Giải Thích Kinh Quả Báo Hạnh Sa Môn (Sa môn quả) – 01

(Sāmaññaphalasuttavaṇṇanā)

Giải Thích Lời Nói Của Các Viên Quan Đại Thần

150. Evaṃ me sutaṃ … pe … rājagaheti sāmaññaphalasuttaṃ. Tatrāyaṃ apubbapadavaṇṇanā[1]Rājagaheti evaṃnāmake nagare. Tañhi mandhātumahāgovindādīhi pariggahitattā rājagahanti vuccati. Aññepi ettha pakāre vaṇṇayanti, kiṃ tehi? nāmamattametaṃ tassa nagarassa. Taṃ panetaṃ buddhakāle ca cakkavattikāle ca nagaraṃ hoti, sesakāle suññaṃ hoti yakkhapariggahitaṃ, tesaṃ vasanavanaṃ[2] hutvā tiṭṭhati. Viharatīti avisesena iriyāpathadibbabrahmāriyavihāresu aññataravihārasamaṅgiparidīpanametaṃ. Idha pana ṭhānagamananisajjasayanappabhedesu iriyāpathesu aññatarairiyāpathasamāyogaparidīpanaṃ. Tena ṭhitopi gacchantopi nisinnopi sayānopi bhagavā viharati ceva veditabbo. So hi ekaṃ iriyāpathabādhanaṃ aññena iriyāpathena vicchinditvā aparipatantaṃ[3] attabhāvaṃ harati pavatteti, tasmā viharatīti vuccati.

150. Bài Kinh Quả Báo Hạnh Sa Môn được bắt đầu rằng: “Tôi đã nghe như vậy …nt… tại Rājagaha”. Trong Pāḷī ấy được giải giảng theo tuần tự như sau – Trong thành Rājagaha: ở kinh thành có tên như thế. Thật vậy, kinh thành ấy được gọi là thành Rājagaha bởi vì đức vua Mandhātu và ngài Mahāgovinda chiếm cứ. Ở trong từ Rājagaha này có những học giả khác giải thích rất nhiều, có được lợi ích gì với những lời ấy? Bởi vì lời này chỉ là tên gọi của kinh thành ấy. Kinh thành Rājagaha này là thành phố cả trong thời kỳ đức Phật và cả vào thời kỳ vua Chuyển Luân, còn ở những thời kỳ khác là thành phố bỏ hoang chúng Dạ-xoa chiếm hữu, là khu rừng nơi cư ngụ của chúng Dạ-xoa ấy. Cư trú này thông thường là từ để làm sáng tỏ sự đầy đủ với một trong những ‘sự an trú’ nào đó trong sự an trú thuộc các oai nghi [iriyāpatha-vihāra], Thiên trú [dibba-vihāra], Phạm trú [brahma-vihāra], và Thánh trú [ariya-vihāra]. Tuy nhiên, ở trong trường hợp này làm sáng tỏ đến việc đứng, việc đi, việc ngồi và việc nằm chỉ là sự thay đổi giữa các oai nghi. Do đó, đức Thế Tôn dù đang đứng, hay đang đi, hay đang ngồi, thậm chí đang nằm chăng nữa cũng nên biết rằng (tất cả) đều là ‘an trú’. Bởi vì ngài đã làm ngươi đi sự khó nhọc của oai nghi này bằng một oai nghi khác, rèn luyện tình trạng sức khỏe không gây khó nhọc cho cơ thể, vì thế được gọi là ‘an trú’.

Jīvakassa Komārabhaccassa ambavaneti idamassa yaṃ gocaragāmaṃ upanissāya viharati, tassa samīpanivāsanaṭṭhānaparidīpanaṃ[4]. tasmā — rājagahe viharati jīvakassa komārabhaccassa ambavaneti rājagahasamīpe jīvakassa komārabhaccassa ambavane viharatīti evamettha attho veditabbo. Samīpatthe hetaṃ bhummavacanaṃ. Tattha jīvatīti jīvako, kumārena bhatoti komārabhacco. Yathāha — “Kiṃ bhaṇe, etaṃ kākehi samparikiṇṇanti? Dārako devāti. Jīvati bhaṇeti? Jīvati, devāti. Tena hi, bhaṇe taṃ dārakaṃ amhākaṃ antepuraṃ netvā dhātīnaṃ detha posetunti[5]. Tassa jīvatīti jīvakoti nāmaṃ akaṃsu. Kumārena posāpitoti komārabhaccoti nāmaṃ akaṃsū”ti[6]. Ayaṃ panettha saṅkhepo. Vitthārena pana jīvakavatthukhandhake āgatameva. Vinicchayakathāpissa samantapāsādikāya[7] vinayaṭṭhakathāyaṃ vuttā.

Nơi vườn xoài của Jīvaka Komārabhacca: Đây là từ mô tả nơi cư trú ở gần thành Rājagaha đó, có thể dựa vào để đi khất thực. Vì thế, trong câu này nên hiểu ý nghĩa như vầy – ‘Trú tại vườn xoài của Jīvaka Komārabhacca gần thành Rājagaha’ nghĩa là an trú tại vườn xoài của Jīvaka Komārabhacca gần thành Rājagaha. Bởi vì đây là Vị Trí Cách được sử dụng với ý nghĩa ‘gần’. Ở đây, gọi là ‘Jīvaka’ bởi ý nghĩa ‘vẫn còn sống’, được gọi là ‘komārabhacca’ với ý nghĩa được nuôi dưỡng bởi vị vương tử. Như đã nói – “​​Này hiền khanh, vật gì bị bầy quạ bu quanh vậy? – Thưa ngài, một đứa bé trai. – Này các khanh, đứa bé ấy còn sống không? – Thưa ngài, vẫn còn sống. – Này các khanh, như thế hãy mang đứa bé trai ấy về hậu cung của chúng ta và giao cho các nhũ mẫu chăm sóc.” Mọi người đặt tên cho đứa bé ấy là ‘Jīvaka’ vì ‘vẫn còn sống’, và do ‘được nuôi dưỡng bởi vị vương tử’ nên đã được đặt tên là “Komārabhacca.” Hơn nữa, đây chỉ ý nghĩa tóm lược của câu chuyện, còn phần chi tiết của câu chuyện Jīvaka đã được trình bày trong Khandhaka, luôn cả phần lý giải câu chuyện về Jīvaka cũng được nói trong Chú giải Tạng Luật Samantapāsādikā.

Ayaṃ pana jīvako ekasmiṃ samaye bhagavato dosābhisannaṃ kāyaṃ virecetvā siveyyakaṃ dussayugaṃ datvā vatthānumodanāpariyosāne sotāpattiphale patiṭṭhāya cintesi — “mayā divasassa dvattikkhattuṃ buddhupaṭṭhānaṃ gantabbaṃ, idañca veḷuvanaṃ[8] atidūre, mayhaṃ pana ambavanaṃ uyyānaṃ āsannataraṃ, yaṃnūnāhaṃ ettha bhagavato vihāraṃ kāreyyan”ti. So tasmiṃ ambavane rattiṭṭhānadivāṭhānaleṇakuṭimaṇḍapādīni sampādetvā bhagavato anucchavikaṃ gandhakuṭiṃ kārāpetvā ambavanaṃ aṭṭhārasahatthubbedhena tambapaṭṭavaṇṇena pākārena parikkhipāpetvā buddhappamukhaṃ bhikkhusaṅghaṃ[9] sacīvarabhattena santappetvā dakkhiṇodakaṃ pātetvā vihāraṃ niyyātesi[10]. Taṃ sandhāya vuttaṃ — “Jīvakassa komārabhaccassa ambavane”ti.

Vào lúc bấy giờ cơ thể của đức Thế Tôn bị tiết ra dịch chất dơ, và lương y Jīvaka Komārabhacca này đã cúng dường thuốc xổ nhẹ, (vị ấy) đã cúng dường xấp vải đôi sản xuất tại xứ Sīvī, đức Thế Tôn đã ban lời tùy hỷ, vào lúc tùy hỷ việc cúng dường đôi vải kết thúc, Jīvaka đã vững trú vào Thánh Quả Tu-đà-hoàn rồi khởi lên suy nghĩ – “Ta cần phải đi đến chăm sóc đức Phật mỗi ngày 2-3 lần nhưng tịnh xá Veluvana này ở quá xa, còn vườn xoài của ta thì vẫn gần hơn, vậy thì ta sẽ kiến tạo tịnh xá để cúng dường đến đức Thế Tôn ở trong vườn xoài của ta.” Như thế vị ấy đã cho kiến tạo thạch động, liêu cốc và mái che để làm chỗ nghỉ vào ban đêm và chỗ nghỉ ban ngày, xây dựng Gandhakuṭi phù hợp cho đức Thế Tôn trong vườn xoài ấy, đã cho xây bức tường có màu tựa như màu tấm vải đỏ cao 18 hắc tay bao quanh vườn xoài, sau khi làm hài lòng hội chúng tỳ khưu có đức Phật là vị đứng đầu với y phục và vật thực, (vị ấy) đã rải nước cúng dường và dâng vườn xoài làm tịnh xá. Ngài muốn đề cập đến vườn xoài đó nên mới nói rằng – “vườn xoài của Jīvaka Komārabhacca”.

Aḍḍhateḷasehi bhikkhusatehīti aḍḍhasatena ūnehi terasahi bhikkhusatehi. Rājātiādīsu rājati attano issariyasampattiyā catūhi saṅgahavatthūhi mahājanaṃ rañjeti vaḍḍhetīti rājā. Magadhānaṃ issaroti māgadho. Ajātoyeva rañño sattu bhavissatīti nemittakehi niddiṭṭhoti Ajātasattu.

Với đại chúng tỳ khưu (số lượng) một ngàn hai trăm năm mươi vị tỳ khưu: với đại chúng tỳ khưu số lượng một ngàn hai trăm năm mươi vị tỳ khưu. Từ ‘đức vua’ trong các từ, từ ‘đức vua’ v.v, với ý nghĩa làm cho toàn thể dân chúng hài lòng hoặc làm cho thịnh vượng nhờ sự thành tựu uy quyền của mình hoặc với Tứ nhiếp pháp[11] [saṅgahavatthu]. Māgadho: với ý nghĩa là to lớn hơn dân chúng xứ Magadha. Ajātasattu: Bởi các nhà tướng số đã tiên đoán rằng: Ngày cả khi chưa kịp sanh ra cũng sẽ trở thành kẻ thù đối với đức vua.

Tasmiṃ kira kucchigate deviyā evarūpo dohaḷo uppajji — “aho vatāhaṃ rañño dakkhiṇabāhulohitaṃ piveyyan”ti, Sā “bhāriye ṭhāne dohaḷo uppanno, na sakkā kassaci ārocetun”ti taṃ kathetuṃ asakkontī kisā[12] dubbaṇṇā ahosi. Taṃ rājā pucchi — “Bhadde, tuyhaṃ attabhāvo na pakativaṇṇo, kiṃ kāraṇan”ti? “Mā puccha, mahārājāti”. “Bhadde, tvaṃ attano[13] ajjhāsayaṃ mayhaṃ akathentī kassa kathessasī”ti tathā tathā nibandhitvā kathāpesi. Sutvā ca — “Bāle, kiṃ ettha tuyhaṃ bhāriyasaññā ahosī”ti vejjaṃ pakkosāpetvā suvaṇṇasatthakena bāhuṃ phālāpetvā suvaṇṇasarakena lohitaṃ gahetvā udakena sambhinditvā pāyesi. Nemittakā taṃ sutvā — “Esa gabbho rañño sattu bhavissati, iminā rājā haññissatī”ti byākariṃsu.

Tương truyền rằng: khi hoàng tử Ajātasattu vẫn còn trong bụng của hoàng hậu Vedehi, bà bị ốm nghén đến mức độ như thế này – “Ồ, quả thật ta nên uống máu ở cánh tay phải của đức vua”, – Hoàng hậu khởi lên suy nghĩ rằng: “Sự thèm khát khởi lên trong trường hợp này thật khủng khiếp, ta không nên để cho bất kỳ ai biết”. – Khi không thể nói ra điều đó (thân thể của bà) đã trở nên gầy gò, làn da xanh xao. – Đức vua đã hỏi hoàng hậu rằng: “Này ái khanh, thân thể của nàng có màu da khác thường, điều gì là lý do?” – Hoàng hậu đáp rằng, “Xin đại vương chớ nên hỏi thần thiếp.” – “Thôi được, này ái khanh, nếu ái khanh không thể nói ra điều mong muốn của ái khanh cho trẫm thì ái khanh sẽ nói cùng ai đây?” – Đức vua đã nài nỉ với cách này cách nọ để hoàng hậu nói ra. Và (đức vua) sau khi nghe được ấy đã nói – “Sao ái khanh ngốc thế, trong chuyện này ái khanh có suy nghĩ nghiêm trọng vậy sao?” Như vậy rồi cho truyền ngự y đến cầm lấy con dao vàng rạch lên cánh tay (của mình) nhỏ máu vào chiếc bình bằng vàng được hòa lẫn với nước rồi đưa cho hoàng hậu uống. – Các thầy tướng số sau khi biết được câu chuyện đó đã cùng nhau tiên đoán rằng: – “Hoàng tử trong bụng của hoàng hậu sẽ trở thành kẻ thù nghịch đối với đức vua, ngài sẽ bị hoàng tử này tước đoạt mạng sống.”

Devī sutvā — “Mayhaṃ kira kucchito nikkhanto rājānaṃ māressatī”ti gabbhaṃ pātetukāmā uyyānaṃ gantvā kucchiṃ maddāpesi, gabbho na patati. Sā punappunaṃ gantvā tatheva kāresi. Rājā kimatthaṃ ayaṃ abhiṇhaṃ uyyānaṃ gacchatīti parivīmaṃsanto taṃ kāraṇaṃ sutvā — “Bhadde, tava kucchiyaṃ puttoti vā dhītāti vā na paññāyati, attano nibbattadārakaṃ evamakāsīti mahā aguṇarāsipi no jambudīpatale āvibhavissati, mā tvaṃ evaṃ karohī”ti nivāretvā ārakkhaṃ adāsi. Sā gabbhavuṭṭhānakāle “māressāmī”ti cintesi. Tadāpi ārakkhamanussā dārakaṃ apanayiṃsu. Athāparena samayena vuḍḍhippattaṃ kumāraṃ deviyā dassesuṃ. Sā taṃ disvāva puttasinehaṃ uppādesi, tena naṃ māretuṃ nāsakkhi. Rājāpi anukkamena puttassa oparajjamadāsi.

Sau khi hoàng hậu nghe được câu chuyện ấy đã có suy nghĩ như sau: – “Được biết, hoàng tử khi lọt lòng từ bào thai của ta sẽ giết hại đức vua”, (do vậy) hoàng hậu khởi lên ý định phá bỏ bào thai, bà đã đi đến vườn thượng uyển bóp chặt bụng, nhưng vẫn không thể nào phá được bào thai. Bà đã đi lại thực hiện rất nhiều lần như thế. – Đức vua quan sát thấy rằng: ‘hoàng hậu này thường xuyên đi đến vườn thượng uyển vì mục đích gì?’ Sau khi biết được lý do đã ngăn cản bà (rằng) – “Này ái khanh, chúng ta vẫn chưa biết được rằng đứa bé ở trong bụng của nàng là hoàng tử hay công chúa, (nếu như) ái khanh làm như thế đối với một đứa trẻ được sanh ra từ cho chính mình thì lỗi làm to lớn được chất thành đống của chúng ta như đã nói sẽ lan truyền khắp toàn cõi Jampudīpa, trẫm xin ái khanh đừng có làm như thế nữa,” rồi đã cho người bảo vệ nàng. Hoàng hậu định bụng rằng vào lúc hạ sanh ‘ta sẽ giết’. Tuy nhiên vào lúc hạ sanh hoàng tử những người hầu cận đã đem hoàng tử đi. Rồi thời gian sau khi hoàng tử đã trưởng thành mới dẫn đến diện kiến hoàng hậu. Chỉ vừa đưa mắt nhìn thì hoàng hậu đã khởi lên tình yêu thương con, cho nên bà không thể ra tay để giết hại vị ấy. Sau đó, mặc dầu đức vua đã phong chức phó vương cho hoàng tử.

Athekasmiṃ samaye devadatto rahogato cintesi — “Sāriputtassa parisā Mahāmoggallānassa parisā Mahākassapassa parisāti, evamime visuṃ visuṃ dhurā, ahampi ekaṃ dhuraṃ nīharāmī”ti. So “na sakkā vinā lābhena parisaṃ uppādetuṃ, handāhaṃ lābhaṃ nibbattemī”ti cintetvā khandhake āgatanayena Ajātasattuṃ kumāraṃ iddhipāṭihāriyena pasādetvā sāyaṃ pātaṃ pañcahi rathasatehi upaṭṭhānaṃ āgacchantaṃ ativissatthaṃ ñatvā ekadivasaṃ upasaṅkamitvā etadavoca — “pubbe kho, kumāra, manussā dīghāyukā, etarahi appāyukā, tena hi tvaṃ kumāra, pitaraṃ hantvā rājā hohi, ahaṃ bhagavantaṃ hantvā buddho bhavissāmī”ti kumāraṃ pituvadhe uyyojeti.

