi ta & Tăng Đoàn Tỳ Kheo vô thượng; chính ngươi không đi đến cõi khổ suốt hàng trăm nghìn kiếp. Được thôi thúc bởi thiện căn, ngươi chết đi từ cõi trời, rồi sẽ trở thành một vị có trí vô hạn, nức danh là Somanassa.

—–

(i) Theo Sớ Giải, Đức Phật nghỉ ngơi trong tịnh xá vào lúc trưa nóng rồi khởi dậy vào buổi chiều.

52

♦ aññānipi cettha rājagahanagare sumanamālākāravatthu mahābherivādakavatthu morajikavatthu vīṇāvādakavatthu saṅkhadhamakavatthūti evamādīni vatthūni vitthāretabbāni. evaṃ niyyānikasāsane satthari pasādo sammaggato hoti.

Còn trong chủ đề này, những câu chuyện khác (xảy ra) ở thành Rājagaha: chuyện Sumanamālākāra, chuyện Mahābherivādaka, chuyện Morajika, chuyện Vīṇāvādaka, chuyện Saṅkhadhamaka vân vân; những chuyện như vậy nên được truyền bá. Đức tin nơi vị thầy trong giáo lý xuất ly như vậy thì đúng đắn.

53

dhamme pasādoti niyyānikasāsanamhi dhamme pasādo sammaggato hoti. saramatte nimittaṃ gahetvā suṇantānaṃ tiracchānagatānampi sampattidāyako hoti, paramatthe kiṃ pana vattabbaṃ. ayamattho maṇḍūkadevaputtādīnaṃ vatthuvasena veditabbo.

[Đức tin nơi pháp – dhamme pasādo] tức: đức tin nơi pháp trong giáo lý xuất ly thì đúng đắn. (Đức tin đó) là yếu tố mang lại thành tựu cho cả những (chúng sinh) đã đi đến cõi súc sinh trong khi đang nghe (Phật ngôn) và nắm bắt dấu hiệu chỉ về mặt âm thanh(i). Điều gì còn nên được nói về lợi ích tối cao? Ý nghĩa đó nên được hiểu dựa theo câu chuyện về thiên tử Maṇḍūka vân vân.

—–

(i) Tức chúng sinh như con chó, con voi… khi nghe pháp chỉ tiếp nhận âm thanh chứ không thể hiểu ý nghĩa.

54

sīlesu paripūrakāritāti niyyānikasāsanamhi sīlesu paripūrakāritāpi sammaggatā hoti, saggamokkhasampattiṃ āvahati. tattha chattamāṇavakavatthusāmaṇeravatthuādīni dīpetabbāni.

[Sự hoàn thành đối với các giới – sīlesu paripūrakāritā] tức: sự hoàn thành đối với các giới trong giáo lý xuất ly thì đúng đắn; mang lại thành tựu cõi trời hay thành tựu giải thoát. Trong chủ đề này, các câu chuyện như Chattamāṇavaka, Sāmaṇera vân vân thì nên được giải thích.

55

sahadhammikesūti niyyānikasāsane sahadhammikesu piyamanāpatāpi sammaggatā hoti, mahāsampattiṃ āvahati. ayamattho vimānapetavatthūhi dīpetabbo. vuttañhetaṃ —

[Đối với các đồng đạo] tức: tình thân ái đối với các đồng đạo trong giáo lý xuất ly thì đúng đắn, mang lại thành tựu lớn lao. Ý nghĩa đó nên được giải thích qua các câu chuyện trong bộ Vimānapeta. Bởi vì điều này đã được nói:

56

♦ “khīrodanamahamadāsiṃ, bhikkhuno piṇḍāya carantassa … pe …

♦ phāṇitaṃ … pe … ucchukhaṇḍikaṃ… timbarusakaṃ… kakkārikaṃ…

♦ eḷālukaṃ… vallipakkaṃ… phārusakaṃ… hatthapatākaṃ…

♦ sākamuṭṭhiṃ … pupphakamuṭṭhiṃ… mūlakaṃ… nimbamuṭṭhiṃ…

♦ ambikañjikaṃ… doṇinimmajjaniṃ… kāyabandhanaṃ…

♦ aṃsabaddhakaṃ… āyogapaṭṭaṃ… vidhūpanaṃ… tālavaṇṭaṃ…

♦ morahatthaṃ… chattaṃ… upāhanaṃ… pūvaṃ modakaṃ…

♦ sakkhalikaṃ ahamadāsiṃ, bhikkhuno piṇḍāya carantassa … pe …

♦ tassā me passa vimānaṃ, accharā kāmavaṇṇinīhamasmī”ti (vi. va. 406).

taṃ kissa hetūtiādi vuttanayānusāreneva yojetvā veditabbaṃ.

