Giải Thích Kinh Về Dạ-xoa Janavasabha
(Janavasabhasuttavaṇṇanā)Xem Trường Bộ Kinh – Kinh Về Dạ-xoa Janavasabha
273-275. Evaṃme sutanti janavasabhasuttaṃ. Tatrāyaṃ anuttānapadavaṇṇanā – parito parito janapadesūti samantā samantā janapadesu. Paricāraketi buddhadhammasaṅghānaṃ paricārake. Upapattīsūti ñāṇagatipuññānaṃ upapattīsu. Kāsikosalesūti kāsīsu ca kosalesu ca, kāsiraṭṭhe ca kosalaraṭṭhe cāti attho. Esa nayo sabbattha. Aṅgamagadhayonakakambojaassakaavantiraṭṭhesu pana chasu na byākaroti. Imesaṃ pana soḷasannaṃ mahājanapadānaṃ purimesu dasasuyeva byākaroti. Nātikiyāti nātikagāmavāsino.
273-275. Kinh về Dạ-xoa Janavasabha được bắt đầu như sau ‘Tôi đã nghe như vầy…’ Trong bài Kinh này giải thích các câu từ không rõ nghĩa như sau – Ở các xứ sở lân cận xung quanh: ở các xứ sở lân cận xung quanh. Người cận sự: người cận sự của đức Phật, Giáo Pháp và Chư Tăng. Các sự tái sanh: các sự tái sanh của trí về cảnh giới tái sanh và phước báu. Ở Kāsi và Kosala: ở xứ Kāsi và xứ Kosala, có nghĩa là ở thành phố Kāsi và thành phố Kosala. Cách thức này áp dụng cho các đoạn kế tiếp. Nhưng không tuyên bố ở sáu vị trí là thành phố Aṅga, thành phố Magadha, thành phố Yonaka, thành phố Kamboja, thành phố Assaka, và thành phố Avantī. Dân làng ở Nātika: dân làng Nātika.
Tenāti tena anāgāmiādibhāvena. Sutvāti sabbaññutaññāṇena paricchinditvā byākarontassa bhagavato pañhābyākaraṇaṃ sutvā tesaṃ anāgāmiādīsu niṭṭhaṅgatā hutvā. Tena anāgāmiādibhāvena attamanā ahesuṃ. Aṭṭhakathāyaṃ pana tenāti te nātikiyāti vuttaṃ. Etasmiṃ atthe na-kāro nipātamattaṃ hoti.
Tena: với bản thể Bất Lai, v.v, ấy. Sau khi nghe: sau khi nghe lời giải đáp câu hỏi của đức Thế Tôn đã xác định bằng trí toàn tri, tuyên bố sẽ đi đến sự hoàn thành ở bản thể Bất Lai, v.v, của những người ấy, đã có tâm là của riêng mình với bản thể Bất Lai, v.v. Nhưng trong Chú Giải ngài đã nói rằng: ‘tena’ là các dân làng Nātika. Thật vậy, từ ‘na’ trong ý nghĩa ấy chỉ là một phân từ.
Giảng giải về lời đề nghị của ngài Ānanda
- 277. Bhagavantaṃ kittayamānarūpoti aho buddho, aho dhammo, aho saṅgho; aho dhammo svākkhātoti evaṃ kittayantova kālamakāsi. Bahujano pasīdeyyāti amhākaṃ pitā mātā bhātā bhaginī putto dhītā sahāyako, tena amhehi saddhiṃ ekato bhuttā, ekato sayitā, tassa idañcidañca manāpaṃ akarimha, so kira anāgāmī sakadāgāmī sotāpanno; aho sādhu, aho suṭṭhūti evaṃ bahujano pasādaṃ āpajjeyya.
- Tán dương đức Thế Tôn: Đức vua Bimbisāra đã mệnh chung, luôn tán dương đức Thế Tôn như vầy rằng: “Ôi, Đức Phật! Ôi, Giáo Pháp! Ôi, Đức Tăng! Ôi, Giáo Pháp đã khéo được tuyên thuyết. Nhiều người có thể đặt niềm tin: nhiều người có thể đi đến sự tin tưởng như vầy rằng: Cha, mẹ, anh trai, chị gái, con trai, con gái, bạn bè của chúng tôi, chúng tôi đã từng ăn chung, cùng ngủ chung với vị ấy, chúng tôi sẽ làm những điều đáng hài lòng như thế này và như thế kia cho vị ấy. Được nghe rằng, vị ấy là vị Bất Lai, vị Nhất Lai, vị Nhập Lưu. Ôi, thật tốt đẹp! Ôi, thật tuyệt vời!
- 278. Gatinti ñāṇagatiṃ. Abhisamparāyanti ñāṇābhisamparāyameva. Addasā khoti kittake jane addasa? Catuvīsatisatasahassāni.
- Cảnh giới tái sanh: trí về cảnh giới tái sanh. Về đời sống kế tiếp: có trí về đời sống kế tiếp. Đã nhìn thấy: đã nhìn thấy bao nhiêu người? Hai triệu bốn trăm ngàn người.
- 279. Upasantapadissoti[1] Bhātirivāti ativiya bhāti, ativiya virocati. Indriyānanti manacchaṭṭhānaṃ indriyānaṃ. Addasaṃ kho ahaṃ ānandāti neva dasa, na vīsati, na sataṃ, na sahassaṃ, anūnādhikāni catuvīsatisatasahassāni addasanti āha.
- Trông thật thanh tịnh! Có sự thấy thật an tịnh. Vô cùng sáng chói: vô cùng chiếu sáng, vô cùng chói sáng. Của các giác quan: các giác quan có ý là thứ sáu. Này Ānanda, ta đã nhìn thấy: Đức Thế Tôn nói rằng: ta đã nhìn thấy các cận sự ở Magadha không phải là mười người, hai mươi người, trăm người hay ngàn người, mà là không ít hơn hai triệu bốn trăm ngàn người.
Giảng giải về Dạ-xoa Janavasabha
- 280. Disvā pana me ettako jano maṃ nissāya dukkhā pamuttoti balavasomanassaṃ uppajji, cittaṃ pasīdi, cittassa pasannattā cittasamuṭṭhānaṃ lohitaṃ pasīdi, lohitassa pasannattā manacchaṭṭhāni indriyāni pasīdiṃsūti sabbamidaṃ vatvā atha kho ānandātiādimāha. Tattha yasmā so bhagavato dhammakathaṃ sutvā dasasahassādhikassa janasatasahassassa jeṭṭhako hutvā sotāpanno jāto, tasmā janavasabhotissa nāmaṃ ahosi.
- Tuy nhiên, sau khi thấy Ta số người chừng này do nương nhờ vào Ta đã thoát khỏi đau khổ, đã khởi lên sự vui mừng dữ dội, đã khởi tâm tín thành, do tâm tín thành mà máu huyết có nguồn sanh khởi là tâm trở nên thuần khiết, do máu huyết thuần khiết mà các giác quan có ý là thứ sau cũng trở nên trong sáng, khi đã nói như thế mới thuyết rằng: “Khi ấy, này Ānanda…” Đức vua Bimbisāra ấy sau khi nghe bài thuyết Pháp của đức Thế Tôn ở nơi đó là người đứng đầu trong số một trăm ngàn người (và) với mười ngàn người, đã chứng đắc quả vị Nhập Lưu. Vì thế, vị ấy đã có tên là Janavasabha.
Ito sattāti ito devalokā cavitvā satta. Tato sattāti tato manussalokā cavitvā satta. Saṃsārāni catuddasāti sabbāpi catuddasakhandhapaṭipāṭiyo. Nivāsamabhijānāmīti jātivasena nivāsaṃ jānāmi. Yattha me vusitaṃ pureti yattha devesu ca vessavaṇassa sahabyataṃ upagatena manussesu ca rājabhūtena ito attabhāvato pureyeva mayā vusitaṃ. Pure evaṃ vusitattā eva ca idāni sotāpanno hutvā tīsu vatthūsu bahuṃ puññaṃ katvā tassānubhāvena upari nibbattituṃ samatthopi dīgharattaṃ vusitaṭṭhāne nikantiyā balavatāya ettheva nibbatto.