Một thời gian sau, Devadatta trong khi ở nơi thanh vắng đã khởi lên suy nghĩ – “Tôn giả Sāriputta có hội chúng, tôn giả Moggallāna có hội chúng, tôn giả Mahākassapa cũng có hội chúng, như vậy, những tôn giả này mỗi vị đều có phận sự riêng biệt như vậy, ngay cả ta cũng phải thể hiện ít nhất một phận sự.” Vị ấy “khi không nhận được lợi lộc cũng không thể làm cho hội chúng sanh khởi được, vậy thì ta sẽ làm cho lợi lộc sanh khởi” sau khi suy nghĩ Devadatta đã sử dụng thần thông kỳ diệu khiến cho hoàng tử Ajātasattu ngưỡng mộ theo cách thức đã được nói đến trong Khandhaka, khi biết được hoàng tử vô cùng ngưỡng mộ đi đến phục vụ mình sáng chiều cùng với đoàn xe năm trăm chiếc, sau khi Devadatta đi đến đã nói (với hoàng từ) rằng: – “Tâu hoàng tử, trước đây loài người sống thọ, nhưng bây giờ lại yểu thọ. Điều thực tế cần được biết là ngài có thể chết đi trong lúc vẫn còn là hoàng tử; tâu hoàng tử, chính vì điều ấy ngài hãy giết phụ vương và lên làm vua. Còn ta sẽ giết đức Thế Tôn và trở thành đức Phật.”

So — “ayyo devadatto mahānubhāvo, etassa aviditaṃ nāma natthī”ti ūruyā potthaniyaṃ[14] bandhitvā divā divassa bhīto ubbiggo ussaṅkī utrasto antepuraṃ pavisitvā vuttappakāraṃ vippakāraṃ akāsi. Atha naṃ amaccā gahetvā anuyuñjitvā — “kumāro ca hantabbo, devadatto ca, sabbe ca bhikkhū hantabbā”ti sammantayitvā[15] rañño āṇāvasena karissāmāti rañño ārocesuṃ.

Hoàng tử Ajātasattu làm tin rằng – “Ngài Devadatta có đại thần lực, những điều ngài không biết rõ là không có” (do đó) vào lúc sáng sớm đã buộc con dao găm ở đùi, có vẻ sợ hãi, khiếp đảm, lo âu, hồi hộp đã xông vào hậu cung, đã làm những biểu hiện lạ thường theo cách thức đã được giảng giải. Khi ấy các quan đại thần (canh giữ hậu cung) đã bắt giữ hoàng tử đưa ra xét hỏi – “Hoàng tử phải bị giết, Devadatta và tất cả các tỳ khưu đều phải bị giết”, rồi tấu trình lên đức vua – chúng thần sẽ thực hiện theo mệnh lệnh của đức vua.

Rājā ye amaccā māretukāmā ahesuṃ, tesaṃ ṭhānantarāni acchinditvā, ye na māretukāmā, te uccesu ṭhānesu ṭhapetvā kumāraṃ pucchi — “Kissa pana tvaṃ, kumāra, maṃ māretukāmosī”ti? “rajjenamhi, deva, atthiko”ti. Rājā tassa rajjaṃ adāsi.

Đức vua đã giáng chức các quan đại thần có y muốn giết, đã thăng chức cho các quan đại thần không có ý muốn giết, rồi hỏi hoàng tử – “Này hoàng nhi, vì sao hoàng nhi lại có ý giết trẫm?” – “Thưa phụ hoàng, con muốn được vương quyền”. Đức vua đã trao lại vương quyền cho hoàng tử.

So mayhaṃ manoratho nipphannoti devadattassa ārocesi. Tato naṃ so āha — “tvaṃ siṅgālaṃ antokatvā bheripariyonaddhapuriso viya sukiccakārimhīti maññasi, katipāheneva te pitā tayā kataṃ avamānaṃ cintetvā sayameva rājā bhavissatī”ti. Atha, bhante, kiṃ karomīti? Mūlaghaccaṃ[16] ghātehīti. Nanu, bhante, mayhaṃ pitā na satthavajjhoti? Āhārupacchedena naṃ mārehīti. So pitaraṃ tāpanagehe pakkhipāpesi, tāpanagehaṃ nāma kammakaraṇatthāya kataṃ dhūmagharaṃ. “Mama mātaraṃ ṭhapetvā aññassa daṭṭhuṃ mā dethā”ti āha. Devī suvaṇṇasarake bhattaṃ pakkhipitvā ucchaṅgenādāya pavisati. Rājā taṃ bhuñjitvā yāpeti. So — “Mayhaṃ pitā kathaṃ yāpetī”ti pucchitvā taṃ pavattiṃ sutvā — “Mayhaṃ mātu ucchaṅgaṃ[17] katvā pavisituṃ mā dethā”ti āha. Tato paṭṭhāya devī moḷiyaṃ pakkhipitvā pavisati. Tampi sutvā “moḷiṃ bandhitvā pavisituṃ mā dethā”ti. Tato suvaṇṇapādukāsu bhattaṃ ṭhapetvā pidahitvā pādukā āruyha pavisati. Rājā tena yāpeti. Puna “kathaṃ yāpetī”ti pucchitvā tamatthaṃ sutvā “pādukā āruyha pavisitumpi mā dethā”ti āha. Tato paṭṭhāya devī gandhodakena nhāyitvā sarīraṃ catumadhurena makkhetvā pārupitvā pavisati. Rājā tassā sarīraṃ lehitvā yāpeti. Puna pucchitvā taṃ pavattiṃ sutvā “ito paṭṭhāya mayhaṃ mātu pavesanaṃ nivārethā”ti āha. Devī dvāramūle ṭhatvā “sāmi, bimbisāra, etaṃ daharakāle māretuṃ na adāsi, attano sattuṃ attanāva posesi, idaṃ pana dāni te pacchimadassanaṃ, nāhaṃ ito paṭṭhāya tumhe passituṃ labhāmi, sace mayhaṃ doso atthi, khamatha devā”ti roditvā kanditvā nivatti.

Vua Ajātasattu đã kể lại cho Devadatta rằng: ước muốn của ta đã thành tựu. Sau đó, Devadatta đã nói với vua Ajātasattu như sau; – “Ngài giống như người bắt lấy một con cáo bỏ vào trong cái trống bọc da mà lại nghĩ công việc đã thành tựu, hai ba ngày nữa phụ vương của ngài nghĩ rằng: ‘ngài đã thực hiện hành vi bất kính, rồi sẽ tự mình trở thành vua”. – ‘Nếu như vậy, ta phải làm gì?’ – Hãy phá huỷ tận gốc. – ‘Thưa ngài, phụ vương của ta không nên giết bằng vũ khí không phải hay sao? – Hãy giết đức vua bằng cách ngưng cung cấp thức ăn. Vị ấy đã ra lệnh nhốt vua cha vào ngôi nhà nóng bức, ngôi nhà nóng bức là ngôi nhà được xông khói được làm để hành xử phạm nhân. Vua Ajātasattu lệnh rằng: “Ngoài mẫu hậu của ta, không cho bất cứ người nào khác đến thăm.” Hoàng hậu đã đựng thức ăn trong cái bát vàng rồi gói ở mép y bên hông đến thăm đức vua. Đức vua đã thọ dụng vật thực đó duy trì mạng sống. Vua Ajātasattu đã hỏi rằng – “Phụ vương của ta duy trì mạng sống như thế nào?” Sau khi biết rõ sự tình được diễn ra như thế đã ra lệnh – “Nghiêm cấm không cho mẫu hậu mang bất cứ thứ gì được lận ở bên hông vào thăm.” Kể từ đó, hoàng hậu đã để thức ăn ở buộc vào mão đội đầu đến thăm. Ngay cả khi nghe được điều đó đã ra lệnh “Không cho mẫu hậu buộc vòng mão đội đầu đến thăm”. Sau đó, hoàng hậu đã đặt thức ăn vào trong đôi hài vàng đã khéo bọc phủ khéo léo đi vào thăm, đức vua duy trì mạng sống bằng vật thực đó. Vua Ajātasattu hỏi tiếp “phụ hoàng duy trì mạng sống như thế nào?” Khi biết được sự tình ấy đã ra lệnh “không cho, kể cả việc mang hài vào thăm”. Kể từ đó, hoàng hậu đã tắm gội cơ thể bằng nước hoa rồi thoa lên người với bốn món ăn có vị ngon ngọt rồi đắp xiêm y vào thăm. Đức vua đã liếm người hoàng hậu để duy trì mạng sống. Một lần nữa Ajātasattu lại hỏi và khi biết được sự tình, đã ra lệnh: “Kể từ giờ trở đi nghiêm cấm không cho mẫu hậu vào thăm phụ vương nữa”. Sau đó, hoàng hậu đã đứng ở sát cửa ra vào than vãn, khóc lóc “Ôi phu quân Bimbisāra, ngài đã không cho giết đứa bé đó khi còn trong bụng thần thiếp, ngài cũng không cho cơ hội để giết, chính bản thân ngài đã nuôi dưỡng kẻ thù của mình, giờ đây việc nhìn thấy ngài lần này cũng là lần cuối, từ nay trở đi thần thiếp không còn gặp được ngài nữa, nếu như thần thiếp có lỗi lầm gì, cúi mong bệ hạ hãy rộng lòng thứ tha lỗi lầm ấy cho thần thiếp” rồi quay trở về.

Tato paṭṭhāya rañño āhāro natthi. rājā maggaphalasukhena caṅkamena yāpeti. Ativiya assa attabhāvo virocati. So — “Kathaṃ, me bhaṇe, pitā yāpetī”ti pucchitvā “Caṅkamena deva[18], yāpeti; ativiya cassa attabhāvo virocatī”ti sutvā ‘caṅkamaṃ dānissa hāressāmī’ti cintetvā — “Mayhaṃ pitu pāde khurena phāletvā loṇatelena makkhetvā khadiraṅgārehi vītaccitehi pacathā”ti nhāpite pesesi. Rājā te disvā — “nūna mayhaṃ putto kenaci saññatto bhavissati, ime mama massukaraṇatthāyāgatā”ti cintesi. Te gantvā vanditvā aṭṭhaṃsu. ‘Kasmā āgatatthā’ti ca puṭṭhā taṃ sāsanaṃ ārocesuṃ. “Tumhākaṃ rañño manaṃ karothā”ti ca vuttā ‘nisīda, devā’ti vatvā ca rājānaṃ vanditvā — “Deva, mayaṃ rañño āṇaṃ karoma, mā amhākaṃ kujjhittha, nayidaṃ tumhādisānaṃ dhammarājūnaṃ anucchavikan”ti vatvā vāmahatthena gopphake gahetvā dakkhiṇahatthena khuraṃ gahetvā pādatalāni phāletvā loṇatelena makkhetvā khadiraṅgārehi vītaccitehi paciṃsu. Rājā kira pubbe cetiyaṅgaṇe saupāhano agamāsi, nisajjanatthāya paññattakaṭasārakañca adhotehi pādehi akkami, tassāyaṃ nissandoti vadanti. Rañño balavavedanā uppannā. so — “Aho buddho, aho dhammo, aho saṅgho”ti anussarantoyeva cetiyaṅgaṇe khittamālā viya milāyitvā cātumahārājikadevaloke vessavaṇassa[19] paricārako janavasabho nāma yakkho hutvā nibbatti.

Kể từ đó đức vua cũng không được thọ dụng vật thực, duy trì sanh mạng bằng sự an lạc của Đạo và Quả (phẩm vị Nhập-lưu) nhờ vào việc kinh hành, thân thể của ngài vô cùng chói sáng. Ajātasattu đã hỏi rằng: “Này các khanh, phụ vương của trẫm duy trì mạng sống như thế nào?” – sau khi nghe “Tâu bệ hạ, phụ vương của ngài duy trì mạng sống bằng việc kinh hành; và làm cho thân thể trở nên vô cùng chói sáng” đã suy nghĩ rằng: ‘Ta sẽ cắt đứt (lòng bàn chân) không để phụ vương ta đi kinh hành trong lúc này’ – đã ra lệnh cho các thợ cắt tóc, các khanh hãy mang dao cạo cắt hai lòng bàn chân của phụ vương ta, lấy dầu trộn với muối xát vào (vết thương), sau đó nướng với cục than đỏ của cây xiêm gai cháy rực không lửa, rồi đưa đi”. Sau khi đức vua nhìn thấy những người thợ cắt tóc suy nghĩ rằng: “Chắc chắn con của ta có lẽ đã được ai nhắc nhở cho biết (hành vi) của mình, những người thợ cắt tóc này đến để sửa soạn lại râu tóc của ta.” – Những người thợ cắt tóc sau khi đến đã hành lễ ngài rồi đứng một bên. – khi được hỏi ‘các khanh đến làm gì?’ – ‘Thưa ngài, đến để làm theo lịnh của đức vua.’ Đức vua Bimbisāra đã nói rằng: “các khanh hãy làm  theo ý của đức vua các khanh.” – ‘thưa bệ hạ, mời ngài ngồi xuống,’ sau khi đảnh lễ đức vua và đã nói rằng: – “Tâu bệ hạ, chúng thần chỉ thi hành theo chỉ dụ của vua, xin ngài chớ đừng phẫn nộ với chúng thần, hành động này thật không phải lẽ đối với ngài, một vị vua trị vì đúng pháp, rồi túm lấy khuỷu chân bằng tay trái, sử dụng tay phải cầm dao cạo cắt cả hai lòng bàn chân, lấy dầu trộn lẫn với muối xát lên vết thương rồi nướng với cục than đỏ của cây xiêm gai đang cháy rực không lửa. Được biết rằng – vào thời quá khứ vua Bimbisāra mang đôi hài bước vào khuôn viên Bảo điện và lấy đôi chân không được rửa sạch giẫm đạp lên tấm thảm làm bằng vỏ cây được trải ra để ngồi, đây là kết quả của ác nghiệp ấy. Đức vua Bimbisāra đã khởi lên cảm thọ đau đớn khóc liệt. Vị ấy chỉ (có thể) tùy niệm đến “Ôi Đức Phật! Ôi Giáo Pháp! Ôi Chư Tăng” rồi trở nên khô héo tượng tự y như vòng hoa được đặt ở khuôn viên Bảo điện, hóa sanh làm Dạ-xoa tên là Janavasabha, là vị hầu cận của vua Vessavaṇa trong cõi trời Tứ Đại Thiên Vương.

Taṃ divasameva ajātasattussa putto jāto, puttassa jātabhāvañca pitumatabhāvañca nivedetuṃ dve lekhā ekakkhaṇeyeva āgatā. amaccā — “paṭhamaṃ puttassa jātabhāvaṃ ārocessāmā”ti taṃ lekhaṃ rañño hatthe ṭhapesuṃ. Rañño taṅkhaṇeyeva puttasineho uppajjitvā sakalasarīraṃ khobhetvā aṭṭhimiñjaṃ āhacca aṭṭhāsi. Tasmiṃ khaṇe pituguṇamaññāsi — “mayi jātepi mayhaṃ pitu evameva sineho uppanno”ti. so — “gacchatha, bhaṇe, mayhaṃ pitaraṃ vissajjethā”ti āha. “Kiṃ vissajjāpetha[20], devā”ti itaraṃ lekhaṃ hatthe ṭhapayiṃsu.

Và chính vào ngày hôm ấy hoàng tử con vua Ajātasattu cũng hạ sanh. Cả hai bức thư đã đến vào cùng một lúc, một là hoàng tử vừa được hạ sinh, một là phụ vương Bimbisāra đã băng hà. Các quan đại thần bàn luận rằng: “chúng ta sẽ báo tin hoàng tử hạ sanh trước”, rồi mới đem bức thư ấy trao đến tay của vua Ajātasattu. Tình yêu thương con đã trỗi dậy nơi ngài ngay lập tức vào chính khoảnh khắc ấy tràn ngập khắp cả châu thân lan tỏa đến tận xương tủy. Vào khoảnh khắc ấy ngài đã nhớ đến ân đức của phụ vương rằng – “Thậm chí lúc ta ra đời, phụ vương của ta cũng khởi lên tình yêu thương y như thế.” Vị ấy vội vàng ra lệnh “này các khanh, hãy thả phụ vương của ta ra.” – Các quan đại thần đáp rằng: “Tâu bệ hạ, ngài ra lệnh cho thả cái gì?” rồi đã dâng lên bức thư còn lại đến tay (đức vua).