‘Ta đã bố thí nhiều cơm sữa cho vị Tỳ Kheo đang du hành khất thực… đường thô… khúc mía… cây Timbarūsaka… cây Kakkārika… cây Elāluka… trái của cây Vallī… trái Phārusaka… nồi than… một nắm rau củ… một nắm hoa… một loài cây có rễ… một nắm cây Nimba… cháo chua… bánh dầu… đai lưng… đai vai… dây buộc… quạt… quạt lá cọ… quạt đuôi công… dù… dép… bánh kẹo… Ta đã bố thí bánh Sakkhalikā cho vị Tỳ Kheo đang du hành khất thực… Hãy nhìn toà lâu đài của chính ta; ta là vị thiên nữ có dung nhan theo ý muốn.’ (vi. va. 406). [Điều đó có nguyên nhân gì?] vân vân, (câu kinh này) nên được hiểu bằng cách áp dụng (ý nghĩa) theo chính phương pháp đã được nói.

57

145. Idāni yesaṃ upādānānaṃ titthiyā na sammā pariññaṃ paññapenti, tathāgato paññapeti, tesaṃ paccayaṃ dassetuṃ ime ca, bhikkhavetiādimāha. Tattha kiṃnidānātiādīsu nidānādīni sabbāneva kāraṇavevacanāni. Kāraṇañhi yasmā phalaṃ nideti handa, naṃ gaṇhathāti appeti viya, tasmā nidānanti vuccati. Yasmā taṃ tato jāyati samudeti pabhavati, tasmā samudayo, jāti, pabhavoti vuccati. Ayaṃ panettha padattho – kiṃ nidānaṃ etesanti kiṃnidānā. Ko samudayo etesanti kiṃsamudayā. Kā jāti etesanti kiṃjātikā. Ko pabhavo etesanti kiṃpabhavā. Yasmā pana tesaṃ taṇhā yathāvuttena atthena nidānañceva samudayo ca jāti ca pabhavo ca, tasmā ‘‘taṇhānidānā’’tiādimāha. Evaṃ sabbapadesu attho veditabbo. Yasmā pana bhagavā na kevalaṃ upādānasseva paccayaṃ jānāti, upādānassa paccayabhūtāya taṇhāyapi, taṇhādipaccayānaṃ vedanādīnampi paccayaṃ jānātiyeva, tasmā taṇhā cāyaṃ, bhikkhavetiādimāha.

Bấy giờ, các vị thầy ngoại đạo không tuyên bố sự thấu triệt các loại chấp thủ ấy một cách phù hợp, còn Đức Thế Tôn tuyên bố (sự thấu triệt các loại chấp thủ ấy một cách phù hợp); nhằm trình bày duyên của chúng, Ngài đã nói: ‘Này các Tỳ Kheo! Những điều này’ vân vân. Ở đoạn kinh: [Có căn nguyên là gì – kiṃnidāna] vân vân. Hết thảy những từ [căn nguyên – nidāna] vân vân là những từ đồng nghĩa với từ [nguyên nhân – kāraṇa]. Quả thật, bởi vì nguyên nhân tạo ra quả như thể dẫn đến trạng thái ‘Nào, các người hãy đón nhận nó!’; cho nên (nguyên nhân) được gọi là [căn nguyên – nidāna]. Bởi vì quả được sinh ra, khởi lên, xuất hiện từ nguyên nhân; cho nên (nguyên nhân) được gọi là [nguồn gốc – samudaya; nguồn cội – jāti; căn để – pabhava]. Và ở đây, đây là ý nghĩa của cụm từ đó: [có căn nguyên là gì – kiṃnidāna] tức: cái gì là căn nguyên của (những chấp thủ) đó. [có nguồn gốc là gì – kiṃsamudaya] tức: cái gì là nguồn gốc của (những chấp thủ) đó. [có nguồn cội là gì – kiṃjātika] tức: cái gì là nguồn cội của (những chấp thủ) đó. [có căn để là gì – kiṃpabhava] tức: cái gì là căn để của (những chấp thủ) đó. Và bởi vì dựa theo ý nghĩa đã được nói, tham ái chính là căn nguyên, nguồn gốc, nguồn cội, căn để; cho nên (Đức Phật) đã nói: ‘Có căn nguyên là tham ái’ vân vân. Ý nghĩa ở tất cả những cụm từ đó nên được hiểu như vậy. Và bởi vì Đức Thế Tôn không chỉ biết duyên của chính chấp thủ; mà còn biết duyên của của tham ái – tức cái là duyên cho chấp thủ, biết duyên của thọ vân vân – tức cái là duyên cho tham ái vân vân; cho nên Ngài đã nói rằng: ‘Này các Tỳ Kheo! Và tham ái đó’ vân vân.