Từ đây bảy: chết đi từ thiên giới này bảy lần. Từ đó bảy: chết đi từ cõi nhân loại ấy bảy lần. Mười bốn lần luân hồi: theo tuần tự tất cả các uẩn mười bốn lần. Con biết chắc chỗ cư trú: con biết rõ nơi cư trú do tác động của sự sanh. Nơi con đã sống trước đây: con sanh lên làm bạn với Đại Vương Vessavaṇa ở cõi Trời và đã trở thành vua ở loài người trước đây từ bản ngã này. Và do đã cư trú như vậy, bây giờ đã trở thành vị Nhập Lưu, đã tạo nhiều phước báu ở ba nền tảng có thể sanh vào cõi cao hơn, nhờ vào oai lực của phước báu ấy đã sanh vào chính nơi đó, và cũng do năng lực của sự mong mỏi đã sống ở nói đó một thời gian lâu dài.
- 281. Āsā ca pana me santiṭṭhatīti imināhaṃ sotāpannoti na suttappamattova hutvā kālaṃ vītināmesiṃ. Sakadāgāmimaggatthāya pana me vipassanā āraddhā. Ajjeva ajjeva paṭivijjhissāmīti evaṃ saussāho viharāmīti dasseti. Yadaggeti laṭṭhivanuyyāne paṭhamadassane sotāpannadivasaṃ sandhāya vadati. Tadagge ahaṃ, bhante, dīgharattaṃ avinipāto avinipātaṃ sañjānāmīti taṃdivasaṃ ādiṃ katvā, ahaṃ, bhante, purimaṃ catuddasaattabhāvasaṅkhātaṃ[2] dīgharattaṃ avinipāto laṭṭhivanuyyāne sotāpattimaggavasena adhigataṃ avinipātadhammataṃ[3] sañjānāmīti attho. Anacchariyanti anuacchariyaṃ. Cintayamānaṃ punappunaṃ acchariyamevidaṃ yaṃ kenacideva karaṇīyena gacchanto bhagavantaṃ antarāmagge addasaṃ. Idampi acchariyaṃ yañca vessavaṇassa mahārājassa sayaṃparisāya[4] bhāsato bhagavato diṭṭhasadisameva sammukhā sutaṃ. Dve paccayāti antarāmagge diṭṭhabhāvo ca vessavaṇassa sammukhā sutaṃ ārocetukāmatā ca.
- Và sự mong mỏi của con là được thiết lập vào: Con đã không ngủ quên và không lơ đễnh (nghĩ rằng) ‘ta là vị Nhập Lưu’ (mà) để thời gian trôi qua. Vả lại, con đã nỗ lực thực hành minh sát vì lợi ích đối với Đạo Nhất Lai. Con sống với sự mong mỏi rằng: Ta sẽ thấu triệt vào ngay ngày hôm nay. Kể từ khi: Ngài muốn nói đến ngày chứng đạt quả vị Nhập Lưu vào thời Pháp đầu tiên ở tại công viên Laṭṭhivana. Từ khi ấy một thời gian dài con không bị thối đọa, con nhận biết việc đã không bị thối đọa: Thưa ngài con đã lấy ngày đó làm nhân, không bị thối đọa trong một thời gian dài, tính được mười bốn bản ngã trước, đã ghi nhớ Pháp không làm bản thân bị thối đọa và đã đạt được nhờ mãnh lực Đạo Nhập Lưu ở tại công viên Laṭṭhivana. Sự kỳ diệu trùng hợp: Sự kỳ diệu lặp đi lặp lại. Việc ta đi vì một số công việc cần làm nào đó, đã nhìn thấy Đức Phật trên đường là sự kỳ diệu được nghĩ đến thường xuyên và Pháp mà ta đã được nghe trực tiếp từ đức Thế Tôn khi ngài đang nói cho hội chúng của đại vương Vessavaṇa, chính điều này cũng là sự kỳ diệu. Hai lý do: hình ảnh được thấy ở trên đường và sự mong muốn thuật lại điều đã được nghe ở trước mặt đại vương Vessavaṇa.
Giảng giải về hội nghị chư Thiên
- 282. Sannipatitāti kasmā sannipatitā? Te kira catūhi kāraṇehi sannipatanti. Vassūpanāyikasaṅgahatthaṃ, pavāraṇāsaṅgahatthaṃ, dhammasavanatthaṃ, pāricchattakakīḷānubhavanatthanti. Tattha sve vassūpanāyikāti āsāḷhīpuṇṇamāya[5] dvīsu devalokesu devā sudhammāya devasabhāya sannipatitvā mantenti asukavihāre eko bhikkhu vassūpagato, asukavihāre dve tayo cattāro pañca dasa vīsati tiṃsaṃ cattālīsaṃ paññāsaṃ sataṃ sahassaṃ bhikkhū vassūpagatā, etthettha ṭhāne ayyānaṃ ārakkhaṃ susaṃvihitaṃ karothāti evaṃ vassūpanāyikasaṅgaho kato hoti.
- Tụ hội: tụ hội do nguyên nhân gì? Nghe rằng các vị Thiên nhân tụ hội bởi bốn lý do: để hỗ trợ vào mùa an cư mưa, để hỗ trợ vào ngày Pavāraṇā, để lắng nghe thuyết pháp và để cùng nhau vui chơi dưới gốc cây Pāricchattaka. Trong những sự việc đó, vào ngày trăng tròn tháng Āsāḷhī, các vị Thiên nhân ở thiên giới cả hai đã tụ hội lại với nhau tại hội trường Sudhammā và thảo luận rằng ngày mai là đã vào mùa an cư mưa, rồi bàn bạc với nhau rằng ở tu viện kia có một vị tỳ khưu nhập hạ, còn ở tu viện kia thì có hai vị, ba vị, bốn vị, năm vị, mười vị, hai mươi vị, ba mươi vị, bốn mươi vị, năm mươi vị, một trăm vị, thậm chí một nghìn vị nhập hạ, các ngài hãy thực hành việc bảo vệ tu viện ở chỗ kia và chỗ kia cho tốt.
Tadāpi eteneva kāraṇena sannipatitā. Idaṃ tesaṃ hoti āsanasminti idaṃ tesaṃ catunnaṃ mahārājānaṃ āsanaṃ hoti. Evaṃ tesu nisinnesu atha pacchā amhākaṃ āsanaṃ hoti.
Sự hỗ trợ vào mùa an cư mưa các vị Thiên nhân đã thực hiện như thế, và cũng vào thời điểm đó các vị Thiên nhân đã tụ hội lại bởi chính lý do ấy. Đây là chỗ ngồi của các vị ấy: Chỗ ngồi này là chỗ ngồi của bốn vị Đại Vương ấy, khi các vị ấy đã ngồi xuống như vậy, rồi phía sau mới là chỗ ngồi của chúng con.
Yenatthenāti yena vassūpanāyikatthena. Taṃ atthaṃ cintayitvā taṃ atthaṃ mantayitvāti taṃ araññavāsino bhikkhusaṅghassa ārakkhatthaṃ cintayitvā. Etthettha vuṭṭhabhikkhusaṅghassa ārakkhaṃ saṃvidahathāti catūhi mahārājehi saddhiṃ mantetvā. Vuttavacanāpi tanti tettiṃsa devaputtā vadanti, mahārājāno vuttavacanā nāma. Tathā tettiṃsa devaputtā paccānusāsanti, itare paccānusiṭṭhavacanā nāma. Padadvayepi pana tanti nipātamattameva. Avipakkantāti[6] agatā.