So taṃ pavattiṃ[21] sutvā rodamāno mātusamīpaṃ gantvā — “ahosi nu, kho, amma, mayhaṃ pitu mayi jāte sineho”ti? Sā āha — “bālaputta, kiṃ vadesi, tava daharakāle aṅguliyā pīḷakā uṭṭhahi[22]. Atha taṃ rodamānaṃ saññāpetuṃ asakkontā taṃ gahetvā vinicchayaṭṭhāne nisinnassa tava pitu santikaṃ agamaṃsu. Pitā te aṅguliṃ mukhe ṭhapesi. pīḷakā mukheyeva bhijji. Atha kho pitā tava sinehena taṃ lohitamissakaṃ pubbaṃ aniṭṭhubhitvāva[23] ajjhohari. evarūpo te pitu sineho”ti. So roditvā paridevitvā pitu sarīrakiccaṃ akāsi.

Khi biết được sự việc đã diễn ra như thế vị ấy vừa khóc lóc đã đi đến gắp mẫu hậu hỏi rằng: “Thưa mẫu hậu, khi trẫm được sanh ra, phụ hoàng của trẫm khởi lên tình yêu thương đối với trẫm phải không?” Hoàng hậu đáp rằng – “Này đứa con ngu si kia, con đang hỏi gì vậy? Khi còn nhỏ, hoàng thượng bị một mụn nhọt trên ngón tay, khi ấy, các nhũ mẫu không ai có thể dỗ hoàng thượng nín khóc trong lúc hoàng thượng đang khóc, đã đem hoàng thượng đến yết kiến phụ vương khi đó ngài đang ngồi ở điện xét xử. Vào lúc đó phụ vương của hoàng thượng ngậm ngón tay hoàng thượng đến mức mụt nhọt vỡ ra trong cổ họng, lần đó phụ vương của hoàng thượng không thể đứng dậy rời khỏi ngai vàng đã nuốt cả máu lẫn mủ với cả tình yêu thương con, phụ vương của hoàng thượng có tình thương yêu hoàng thượng như thế”. Vua Ajātasattu đa khóc lóc, đã than vãn, đến thực hiện hỏa táng long thể của vua cha.

Devadattopi Ajātasattuṃ upasaṅkamitvā — “Purise, mahārāja, āṇāpehi, ye samaṇaṃ gotamaṃ jīvitā voropessantī”ti vatvā tena dinne purise pesetvā sayaṃ Gijjhakūṭaṃ āruyha yantena silaṃ pavijjhitvā Nāḷāgirihatthiṃ muñcāpetvāpi kenaci upāyena bhagavantaṃ māretuṃ asakkonto parihīnalābhasakkāro pañca vatthūni yācitvā tāni alabhamāno tehi janaṃ saññāpessāmīti saṅghabhedaṃ katvā sāriputtamoggallānesu parisaṃ ādāya pakkantesu uṇhalohitaṃ mukhena chaḍḍetvā navamāse gilānamañce nipajjitvā vippaṭisārajāto — “kuhiṃ etarahi satthā vasatī”ti pucchitvā “jetavane”ti vutte mañcakena maṃ āharitvā satthāraṃ dassethāti vatvā āhariyamāno bhagavato dassanārahassa kammassa akatattā jetavane pokkharaṇīsamīpeyeva dvedhā bhinnaṃ pathaviṃ pavisitvā mahāniraye patiṭṭhitoti. Ayamettha saṅkhepo. Vitthārakathānayo khandhake āgato, āgatattā[24] pana sabbaṃ na vuttanti. Evaṃ ajātoyeva rañño sattu bhavissatīti nemittakehi niddiṭṭhoti ajātasattu.

Còn Devadatta sau khi đến gặp vua Ajātasattu đã nói rằng – “Tâu đại vương, hãy ra lệnh cho các nam nhân để họ sẽ đoạt mạng sống của Sa-môn Gotama.” đã đưa tất cả mọi người người được vua Ajātasattu ban cho, tự mình leo lên đỉnh núi Gijjhakūṭa xô xuống tảng đá lớn, cho thả voi Nāḷāgiri, bằng bất kỳ thủ đoạn nào cũng không thể đoạt được mạng sống của đức Thế Tôn, lợi lộc và sự trọng vọng bị suy giảm, mới yêu cầu năm sự việc khi không được (đức Thế Tôn chấp thuận) năm sự việc ấy đã tuyên bố rằng – ‘Nếu vậy thì (ta đây) sẽ cho dân chúng biết về năm sự việc này, đã thực hiện việc chia rẽ hội chúng. Khi trưởng lão Sārīputta và trưởng lão Moggallāna đưa hội chúng quay trở về, (khi ấy) máu nóng đã ứa ra từ miệng (của Devadatta), và đã nằm trên giường bệnh suốt chín tháng, khởi lên sự hối hận – đã hỏi rằng: “Lúc này bậc Đạo Sư đang cư ngụ ở đâu?” Khi được biết “ở Jetavana”, đã nói rằng: “Các ông hay hãy lấy cái giường khiêng ta đến gặp bậc Đạo Sư.” trong khi khiêng đến do trạng thái đã không thực hiện hành động thích hợp để được nhìn thấy đức Thế Tôn, nên đã bị quả đất hút ở gần hồ sen trong tịnh xá Jetavana vào trong Đại địa ngục. Ở đây, điều này có ý nghĩa vắn tắt. Còn cách thức chi tiết đã trình bày trong Khandhaka. Hơn nữa câu chuyện này đã được trình bày ở Tạng Luật trong Khandhaka mới không được nói toàn bộ. Vị hoàng tử này chỉ vừa mới sanh ra sẽ trở thành kẻ thù của đức vua, các nhà tướng số đã tiên đoán như thế, cho nên mới đặt tên là Ajātasattu.

Vedehiputtoti ayaṃ kosalarañño dhītāya putto, na videharañño. Vedehīti pana paṇḍitādhivacanametaṃ. Yathāha — “vedehikā gahapatānī[25], ayyo ānando vedehamunī”ti[26]. tatrāyaṃ vacanattho — vidanti etenāti vedo, ñāṇassetaṃ adhivacanaṃ. Vedena īhati ghaṭati vāyamatīti vedehī. Vedehiyā putto vedehiputto.

Con trai của hoàng hậu Vedehi: vị hoàng tử này là con trai của con gái vua Kosala, không phải của vua Videha. Hơn nữa, Vedehi này là tên gọi là bậc sáng suốt. Như đã nói – “Nữ gia chủ là bậc sáng suốt”, “ngài Ānanda là bậc sáng suốt, bậc hiền trí”. Ở đây từ đó có ý nghĩa (như vầy) – Veda với ý nghĩa hiểu biết, từ veda này là tên gọi của trí. Vedehi với ý nghĩa cố gắng thử, ráng sức, tinh tấn với sự hiểu biết. Con trai của hoàng hậu Vedehi được gọi là Vedehiputta.

Tadahūti tasmiṃ ahu, tasmiṃ divaseti attho. Upavasanti etthāti uposatho, upavasantīti sīlena vā anasanena vā upetā hutvā vasantīti attho. Ayaṃ panettha atthuddhāro — “Āyāmāvuso, kappina, uposathaṃ gamissāmā”tiādīsu pātimokkhuddeso uposatho. “Evaṃ aṭṭhaṅgasamannāgato kho, visākhe, uposatho upavuttho”tiādīsu[27] sīlaṃ. “Suddhassa ve sadā phaggu, suddhassuposatho sadā”tiādīsu[28] upavāso. “Uposatho nāma nāgarājā”tiādīsu[29] paññatti. “na, bhikkhave, tadahuposathe sabhikkhukā āvāsā”tiādīsu[30] upavasitabbadivaso. idhāpi soyeva adhippeto. so panesa aṭṭhamī cātuddasī pannarasībhedena tividho. tasmā sesadvayanivāraṇatthaṃ pannaraseti vuttaṃ. teneva vuttaṃ — “upavasanti etthāti uposatho”ti.

Tadahu đồng nghĩa với tasmiṃ ahu nghĩa là vào hôm ấy. Uposatha: với ý nghĩa nơi để đến thọ trì giới Uposatha, giải thích rằng upavasanti – thọ trì giới là người đạt đến bởi giới hoặc với biểu hiện không nỗ lực được gọi là người trú giới. Hơn nữa, điều này ở đây có lời giải nghĩa (như sau) – Việc tụng đọc giới bổn Pātimokkha gọi là ‘Uposatha’ – “Này hiền giả Kappina, đến đây, chúng ta sẽ đi hành lễ Uposatha.” Giới gọi là ‘Uposatha’ – “Này Visākhā, quả thật giới hội đủ tám chi phần như vậy, được thực hành…” Việc thọ giới gọi là ‘Uposatha’ – “Đối với người đã thanh tịnh, ngày nào cũng là ngày tốt; Đối với người sống thanh tịnh (việc thọ trì giới), ngày nào cũng ngày lành.” chế định gọi là ‘Uposatha’ – “(này Ānanda, voi báu đã hiện ra cho đức vua Mahāsudassana)… là voi chúa tên Uposatha.” Ngày nên trú giới gọi là ‘Uposatha’ – “Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng…” Và thậm chí ở trong trường hợp này cũng muốn đề cập đến ngày nên thọ trì giới. Ngày nên thọ trì giới này đây có ba là vào ngày mồng 8, vào ngày mười 14, và vào ngày 15 được nói đến là ngày 15, cũng để nêu lên cả 2 ngày là ngày mồng 8 và ngày 14, vì thế tôi mới nói rằng: “Gọi là ngày trai giới uposatha với ý nghĩa là ngày đi vào thọ giới.”

Komudiyāti kumudavatiyā. Tadā kira kumudāni supupphitāni honti, tāni ettha santīti komudī. Cātumāsiniyāti cātumāsiyā, sā hi catunnaṃ māsānaṃ pariyosānabhūtāti cātumāsī. Idha pana cātumāsinīti vuccati. Māsapuṇṇatāya utupuṇṇatāya saṃvaccharapuṇṇatāya puṇṇā sampuṇṇāti puṇṇā. Mā iti cando vuccati, so ettha puṇṇoti puṇṇamā. Evaṃ puṇṇāya puṇṇamāyāti imasmiṃ padadvaye ca attho veditabbo.

Hoa sen trắng: có hoa sen trắng đang nở hoa. Được biết vào thời gian đó hoa  sen trắng đang nở rộ, gọi là hoa sen trắng với ý nghĩa mùa có hoa sen trắng. Ngày cuối của bốn tháng: ngày cuối của bốn tháng, thật vậy vào ngày trai giới Uposatha đó là ngày cuối cùng của bốn tháng. Tuy nhiên trong trường hợp này được gọi là ngày cuối của bốn tháng. Bởi vì vào ngày hôm ấy đủ tháng, đủ mùa, đủ năm được thành tựu đầy đủ mới gọi là đủ. Từ ‘ma’ được gọi là mặt trăng, mặt trăng được tròn đầy vào ngày hôm ấy, vì thế được gọi là nhằm đêm trăng tròn. Như vậy, trong cả 2 từ paṇṇāyapuṇṇamāya này nên biết ý nghĩa như đã trình bày.

Rājāmaccaparivutoti evarūpāya rajataghaṭaviniggatāhi khīradhārāhi dhoviyamānadisābhāgāya viya, rajatavimānaviccutehi[31] muttāvaḷisumanakusumadāmasetadukūlakumudavisarehi samparikiṇṇāya viya ca, caturupakkilesavimuttapuṇṇacandappabhāsamudayobhāsitāya rattiyā rājāmaccehi parivutoti attho. Uparipāsādavaragatoti pāsādavarassa uparigato. Mahārahe samussitasetacchatte kañcanāsane nisinno hoti. Kasmā nisinno? Niddāvinodanatthaṃ. ayañhi rājā pitari upakkantadivasato paṭṭhāya — “niddaṃ okkamissāmī”ti nimīlitamattesuyeva[32] akkhīsu sattisatābbhāhato viya kandamānoyeva[33] pabujjhi. Kimetanti ca vutte, na kiñcīti vadati. Tenassa amanāpā niddā, iti niddāvinodanatthaṃ nisinno. Api ca tasmiṃ divase nakkhattaṃ saṅghuṭṭhaṃ hoti. Sabbaṃ nagaraṃ sittasammaṭṭhaṃ[34] vippakiṇṇavālukaṃ pañcavaṇṇa-kusumalājapuṇṇaghaṭapaṭimaṇḍita-gharadvāraṃ samussita-dhaja-paṭāka-vicitra-samujjalita-dīpamālālaṅkata-sabbadisābhāgaṃ vīthisabhāgena racchāsabhāgena nakkhattakīḷaṃ anubhavamānena mahājanena samākiṇṇaṃ hoti. Iti nakkhattadivasatāyapi nisinnoti vadanti. Evaṃ pana vatvāpi — “rājakulassa nāma sadāpi nakkhattameva, niddāvinodanatthaṃyeva panesa nisinno”ti sanniṭṭhānaṃ kataṃ.

Có các quan đại thần vây quanh: đức vua được vây quanh bởi các quan đại thần vào ban đêm chói sáng bởi ánh sáng vầng trăng tròn đầy được thoát khỏi bốn (yếu tố) làm tăm tối (mây, sương mù, khói, nguyện thực) y như các phương hướng đã được quét dọn sạch sẽ với nước thánh có ánh sáng bạc cuộn tròn phát ra thành từng chùm sáng, trông như thể những bó hoa sen trắng được làm bằng những chất liệu vải mềm mịn màu trắng, tựa như những chuỗi ngọc trai và những tràng hoa nhài có ánh sáng lấp lánh lan tỏa, trông như thể thiên cung bằng bạc tỏa hào quang. Đang ngồi ở tầng trên của tòa lâu đài quý giá: đang ngồi ở lầu trên của tòa lâu đài. Là đang ngồi ở trên ngai vàng bên dưới cây lọng trắng đã được nâng lên vô cùng quý báu. Ngồi để làm gì? Để xua tam sự buồn ngủ. Bởi vì vị vua này kể từ ngày ra sức nỗ lực tước đoạt mạng sống của vua cha, vừa nhắm hai mắt lại với ý định – “tôi sẽ ngủ” thì rất kinh hãi y như thể bị hàng trăm mũi giáo đâm vào làm giật mình (không thể ngủ do vô cùng sợ hãi). Khi các quan đại thần hỏi rằng: ‘có chuyện gì vậy, thưa bệ hạ’, – (vị ấy) không đáp bất cứ lời gì cả. Vì lý do đó giấc ngủ đã trở nên không vừa ý, cho nên ngài mới ngồi để xua tan sự buồn ngủ. Thêm nữa, vào ngày hôm ấy các nhà tướng số rất ồn ào, khắp kinh thành quét dọn sạch sẽ, ngăn nắp. Lấy cát đến ​​rải ra, tại cửa nhà được trang trí với những bông hoa ngũ sắc, bỏng thóc và ghè nước được đựng đầy nước, các hướng đều được treo những lá cờ, biểu ngữ, được trang hoàng với rất nhiều những ngọn đèn lồng và những tràng hoa sáng chói rực rỡ, dân chúng tham dự lễ hội nakkhatta với nhau vui vẻ dọc theo những con phố, ai cũng đều vui mừng. Một số vị nói rằng – ngồi vì là ngày lễ hội nakkhatta. Hơn nữa, khi nói như vậy – đã thực hiện phỏng đoán rằng: “Mỗi lần lễ hội của hoàng tộc, tuy nhiên vị vua này chỉ ngồi để xua tan sự buồn ngủ.”

Udānaṃ udānesīti udāhāraṃ udāhari, yathā hi yaṃ telaṃ mānaṃ gahetuṃ na sakkoti, vissanditvā gacchati, taṃ avasekoti vuccati. Yañca jalaṃ taḷākaṃ gahetuṃ na sakkoti, ajjhottharitvā gacchati, taṃ oghoti vuccati; evameva yaṃ pītivacanaṃ hadayaṃ gahetuṃ na sakkoti, adhikaṃ hutvā anto asaṇṭhahitvā bahinikkhamati, taṃ udānanti vuccati. evarūpaṃ pītimayaṃ vacanaṃ nicchāresīti attho.

Đã thốt lên lời cảm hứng: Đã thốt lên lời cảm hứng. Dầu tràn khỏi dụng cụ đo lường không thể đo lường được, được gọi là dầu tràn như thế nào; và nước ngập hồ đến mức không thể chứa được, được gọi là nước tràn như thế nào; Từ ‘phỉ lạc’ được hả hê đến mức không thể kiềm chế được, không thể duy trì trong tâm, tuôn trào ra bên ngoài cũng tương tự y như thế, (như thế) được gọi là thốt ra. Đức vua thốt lên lời thành tựu với phỉ lạc bằng hình thức như thế.

Dosināti dosāpagatā, abbhā, mahikā, dhūmo, rajo[35], rāhūti imehi pañcahi[36] upakkilesehi virahitāti vuttaṃ hoti. Tasmā ramaṇīyātiādīni pañca thomanavacanāni. Sā hi mahājanassa manaṃ ramayatīti ramaṇīyā. Vuttadosavimuttāya candappabhāya obhāsitattā ativiya surūpāti abhirūpā. Dassituṃ[37] yuttāti dassanīyā. Cittaṃ pasādetīti pāsādikā. Divasamāsādīnaṃ lakkhaṇaṃ bhavituṃ yuttāti lakkhaññā.