58

Yatoca khoti yasmiṃ kāle. Avijjā pahīnā hotīti vaṭṭamūlikā avijjā anuppādanirodhena pahīnā hoti. Vijjā uppannāti arahattamaggavijjā uppannā. So avijjāvirāgā vijjuppādāti. So bhikkhu avijjāya ca pahīnattā vijjāya ca uppannattā. Neva kāmupādānaṃ upādiyatīti neva kāmupādānaṃ gaṇhāti na upeti, na sesāni upādānāni. Anupādiyaṃ na paritassatīti evaṃ kiñci upādānaṃ aggaṇhanto taṇhāparitassanāya na paritassati. Aparitassanti aparitassanto taṇhaṃ anuppādento. Paccattaṃyeva parinibbāyatīti sayameva kilesaparinibbānena parinibbāyati. Evamassa āsavakkhayaṃ dassetvā idāni khīṇāsavassa bhikkhuno paccavekkhaṇaṃ dassento khīṇā jātītiādimāha. Taṃ vuttatthamevāti.

Papañcasūdaniyā majjhimanikāyaṭṭhakathāya Cūḷasīhanādasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.

[Và quả thật khi nào – yatoca kho] tức: vào thời điểm nào. [Vô minh được từ bỏ – avijjā pahīnā hoti] tức: vô minh – vốn là gốc cho luôn hồi – được từ bỏ bằng sự diệt – tức sự không sinh lên (nữa). [Minh sinh lên – Vijjā uppannā] tức: minh thuộc A La Hán Đạo sinh lên. [Vị ấy do sự diệt mất của vô minh, do sự sinh lên của minh – So avijjāvirāgā vijjuppādā] tức: vị Tỳ Kheo đó do sự từ bỏ vô minh và do sự sinh lên của minh. [Hoàn toàn không nắm bắt dục thủ – Neva kāmupādānaṃ upādiyati] tức: vị ấy hoàn toàn không bắt lấy, không liên hệ đến dục thủ; cũng không (bắt lấy, không liên hệ đến) những loại chấp thủ còn lại. [Trong khi không chấp thủ, vị ấy không rúng động – Anupādiyaṃ na paritassati] tức: trong khi không bắt lấy bất kỳ loại chấp thủ nào như vậy, vị ấy không rúng động bởi sự rúng động từ tham ái. [Trong khi không rúng động – aparitassaṃ] tức: trong khi không rúng động, trong khi không khiến tham ái khởi lên. [Chính tự mình tịch tịnh – paccattaṃyeva parinibbāyati] tức: chính tự thân mình tịch tịnh bằng sự tịch tịnh các phiền não. Sau khi trình bày sự cạn kiệt phiền não của vị Tỳ Kheo ấy như vậy; giờ đây, nhằm trình bày sự suy xét của vị Tỳ Kheo có lậu hoặc đã cạn kiệt, Đức Phật đã nói: ‘Sinh đã cạn kiệt’ vân vân. Đó chính là ý nghĩa đã được nói.

Sự giải thích bài kinh Tiểu Sư Tử Hống [Cūḷasīhanādasutta] thuộc chú giải Trung Bộ Kinh – Papañcasūdanī – được hoàn thành.