Vào mùa an cư mưa nào: vì lợi ích của việc an cư mưa nào. Đã tiếp thu các lời đã được nói ra về mục đích ấy: đã suy nghĩ về việc hộ trì Tăng Chúng cư ngụ ở trong rừng đó, rồi bàn bạc với cả bốn vị Đại Vương rằng hãy sắp xếp việc hộ trì Tăng Chúng cư ngụ ở khu rừng này và khu rừng kia. Các lời đã được nói ra: Ba mươi ba vị Thiên tử nói ra, các lời đã được nói ra tên là Đại Vương. Ba mươi ba vị Thiên tử mải miết gọi như thế. Ngoài các vị Đại Vương ấy các vị còn lại được chỉ đích danh kế theo sau. ‘Taṃ’ trong cả hai câu đều là những phân từ. Không rời đi: đã không rời đi.
- 283. Uḷāroti vipulo mahā. Devānubhāvanti yā sā sabbadevatānaṃ vatthālaṅkāravimānasarīrānaṃ pabhā dvādasa yojanāni pharati. Mahāpuññānaṃ pana sarīrappabhā yojanasataṃ pharati. Taṃ devānubhāvaṃ atikkamitvā. Brahmunohetaṃ pubbanimittanti yathā sūriyassa udayato etaṃ pubbaṅgamaṃ etaṃ pubbanimittaṃ yadidaṃ aruṇuggaṃ, evameva brahmunopi etaṃ – ‘‘pubbanimitta’’nti dīpeti.
- Rực rỡ: to lớn, quảng đại. Thần lực của chư Thiên: ánh sáng từ y phục, đồ trang sức, Thiên cung và sắc thân của các vị Thiên nhân chiếu xa đến 12 do-tuần. Trong khi đó, ánh sáng từ sắc thân của các vị Thiên nhân có nhiều phước báu chiếu xa đến 100 do-tuần, vượt hơn hẳn thần lực của chư Thiên ấy. Là hiện tướng báo trước cho việc hiện ra của Phạm Thiên: ngài miêu tả rằng ánh sáng bình minh là sự dẫn đầu, là dấu hiệu báo trước mặt trời mọc như thế nào, cũng tương tự như thế ấy – đây là “hiện tướng báo trước” cho việc hiện ra của Phạm Thiên.
Nói về Phạm Thiên Sanaṃkumāra
- 284. Anabhisambhavanīyoti apattabbo, na taṃ devā tāvatiṃsā passantīti attho. Cakkhupathasminti cakkhupasāde āpāthe vā. So devānaṃ cakkhussa āpāthe sambhavanīyo pattabbo na hoti, na abhibhavatīti vuttaṃ hoti. Heṭṭhā heṭṭhā hi devatā uparūpari devānaṃ oḷārikaṃ katvā māpitameva attabhāvaṃ passituṃ sakkonti, vedapaṭilābhanti tuṭṭhipaṭilābhaṃ. Adhunābhisitto rajjenāti sampati[7] abhisitto rajjena. Ayaṃ panattho duṭṭhagāmaṇiabhayavatthunā dīpetabbo –
- Những vị Thiên nhân khác không thể nhìn thấy: không thể đạt đến, có nghĩa là chư Thiên cõi Đao Lợi không nhìn thấy vị Phạm Thiên ấy. Đạt đến thị giác: ở thần kinh nhãn hoặc dòng chảy nhãn thức. Sắc ấy không thể nhìn thấy hoặc không thể đạt đến trong dòng chảy nhãn thức của các vị Thiên nhân. Na abhibhavati đã được nói rồi. Bởi vì, các vị Thiên nhân ở cõi trời thấp hơn có thể nhìn thấy bản ngã được biến hóa thành bản ngã thô của các vị Thiên ở cõi cao hơn. Đạt được cảm giác tột độ: đạt được sự vui mừng. Được tấn phong vương quyền: Được tấn phong vương quyền với tài sản và quyền lực. Hơn nữa, ý nghĩa này có thể được mô tả qua câu chuyện của Duṭṭhagāmaṇi Abhaya.
So kira dvattiṃsa damiḷarājāno vijitvā anurādhapure pattābhiseko tuṭṭhasomanassena māsaṃ niddaṃ na labhi, tato – ‘‘niddaṃ na labhāmi, bhante’’ti bhikkhusaṅghassa ācikkhi. Tena hi, mahārāja, ajja uposathaṃ adhiṭṭhāhīti. So ca uposathaṃ adhiṭṭhāsi. Saṅgho gantvā – ‘‘cittayamakaṃ sajjhāyathā’’ti aṭṭha ābhidhammikabhikkhū pesesi. Te gantvā – ‘‘nipajja tvaṃ, mahārājā,’’ti vatvā sajjhāyaṃ ārabhiṃsu. Rājā sajjhāyaṃ suṇantova niddaṃ okkami. Therā – rājānaṃ mā pabodhayitthāti pakkamiṃsu. Rājā dutiyadivase sūriyuggamane pabujjhitvā there apassanto – ‘‘kuhiṃ ayyā’’ti pucchi. Tumhākaṃ niddokkamanabhāvaṃ ñatvā gatāti. Natthi, bho, mayhaṃ ayyakassa dārakānaṃ ajānanakabhesajjaṃ nāma, yāva niddābhesajjampi jānanti yevāti āha.
Nghe rằng đức vua Duṭṭhagāmaṇi Abhaya ấy đã chiến thắng 32 vị vua Damiḷa, và được tấn phong làm vua ở thành Anurādhapura với tâm tràn ngập niềm vui mừng nhưng không thể ngủ nghỉ. Khi đó ngài đã thuật lại cho hội chúng tỳ khưu rằng: “Thưa ngài, (kể từ đó trở đi) trẫm không thể chợp mắt.” – Tâu đại vương, vậy thì ngày hôm nay ngài hãy phát nguyện thọ trì trai giới uposatha. – Và đức vua đã phát nguyện thọ trì trai giới uposatha. – Vị Tăng đi phái tám vị tỳ khưu đã hoàn thành Abhidhamma rằng: “Xin các ngài hãy tụng đọc bộ Cittayamaka (Tâm Song). – Các vị ấy đã đi và nói rằng: “Tâu đại vương, mời ngài hãy nằm xuống” rồi bắt đầu tụng đọc. – Đức vua khi nghe tụng Kinh cũng dần dần đi vào giấc ngủ. – Các vị trưởng lão nghĩ rằng: “Chớ đánh thức đức vua và lặng lẽ rời đi.” Ngày hôm sau, sau khi đức vua thức dậy cũng vào lúc mặt trời mọc, khi không thấy các vị trưởng lão mới hỏi rằng: “Các vị trưởng lão ấy đi đâu rồi?” – Ngài đã nhận được câu trả lời rằng: “Các vị trưởng lão đã biết ngài chìm vào giấc ngủ nên đã rời đi.” – Đức vua đã nói rằng: Này các khanh, các ngài trưởng lão biết được cả dược phẩm là giấc ngủ vào thời điểm nào, vào thời điểm ấy gọi là sự không hiểu biết về dược phẩm của bọn trẻ dĩ nhiên không có nơi các ngài trưởng lão của trẫm.
Pañcasikhoti pañcasikhagandhabbasadiso hutvā. Pañcasikhagandhabbadevaputtassa kira sabbadevatā attabhāvaṃ mamāyanti. Tasmā brahmāpi tādisaṃyeva attabhāvaṃ nimminitvā pāturahosi. Pallaṅkena nisīdīti pallaṅkaṃ ābhujitvā nisīdi.
Thiên tử Càn-thát-bà Pañcasikha: trở nên giống như Càn-thát-bà Pañcasikha. Kể rằng tất cả các Thiên tử đã biến hóa thành bản ngã của Thiên tử Càn-thát-bà Pañcasikha. Do đó, ngay cả Phạm Thiên cũng đã biến hóa thành bản ngã tương tự như vậy rồi hiện ra.