Sáng tỏ: đã lìa khỏi lỗi lầm, giải thích rằng – thoát khỏi 4 (yếu tố) làm tăm tối này gồm màn khói, sương mù, nguyệt thực. Đêm ấy có năm lời ca ngợi như đáng yêu v.v, cũng vào đếm ấy gọi là đáng yêu bởi ý nghĩa khiến tâm của dân chúng được vui thích. Diễm lệ: với ý nghĩa tuyệt đẹp, bởi chiếu sáng do ánh sáng của mặt trăng được thoát khỏi những lỗi lầm như đã nói. Đáng ngắm nhìn: bởi ý nghĩa đáng nhìn. Thật êm ả: bởi ý nghĩa làm cho tâm được trong sáng. Đáng lưu tâm: Nên được xác định ngày và tháng v.v.

Kaṃ nu khvajjāti kaṃ nu kho ajja. Samaṇaṃ vā brāhmaṇaṃ vāti samitapāpatāya samaṇaṃ. Bāhitapāpatāya brāhmaṇaṃ. Yaṃ no payirupāsatoti vacanabyattayo[38] esa, yaṃ amhākaṃ pañhapucchanavasena payirupāsantānaṃ madhuraṃ dhammaṃ sutvā cittaṃ pasīdeyyāti attho. Iti rājā iminā sabbenapi vacanena obhāsanimittakammaṃ akāsi. Kassa akāsīti? Jīvakassa. Kimatthaṃ? Bhagavato dassanatthaṃ. Kiṃ bhagavantaṃ sayaṃ dassanāya upagantuṃ na sakkotīti? Āma, na sakkoti. Kasmā? Mahāparādhatāya.

Kaṃ nu khvajjā tách từ thành kaṃ nu kho ajja (vậy thì hôm nay). Sa-môn hoặc Bà-la-môn: gọi là Sa-môn bởi vắng lặng các ác xấu, gọi là Bà-la-môn bởi đã thả trôi các xấu ác. Của chúng ta .., trong khi chúng ta đến yết kiến vị ấy: Tâm của chúng ta trong khi đến yết kiến vị Sa-môn hoăc Bà-la-môn vị khéo thuyết, để hỏi vấn đề có thể được tịnh tín được lắng nghe Giáo Pháp êm dịu. Như thế, với tất cả những kim ngôn này của vua Ajātasattu đã thực hiện hành động làm dấu hiệu. Thực hiện cho ai? Cho lương y Jīvaka. Để làm gì? – Đề đến yết kiến đức Thế Tôn. – Vua Ajātasattu không thể tự mình đến yết kiến đức Thế Tôn hay sao? – Đúng rồi, (vị ấy) không thể. – Tại sao? Bởi vì ngài chất chứa quá nhiều lỗi lầm.

Tena hi bhagavato upaṭṭhāko ariyasāvako attano pitā mārito, devadatto ca tameva nissāya bhagavato bahuṃ anatthamakāsi, iti mahāparādho esa, tāya mahāparādhatāya sayaṃ gantuṃ na sakkoti. Jīvako pana bhagavato upaṭṭhāko, tassa piṭṭhichāyāya bhagavantaṃ passissāmīti obhāsanimittakammaṃ akāsi. Kiṃ jīvako pana — “mayhaṃ idaṃ obhāsanimittakamman”ti jānātīti? Āma jānāti. Atha kasmā tuṇhī ahosīti? vikkhepapacchedanatthaṃ.

Do vua Ajātasattu đã tước đoạt mạng sống của vua cha, vị ấy là vị thị giả của đức Thế Tôn và là một vị Thánh Hữu học, và Devadatta cũng đã nương nhờ vào chính vua Ajātasattu ấy, đã gây ra thiệt hại vô cùng to lớn đối với đức Thế Tôn. Lỗi lầm nghiêm trọng như thế, bởi bản thể có lỗi lầm nghiêm trọng ấy mới không thể tự mình đến yết kiến đức Thế Tôn. Hơn nữa, lương y Jīvika cũng là thị giả của đức Thế Tôn, vua Ajātasattu đã thực hiện hành động làm dấu hiệu với ý định rằng – “Ta sẽ đến yết kiến đức Thế Tôn dưới cái bóng theo phía sau lương y Jīvaka.” Hơn nữa, lương y Jīvaka biết rằng – “Đức vua đã thực hiện hành động làm dấu hiệu cho vị ấy biết? Vị ấy biết. Khi biết, tại sao lại im lặng? Để cắt đứt sự xáo trộn.

Tassañhi parisati[39] channaṃ satthārānaṃ upaṭṭhākā bahū sannipatitā, te asikkhitānaṃ payirupāsanena sayampi asikkhitāva. Te mayi bhagavato guṇakathaṃ āraddhe antarantarā uṭṭhāyuṭṭhāya attano satthārānaṃ guṇaṃ kathessanti, evaṃ me satthu guṇakathā pariyosānaṃ na gamissati. Rājā pana imesaṃ kulūpake upasaṅkamitvā gahitāsāratāya tesaṃ guṇakathāya anattamano hutvā maṃ paṭipucchissati, athāhaṃ nibbikkhepaṃ satthu guṇaṃ kathetvā rājānaṃ satthu santikaṃ gahetvā gamissāmīti jānantova vikkhepapacchedanatthaṃ tuṇhī ahosīti.

Bởi vì, trong hội chúng ấy có nhiều thị giả của 6 vị Đạo Sư hội họp với nhau, những vị ấy mặc dù bản thân không được học tập do thân cận người không được học tập. Khi ta bắt đầu nói về ân đức của đức Thế Tôn, những người ấy sẽ đứng ngồi không yên trong lúc nói đến Đạo Sư của mình, nếu như thế những lời nói về ân đức của bậc Đạo Sư của ta cũng sẽ không đi đến kết thúc. Còn đức vua khi tiếp xúc với nhóm thị giả của 6 bậc Đạo Sư này sẽ không hài lòng trong lời nói về ân đức của 6 vị Đạo Sư ấy bởi vì không có cốt lõi để nắm giữ, cũng sẽ quay trở lại hỏi ta, đến lúc đó ta sẽ nói về ân đức của Đạo Sư nhờ thoát khỏi sự xáo trộn rồi sẽ đưa vua Ajātasattu đến trú xứ của bậc Đạo Sư. Lương y Jīvaka biết rõ như thế nên mới giữ im lặng nhằm mục đích cắt đứt sự xáo lộn.

Tepi amaccā evaṃ cintesuṃ — “ajja rājā pañcahi padehi rattiṃ thometi, addhā kiñci samaṇaṃ vā brāhmaṇaṃ vā upasaṅkamitvā pañhaṃ pucchitvā dhammaṃ sotukāmo, yassa cesa dhammaṃ sutvā pasīdissati, tassa ca mahantaṃ sakkāraṃ karissati, yassa pana kulūpako samaṇo rājakulūpako hoti, bhaddaṃ tassā”ti.

Luôn cả những quan đại thần ấy cũng nghĩ như vầy – “Ngày hôm nay đức vua ca ngợi ban đêm bằng năm câu kệ, có lẽ ngài có ý muốn đến yết kiến vị Sa-môn hoặc Bà-la-môn để hỏi câu hỏi rồi lắng nghe Giáo Pháp, và sau khi lắng nghe Giáo Pháp của vị Sa-môn hoặc Bà-la-môn nào đó sẽ sanh tâm tịnh tín, và sẽ thực hiện việc cung kính lớn lao đối với vị Sa-môn hoặc Bà-la-môn ấy, hơn nữa người nào được vị Sa-môn thường tới lui với gia đình, trở thành người hầu cận của đức vua, người ấy có được sự tăng trưởng.”

151-152. Te evaṃ cintetvā — “ahaṃ attano kulūpakasamaṇassa vaṇṇaṃ vatvā rājānaṃ gahetvā gamissāmi, ahaṃ gamissāmī”ti attano attano kulūpakānaṃ vaṇṇaṃ kathetuṃ āraddhā. tenāha — “Evaṃ vutte aññataro rājāmacco”tiādi. Tattha Pūraṇoti tassa satthupaṭiññassa nāmaṃ. Kassapoti gottaṃ. So kira aññatarassa kulassa ekūnadāsasataṃ pūrayamāno jāto, tenassa pūraṇoti nāmaṃ akaṃsu. maṅgaladāsattā cassa “dukkaṭan”ti[40] vattā natthi, akataṃ vā na katanti. so “kimahaṃ ettha vasāmī”ti palāyi. athassa corā vatthāni acchindiṃsu, so paṇṇena vā tiṇena vā paṭicchādetumpi ajānanto jātarūpeneva ekaṃ gāmaṃ pāvisi. manussā taṃ disvā “ayaṃ samaṇo arahā appiccho, natthi iminā sadiso”ti pūvabhattādīni gahetvā upasaṅkamanti. so — “mayhaṃ sāṭakaṃ anivatthabhāvena idaṃ uppannan”ti tato paṭṭhāya sāṭakaṃ labhitvāpi na nivāsesi, tadeva pabbajjaṃ aggahesi, tassa santike aññepi aññepīti pañcasatamanussā pabbajiṃsu. taṃ sandhāyāha — “pūraṇo kassapo”ti.

151-152. Những viên quan đại thần đã suy nghĩ như vậy – mới bắt đầu nói lời ca ngợi vị Sa-môn thường lui tới gia đình của mỗi vị với ý định rằng: “Ta sẽ nói lời ca ngợi vị Sa-môn, vị thường lui tới gia đình của mình rồi sẽ đưa đức vua đi, ta cũng sẽ đi.” Do đó, đã nói rằng – “Khi được nói như vậy, một viên quan đại thần khác v.v.” Một trong số sáu vị Đạo Sư ấy ‘Pūraṇa’ là tên gọi của vị tự thừa nhận là bậc Đạo Sư. Kassapa là dòng tộc. Kể rằng vị giáo chủ tên là Pūraṇa Kassapa trở thành người nô lệ thứ chín mươi chín của một gia đình, vì thế mọi người gọi ông là Pūraṇa. Tuy nhiên, do là người nô lệ được sự cát tường, bởi không một ai bắt bẽ rằng những việc vị ấy đã làm ‘làm tốt’, ‘làm không tốt’, hoặc cho rằng ‘vẫn chưa làm’, ‘làm chưa hoàn tất’. Vị ấy nghĩ rằng: “Ta sống ở chỗ này để làm gì?” nên mới bỏ đi. Lúc đó, những tên cướp đã trộm lấy y phục của vị ấy đi. Vị ấy không biết (sử dụng) vỏ cây hay cỏ để che thân, nên đã đi vào một ngôi làng chỉ với thân hình lõa lồ. Sau khi mọi người nhìn thấy vị ấy đã nghĩ rằng: “Vị này là Sa-môn, là bậc A-ra-hán, là người ít ham muốn, người giống như vị này là không có,” do đó đã đem đồ ngọt và đồ mặn v.v, đi đến gần (để bố thí). Vị ấy nghĩ rằng – “những lợi lộc này phát sinh do tính chất lõa lồ,” kể từ đó trở đi dầu có nhận được áo quần vị ấy cũng không mặc, vị ấy đã giữ thân thể lõa lồ đó để trở thành vị xuất gia, và cả những người khác khoảng chừng 500 vị cũng xuất gia trong trú xứ của vị ấy. Ngài nói có liên quan đến học thuyết của vị đó mới nói rằng – “Pūraṇa Kassapa”.

Pabbajitasamūhasaṅkhāto saṅgho assa atthīti saṅghī. Sveva gaṇo assa atthīti gaṇī. Ācārasikkhāpanavasena tassa gaṇassa ācariyoti gaṇācariyo. Ñātoti paññāto pākaṭo. “Appiccho santuṭṭho. Appicchatāya vatthampi na nivāsetī”ti evaṃ samuggato yaso assa atthīti yasassī. Titthakaroti laddhikaro. Sādhusammatoti ayaṃ sādhu, sundaro, sappurisoti evaṃ sammato. Bahujanassāti assutavato andhabālaputhujjanassa. Pabbajitato paṭṭhāya atikkantā bahū rattiyo jānātīti rattaññū. Ciraṃ pabbajitassa assāti cirapabbajito, acirapabbajitassa hi kathā okappanīyā na hoti, tenāha “cirapabbajito”ti. addhagatoti addhānaṃ gato, dve tayo rājaparivaṭṭe atītoti adhippāyo. Vayo anuppattoti pacchimavayaṃ anuppatto. Idaṃ ubhayampi — “Daharassa kathā okappanīyā na hotī”ti etaṃ sandhāya[41] vuttaṃ.

Có hội chúng (xuất gia): với ý nghĩa có một nhóm, được xem là nhóm những vị xuất gia. Có đồ chúng: có chính tập thể ấy. Là vị thầy của tập thể: với ý nghĩa là thầy của tập thể đó ở vị trí giảng dạy về cách hành xử. Có tiếng tốt (ñātā) là người được nhiều người biết đến, thấy rõ. Có danh vọng (yasassino): với ý nghĩa là người có tiếng tăm lừng lẫy khắp nơi như vầy: “Người ít ham muốn, tự biết đủ, thậm chí ý áo cũng không mặc bởi vì là người thiểu dục”. Titthakara đồng nghĩa với laddhikara (là vị sáng lập học thuyết). (Được nhiều người) đánh giá cao (sādhusammatā): vị ấy được khen ngợi như vầy – “Vị này tốt đẹp, lịch thiệp, là bậc Chân nhân.” Được đông đảo quần chúng (công nhận có đức hạnh): là những kẻ vô văn phàm phu mù quáng, ngu dốt. là bậc thâm niên: với ý nghĩa biết được nhiều đêm trôi qua kể từ khi xuất gia. Đã xuất gia lâu năm: với ý nghĩa xuất gia lâu năm. Bởi vì lời nói của những vị xuất gia không bao lâu là những lời nói không đáng tin cậy, cho nên ngài mới nói rằng: “Đã xuất gia lâu năm”. Đã đến tuổi trưởng thượng: đã đi đến tuổi trưởng thượng (sống thọ), giải thích rằng đã trải qua 2-3 triều đại. Đã đạt đến chặng cuối của cuộc đời: đã đạt đến giai đoạn cuối của cuộc đời. Kể cả hai câu này được nói có liên quan đến “lời nói của những người trẻ không đáng tin”.

Tuṇhī ahosīti suvaṇṇavaṇṇaṃ madhurarasaṃ ambapakkaṃ khāditukāmo puriso āharitvā hatthe ṭhapitaṃ kājarapakkaṃ disvā viya jhānābhiññādiguṇayuttaṃ tilakkhaṇabbhāhataṃ madhuraṃ dhammakathaṃ sotukāmo pubbe pūraṇassa dassanenāpi anattamano idāni guṇakathāya suṭṭhutaraṃ anattamano hutvā tuṇhī ahosi. Anattamano samānopi pana “sacāhaṃ etaṃ tajjetvā gīvāyaṃ gahetvā nīharāpessāmi, ‘yo yo kathesi, taṃ taṃ rājā evaṃ karotī’ti bhīto aññopi koci kiñci na kathessatī”ti amanāpampi taṃ kathaṃ adhivāsetvā tuṇhī eva ahosi. Athañño — “Ahaṃ attano kulūpakassa vaṇṇaṃ kathessāmī”ti cintetvā vattuṃ ārabhi. Tena vuttaṃ — Aññataropi khotiādi. Taṃ sabbaṃ vuttanayeneva veditabbaṃ.

Đã im lặng: đức vua trông giống như một người đàn ông muốn ăn trái xoài chín có màu sắc tựa màu vàng kim, có vị ngon ngọt, nhưng lại được mang lại quả sung chín đặt vào lòng bàn tay (vị ấy) không hài lòng như thế nào, đức vua cũng tương tự như thế ấy ngài có ý muốn được lắng nghe bài giảng Pháp êm dịu gắn liền với các ân đức có thiền và thắng trí v.v, và kết luận theo Tam tướng, mặc dầu trước đây đã từng gặp Puraṇa Kassapa cũng đã không hài lòng, đến lần này lại càng thất vọng hơn nữa, bởi việc giải thích về đức hạnh – guṇa mới giữ im lặng. Thậm chí dù không hài lòng cũng có lời nói như sau: “Nếu như ta đoa dọa hăm dọa người đã bẩm tâu rồi cho túm lấy cổ lôi ra ngoài, thì bất kể một người nào khác cũng đều lo sợ rằng: ‘Đức vua (sẽ) hành xử như vậy đối với người (đã nói) như thế này như thế nọ,’” (ngài) sẽ không nói bất cứ lời gì, vì thế đã cố nén lại lời mặc dầu không vừa ý đã im lặng. Sau đó, thêm một vị viên quan đại thần nghĩ rằng – “Ta sẽ nói về đức hạnh của vị Sa-môn và Bà-la-môn thường xuyên lui tới gia đình của ta” mới bắt đầu hỏi. Vì thế ngài đã nói – Một vị viên quan đại thần khác v.v. Toàn bộ lời đó nên hiểu theo phương cách đã được trình bày.

Ettha pana Makkhalīti tassa nāmaṃ. Gosālāya jātattā gosāloti dutiyaṃ nāmaṃ. taṃ kira sakaddamāya bhūmiyā telaghaṭaṃ gahetvā gacchantaṃ — “tāta, mā khalī”ti sāmiko āha. so pamādena khalitvā patitvā[42] sāmikassa bhayena palāyituṃ āraddho. Sāmiko upadhāvitvā dussakaṇṇe aggahesi. So sāṭakaṃ chaḍḍetvā acelako hutvā palāyi. Sesaṃ pūraṇasadisameva.

Hơn nữa, một trong số sáu vị thầy này Makkhali là tên của vị giáo chủ học thuyết đó. Gosālā là tên gọi thứ hai bởi vì xuất phát ở chuồng bò. Kể rằng vị ấy bưng cái bình dầu đang đi trên đường có bùn lầy trơn trượt, người chủ nói rằng “ông coi chừng trượt chân”. vị ấy đã ngã nhào do sự bất cẩn, bắt đầu bỏ trốn do sợ người chủ, ông chủ đã chạy túm lấy vạt áo, (do bị túm lấy) vị ấy đã vứt bỏ luôn cả áo quần, trở thành kẻ lõa thể, rồi chạy trốn. Từ còn lại giống với giáo chủ Pūraṇa.

153. Ajitoti tassa nāmaṃ. Kesakambalaṃ dhāretīti kesakambalo. Iti nāmadvayaṃ saṃsanditvā ajito kesakambaloti vuccati . Tattha kesakambalo nāma manussakesehi katakambalo. Tato paṭikiṭṭhataraṃ vatthaṃ nāma natthi. Yathāha — “Seyyathāpi, bhikkhave, yāni kānici tantāvutānaṃ vatthānaṃ[43], kesakambalo tesaṃ paṭikiṭṭho akkhāyati. Kesakambalo, bhikkhave, sīte sīto, uṇhe uṇho, dubbaṇṇo duggandho dukkhasamphasso”ti.[44]

153. Ajito là tên của vị giáo chủ học thuyết đó. Vị ấy tên là Kesakambala bởi vì vị ấy mặc áo được dệt bằng tóc, vì thế khi kết hợp hai tên lại nên vị ấy được gọi là Ajita Kesakambala. Ở đó, vải kambala được làm từ tóc của con người gọi là Kesakambala, không có loại vải nào được xem là tồi tệ hơn loại này nữa. Giống như đã thuyết – “Này chư Tỳ khưu tương tự vải được dệt bằng một loại vải bất kỳ, vải kambala Ngài nói rằng: ‘Tồi tệ hơn vải đó, này các Tỳ khưu vải Kesakambala khi trời lạnh thì lạnh, khi trời nóng thì nóng, có màu sắc xấu, có mùi hôi và có sự xúc chạm không thoải mái.”

154. Pakudhoti tassa nāmaṃ. Kaccāyanoti gottaṃ. Iti nāmagottaṃ saṃsanditvā pakudho kaccāyanoti vuccati. Sītudakapaṭikkhittako esa, vaccaṃ katvāpi udakakiccaṃ na karoti, uṇhodakaṃ vā kañjiyaṃ vā labhitvā karoti, nadiṃ vā maggodakaṃ vā atikkamma — “Sīlaṃ me bhinnan”ti vālikathūpaṃ katvā sīlaṃ adhiṭṭhāya gacchati. Evarūpo nissirīkaladdhiko esa.

154. Pakudha là tên của vị giáo chủ học thuyết đó. Kaccāyana là họ tộc. Kết hợp  cả tên và họ tộc lại vị ấy được gọi là Pakudha Kaccāyana. Giáo chủ học thuyết là người khước từ nước lạnh, dẫu đi tiểu tiện cũng không sử dụng nước, có được nước nóng hoặc nước gạo mới sử dụng. Khi đi qua dòng sông hoặc nước trên đường cũng nghĩ rằng “giới của ta đã đứt”, (vị ấy) đã tạo một bảo tháp bằng cát phát nguyện thọ giới rồi mới đi tiếp, Pakudha Kaccāyana này là vị giáo chủ học thuyết khước danh vọng [siri] có hình thức như vậy.

155. Sañcayoti tassa nāmaṃ. Belaṭṭhassa puttoti belaṭṭhaputto.

156. Amhākaṃ gaṇṭhanakileso palibandhanakileso natthi, kilesagaṇṭharahitā[45] mayanti evaṃvāditāya laddhanāmavasena nigaṇṭho. Nāṭassa[46] putto nāṭaputto.

155. Sañjayo là tên của vị giáo chủ học thuyết đó. Tên gọi Belaṭṭhaputto bởi vì là con trai của Belaṭṭha.

156. Giáo chủ học thuyết Nigantha do tác động tên gọi đã nhận được bởi thường xuyên nói như vầy – chúng tôi không có phiền não trói buộc, không có phiền não làm cho dơ bẩn, chúng tôi đã loại bỏ những phiền não trói buộc, gọi là Nāṭaputto vì là con trai của nghệ sĩ khiêu vũ.

 

Giải Thích Lời Nói Của Jīvaka Komārabhacca

157. Atha kho rājāti rājā kira tesaṃ vacanaṃ sutvā cintesi — “Ahaṃ yassa yassa vacanaṃ na sotukāmo, so so eva kathesi. yassa panamhi vacanaṃ sotukāmo, esa nāgavasaṃ pivitvā ṭhito supaṇṇo viya tuṇhībhūto, anattho vata me”ti. Athassa etadahosi — “Jīvako upasantassa buddhassa bhagavato upaṭṭhāko, sayampi upasanto, tasmā vattasampanno bhikkhu viya tuṇhībhūtova nisinno, na esa mayi akathente kathessati, hatthimhi kho pana maddante hatthisseva pādo gahetabbo”ti tena saddhiṃ sayaṃ mantetumāraddho. Tena vuttaṃ — “atha kho rājā”ti. Tattha kiṃ tuṇhīti kena kāraṇena tuṇhī. Imesaṃ amaccānaṃ attano attano kulūpakasamaṇassa vaṇṇaṃ kathentānaṃ mukhaṃ nappahoti. kiṃ yathā etesaṃ, evaṃ tava kulūpakasamaṇo natthi, kiṃ tvaṃ daliddo, na te mama pitarā issariyaṃ dinnaṃ, udāhu assaddhoti pucchati.

157. Khi ấy vua Ajātasattu đã nói với Jīvaka Komārabhacca – Đức vua sau khi nghe lời nói của những viên quan đại thần ấy có suy nghĩ rằng: “Ta không muốn nghe lời nói của bất cứ người nào nữa, (tất cả) những người ấy đều nói lảm nhảm. Còn lời nói của người ta muốn nghe, vị ấy lại giữ im lặng giống như loài linh điểu bị thần lực của loài rồng tấn công đã đứng im, quả thật (đây là) điều không có lợi ích cho ta.” Lúc đó ngài nghĩ rằng – “Lương y Jīvaka là thì giả của đức Phật Thế Tôn vị tịch tịnh, luôn cả bản thân cũng tịch tịnh, vì thế (vị ấy) đã ngồi bằng thái độ im lặng tương tự y như vị tỳ khưu đầy đủ tánh hạnh. Lương y Jīvaka khi trẫm không nói thì vị ấy cũng sẽ không nói, hơn nữa, khi bắt lấy con voi nên bắt lấy chân con voi ấy mới tự mình hỏi ý kiến của vị lương y ấy.” Vì lý do đó ngài đã nói rằng: – “Khi ấy vua Ajātasattu đã nói với Jīvaka Komārabhacca…” Ở đó, “Này khanh Jīvaka, tại sao khanh lại im lặng?” Im lặng do nguyên nhân gì? Đức vua hỏi rằng: trong khi những viên quan đại thần này nói về đức hạnh của những vị Sa-môn thường lui tới gia đình của họ, miệng nói không ngớt; vị Đạo Sư của khanh giống như của những viên quan đại thần này không, khanh là người nghèo khổ phải không, phụ vương của ta đã ban cho khanh nhiều của cải tài sản không phải sao? (hay) khanh không có đức tin?

Tato jīvakassa etadahosi — “ayaṃ rājā maṃ kulūpakasamaṇassa guṇaṃ kathāpeti, na dāni me tuṇhībhāvassa kālo, yathā kho panime rājānaṃ vanditvā nisinnāva attano kulūpakasamaṇānaṃ guṇaṃ kathayiṃsu, na mayhaṃ evaṃ satthuguṇe kathetuṃ yuttan”ti uṭṭhāyāsanā bhagavato vihārābhimukho pañcapatiṭṭhitena vanditvā dasanakhasamodhānasamujjalaṃ añjaliṃ sirasi paggahetvā — “Mahārāja, mā maṃ evaṃ cintayittha, ‘ayaṃ yaṃ vā taṃ vā samaṇaṃ upasaṅkamatī’ti, mama satthuno hi mātukucchiokkamane, mātukucchito nikkhamane, mahābhinikkhamane, sambodhiyaṃ, dhammacakkappavattane ca, dasasahassilokadhātu kampittha, evaṃ yamakapāṭihāriyaṃ akāsi, evaṃ devorohaṇaṃ, ahaṃ satthuno guṇe kathayissāmi, ekaggacitto suṇa, mahārājā”ti vatvā — “ayaṃ deva, bhagavā arahaṃ sammāsambuddho”tiādimāha. Tattha taṃ kho pana bhagavantanti itthambhūtākhyānatthe upayogavacanaṃ, tassa kho pana bhagavatoti attho. Kalyāṇoti kalyāṇaguṇasamannāgato, seṭṭhoti vuttaṃ hoti. Kittisaddoti kittiyeva. thutighoso vā. Abbhuggatoti sadevakaṃ lokaṃ ajjhottharitvā uggato. Kinti? “itipi so bhagavā arahaṃ sammāsambuddho … pe … bhagavā”ti.

Khi ấy lương y Jīvaka khởi lên suy nghĩ rằng – ‘Đức vua này cho ta nói về vị Sa-môn thường lui tới gia mình (của mình), bây giờ không phải lúc để ta giữ thái độ im lặng, giống như những viên quan đại thần này sau khi hành lễ đức vua đã ngồi xuống nói về đức hạnh vị Sa-môn thường lui tới gia đình của mình như thế nào, ta sẽ nói đức hạnh của đức Thế Tôn của ta tương tự như các viên quan đại thần này liệu có phù hợp không? vừa suy nghĩ vừa đứng dậy từ chỗ ngồi xoay mặt đi về hướng an trú của đức Thế Tôn đã đảnh lễ với năm phần thân thể chạm xuống đất, đã chắp tay lên đầu chói sáng với mười ngón tay chạm vào nhau vái chào rồi tâu rằng: – “Tâu đại vương, xin đại vương chớ nghĩ rằng – Jīvaka này (sẽ) đưa (ngài) đi gặp Sa-môn bình thường bởi vì bậc Đạo Sư của thần trong lúc nhập mẫu thai, trong lúc rời khỏi bụng mẹ, trong khi thực hiện cuộc ra đi vĩ đại, trong lúc giác ngộ, và trong lúc chuyển vận bánh xe Pháp đã làm rúng động khắp mười ngàn thế giới, đã thị hiện song thông như vậy, vào thời điểm ngài bước xuống từ cõi trời như vậy, thần sẽ nói về đức hạnh của bậc Đạo Sư của thần, xin đại vương hãy chú tâm tập trung để lắng nghe” – sau khi hành lễ đã nói như sau: “Tâu bệ hạ, đức Thế Tôn, vị này là bậc A-ra–hán, Chánh đẳng Chánh Giác”. Trong câu Pāḷī ấy ‘Hơn nữa, về đức Thế Tôn ấy’ là Đối Cách được sử dụng với ý nghĩa Xuất Xứ Cách, có nghĩa là ‘hơn nữa về đức Thế Tôn ấy.’ Tốt đẹp: gắn liền với sự tốt đẹp là ân đức pháp, giải thích rằng ‘cao cả’. Tiếng tâm lừng lẫy: danh tiếng, hoặc tiếng tăm lừng lẫy. Được lan rộng ra: tiếng đồn đang lan truyền khắp thế gian luôn cả thế giới chư Thiên. Như thế nào? ‘Đức Thế Tôn ấy là bậc A-ra-hán, Chánh đẳng Chánh giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Tối Thượng Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.’

Tatrāyaṃ padasambandho — so bhagavā itipi arahaṃ itipi sammāsambuddho … pe … itipi bhagavāti. Iminā ca iminā ca kāraṇenāti vuttaṃ hoti. Tattha ārakattā arīnaṃ, arānañca hatattā, paccayādīnaṃ arahattā, pāpakaraṇe rahābhāvāti, imehi tāva kāraṇehi so bhagavā arahanti veditabbotiādinā nayena mātikaṃ nikkhipitvā sabbāneva cetāni padāni visuddhimagge buddhānussatiniddese vitthāritānīti tato nesaṃ vitthāro gahetabbo.

Ở đây, điều này (ân đức Phật) có sự liên kết câu như sau – ‘đức Thế Tôn ấy là bậc A-ra-hán, là bậc Chánh đẳng Chánh giác …nt… đức Thế Tôn’, giải thích rằng: bởi nguyên nhân này và với nguyên nhân này. Toàn bộ câu đó đã được giải thích chi tiết ở phần giảng giải tùy niệm Phật trong bộ Thanh Tịnh Đạo, bắt đầu từ việc giải thích rằng: Đức Thế Tôn ấy nên biết rằng: là bậc A-ra-hán với những nguyên nhân này trước – (1) bởi đã lìa xa tất cả phiền nào, (2) bởi đã bẻ gãy căm xe của vòng luân hồi, (3) bởi xứng đáng thọ nhận các món vật dụng, (4) bởi không có điều bí mật ở hành động ác. Chi tiết những ân đức Phật ấy có thể nắm lấy từ bộ Thanh Tịnh Đạo đó.

Jīvako pana ekamekassa padassa atthaṃ niṭṭhāpetvā — “evaṃ, mahārāja, arahaṃ mayhaṃ satthā, evaṃ sammāsambuddho … pe … evaṃ bhagavā”ti vatvā — “Taṃ, devo, bhagavantaṃ payirupāsatu, appeva nāma devassa taṃ bhagavantaṃ payirupāsato cittaṃ pasīdeyyā”ti āha. Ettha ca taṃ devo payirupāsatūti vadanto “mahārāja, tumhādisānañhi satenapi sahassenapi satasahassenapi puṭṭhassa mayhaṃ satthuno sabbesaṃ cittaṃ gahetvā kathetuṃ thāmo ca balañca atthi, vissattho upasaṅkamitvā puccheyyāsi mahārājā”ti āha.

Hơn nữa, lương y Jīvaka giải thích tuần tự mỗi một ân đức đến khi kết thúc, đã tâu rằng: “Tâu đại vương, bậc Đạo Sư của thần là bậc A-ra-hán như vậy, là bậc Chánh đẳng Chánh giác như vậy, …nt… là đức Thế Tôn như vậy” – rồi tâu rằng: “Tâu bệ hạ, bệ hạ nên yết kiến đức Thế Tôn ấy. Có thể trong khi bệ hạ yết kiến đức Thế Tôn, tâm của bệ hạ sẽ được tịnh tín.” Và ở đây, khi lương y Jīvaka tâu rằng: “Tâu bệ hạ, bệ hạ nên yết kiến đức Thế Tôn ấy, đồng nghĩa với việc tâu rằng: “Tâu đại vương, khi hạ thần bị các vị vua như ngài dầu hàng trăm, hàng ngàn, thậm chí hàng trăm ngàn vị hỏi thì hạ thần cũng có đủ sức lực và sức mạnh để nói về ân đức của bậc Đạo Sư làm thỏa mãn tâm cang của tất cả các vị ấy, xin đại vương hãy an tâm đi đến yết kiến để hỏi câu hỏi (nơi đức Phật).”

Raññopi bhagavato guṇakathaṃ suṇantassa sakalasarīraṃ pañcavaṇṇāya pītiyā nirantaraṃ phuṭaṃ ahosi. So taṅkhaṇaññeva gantukāmo hutvā — “imāya kho pana velāya mayhaṃ dasabalassa santikaṃ gacchato na añño koci khippaṃ yānāni yojetuṃ sakkhissati aññatra jīvakā”ti cintetvā — “tena hi, samma jīvaka, hatthiyānāni kappāpehī”ti āha.

Trong khi đức vua nghe nói về ân đức của đức Thế Tôn toàn thân khởi lên năm lại phỉ lạc xúc chạm liên tục. Đức vua có ước muốn đi (yết kiến đức Thế Tôn) ​​ngay chính tại khoảnh khắc ấy, đã khởi lên suy nghĩ như sau – “Khi trẫm đi yết kiến đấng Thập Lực vào thời gian này, chẳng có ai khác sẽ chuẩn bị phương tiện di chuyển nhanh chóng ngoài lương y Jīvaka,” đã truyền lệnh – “Này khanh Jīvaka, vậy thì khanh hãy cho chuẩn bị các kiệu voi.”