Vissaṭṭhoti sumutto apalibuddho. Viññeyyoti atthaviññāpano. Mañjūti madhuro mudu. Savanīyoti sotabbayuttako kaṇṇasukho. Bindūti ekagghano. Avisārīti suvisado avippakiṇṇo. Gambhīroti nābhimūlato paṭṭhāya gambhīrasamuṭṭhito, na jivhādantaoṭṭhatālumattappahārasamuṭṭhito. Evaṃ samuṭṭhito hi amadhuro ca hoti, na ca dūraṃ sāveti. Ninnādīti mahāmeghamudiṅgasaddo viya ninnādayutto. Apicettha pacchimaṃ pacchimaṃ padaṃ purimassa purimassa atthoyevāti veditabbo.
Không bị lắp bắp: thoát ra bên ngoài tốt đẹp, không bị đứt quãng. Có thể hiểu được: cho hiểu được lợi ích. Dịu dàng: ngọt ngào, nhẹ nhàng. Nghe êm tai: xứng đáng lắng nghe, êm tai. Chắc nịch: một khối rắn chắc. Không bị loãng: rõ ràng, không bị pha trộn. Có âm sắc: khởi lên sâu sắc bắt đầu từ dưới bụng, không tạo ra sự va chạm ở lưỡi, răng, môi hay vòm miệng. Bởi vì như vậy âm thanh được phát ra chừng này không được ngọt ngào và không vang xa. Có âm vang: vang dội tựa như tiếng ầm ầm của cơn mưa lớn và âm thanh của cái trống lớn. Ngoài ra, ở đây những câu sau đó nên biết rằng: làm lợi ích của những câu trước.
Yathāparisanti yattakā parisā, tattakameva viññāpeti. Anto parisāyaṃ yevassa saddo samparivattati, na bahiddhā vidhāvati. Ye hi kecīti ādi bahujanahitāya paṭipannabhāvadassanatthaṃ vadati. Saraṇaṃ gatāti na yathā vā tathā vā saraṇaṃ gate sandhāya vadati. Nibbematikagahitasaraṇe pana sandhāya vadati. Gandhabbakāyaṃ paripūrentīti gandhabbadevagaṇaṃ paripūrenti. Iti amhākaṃ satthu loke uppannakālato paṭṭhāya cha devalokādīsu piṭṭhaṃ koṭṭetvā pūritanāḷi viya saravananaḷavanaṃ viya ca nirantaraṃ jātaparisāti āha.
Phù hợp với hội chúng: hội chúng có chừng nào thì giảng giải (bằng âm giọng) chừng ấy. Âm giọng Phạm Thiên ấy chỉ vang vọng bên trong hội chúng đó và không phát ra bên ngoài hội chúng này. Bởi vậy, những ai v.v, nói để thấy bản thể thực hành vì sự lợi ích cho nhiều người. Đã đi đến nương nhờ: ngài không nói đề cập đến những người đã đi đến nương nhờ theo kiểu có sao làm vậy, mà nói đến chỗ nương nhờ (cao quý) không có sự bị nhầm lẫn. Làm đông thêm tập thể Càn-thát-bà: làm đông thêm tập thể Càn-thát-bà trở nên đầy đủ. Ngài nói rằng ở sáu cõi Trời vốn dĩ kể từ thời điểm bậc Đạo Sư của chúng đã hiện khởi ở thế gian, hội chúng cũng được sanh ra không có sự gián đoạn giống như bột đã được giã và giống như rừng gai, rừng lau sậy.
Giảng giải sự tu tập các nền tảng của thần thông
- 287. Yāva supaññattā cime tena bhagavatāti tena mayhaṃ satthārā bhagavatā yāva supaññattā yāva sukathitā. Iddhipādāti ettha ijjhanaṭṭhena iddhi, patiṭṭhānaṭṭhena pādāti veditabbā. Iddhipahutāyāti iddhipahonakatāya. Iddhivisavitāyāti iddhivipajjanabhāvāya[8], punappunaṃ āsevanavasena ciṇṇavasitāyāti vuttaṃ hoti. Iddhivikubbanatāyāti iddhivikubbanabhāvāya, nānappakārato katvā dassanatthāya. Chandasamādhippadhānasaṅkhārasamannāgatantiādīsu chandahetuko chandādhiko vā samādhi chandasamādhi, kattukamyatāchandaṃ adhipatiṃ karitvā paṭiladdhasamādhissetaṃ adhivacanaṃ. Padhānabhūtā saṅkhārā padhānasaṅkhārā. Catukiccasādhakassa sammappadhānavīriyassetaṃ adhivacanaṃ.
Đã được đức Thế Tôn ấy khéo tuyên bố đến như thế: Đức Thế Tôn là bậc Đạo Sư của chúng ta đã khéo tuyên bố đến như thế, đã khéo thuyết đến như thế. Ở đây, nền tảng của thần thông, nên biết rằng ‘thần thông’ theo ý nghĩa thành tựu, ‘nền tảng’ với ý nghĩa nâng đỡ. Nhằm đưa đến trạng thái hoàn bị về thần thông: để đưa đến trạng thái đầy đủ. Nhằm đưa đến trạng thái thuần thục về thần thông: bởi vì có thần thông đặc biệt, ngài nói rằng có tính chuyên môn bởi khả năng thực hành thường xuyên. Nhằm đưa đến trạng thái điêu luyện về thần thông: Do sự tu tập thường xuyên các thần thông nhằm mục đích thể hiện và thực hành bằng nhiều cách khác nhau. Hội đủ (các yếu tố) định do ước muốn và các tạo tác do nỗ lực v.v, có ý nghĩa như sau: Định có sự ước muốn làm nhân hoặc có ước muốn làm nền tảng gọi là định do ước muốn, đây là tên gọi của định đạt được do đã thực hiện do ước muốn, có sự mong muốn đã làm thành trưởng. Các tạo tác có sự nỗ lực gọi là các tạo tác do nỗ lực. Đây được gọi là chánh cần, chánh tinh tấn làm bốn phận sự được hoàn thành.
Samannāgatanti chandasamādhinā ca padhānasaṅkhārena ca upetaṃ. Iddhipādanti nipphattipariyāyena ijjhanaṭṭhena vā, ijjhanti etāya sattā iddhā vuddhā ukkaṃsagatā hontīti iminā vā pariyāyena iddhīti saṅkhyaṃ gatānaṃ abhiññācittasampayuttānaṃ chandasamādhipadhānasaṅkhārānaṃ adhiṭṭhānaṭṭhena pādabhūto sesacittacetasikarāsīti attho. Vuttañhetaṃ – ‘‘iddhipādoti tathābhūtassa vedanākkhandho, saññākkhandho, saṅkhārakkhandho viññāṇakkhandho’’ti[9]. Iminā nayena sesesupi attho veditabbo. Yatheva hi chandaṃ adhipatiṃ karitvā paṭiladdhasamādhi chandasamādhīti vutto, evaṃ vīriyaṃ, cittaṃ, vīmaṃsaṃ adhipatiṃ karitvā paṭiladdhasamādhi vīmaṃsāsamādhīti vuccati. Apica upacārajjhānaṃ pādo, paṭhamajjhānaṃ iddhi. Saupacāraṃ paṭhamajjhānaṃ pādo, dutiyajjhānaṃ iddhīti evaṃ pubbabhāge pādo, aparabhāge iddhīti evamettha attho veditabbo. Vitthārena iddhipādakathā visuddhimagge ca vibhaṅgaṭṭhakathāya ca vuttā.