158. Tattha tena hīti uyyojanatthe nipāto. Gaccha, samma jīvakāti vuttaṃ hoti. Hatthiyānānīti anekesu assarathādīsu yānesu vijjamānesupi hatthiyānaṃ uttamaṃ; uttamassa santikaṃ uttamayāneneva gantabbanti ca, assayānarathayānāni sasaddāni, dūratova tesaṃ saddo suyyati, hatthiyānassa padānupadaṃ gacchantāpi saddaṃ na suṇanti. Nibbutassa pana kho bhagavato santike nibbuteheva yānehi gantabbanti ca cintayitvā hatthiyānānīti āha.

158. Ở đó ‘tena hi’ chỉ là phân từ trong ý nghĩa đưa đi, giải thích rằng – Này khanh Jīvaka, hãy đi. Kiệu voi: trong số các loại phương tiện đi lại có rất nhiều loại như ngựa và xe v.v, thì kiệu voi là tối thắng; thích hợp đi đến trú xứ của bậc Đạo Sư là vị tối cao cùng với phương tiện di chuyển tối thắng tương tự. Đức vua đã có suy nghĩ như vậy và lại có suy nghĩ khác tiếp tục (rằng): Hơn nữa, các loại phương tiện như ngựa và xe gây ra tiếng ồn, âm thanh của những phương tiện ấy nghe được từ đằng xa, còn kiệu voi dẫu cho người bước theo ở phía sau cũng không thể nghe được âm thanh đó, thích hợp đi đến trú xứ của đức Thế Tôn vị tịch tịnh bằng phương tiện yên tĩnh tương tự như thế, đã nói rằng: ‘Kiệu voi v.v.”

Pañcamattāni hatthinikāsatānīti pañca kareṇusatāni. Kappāpetvāti ārohaṇasajjāni[47] kāretvā. Ārohaṇīyanti ārohaṇayoggaṃ, opaguyhanti attho. Kiṃ panesa raññā vuttaṃ akāsi avuttanti? avuttaṃ. kasmā? paṇḍitatāya. Evaṃ kirassa ahosi — rājā imāya velāya gacchāmīti vadati, rājāno ca nāma bahupaccatthikā. Sace antarāmagge koci antarāyo hoti, mampi garahissanti — “Jīvako rājā me kathaṃ gaṇhātīti akālepi rājānaṃ gahetvā nikkhamatī”ti. Bhagavantampi garahissanti “samaṇo gotamo, ‘mayhaṃ kathā vattatī’ti kālaṃ asallakkhetvāva dhammaṃ kathetī”ti. Tasmā yathā neva mayhaṃ, na bhagavato, garahā uppajjati; rañño ca rakkhā susaṃvihitā hoti, tathā karissāmī”ti

Ước lượng khoảng năm trăm con voi cái: Voi cái ước lượng khoảng năm trăm con. Cho chuẩn bị: cho chuẩn bị bục lên voi ngự. Chỗ ngồi: phù hợp cho việc bước lên, có nghĩa là phù hợp để vua cưỡi. – Lương y Jīvaka này đã làm những điều đức vua nói hay không nói. – Đã thực hiện điều đức vua không nói. – Tại sao? Bởi vị ấy là bậc sáng trí. Được biết rằng – lương y Jīvaka ấy đã có suy nghĩ như vầy – Được biết rằng đức vua có ra lệnh trẫm sẽ đi vào thời gian này. Thường thì các vị vua có nhiều kẻ thù, nếu có một vài nguy hiểm ở giữa đường, ngay cả trẫm cũng sẽ bị mọi người chê bai rằng: – “Lương y Jīvaka nghĩ đức vua tin tưởng lời nói của ta mới đưa đức vua rời khỏi hoàng cung vào thời điểm không thích hợp.” Luôn cả đức Thế Tôn cũng sẽ bị chê bai rằng: “Sa-môn Gotama, ‘chỉ tập trung vào việc thuyết pháp, không xác định thời điểm thích hợp hay không thích hợp rồi thuyết giảng Giáo Pháp’”. Do đó, ta sẽ hành xử làm sao để không xảy ra tai tiếng cho ta, và không ảnh hưởng đến đức Thế Tôn; và đức vua cũng được nhận sự bảo vệ tốt đẹp.”

Tato itthiyo nissāya purisānaṃ bhayaṃ nāma natthi, ‘sukhaṃ itthiparivuto gamissāmī’ti pañca hatthinikāsatāni kappāpetvā pañca itthisatāni purisavesaṃ gāhāpetvā — “Asitomarahatthā rājānaṃ parivāreyyāthā”ti[48] vatvā puna cintesi — “Imassa rañño imasmiṃ attabhāve maggaphalānaṃ upanissayo natthi, buddhā ca nāma upanissayaṃ disvāva dhammaṃ kathenti. Handāhaṃ, mahājanaṃ sannipātāpemi, evañhi sati satthā kassacideva upanissayena dhammaṃ desessati, sā mahājanassa upakārāya bhavissatī”ti. So tattha tattha sāsanaṃ pesesi, bheriṃ carāpesi — “Ajja rājā bhagavato santikaṃ gacchati, sabbe attano vibhavānurūpena rañño ārakkhaṃ gaṇhantū”ti

Sau đó, lương y Jīvaka nghĩ rằng do nương nhờ các cung phi sự sợ hãi không có đối với các nam nhân, ‘đức vua có các cung phi tháp tùng sẽ đi được thuận tiện’ đã chuẩn bị năm trăm con voi cái dành cho năm trăm cung phi cải trang thành nam nhân, và dặn các nàng mang theo gươm giáo sắt bén vây quanh đức vua, rồi lương y Jīvaka nghĩ thêm – “Đức vua này không có sự nâng đỡ của Đạo và Quả bên trong tự ngã này và thường chư Phật sẽ nhìn vào điều kiện trợ duyên trước mới thuyết giảng Giáo Pháp. Vậy thì, ta sẽ cho dân chúng hội họp lại với nhau, như thế, bậc Đạo Sư sẽ thuyết giảng Giáo Pháp tùy thuận theo điều kiện trợ duyên của bất cứ một người nào đó, Pháp thoại ấy sẽ trở thành điều kiện trợ duyên cho dân chúng. Vị ấy đã loan truyền tin tức bằng cách đánh trống để thông báo ở chỗ này và chỗ nọ rằng – “hôm nay đức vua sẽ đến yết kiến đức Thế Tôn, mong tất cả mọi người hãy dốc sức bảo vệ đức vua tùy theo khả năng của mỗi cá nhân.

Tato mahājano cintesi — “rājā kira satthudassanatthaṃ[49] gacchati, kīdisī vata bho dhammadesanā bhavissati, kiṃ no nakkhattakīḷāya, tattheva gamissāmā”ti. Sabbe gandhamālādīni[50] gahetvā rañño āgamanaṃ ākaṅkhamānā magge aṭṭhaṃsu. Jīvakopi rañño paṭivedesi — “kappitāni kho te, deva, hatthiyānāni, yassa dāni kālaṃ maññasī”ti. Tattha yassa dāni kālaṃ maññasīti upacāravacanametaṃ. Idaṃ vuttaṃ hoti — “Yaṃ tayā āṇattaṃ, taṃ mayā kataṃ, idāni tvaṃ yassa gamanassa vā agamanassa vā kālaṃ maññasi, tadeva attano ruciyā karohī”ti.

Sau đó, dân chúng nghĩ rằng – “Được biết đức vua đi yết kiến đức Thế Tôn, này các ông sự thuyết giảng Giáo Pháp của đức Thế Tôn như thế nào? Chúng ta tham dự lễ hội nakkhatta để làm gì? chúng ta sẽ đi đến đó”. Tất cả mọi người đã mang theo vật thơm và tràng hoa v.v, đứng ở dọc trên đường đang chờ đợi việc đi đến của đức vua. Ngay cả lương y Jīvaka cũng thỉnh mời đức vua rằng – “Muôn tâu bệ hạ, các kiệu voi dành cho bệ hạ đã được chuẩn bị, bây giờ đối với việc gì (ngài) nghĩ là hợp thời”. Ở đó, ‘bây giờ đối với việc gì (ngài) nghĩ là hợp thời’ là lời để nhắc nhở. Điều này đã được nói – “Chuyện nào được ngài ra lệnh, chuyện đó hạ thần đã làm xong, bây giờ đối với việc gì ngài nghĩ ‘đi hay không đi’ là hợp thời, xin bệ hạ hãy thực hiện theo sự ưa thích của ngài.”

159. Paccekā itthiyoti pāṭiyekkā[51] itthiyo, ekekissā hatthiniyā ekekaṃ itthinti vuttaṃ hoti. Ukkāsu dhāriyamānāsūti daṇḍadīpikāsu dhāriyamānāsu. Mahacca[52] rājānubhāvenāti mahatā rājānubhāvena. Mahaccātipi pāḷi, mahatiyāti attho, liṅgavipariyāyo[53] esa. Rājānubhāvo vuccati rājiddhi. Kā panassa rājiddhi? Tiyojanasatānaṃ dvinnaṃ mahāraṭṭhānaṃ issariyasirī. Tassa hi asukadivasaṃ rājā tathāgataṃ upasaṅkamissatīti paṭhamataraṃ saṃvidahane asatipi taṅkhaṇaññeva pañca itthisatāni purisavesaṃ gahetvā paṭimukkaveṭhanāni aṃse āsattakhaggāni maṇidaṇḍatomare gahetvā nikkhamiṃsu. Yaṃ sandhāya vuttaṃ — “paccekā itthiyo āropetvā”ti.

159. Paccekā itthiyo tách từ thành pāṭiyekkā itthiyo, được giải thích rằng – mỗi một con voi cái có một cung phi ngồi trên lưng. Các quan hầu cầm đuốc: có người cầm đuốc. Với uy nghiêm của bậc đại vương: với vương quyền vĩ đại. Pāḷī là Mahacca, có nghĩa là vĩ đại, đây là liṅgavipariyāya (sự không thay đổi dạng gốc từ). Có uy quyền được gọi là vẻ uy nghiêm của đức vua. Hơn nữa, điều gì là có uy quyền? Có uy quyền tức là quyền lực để thống trị hai quốc độ to lớn, có diện tích khoảng ba trăm do-tuần. Thật vậy, vào ngày trước đó đã không có sự chuẩn bị trước, nghĩa là – đức vua sẽ đến yết kiến đức Như Lai. Đúng lúc đó, lương y Jīvaka đã lấy năm trăm cung phi cải trang thành nam nhân, đã đội một chiếc khăn xếp, đã buộc thanh gươm ở vai, và đã cầm cây giáo sắc nhọn có tay cầm bằng ngọc ma-ni. Liên quan đến điều đó đã nói rằng: “Ra lệnh cho các cung phi leo lên năm trăm con voi cái, mỗi người một con”.

Aparāpi soḷasasahassakhattiyanāṭakitthiyo rājānaṃ parivāresuṃ. Tāsaṃ pariyante khujjavāmanakakirātādayo. Tāsaṃ pariyante antepurapālakā vissāsikapurisā. Tesaṃ pariyante vicitravesavilāsino saṭṭhisahassamattā mahāmattā. Tesaṃ pariyante vividhālaṅkārapaṭimaṇḍitā nānappakārāavudhahatthā vijjādharataruṇā viya navutisahassamattā raṭṭhiyaputtā. Tesaṃ pariyante satagghanikāni[54] nivāsetvā pañcasatagghanikāni ekaṃsaṃ katvā sunhātā suvilittā kañcanamālādinānābharaṇasobhitā dasasahassamattā brāhmaṇā dakkhiṇahatthaṃ ussāpetvā jayasaddaṃ ghosantā[55] gacchanti. Tesaṃ pariyante pañcaṅgikāni tūriyāni[56]. Tesaṃ pariyante dhanupantiparikkhepo. Tassa pariyante hatthighaṭā. Hatthīnaṃ pariyante gīvāya gīvaṃ paharamānā assapanti. Assapariyante aññamaññaṃ saṅghaṭṭanarathā. Rathapariyante bāhāya bāhaṃ paharayamānā yodhā. Tesaṃ pariyante attano attano anurūpāya ābharaṇasampattiyā virocamānā aṭṭhārasa seniyo[57]. Iti yathā pariyante ṭhatvā khitto saro rājānaṃ na pāpuṇāti, evaṃ jīvako komārabhacco rañño parisaṃ saṃvidahitvā attanā rañño avidūreneva gacchati — “sace koci upaddavo hoti, paṭhamatara rañño jīvitadānaṃ dassāmī”ti. Ukkānaṃ pana ettakāni satāni vā sahassāni vāti paricchedo natthīti evarūpiṃ rājiddhiṃ sandhāya vuttaṃ — “mahaccarājānubhāvena yena jīvakassa komārabhaccassa ambavanaṃ, tena pāyāsī”ti.

Còn có các nữ vũ công Sát-đế-lỵ số lượng khoảng mười sáu ngàn người tháp tùng đức vua. Ở sau đoàn các nữ vũ công ấy còn có người gù lưng, người nhỏ con, người lùn v.v. Ở sau đoàn những người ấy là những người thân tín bảo vệ nội thành. Ở sau đoàn người thân tín ấy có các viên quan đại thần số lượng khoảng sáu mươi ngàn vị được trang điểm lộng lẫy và xinh đẹp. Ở sau đoàn các viên quan đại thần có những vương tôn thuộc quốc số lượng khoảng chín mươi ngàn được trang hoàng với nhiều loại trang sức tựa như những thiên thần trẻ cầm các loại binh khí khác nhau. Phía sau những vương tôn thuộc quốc có những vị Bà-la-môn số lượng khoảng mười ngàn vị mặc y phục có giá trị hàng trăm (đồng tiền vàng), đắp y một bên vai giá trị năm trăm (đồng tiền vàng), đã được tắm rửa thoa phấn kỹ lưỡng, xinh đẹp với các loại trang sức khác nhau chẳng hạn như bông hoa bằng vàng v.v, trong khi bước đi họ đã dơ cánh tay phải lên và hét lên tiếng ‘hoan hô!’ Sau đoàn những Bà-la-môn ấy có những nhạc công gắn liền với năm loại nhạc khí. Sau đoàn những nhạc công ấy có những cung thủ vây quanh. Sau đoàn những cung thủ có một đàn voi. Phía sau đàn voi có đàn ngựa nối tiếp cổ với cổ sánh cùng nhau. Sau đàn ngựa có những cỗ xe nối liền nhau. Sau những cỗ xe có đoàn bộ binh tay liền tay tiếp xúc nhau. Sau đoàn bộ binh có mười tám loại binh chủng chói sáng với những vật trang sức phù hợp đối với mỗi cá nhân. Lương y Jīvaka Komārabhacca đã sắp xếp người dâng lên đức vua, loại cung tên được người đứng ở cuối đoàn bắn ra cũng không thể đến đức vua, bản thân theo sát không cách xa đức vua với ý định rằng – “Nếu như có bất cứ nguy hiểm nào, ta sẽ hiến dâng mạng sống vì đức vua trước tất cả những người khác”. Hơn nữa, những ngọn đèn cũng không được xác định rằng chừng nằm một trăm (ngọn đèn), hoặc chừng này một ngàn (ngọn đèn). “Đức vua Ajātasattu đã khởi hành đi đến vườn xoài của Jīvaka komārabhacca với uy nghiêm của của bậc đại vương ấy” đã được nói đề cập đến vẻ uy nghiêm của đức vua.

Ahudeva bhayanti ettha cittutrāsabhayaṃ, ñāṇabhayaṃ, ārammaṇabhayaṃ, ottappabhayanti catubbidhaṃ bhayaṃ, tattha “jātiṃ paṭicca bhayaṃ bhayānakan”tiādinā[58] nayena vuttaṃ cittutrāsabhayaṃ nāma. “Tepi tathāgatassa dhammadesanaṃ sutvā yebhuyyena bhayaṃ saṃvegaṃ santāsaṃ āpajjantī”ti[59] evamāgataṃ ñāṇabhayaṃ nāma. “Etaṃ nūna taṃ bhayabheravaṃ āgacchatī”ti[60] ettha vuttaṃ ārammaṇabhayaṃ nāma.

“Bhīruṃ pasaṃsanti, na hi tattha sūraṃ.

Bhayā hi santo, na karonti pāpan”ti .[61]

Idaṃ ottappabhayaṃ nāma. Tesu idha cittutrāsabhayaṃ, ahu ahosīti attho. Chambhitattanti chambhitassa bhāvo, sakalasarīracalananti attho. Lomahaṃsoti lomahaṃsanaṃ, uddhaṃ ṭhitalomatāti attho. So panāyaṃ lomahaṃso dhammassavanādīsu pītiuppattikāle pītiyāpi hoti. Bhīrukajātikānaṃ sampahārapisācādidassanesu bhayenāpi. idha bhayalomahaṃsoti veditabbo.

Đã có nỗi sợ hãi: ở đây sự sợ hãi có bốn là (1) sự sợ hãi do tâm hoảng hốt, (2) sự sợ hãi do trí, (3) sự sợ hãi do đối tượng, (4) sự sợ hãi do ghê sợ tội lỗi. Trong bốn sự sợ hãi ấy thì sự sợ hãi được nói theo phương thức sau – “do nương vào sanh chủng có sự sợ hãi, sự sợ sệt” gọi là sự sợ hãi do tâm hoảng hốt. Sự sợ hãi đã đến như vầy – “Các chư Thiên này, sau khi nghe Như Lai thuyết pháp, phần lớn họ trở thành sợ hãi, run sợ, khiếp đảm” gọi là sự sợ hãi do trí. Sự sợ hãi được nói ở đây – “Nay sự sợ hãi khiếp đảm ấy đã đến!” gọi là sự sợ hãi do đối tượng.

“Các bậc trí tán thán sự khiếp sợ từ những điều xấu ác, nhưng không tán thán sự dũng cảm trong những điều xấu ác ấy, bởi vì những người tốt không làm điều ác do sự sợ hãi.”

Đây gọi là sự sợ hãi do ghê sợ tội lỗi. Trong bốn sự sợ hãi đó trong trường hợp này đề cập đến sự sợ hãi do tâm hoảng hốt, có nghĩa là đã có tâm sợ hãi. Đã có trạng thái kinh hoàng: có trạng thái của sự kinh hãi, có nghĩa là run rẩy khắp châu thân. Đã có sự dựng đứng lông: lông tóc dựng đứng, có nghĩa là lông tóc dựng ngược lên. Hơn nữa, lông tóc dựng đứng này đây có được do phỉ lạc khởi lên trong lúc no vui vào thời gian lắng nghe Giáo Pháp, hoặc sự sợ hãi do nhìn thấy việc giết chóc, và nhìn thấy ma quỷ v.v. Trong trường hợp này nên biết rằng có sự dựng đứng lông tóc do sự sợ hãi.

Kasmā panesa bhītoti? Andhakārenāti eke vadanti. rājagahe kira dvattiṃsa mahādvārāni, catusaṭṭhi khuddakadvārāni. Jīvakassa ambavanaṃ pākārassa ca gijjhakūṭassa ca antarā hoti. So pācīnadvārena nikkhamitvā pabbatacchāyāya pāvisi, tattha pabbatakūṭena cando chādito, pabbatacchāyāya ca rukkhacchāyāya ca andhakāraṃ ahosīti, tampi akāraṇaṃ. Tadā hi ukkānaṃ satasahassānampi[62] paricchedo natthi.

Và hơn nữa đức vua này sợ hãi do nguyên nhân gì? Một số thầy đã nói rằng do sự u ám. Được biết rằng trong thành Rājagaha Có ba mươi hai cánh cổng lớn, sáu mươi bốn cánh cổng nhỏ. Vườn xoài của lương y Jīvaka nằm giữa bức tường thành với ngọn núi Gijjhakūṭa. Đức vua Ajātasattu đi ra từ cổng thành ở hướng Tây đi vào bên trong cái bóng của ngọn núi. Ở trong đó mặt trăng đã bị đỉnh ngọn núi che khuất (vì thế) bóng tối mới xuất hiện do bóng của ngọn núi và bóng của cây, điều đó không phải là lý do phù hợp. Bởi vì vào lúc đó những ngọn đuốc được thắp có hàng trăm ngàn (ngọn đuốc) không thể xác định (số lượng).

Ayaṃ pana appasaddataṃ nissāya jīvake āsaṅkāya bhīto. Jīvako kirassa uparipāsādeyeva ārocesi — “Mahārāja appasaddakāmo bhagavā, appasaddeneva upasaṅkamitabbo”ti. Tasmā rājā tūriyasaddaṃ nivāresi. Tūriyāni kevalaṃ gahitamattāneva honti, vācampi uccaṃ anicchārayamānā[63] accharāsaññāya gacchanti. Ambavanepi kassaci khipitasaddopi na suyyati. Rājāno ca nāma saddābhiratā honti. So taṃ appasaddataṃ nissāya ukkaṇṭhito jīvakepi āsaṅkaṃ uppādesi. “Ayaṃ jīvako mayhaṃ ambavane aḍḍhateḷasāni bhikkhusatānī”ti āha. Ettha ca khipitasaddamattampi na suyyati, abhūtaṃ maññe, esa vañcetvā maṃ nagarato nīharitvā purato balakāyaṃ upaṭṭhapetvā[64] maṃ gaṇhitvā attanā[65] chattaṃ ussāpetukāmo. Ayañhi pañcannaṃ hatthīnaṃ balaṃ dhāreti. mama ca avidūreneva gacchati, santike ca me āvudhahattho ekapurisopi natthi. Aho vata me anattho”ti. Evaṃ bhāyitvā ca pana abhīto viya sandhāretumpi nāsakkhi. Attano bhītabhāvaṃ tassa āvi akāsi. Tena vuttaṃ – “Atha kho rājā … pe … na nigghoso”ti. Tattha sammāti vayassābhilāpo esa, kacci maṃ vayassāti vuttaṃ hoti. Na palambhesīti yaṃ natthi taṃ atthīti vatvā kacci maṃ na vippalambhayasi[66]. Nigghosoti kathāsallāpanigghoso.

Hơn nữa đức vua này dựa vào sự tĩnh lặng mới khởi lên sự sợ hãi do hoài nghi lương y Jīvaka. Được biết rằng lương y Jīvaka đã tâu với đức vua ở tầng trên của tòa lâu đài rằng: “Tau đại vương đức Thế Tôn có mong muốn sự tĩnh lặng nên đến yết kiến bằng chính sự tĩnh lặng.” Vì thế đức vua cản ngăn âm thanh của các loại nhạc khí, các loại nhạc khí chỉ vừa khi đức vua cho dừng thì những phái đoàn theo sau cũng không còn tạo ra tiếng ồn nữa đến bằng dấu hiệu búng ngón tay. Luôn cả ở vườn xoài cũng không nghe dù chỉ là một tiếng hắt hơi của bất kỳ ai. Các vị vua thường vui thú với những âm thanh ồn ào. Đức vua Ajātasattu dựa vào sự tĩnh lặng ấy lấy làm ngạc nhiên dẫn đến nghi ngờ đối với lương y Jīvaka, lương y Jīvaka đã nói rằng – “Ở tại vườn xoài của thần có (số lượng) một ngàn hai trăm năm mươi vị tỳ khưu.” Và ở đây trẫm không nghe dù chỉ là một tiếng không có tiếng hắt hơi, lời nói của lương y Jīvaka xem chừng không thật, lương y Jīvaka dối gạt trẫm rời khỏi kinh thành, mai phục một toán quân ở phía trước để bắt lấy trẫm rồi tự mình lên trị vị vương quốc, và vị ấy có sức mạnh của năm thớt tượng và đi không gần trẫm, cận thận của trẫm nắm giữ vũ khí ở gần cũng không có dù chỉ một. Ôi! quả thật là điều bất lợi cho ta.” Và hơn nữa, sau khi sợ hãi như vậy (đức vua) cũng không thể duy trì bản thân như người không sợ hãi được. Mới nói về trạng thái sợ hãi cho lương y Jīvaka ấy. Vì thế một số vị đã nói rằng – “Khi ấy, vua Ajātasattu …nt… không có tiếng động.” Ở đó, ‘này khanh’ đây là từ ngữ để gọi một vị đồng trang lứa, có nghĩa là này khanh, khanh không dối gạt trẫm chứ? Không lừa bịp: Khanh đã nói những điều ‘không có’ cho là ‘có’, như thế không dối gạt trẫm sao? Tiếng thầm thì: Cuộc đàm luận vang vọng.

Mā bhāyi, mahārājāti jīvako — “Ayaṃ rājā maṃ na jānāti ‘nāyaṃ paraṃ jīvitā voropetī’ti; sace kho pana naṃ na assāsessāmi, vinasseyyā”ti cintayitvā daḷhaṃ katvā samassāsento “mā bhāyi mahārājā”ti vatvā “na taṃ devā”tiādimāha. Abhikkamāti abhimukho kama gaccha, pavisāti attho. Sakiṃ vutte pana daḷhaṃ na hotīti taramānova dvikkhattuṃ āha. Ete maṇḍalamāḷe dīpā jhāyantīti mahārāja, corabalaṃ nāma na dīpe jāletvā tiṭṭhati, ete ca maṇḍalamāḷe dīpā jalanti. etāya dīpasaññāya yāhi mahārājāti vadati.

Tâu đại vương, ngài chớ sợ hãi: Lương y Jīvaka nghĩ rằng – “Đức vua này không biết ta ‘ta không tước đoạt mạng sống của người khác’; nếu như ta không trấn an ngài, có thể gây ra sự thiệt hại’” vì thế đã nói trấn an (đức vua) ‘đại vương, ngài chớ sợ hãi’, rồi nói rằng ‘tâu đại vương, thần không dối ngạc ngài.’Mời đại vương tiến bước: (Đại vương) mời ngài hãy tiến bước, có nghĩa là hãy đi vào. Hơn nữa, chỉ nói một lần sẽ không chắc chắn, vì thế lương y Jīvaka vội nói 2-3 lần. Những ngọn đèn kia ở gian nhà tròn đang cháy sáng: Lương y Jīvaka tâu rằng – Tâu đại vương, thường thì toán quân của những tên cướp không đặt những ngọn đèn đã được thắp sáng, tuy nhiên những ngọn đèn kia ở gian nhà tròn đang cháy sáng. Xin mời ngài đi theo dấu hiệu của những ngọn đèn ấy.

 

Giảng Giải Câu Hỏi Về Quả Báo Hạnh Sa Môn

160. Nāgassa bhūmīti yattha sakkā hatthiṃ abhirūḷhena gantuṃ, ayaṃ nāgassa bhūmi nāma. Nāgā paccorohitvāti vihārassa bahidvārakoṭṭhake hatthito orohitvā. Bhūmiyaṃ patiṭṭhitasamakālameva pana bhagavato tejo rañño sarīraṃ phari. Athassa tāvadeva sakalasarīrato sedā mucciṃsu[67], sāṭakā pīḷetvā apanetabbā viya ahesuṃ. attano aparādhaṃ saritvā mahābhayaṃ uppajji. So ujukaṃ bhagavato santikaṃ gantuṃ asakkonto jīvakaṃ hatthe gahetvā ārāmacārikaṃ caramāno viya “idaṃ te samma jīvaka suṭṭhu kāritaṃ idaṃ suṭṭhu kāritan”ti vihārassa vaṇṇaṃ bhaṇamāno anukkamena yena maṇḍalamāḷassa dvāraṃ tenupasaṅkami, sampattoti attho.

160. Con đường voi: Ở nơi nào người bước lên voi có thể đi được thì nơi ấy gọi là nơi voi đi được. Đã xuống voi: Đã xuống voi ở cổng vòm ở bên ngoài chỗ cư ngụ. Hơn nữa, oai lực của đức Thế Tôn lan tỏa đến long thể của đức vua suốt khoảng thời gian an trú ở tại nơi an trú. Ngay lập tức mồ hôi tuôn chảy khắp châu thân của đức vua, long bào dường như đang vắt ép nước chảy. Nỗi sợ hãi lớn lao nảy sinh vì nhớ lại tội lỗi của mình. Đức vua không thể tiến bước đến gần trú xứ của đức Thế Tôn, ngài đã bám lấy tay lương y Jīvaka cứ như thể vị ấy vừa đi vừa thưởng ngoạn khu vườn vậy, đã nói lời khen ngợi về trú xứ rằng: “Này khanh Jīvaka, đây khanh đã cho xây dựng đẹp lắm thay! Đây khanh đã cho kiến tạo tốt lắm thay!” Ngài đi bộ đến gần cánh cửa của gian nhà tròn theo tuần tự, giải thích rằng – vị ấy đã sẵn sàng.

Kahaṃ pana sammāti kasmā pucchīti. Eke tāva “ajānanto”ti vadanti. Iminā kira daharakāle pitarā saddhiṃ āgamma bhagavā diṭṭhapubbo, pacchā pana pāpamittasaṃsaggena pitughātaṃ katvā abhimāre pesetvā dhanapālaṃ muñcāpetvā[68] mahāparādho hutvā bhagavato sammukhībhāvaṃ na upagatapubboti asañjānanto pucchatīti. taṃ akāraṇaṃ, bhagavā hi ākiṇṇavaralakkhaṇo anubyañjanapaṭimaṇḍito chabbaṇṇāhi rasmīhi sakalaṃ ārāmaṃ obhāsetvā tārāgaṇaparivuto viya puṇṇacando bhikkhugaṇaparivuto maṇḍalamāḷamajjhe nisinno, taṃ ko na jāneyya. Ayaṃ pana attano issariyalīlāya[69] pucchati. Pakati hesā rājakulānaṃ, yaṃ jānantāpi[70] ajānantā viya pucchanti. Jīvako pana taṃ sutvā — ‘ayaṃ rājā pathaviyaṃ ṭhatvā kuhiṃ pathavīti, nabhaṃ ulloketvā kuhiṃ candimasūriyāti, sinerumūle ṭhatvā kuhiṃ sinerūti vadamāno viya dasabalassa purato ṭhatvā kuhiṃ bhagavā’ti pucchati. “handassa bhagavantaṃ dassessāmī”ti cintetvā yena bhagavā tenañjaliṃ paṇāmetvā “eso mahārājā”tiādimāha. purakkhatoti parivāretvā nisinnassa purato nisinno.

Này khanh Jīvaka, đức Thế Tôn đang ở đâu? Tại sao đức vua Ajātasattu lại hỏi? Một số vị thầy nói rằng: vì trước đó “không biết”. Được biết rằng khi còn trẻ vị vua này đã từng yết kiến đức Thế Tôn cùng với vua cha, nhưng về sau do thân cận bạn ác đã ra lệnh giết cha, đưa những cung thủ, cho thả voi Dhanapāla, tạo ra nhiều tội lỗi nên không dám tiến đến đối diện với đức Thế Tôn, nói rằng không biết mới hỏi thì (điều ấy) không hợp lý. Bởi vì đức Thế Tôn có tướng mạo cao quý nổi bật gắn liền với tám mươi tướng phụ tỏa hào quang sáu màu chói sáng khắp khu vườn được vây quanh bởi hội chúng tỳ khưu tựa như vầng trăng ngày rằm được bao quanh bởi những vì tinh tú, ngồi an trú ở giữa ngôi nhà mái tròn thì ai không nhận biết được ngài. Vậy mà vua Ajātasattu lại hỏi điều này với uy quyền tối cao của vị ấy. Điều được biết hay điều không được biết đi chăng nữa cũng đều hỏi thì điều này rất bình thường của các dòng dõi hoàng tộc. Còn lương y Jīvaka sau khi nghe đã nghĩ rằng: “Đức vua này cũng giống như một người đứng trên quả địa cầu lại hỏi rằng – ‘quả địa cầu ở đâu?’ nhìn lên bầu rồi lại hỏi rằng – ‘mặt trăng, mặt trời ở đâu?’, đứng trước đỉnh núi Suneru lại hỏi rằng: ‘đỉnh núi Suneru ở chỗ nào?’ Đứng ở ngay trước mặt đấng Thâp Lực lại hỏi rằng: ‘đức Thế Tôn đang ở đâu?’. ‘Thôi thì, ta sẽ chỉ đức Thế Tôn cho ngài” đã chắp tay hướng về đức Thế Tôn đang an trú vái chào và đã nói rằng: “Tâu đại vương, vị ấy là đức Thế Tôn”. Vây quanh: sau khi vây quanh đã ngồi ở phía trước hội chúng tỳ khưu.

161. Yena bhagavā tenupasaṅkamīti yattha bhagavā tattha gato, bhagavato santikaṃ upagatoti[71] attho. Ekamantaṃ aṭṭhāsīti bhagavantaṃ vā bhikkhusaṃghaṃ vā asaṅghaṭṭayamāno attano ṭhātuṃ anucchavike ekasmiṃ padese bhagavantaṃ abhivādetvā ekova aṭṭhāsi. Tuṇhībhūtaṃ tuṇhībhūtanti yato yato anuviloketi, tato tato tuṇhībhūtamevāti attho. Tattha hi ekabhikkhussapi hatthakukkuccaṃ vā pādakukkuccaṃ vā khipitasaddo vā natthi, sabbālaṅkārapaṭimaṇḍitaṃ nāṭakaparivāraṃ bhagavato abhimukhe[72] ṭhitaṃ rājānaṃ vā rājaparisaṃ vā ekabhikkhupi na olokesi. Sabbe bhagavantaṃyeva olokayamānā nisīdiṃsu.