Hội đủ: Đã đạt đến (các yếu tố) định do ước muốn và các tạo tác do nỗ lực. Nền tảng của thần thông: Số lượng tâm còn lại hoặc tâm sở là nền tảng theo ý nghĩa cương quyết của định do ước muốn và các tạo tác do nỗ lực tương ưng với tâm thần thông đã đi đến tên gọi là ‘thần thông’ theo phương thức rằng thành tựu, theo ý nghĩa rằng thành tựu hoặc theo phương thức này rằng là nhân đế cho tất cả chúng sanh thành tựu, tức là người đã thành tựu, đã đầy đủ, và đã đạt đến tận cùng. Bởi vì việc này đã được ngài nói rằng: “Chính nền tảng của thần thông là thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn của hạng người có bản thể như thế.” Luôn cả những câu còn lại cũng nên hiểu ý nghĩa theo phương thức này. Bởi vì, định đã làm cho ước muốn thành trưởng nên được gọi là định do mong muốn (và) định do đạt được như thế nào; tương tự như thế ấy định đã làm tâm, tinh tấn, thẩm xét thành trưởng đã đi đến được gọi là định do thẩm xét. Ngoài ra, nên hiểu ý nghĩa ở đây như vầy rằng: nền tảng là cận hành định, thần thông là sơ thiền; nền tảng là sơ thiền cùng với cận hành định, thần thông là nhị thiền; nền tảng là phần đầu, thần thông là phần sau là như vậy. Lời nói về nền tảng của thần thông đã được nói chi tiết trong bộ Thanh Tịnh Đạo và Chú Giải bộ Phân Tích.
Keci pana ‘‘nipphannā iddhi. Anipphanno iddhipādo’’ti vadanti, tesaṃ vādamaddanatthāya abhidhamme uttaracūḷikavāro nāma ābhato[10] – ‘‘cattāro iddhipādā chandiddhipādo, vīriyiddhipādo, cittiddhipādo, vīmaṃsiddhipādo. Tattha katamo chandiddhipādo? Idha bhikkhu yasmiṃ samaye lokuttaraṃ jhānaṃ bhāveti niyyānikaṃ apacayagāmiṃ diṭṭhigatānaṃ pahānāya paṭhamāya bhūmiyā pattiyā vivicceva kāmehi paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja viharati dukkhāpaṭipadaṃ dandhābhiññaṃ. Yo tasmiṃ samaye chando chandikatā kattukamyatā kusalo dhammacchando, ayaṃ vuccati chandiddhipādo, avasesā dhammā chandiddhipādasampayuttā’’ti[11]. Ime pana lokuttaravaseneva āgatā. Tattha raṭṭhapālatthero chandaṃ dhuraṃ katvā lokuttaraṃ dhammaṃ nibbattesi. Soṇatthero vīriyaṃ dhuraṃ katvā, sambhūtatthero cittaṃ dhuraṃ katvā, āyasmā mogharājā vīmaṃsaṃ dhuraṃ katvāti.
Tuy nhiên một số vị lại nói rằng: “Thần thông đã được hoàn thành, nền tảng của thần thông vẫn chưa hoàn thành,” vì lợi ích của việc nói về học thuyết của các vị ấy gọi là Uttaracūḷikavāra, đã đến trong Abhidhamma rằng – “Bốn nền tảng của thần thông: nền tảng của thần thông là ước muốn, nền tảng của thần thông là tinh tấn, nền tảng của thần thông là tâm, nền tảng của thần thông là thẩm xét. Trong bốn nền tảng của thần thông ấy, nền tảng của thần thông là ước muốn (có ý nghĩa) thế nào? “Ở đây, vị tỳ khưu, vào lúc nào tu tiến thiền siêu thế, có sự dẫn dắt ra khỏi, đưa đến sự không tích lũy, dứt bỏ các khuynh hướng tà kiến, chứng đạt đệ nhất địa vức, tách ly khỏi các dục, đạt đến và an trú vào sơ thiền, hành nan đắc trì; vào lúc ấy sự ao ước về chánh pháp gọi là ước muốn bởi vì đã tác thành ước muốn, gọi là thiện bởi vì mong mỏi được thực hiện, đây gọi là nền tảng của thần thông là ước muốn, những pháp còn lại tương ưng với nền tảng của thần thông.” Hơn nữa, những pháp này đã đến do tác động của Pháp Siêu Thế. Trong trường hợp này, trưởng lão Raṭṭhapāla đã làm ước muốn trở thành nhiệm vụ khiến Pháp Siêu Thế được sanh khởi. Trưởng lão Soṇa đã làm tinh tấn trở thành nhiệm vụ, trưởng lão Sambhūta đã làm tâm trở thành nhiệm vụ, ngài Mogharāja vị (có phương pháp) làm sự thẩm xét trở thành nhiệm vụ khiến Pháp Siêu Thế được sanh khởi.
Tattha yathā catūsu amaccaputtesu ṭhānantaraṃ patthetvā rājānaṃ upanissāya viharantesu eko upaṭṭhāne chandajāto rañño ajjhāsayañca ruciñca ñatvā divā ca ratto ca upaṭṭhahanto rājānaṃ ārādhetvā ṭhānantaraṃ pāpuṇi. Yathā so, evaṃ chandadhurena lokuttaradhammanibbattako veditabbo.
Trong câu đó, khi cả bốn người con trai của viên quan đại thần mong muốn địa vị đi đến nương nhờ nơi đức vua, một vị có ước muốn được khởi lên trong việc phục vụ biết được ý định và sự hài lòng của vua, chờ phục vụ cả ngày lẫn đêm đã làm cho đức vua hài lòng, (vì thế) đã nhận được địa vị (mong muốn) như thế nào. Cũng tương tự như vậy, nên biết rằng một vị tỳ kheo làm cho Pháp Siêu Thế sanh khởi bởi nhiệm vụ do ước muốn.
Eko pana – ‘‘divase divase upaṭṭhātuṃ ko sakkoti, uppanne kicce parakkamena ārādhessāmī’’ti kupite paccante raññā pahito parakkamena sattumaddanaṃ katvā ṭhānantaraṃ pāpuṇi. Yathā so, evaṃ vīriyadhurena lokuttaradhammanibbattako veditabbo.
Còn một người khác nghĩ rằng – “Ai có thể phục vụ được mỗi ngày, khi có việc xảy ra, ta sẽ làm vua hài lòng bằng sự cố gắng.” Khi ở biên địa bị nổi loạn và bị đức vua phái đi để trấn áp với kẻ thù với sự nỗ lực, người này cũng đã nhận được địa vị. Tương tự như vậy, nên biết rằng một vị tỳ kheo làm cho Pháp Siêu Thế sanh khởi bởi nhiệm vụ do tinh tấn.
Eko – ‘‘divase divase upaṭṭhānampi urena sattisarapaṭicchannampi bhāroyeva, mantabalena[12] ārādhessāmī’’ti khattavijjāya[13] kataparicayattā mantasaṃvidhānena rājānaṃ ārādhetvā ṭhānantaraṃ pāpuṇāti. Yathā so, evaṃ cittadhurena lokuttaradhammanibbattako veditabbo.
Người khác còn lại cũng nghĩ rằng – “Kể cả phục vụ mỗi ngày là một gánh nặng giống như mũi tên sắc nhọn đâm vào ngực, ta sẽ làm cho đức vua hài lòng nhờ sức mạnh của bùa chú” vì thế đã làm cho đức vua hài lòng với sự dàn xếp bùa chú, nhờ vào khoa chính trị đã được huấn luyện, đã đạt được địa vị như thế nào. Tương tự như thế ấy, nên biết rằng vị tỳ khưu làm cho Pháp Siêu Thế sanh khởi bởi nhiệm vụ do tâm.
Aparo – ‘‘kiṃ imehi upaṭṭhānādīhi, rājāno nāma jātisampannassa ṭhānantaraṃ denti, tādisassa dento mayhaṃ dassatī’’ti jātisampattimeva nissāya ṭhānantaraṃ pāpuṇi, yathā so, evaṃ suparisuddhaṃ vīmaṃsaṃ nissāya vīmaṃsadhurena lokuttaradhammanibbattako veditabbo. Anekavihitanti anekavidhaṃ. Iddhividhanti iddhikoṭṭhāsaṃ.
Người con trai còn lại nghĩ rằng – “Đức vua sẽ ban tước vị đối cho những người thành tựu về xuất xứ (sanh chủng) với những việc phục vụ này, khi đức vua ban tước vị đến những người như thế, cũng sẽ ban cho ta,” chỉ nương vào thành tựu về sanh chủng cũng đạt được địa vị như thế nào, cũng tương tự như thế, nên biết rằng vị tỳ khưu nương vào sự thẩm xét vô cùng trong sạch làm cho Pháp Siêu Thế sanh khởi bởi nhiệm vụ do thẩm xét. Nhiều loại: nhiều loại. Thần thông: phần của thần thông.
Giảng giải về sự đạt đến cơ hội
- 288. Sukhassādhigamāyāti jhānasukhassa maggasukhassa phalasukhassa ca adhigamāya. Saṃsaṭṭhoti sampayuttacitto. Ariyadhammanti ariyena bhagavatā buddhena desitaṃ dhammaṃ. Suṇātīti satthu sammukhā bhikkhubhikkhunīādīhi vā desiyamānaṃ suṇāti. Yoniso manasikarotīti upāyato pathato kāraṇato ‘anicca’ntiādivasena manasi karoti. ‘‘Yoniso manasikāro nāma upāyamanasikāro pathamanasikāro, anicce aniccanti dukkhe dukkhanti anattani anattāti asubhe asubhanti saccānulomikena vā cittassa āvaṭṭanā anvāvaṭṭanā ābhogo samannāhāro manasikāro, ayaṃ vuccati yonisomanasikāro’’ti. Evaṃ vutte yonisomanasikāre[14] kammaṃ ārabhatīti attho. Asaṃsaṭṭhoti vatthukāmehipi kilesakāmehipi asaṃsaṭṭho viharati. Uppajjati sukhanti uppajjati paṭhamajjhānasukhaṃ. Sukhā bhiyyo somanassanti samāpattito vuṭṭhitassa jhānasukhapaccayā aparāparaṃ somanassaṃ uppajjati. Pamudāti tuṭṭhākārato dubbalapīti. Pāmojjanti balavataraṃ pītisomanassaṃ. Paṭhamo okāsādhigamoti paṭhamajjhānaṃ pañcanīvaraṇāni vikkhambhetvā attano okāsaṃ gahetvā tiṭṭhati, tasmā ‘‘paṭhamo okāsādhigamo’’ti vuttaṃ.
- Đưa đến việc chứng đắc sự an lạc: Đưa đến việc chứng đắc sự an lạc của thiền, sự an lạc của Đạo, và sự an lạc của Quả. Gắn bó: Tương ưng với tâm. Pháp của bậc Thánh: Pháp được bậc Thánh đức Thế Tôn là đức Phật đã thuyết giảng. Nghe: Nghe pháp mà các tỳ khưu và tỳ khưu ni, v.v, thuyết giảng ở trước mặt của bậc Đạo Sư. Tác ý đúng đường lối: tác ý đúng cách, đúng đường, có lý do bởi mãnh lực ‘vô thường’ v.v. Giải thích: Vị tỳ khưu ra sức hành động với tác ý đúng đường lối được ngài nói như vầy – “Tác ý khéo đúng đường lối gọi là tác ý đúng cách, tác ý đúng đường, hoặc sự tưởng nhớ, sự trói buộc, sự gom tụ lại, tác ý bởi sự phù hợp với Chân Lý rằng: vô thường là vô thường, đau khổ là đau khổ, vô ngã là vô ngã, bất tịnh là bất tịnh, đây được gọi là tác ý đúng đường lối.” Không gắn bó: Sống không dính líu đến các vật dục và phiền não dục. An lạc sanh khởi đến (vị ấy): Sự an lạc của Sơ thiền sanh khởi. Hỷ còn nhiều hơn sự an lạc: Hỷ khác do sự an lạc của thiền làm duyên sanh khởi cho vị xuất khỏi thiền chúng. Sự vui mừng: phỉ lạc có năng lực yếu hơn trạng thái hỷ. Sự đạt đến cơ hội thứ nhất: Sơ thiền sau khi chế ngự năm pháp ngăn che đã nắm lấy cơ hội của mình rồi vững trú, vì thế ngài mới nói rằng: “Sự đạt đến cơ hội thứ nhất.”
Oḷārikāti ettha kāyavacīsaṅkhārā tāva oḷārikā hontu, cittasaṅkhārā kathaṃ oḷārikāti? Appahīnattā. Kāyasaṅkhārā hi catutthajjhānena pahīyanti, vacīsaṅkhārā dutiyajjhānena, cittasaṅkhārā nirodhasamāpattiyā. Iti kāyavacīsaṅkhāresu pahīnesupi te tiṭṭhantiyevāti pahīne upādāya appahīnattā oḷārikā nāma jātā. Sukhanti nirodhā vuṭṭhahantassa uppannaṃ catutthajjhānikaphalasamāpattisukhaṃ. Sukhā bhiyyo somanassati phalasamāpattito vuṭṭhitassa aparāparaṃ somanassaṃ. Dutiyo okāsādhigamoti catutthajjhānaṃ sukhaṃ dukkhaṃ vikkhambhetvā attano okāsaṃ gahetvā tiṭṭhati, tasmā ‘‘dutiyo okāsādhigamo’’ti vuttaṃ. Dutiyatatiyajjhānāni panettha catutthe gahite gahitāneva hontīti visuṃ na vuttānīti.
Thô tháo: ở đây, thân hành và khẩu hành vẫn thô tháo, (nhưng) ý hành thô tháo như thế nào? Bởi ý hành vẫn chưa dứt bỏ. Bởi vì thân hành được dứt bỏ bằng Tứ thiền. Khẩu hành được dứt bỏ bằng Tam thiền. Ý hành được dứt bỏ bằng thiền Diệt. Khi thân hành và khẩu hành dầu đã được dứt bỏ thì các ý hành vẫn vững trú với lý do này cho nên ‘ý hành là thô tháo’ vì vẫn chưa được dứt bỏ bởi dựa vào thân hành và khẩu hành đã được dứt bỏ. An lạc: sự an lạc của thiền diệt sanh khởi từ Tứ thiền được khởi lên cho người xuất khỏi thiền diệt. Hỷ còn nhiều hơn sự an lạc: Hỷ khác cho người đã xuất khỏi sự thể nhập thánh quả. Sự đạt đến cơ hội thứ hai: Tứ thiền sau khi chế ngự an lạc và khổ đau, đã nắm lấy cơ hội của mình rồi vững trú, vì thế ngài mới nói rằng: “Sự đạt đến cơ hội thứ nhì.” Hơn nữa, ở đây Nhị thiền và Tam thiền đã được bao gồm trong Tứ thiền do đó ngài mới không nói tách riêng.
Idaṃ kusalantiādīsu kusalaṃ nāma dasakusalakammapathā. Akusalanti dasaakusalakammapathā. Sāvajjadukādayopi etesaṃ vaseneva veditabbā. Sabbañceva panetaṃ kaṇhañca sukkañca sappaṭibhāgañcāti kaṇhasukkasappaṭibhāgaṃ. Nibbānameva hetaṃ appaṭibhāgaṃ. Avijjā pahīyatīti vaṭṭapaṭicchādikā avijjā pahīyati. Vijjā uppajjatīti arahattamaggavijjā uppajjati. Sukhanti arahattamaggasukhañceva phalasukhañca. Sukhā bhiyyo somanassanti phalasamāpattito vuṭṭhitassa aparāparaṃ somanassaṃ. Tatiyo okāsādhigamoti arahattamaggo sabbakilese vikkhambhetvā attano okāsaṃ gahetvā tiṭṭhati, tasmā ‘‘tatiyo okāsādhigamo’’ti vutto. Sesamaggā pana tasmiṃ gahite antogadhā evāti visuṃ na vuttā.
Cái này là thiện, v.v, mười đường lối của nghiệp thiện được gọi là thiện. Bất thiện v.v bao gồm mười đường lối của bất thiện nghiệp. Luôn cả lỗi lầm và khổ đau cũng nên hiểu về phương diện đó. Hơn nữa những pháp này là đen, trắng và sự tương phản mới gọi là có sự tương phản giữa đen và trắng. Thật vậy, Chỉ có Niết Bàn là không có sự tương phản. Vô minh được dứt bỏ: Vô minh che đậy luân hồi được đứt bỏ. Minh sanh khởi: Minh là Thánh Đạo A-ra-hán sanh khởi. An lạc: sự an lạc được sanh khởi từ Đạo và Quả A-la-hán. Hỷ còn nhiều hơn sự an lạc: Hỷ khác của vị đã xuất khỏi sự thể nhập thánh Quả. Sự đạt đến cơ hội thứ ba: Đạo A-ra-hán sau khi chế ngự tất cả phiền não đã nắm lấy cơ hội của nó rồi vững trú, vì vậy, ngài mới nói rằng: “Sự đạt đến cơ hội thứ ba”. Hơn nữa, các Đạo còn lại khi Đạo A-ra-hán đã nắm lấy cũng đều được gắn bó ở nội tâm nên mới không nói tách riêng.
Ime pana tayo okāsādhigamā aṭṭhatiṃsārammaṇavasena vitthāretvā kathetabbā. Kathaṃ? Sabbāni ārammaṇāni visuddhimagge vuttanayeneva upacāravasena ca appanāvasena ca vavatthapetvā catuvīsatiyā ṭhānesu paṭhamajjhānaṃ ‘‘paṭhamo okāsādhigamo’’ti kathetabbaṃ. Terasasu ṭhānesu dutiyatatiyajjhānāni, pannarasasu ṭhānesu catutthajjhānañca nirodhasamāpattiṃ pāpetvā ‘‘dutiyo okāsādhigamo’’ti kathetabbaṃ. Dasa upacārajjhānāni pana maggassa padaṭṭhānabhūtāni tatiyaṃ okāsādhigamaṃ bhajanti. Apica tīsu sikkhāsu adhisīlasikkhā paṭhamaṃ okāsādhigamaṃ bhajati, adhicittasikkhā dutiyaṃ, adhipaññāsikkhā tatiyanti evaṃ sikkhāvasenapi kathetabbaṃ. Sāmaññaphalepi cūḷasīlato yāva paṭhamajjhānā paṭhamo okāsādhigamo , dutiyajjhānato yāva nevasaññānāsaññāyatanā dutiyo , vipassanāto yāva arahattā tatiyo okāsādhigamoti evaṃ sāmaññaphalasuttantavasenapi kathetabbaṃ. Tīsu pana piṭakesu vinayapiṭakaṃ paṭhamaṃ okāsādhigamaṃ bhajati, suttantapiṭakaṃ dutiyaṃ, abhidhammapiṭakaṃ tatiyanti evaṃ piṭakavasenapi kathetabbaṃ.
Thêm nữa, sự đạt đến cơ hội thứ ba này nên nói một cách chi tiết bởi mãnh lực cả ba mươi tám đối tượng. Thế nào? Ngài xác định tất cả đối tượng bởi mãnh lực cận định và an chỉ định theo phương cách đã được nói ở bộ Thanh Tịnh Đạo, nói đến Sơ thiền trong hai mươi bốn vị trí “sự đạt đến cơ hội thứ nhất”. Ngài nói đến Nhị thiền và Tam thiền trong mười ba vị trí, và Tứ thiền trong mười lăm vị trí cho đến sự thể nhập thiền Diệt rằng: “sự đạt đến cơ hội thứ hai”. Còn mười cận hành định là nhân cận của Đạo chung bọn với ‘sự đạt đến cơ hội thứ ba’. Và hơn nữa, có thể nói ngay cả về phương của ba học giới như vầy: trong ba học giới thì tăng thượng giới học chung bọn với ‘sự đạt đến cơ hội thứ nhất’, tăng thượng tâm học chung bọn với ‘sự đạt đến cơ hội thứ hai’, tăng thượng tuệ học chung bọn với ‘sự đạt đến cơ hội thứ ba’. Luôn cả quả báo của Sa-môn ngài cũng đã nói theo tác động của bài Kinh Samamaññaphala như vầy rằng: “Bắt đầu từ tiểu giới cho đến Sơ thiền là sự đạt đến cơ hội thứ nhất, từ Nhị thiền cho đến Phi tưởng Phi phi tưởng xứ là sự đạt đến cơ hội thứ hai, từ Minh sát cho đến quả vị A-ra-hán là sự đạt đến cơ hội thứ ba.” Thêm nữa, Tam Tạng có thể nói theo phương diện Piṭaka như vầy rằng: Tạng Luật được thêm vào với sự đạt đến cơ hội thứ nhất, Tạng Kinh được thêm vào với sự đạt đến cơ hội thứ hai, Tạng Abhidhamma được thêm vào với sự đạt đến cơ hội thứ ba.
Pubbe kira mahātherā vassūpanāyikāya imameva suttaṃ paṭṭhapenti. Kiṃ kāraṇā? Tīṇi piṭakāni vibhajitvā kathetuṃ labhissāmāti. Tepiṭakena hi samodhānetvā kathentassa dukkathitanti na sakkā vattuṃ. Tepiṭakaṃ bhajāpetvā[15] kathitameva idaṃ suttaṃ sukathitaṃ hotīti.
Được biết rằng đại trưởng lão vào thời quá khứ đặt bài kinh này vào ngày an cư mùa mưa. Vì lý do gì? Vì chúng ta sẽ phân chia thành ba Tạng để thuyết giảng. Bởi vì khi gom chung ba Tạng để nói thì Tạng Kinh cũng khó thuyết, nên bất kỳ ai cũng không thể thuyết được. Kinh này được phân loại thành ba Tạng để thuyết cũng (sẽ) dễ dàng giải thích.
Giảng về bốn nền tảng thiết lập niệm
- 289. Kusalassādhigamāyāti maggakusalassa ceva phalakusalassa ca adhigamatthāya. Ubhayampi hetaṃ anavajjaṭṭhena khemaṭṭhena vā kusalameva. Tattha sammāsamādhiyatīti tasmiṃ ajjhattakāye samāhito ekaggacitto hoti. Bahiddhā parakāye ñāṇadassanaṃ abhinibbattetīti attano kāyato parassa kāyābhimukhaṃ ñāṇaṃ peseti. Esa nayo sabbattha. Sabbattheva ca satimāti padena kāyādipariggāhikā sati, lokoti padena pariggahitakāyādayova loko. Cattāro cete satipaṭṭhānā lokiyalokuttaramissakā kathitāti veditabbā.
- Đưa đến việc chứng đắc các thiện: Vì lợi ích chứng đắc thiện Đạo và thiện Quả. Thật vậy cả hai điều này gọi là thiện với ý nghĩa không lỗi lầm, hoặc với ý nghĩa an toàn. Tại đó được định tĩnh trọn vẹn: vị tỳ khưu được định tĩnh ở thân thuộc nội phần đó cũng là có tâm chuyên nhất. Vị ấy làm sanh khởi sự biết và sự thấy ở thân của người khác thuộc ngoại phần: đưa sự biết hướng đến thân của người khác từ thân của chính mình. Các đoạn kế tiếp cũng này áp dụng cách thức này. Nên biết sự ghi nhớ được xác định ở thân, v.v, bằng từ ‘có niệm’ trong các câu, nên biết thân, v.v, đã được xác định bằng từ ‘thế gian’. Bốn sự thiết lập niệm ấy nên biết rằng ngài đã thuyết không bị lẫn lộn giữa Hiệp Thế và Siêu Thế.
Giảng về các pháp thiết yếu của định
- 290. Samādhiparikkhārāti ettha tayo parikkhārā. ‘‘Ratho sīlaparikkhāro jhānakkho cakkavīriyo’’ti[16] hi ettha alaṅkāro parikkhāro nāma. ‘‘Sattahi nagaraparikkhārehi suparikkhataṃ hotī’’ti[17] ettha parivāro parikkhāro nāma. ‘‘Gilānapaccayajīvitaparikkhāro’’ti[18] ettha sambhāro parikkhāro nāma. Idha pana parivāraparikkhāravasena ‘‘satta samādhiparikkhārā’’ti vuttaṃ. Parikkhatāti parivāritā. Ayaṃ vuccati so ariyo sammāsamādhīti ayaṃ sattahi ratanehi parivuto cakkavattī viya sattahi aṅgehi parivuto ‘‘ariyo sammāsamādhī’’ti vuccati. Saupaniso itipīti saupanissayo itipi vuccati, saparivāro yevāti vuttaṃ hoti. Sammādiṭṭhissāti sammādiṭṭhiyaṃ ṭhitassa. Sammāsaṅkappo pahotīti sammāsaṅkappo pavattati. Esa nayo sabbapadesu. Ayaṃ panattho maggavasenāpi phalavasenāpi veditabbo. Kathaṃ? Maggasammādiṭṭhiyaṃ ṭhitassa maggasammāsaṅkappo pahoti…pe… maggañāṇe ṭhitassa maggavimutti pahoti. Tathā phalasammādiṭṭhiyaṃ ṭhitassa phalasammāsaṅkappo pahoti…pe… phalasammāñāṇe ṭhitassa phalavimutti pahotīti.
- Ở đây, ‘vật cần thiết – parikkhāra’ trong cụm từ ‘các pháp thiết yếu của định’ có ba. Thật vậy, “giới như đồ trang trí cỗ xe, có thiền là trục xe, có sự tinh tấn là bánh xe,” ở đây ‘parikkhāra’ là đồ trang sức. “Được khéo bao quanh với bảy trang thiết bị của một thành trì,” ở đây ‘parikkhāra’ gọi là trang thiết bị. “Vật dụng cần thiết dành cho người bệnh,” ở đây ‘parikkhāra’ là các vật liệu. Hơn nữa, trường hợp này ngài nói rằng: “Bảy pháp thiết yếu” về phương diện vật dụng cần thiết và những trang thiết bị. Trang thiết bị gọi là vật dụng cần thiết. Điều này được gọi là chánh định của bậc Thánh: đây gọi là chánh định của bậc Thánh được bao bọc với bảy yếu tố giống như Vua Chuyển Luân được vây quanh với bảy loại châu báu. Có sự hỗ trợ như thế: được nói rằng có sự hỗ trợ như thế nào, giải thích rằng có các pháp thiết yếu như thế. Người có chánh kiến: vị đã vững trú trong chánh kiến. Chánh tư duy được hình thành: Chánh tư duy được vận hành. Cách thức này áp dụng cho các đoạn kế tiếp. Hơn nữa, ý nghĩa này nên biết theo mãnh lực của Đạo, hay theo mãnh lực của Quả. Như thế nào? Đạo chánh tư duy được hình thành cho vị tỳ khưu đã vững trú trong đạo chánh kiến …nt… và đạo giải thoát được hình thành cho vị tỳ khưu đã vững trú trong trí về đạo. Thêm nữa, quả chánh tri kiến được hình thành cho vị tỳ khưu đã vững trú trong quả chánh tri kiến …nt… quả giải thoát được hình thành cho vị tỳ khưu đã vững trú trong quả chánh trí.
Svākkhātotiādīni visuddhimagge vaṇṇitāni. Apārutāti vivaṭā. Amatassāti nibbānassa. Dvārāti pavesanamaggā. Aveccappasādenāti acalappasādena. Dhammavinītāti sammāniyyānena niyyātā[19].
Đã khéo được thuyết giảng v.v, ngài đã giải thích trong bộ Thanh Tịnh Đạo. Đã được mở ra: đã mở ra. Bất tử: Niết Bàn. Cánh cửa: đạo lộ để bước vào. Niềm tịnh tín bất động: niềm tin không lay động. Đã được huấn luyện bởi Giáo Pháp: đã chắc chắn bởi định luật về pháp.
Atthāyaṃ itarā pajāti anāgāmino sandhāyāha, anāgāmino ca atthīti vuttaṃ hoti. Puññabhāgāti puññakoṭṭhāsena nibbattā. Ottappanti ottappamāno[20]. Tena kadāci nāma musā assāti musāvādabhayena saṅkhātuṃ na sakkomi, na pana mama saṅkhātuṃ balaṃ natthīti dīpeti.
Còn đây là hạng người khác nữah: ngài nói liên quan đến các vị Bất Lai, và có các vị Bất Lai ngài đã nói rồi. Những người có phước phần: đã được sanh lên do phước phần. E sợ: có tâm ghê sợ. Do đó, lời nói sai trái có thể có vào thời điểm nào, cho nên tôi cũng thể tính đếm bởi sợ hãi nói lời nói sai trái, nhưng không có nghĩa là không có sự tính đếm của tôi.
- 291. Taṃ kiṃ maññati bhavanti iminā kevalaṃ vessavaṇaṃ pucchati, na panassa evarūpo satthā nāhosīti vā na bhavissatīti vā laddhi atthi. Sabbabuddhānañhi abhisamaye viseso natthi.
- Phạm Thiên Sanaṃkumāra chỉ hỏi mình Đại Vương Vessavaṇa rằng “Ngài nghĩ ý nghĩa ấy như thế nào?” Tuy nhiên Phạm Thiên Sanaṃkumāra ấy không có lòng tin rằng: Bậc Đạo Sư có hình thức như thế, hoặc sẽ không có. Thật vậy, sự lãnh hội của tất cả các vị Phật không có sự khác biệt.
- 292. Sayaṃparisāyanti attano parisāyaṃ. Tayidaṃ brahmacariyanti taṃ idaṃ sakalaṃ sikkhattayabrahmacariyaṃ. Sesaṃ uttānameva. Imāni pana padāni dhammasaṅgāhakattherehi ṭhapitānīti.
- Hội chúng của mình: trong hội chúng của mình. Phạm hạnh này là: toàn bộ ba điều học này đây là Phạm hạnh. Các câu còn lại đều đơn giản. Hơn nữa, những câu này đã được thiết lập bởi các vị trưởng lão Dhammasaṅgāhaka.
Giải thích Kinh Về Dạ-xoa Janavasabha được kết thúc – Kinh thứ năm (18)
Trong Chú Giải Trường Bộ Kinh là Sumaṅgalavilāsī.
[1] Upasantapatissoti (Syā)
[2] Purimacatuddasa-attabhāvasaṅkhātaṁ (?)
[3] AvinipÈtadhammaṅ (Syā)
[4] TassaÑ parisāyaṁ (Syā)
[5] Āsāḷhapuṇṇamāyaṁ (Syā)
[6] Adhipakkantāti (Ka)
[7] Sampattiyā (Syā)
[8] Iddhivisevitāyāti iddhivisesabhāvāya (Syā)
[9] vibha. 434
[10] Āgato (Syā, Ka)
[11] vibha. 458
[12] Mantavasena (Syā)
[13] Khettavijjāya (Syā, Ka)
[14] Vuttayonisomanasikārena (Syā)
[15] Vibhajitvā (Syā)
[16] saṃ. ni. 5.4
[17] a. ni. 7.67
[18] dī. ni. 3.182
[19] Dhamme vinītāti dhammaniyāmena niyatā (Syā)
[20] Ottapanti ottapamāno (Sī)