161. Đã đi đến gần đức Thế Tôn: nghĩa là đã đi đến gần đức Thế Tôn ở nơi đức Thế Tôn an trú. Đã đứng ở một bên: Chỉ một mình đức vua sau khi đảnh lễ rồi đứng ở một vị trí thích hợp mà ngài đứng được không chen lấn đức Thế Tôn hoặc hội chúng tỳ khưu. Hoàn toàn im lặng: nghĩa là khi đưa mắt nhìn quanh ở bất kỳ chỗ nào thì ở chỗ đó hoàn toàn yên tĩnh. Bởi vì ở nơi đó không có dù chỉ một vị tỳ khưu (cảm thấy) khó chịu do tay, hoặc (cảm thấy) khó chịu do chân (không được cử động), hoặc tiếng đằng hắng nào cả, thậm chí ngay cả một vị tỳ khưu cũng không nhìn đức vua hoặc hội chúng của đức vua đang đứng ở trước mặt đức Thế Tôn, đều có các vũ công làm tùy tùng đã được trang điểm với tất cả các loại đồ trang sức. Tất cả các vị tỳ khưu chỉ ngồi nhìn về phía đức Thế Tôn.

Rājā tesaṃ upasame pasīditvā vigatapaṅkatāya vippasannarahadamiva upasantindriyaṃ bhikkhusaṅghaṃ punappunaṃ anuviloketvā udānaṃ udānesi. Tattha imināti yena kāyikena ca vācasikena ca mānasikena ca sīlūpasamena bhikkhusaṅgho upasanto, iminā upasamenāti dīpeti. Tattha “aho vata me putto pabbajitvā ime bhikkhū viya upasanto bhaveyyā”ti nayidaṃ sandhāya esa evamāha. Ayaṃ pana bhikkhusaṅghaṃ disvā pasanno puttaṃ anussari. Dullabhañhi laddhā acchariyaṃ vā disvā piyānaṃ ñātimittādīnaṃ anussaraṇaṃ nāma lokassa pakatiyeva. iti bhikkhusaṅghaṃ disvā puttaṃ anussaramāno esa evamāha.

Đức vua đã khởi lên lòng tịnh tín đối với sự tĩnh lặng của hội chúng tỳ khưu ấy, sau khi đưa mắt nhìn các căn đã an tịnh tựa như hồ nước trong do không còn bị khuấy đục bởi bùn nhơ đã thốt lên lời cảm hứng. Ở đó, ‘với sự an tịnh này’ này trình bày rằng – với sự an tịnh này hội chúng tỳ khưu do an tịnh về thân, do an tịnh về lời nói và do an tịnh về ý bởi sự an tịnh là giới, đức vua đã nói như vậy ở trong trường hợp này. Ở đây, không đề cập đến ý nghĩa này: “Ôi! Mong sao! con trai của ta được xuất gia có thể trở nên yên tịnh như những vị tỳ khưu này.” Tuy nhiên, ngài sau khi nhìn thấy hội chúng tỳ khưu đã khởi lên lòng tịnh tín mới nghĩ đến hoàng tử. Bởi vì đã đạt được điều khó đạt được hoặc nhìn thấy điều phi thường rồi tưởng nhớ đến người mình thường yêu như thân quyến và bạn hữu v.v, là chuyện hết sức bình thường của thế gian. Đức vua đưa mắt nhìn quanh hội chúng tỳ khưu rồi nhớ đến hoàng tử mới nói như vậy bằng cách như thế.

Api ca putte āsaṅkāya tassa upasamaṃ icchamāno pesa evamāha. Evaṃ kirassa ahosi, putto me pucchissati — “Mayhaṃ pitā daharo. Ayyako me kuhin”ti. So “pitarā te ghātito”ti sutvā “ahampi pitaraṃ ghātetvā rajjaṃ kāressāmī”ti maññissati. Iti putte āsaṅkāya tassa upasamaṃ icchamāno pesa evamāha. kiñcāpi hi esa evamāha. Atha kho naṃ putto ghātessatiyeva[73]. Tasmiñhi vaṃse pituvadho pañcaparivaṭṭe[74] gato. Ajātasattu bimbisāraṃ ghātesi, udayo ajātasattuṃ . Tassa putto mahāmuṇḍiko nāma udayaṃ. tassa putto anuruddho nāma mahāmuṇḍikaṃ. Tassa putto nāgadāso nāma anuruddhaṃ. nāgadāsaṃ pana — “Vaṃsacchedakarājāno ime, kiṃ imehī”ti raṭṭhavāsino kupitā ghātesuṃ.

Và hơn nữa, ngài có sự ngờ vực đối với hoàng tử, trong khi mong muốn cho hoàng tử có sự yên tịnh đã nói như vậy. Được biết rằng – ngài suy nghĩ như vầy, con trai của ta sẽ hỏi rằng – “Phụ vương của hoàng nhi vẫn còn trẻ, vậy thái thượng hoàng của hoàng nhi ở đâu?” Sau khi vị ấy nghe rằng: “Trẫm đã tước đoạt mạng sống của thái thượng hoàng” sẽ nghĩ rằng: “Ta sẽ hạ sát phụ vương để lên trị vì vương quốc.” Như thế, ngài có sự ngờ vực đối với hoàng tử trong khi ước muốn cho hoàng tử được sự yên tịnh đã nói như vậy. Khi ấy, quả thật đức vua nói như vậy, tuy vậy thì hoàng tử cũng vẫn sẽ tước đoạt mạng sống (của trẫm). Bởi vì trong dòng tộc ấy đã có đến năm thế hệ giết cha là – (1) Vua Ajātasattu tước đoạt mạng sống của vua cha Bimbisāra. (2) Vua Udaya tước đoạt mạng sống của vua cha Ajātasattu. (3) Hoàng tử của vua Udaya có hồng danh Mahāmuṇḍika tước đoạt mạng sống của vua cha Udaya. (4) Hoàng tử của vua Mahāmuṇḍika có hồng danh Anuruddha tước đoạt mạng sống của vua cha Mahāmuṇḍika. Hơn nữa (5) hoàng tử của vua Anuruddha có hồng danh Nāgadāsa tước đoạt mạng sống của vua cha Anuruddha. Dân chúng trong thành vô cùng tức giận “Những vị này là vua (muốn) tiêu diệt luôn cả hoàng tộc, (thật sự) không cần thiết” vì thế mới giết vua Nāgadāsa.

Agamā kho tvanti kasmā evamāha? Bhagavā kira rañño vacībhede akateyeva cintesi — “ayaṃ rājā āgantvā tuṇhī niravo ṭhito, kiṃ nu kho cintesī”ti. Athassa cittaṃ ñatvā — “ayaṃ mayā saddhiṃ sallapituṃ asakkonto bhikkhusaṅghaṃ anuviloketvā puttaṃ anussari, na kho panāyaṃ mayi anālapante kiñci kathetuṃ sakkhissati, karomi tena saddhiṃ kathāsallāpan”ti. Tasmā rañño vacanānantaraṃ “Agamā kho tvaṃ, mahārāja, yathāpema”nti āha. Tassattho — mahārāja, yathā nāma unname vuṭṭhaṃ udakaṃ yena ninnaṃ tena gacchati, evameva tvaṃ bhikkhusaṅghaṃ anuviloketvā yena pemaṃ tena gatoti.

Tại sao đức Thế Tôn lại thuyết như vầy “Đại vương đã đến…” Được biết đức vua vẫn không có câu trả lời thì đức Thế Tôn nghĩ rằng – “Vị vua này sau khi đi đến đã đứng giữ im lặng không phát ra tiếng động, phải chăng vị ấy đang suy nghĩ gì chăng?” Sau khi biết được tâm của vị ấy, nghĩ rằng: – “Vị vua này không thể đàm luận với ta, (vị ấy) đã đưa mắt nhìn quanh hội chúng tỳ khưu, rồi chợt nhớ đến hoàng tử, nếu như ta không mờ lời trước thì vị vua này sẽ không thể nói bất cứ điều gì, ta sẽ đàm luận cùng với vị ấy.” Vì thế, đức Thế Tôn đã nói theo tuần tự lời của đức vua “Này đại vương, đại vương đã đến bằng cả sự yêu thương?” Ý nghĩa của lời nói đó – “Này đại vương, nước chảy từ chỗ đất cao xuống chỗ đất thấp như thế nào, mong đại vương sau khi đưa mắt nhìn xung quanh hội chúng tỳ khưu rồi thực hành sự yêu thương cũng tương tự như thế ấy”.

Atha rañño etadahosi — “aho acchariyā buddhaguṇā, mayā sadiso bhagavato aparādhakārako[75] nāma natthi, mayā hissa aggupaṭṭhāko ghātito, devadattassa ca kathaṃ gahetvā abhimārā pesitā, nāḷāgiri mutto, maṃ nissāya devadattena silā paviddhā, evaṃ mahāparādhaṃ nāma maṃ ālapato dasabalassa mukhaṃ nappahoti; aho bhagavā pañcahākārehi tādilakkhaṇe suppatiṭṭhito. evarūpaṃ nāma satthāraṃ pahāya bahiddhā na pariyesissāmā”ti so somanassajāto bhagavantaṃ ālapanto “piyo me, bhante”tiādimāha.

Khi ấy, đức vua đã khởi ý rằng – “Ôi! Ân đức của đức Phật thật phi thường, người tạo ra lỗi lầm ở trước mặt đức Thế Tôn giống như trẫm là không có, bởi vì trẫm đã giết vị thị giả đứng đầu của đức Thế Tôn, và tin vào lời nói của Devadatta đã đưa các cung thủ, đã thả voi Nāḷāgiri, do nương nhờ trẫm mà Devadatta đã đẩy tảng đá, trẫm đã gây ra lỗi lầm vô cùng to lớn như vậy, đấng Thập Lực vẫn gọi cho đến miệng không vừa đủ; Ôi! Đức Thế Tôn đã khéo thiết lập trong tướng mạo bậc duy trì với năm biểu hiện. Ta sẽ không từ bỏ bậc Đạo Sư có hình thức như thế để tìm kiếm vị Đạo Sư ở bên ngoài” đã khởi lên sự vui mừng khi đàm luận cùng đức Thế Tôn mới nói rằng: “Bạch Ngài, hoàng tử Udāyibhadda được trẫm yêu thương.

162. Bhikkhusaṅghassa añjaliṃ paṇāmetvāti evaṃ kirassa ahosi bhagavantaṃ vanditvā itocito ca gantvā bhikkhusaṅghaṃ vandantena ca bhagavā piṭṭhito kātabbo hoti, garukāropi cesa[76] na hoti. Rājānaṃ vanditvā uparājānaṃ vandantenapi hi rañño agāravo kato hoti. Tasmā bhagavantaṃ vanditvā ṭhitaṭṭhāneyeva bhikkhusaṅghassa añjaliṃ paṇāmetvā ekamantaṃ nisīdi. Kañcideva desanti kañci okāsaṃ.

162. Đã chắp tay vái chào hội chúng tỳ khưu: được biết đức vua Ajātasattu ấy có suy nghĩ rằng: “Trẫm đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đi đến đảnh lễ hội chúng tỳ khưu ở phía bên này (và) phía bên kia, chắc chắn sẽ phải quay lưng lại với đức Thế Tôn, điều đó không phải là một hành động tôn kính đối với đức Thế Tôn. Bởi vì một người cúi lạy đức vua rồi cũng cúi lạy phó vương, điều đó không phải là một hành động cung kính đối với đức vua. Vì thế, sau khi đảnh lễ đức Thế Tôn, đã chắp tay vái chào hội chúng tỳ khưu ở ngay tại chỗ đứng, rồi ngồi xuống ở một nơi thích hợp. Một số vấn đề: Một vài yêu cầu.

Athassa bhagavā pañhapucchane ussāhaṃ janento āha — “Puccha, mahārāja, yadākaṅkhasī”ti. Tassattho — “Puccha yadi ākaṅkhasi, na me pañhavissajjane bhāro atthi”. Atha vā “puccha, yaṃ ākaṅkhasi, sabbaṃ te vissajjessāmī”ti sabbaññupavāraṇaṃ pavāresi, asādhāraṇaṃ paccekabuddhāggasāvakamahāsāvakehi. Te hi yadākaṅkhasīti na vadanti, sutvā vedissāmāti[77] vadanti. Buddhā pana — “puccha, āvuso, yadākaṅkhasī”ti[78], vā “puccha, mahārāja, yadākaṅkhasī”ti vā,

Khi ấy, đức Thế Tôn trong khi tạo (động lực) cho vua Ajātasattu khởi lên sự nhiệt tâm trong việc hỏi câu hỏi đã nói rằng: “Này đại vương, đại vương hãy hỏi điều đại vương mong muốn.” Phật ngôn đó có ý nghĩa rằng: “Hãy hỏi tùy theo ý muốn, Như Lai không có băn khoăn trong việc trả lời câu hỏi (việc trả lời các câu hỏi không phải là gánh nặng của Như Lai). Hoặc là “Đức Thế Tôn đã đưa ra lời thỉnh mời (được gọi là) sabbaññupavāraṇā (lời thỉnh mời của Trí Toàn Tri) tới chư thiên và con người. không phổ biến cho chư Phật-độc-giác, các vị Thượng thủ Thinh văn và các vị Đại đệ tử Thinh văn rằng “(đại vương) hãy hỏi điều ngài mong muốn, Như Lai sẽ trả lời tất cả điều đó.” Bởi vì chư Phật-độc-giác, các vị Thượng thủ Thinh văn và các vị Đại đệ tử Thinh văn ấy không nói rằng ‘(hãy hỏi) theo mong muốn’, mà nói rằng: ‘Sau khi nghe sẽ biết được’. Còn chư Phật thì nói rằng: “Này hiền giả, hãy hỏi điều như ý muốn,” hoặc “này đại vương, đại vương hãy hỏi điều đại vương mong muốn,”

“Puccha, vāsava, maṃ pañhaṃ, yaṃ kiñci manasicchasi.

Tassa tasseva pañhassa, ahaṃ antaṃ karomi te”ti.[79] vā.

Tena hi tvaṃ, bhikkhu, sake āsane nisīditvā puccha, yadākaṅkhasīti vā,

“Bāvarissa ca tuyhaṃ vā, sabbesaṃ sabbasaṃsayaṃ.

Katāvakāsā pucchavho, yaṃ kiñci manasicchathā”ti.[80] vā.

“Puccha maṃ, sabhiya, pañhaṃ, yaṃ kiñci manasicchasi.

Tassa tasseva pañhassa, ahaṃ antaṃ karomi te”ti.[81] vā.

(hoặc) “Này Vāsava, hãy hỏi Ta câu hỏi, bất cứ điều gì mà ngươi mong muốn ở trong tâm. Đối với mỗi một câu hỏi ấy, Ta sẽ giải đáp dứt điểm cho ngươi.

(hoặc) Vậy này tỳ khưu, sau khi ngồi trên chỗ của ông, rồi hãy hỏi điều ông mong muốn.”

(hoặc) “Tất cả mọi điều nghi hoặc của Bà-la-môn Bāvarī hoặc của tất cả các ngươi, các ngươi hãy hỏi bất cứ điều gì mà ngươi mong muốn ở trong tâm, từ cơ hội Ta đã tạo ra.

(hoặc) “Này Sabhiya ngươi hãy hỏi Ta bất cứ câu hỏi nào mà ngươi muốn ở trong tâm, Ta (sẽ) giải đáp dứt điểm từng câu hỏi một cho ngươi.

Tesaṃ tesaṃ yakkha narinda deva samaṇa brāhmaṇa paribbājakānaṃ sabbaññupavāraṇaṃ pavārenti. Anacchariyañcetaṃ, yaṃ bhagavā buddhabhūmiṃ patvā etaṃ pavāraṇaṃ pavāreyya. Yo bodhisattabhūmiyaṃ padesañāṇe ṭhito —

“Koṇḍañña, pañhāni viyākarohi. Yācanti taṃ isayo sādhurūpā.

Koṇḍañña, eso manujesu dhammo. Yaṃ vuddhamāgacchati esa bhāro”ti.[82]

Evaṃ sakkādīnaṃ atthāya isīhi yācito —

“Katāvakāsā pucchantu bhonto, yaṃ kiñci pañhaṃ manasābhipatthitaṃ.

Ahañhi taṃ taṃ vo viyākarissaṃ[83], Ṇatvā sayaṃ lokamimaṃ parañcā”ti.[84]

Evaṃ sarabhaṅgakāle. Sambhavajātake[85] ca sakalajambudīpaṃ tikkhattuṃ vicaritvā pañhānaṃ antakaraṃ adisvā suciratena brāhmaṇena, pañhaṃ puṭṭhuṃ okāse kārite jātiyā sattavassiko rathikāya paṃsuṃ kīḷanto pallaṅkamābhujitvā antaravīthiyaṃ nisinnova —

“Taggha te ahamakkhissaṃ, yathāpi kusalo tathā.

Rājā ca kho taṃ jānāti, yadi kāhati vā na vā”ti.[86]

Chư Phật đã làm vừa lòng bằng sự hài lòng trí toàn tri đến Dạ-xoa, loài rồng, chư Thiên, Sa-môn, Bà-la-môn và tất cả du sĩ ngoại đạo đó. Và điều này không có gì đáng ngạc nhiên, bởi vì đức Thế Tôn đã chứng đắc bản thể của vị Phật yêu cầu lời thỉnh mời theo cách này. Ngay cả khi duy trì trong sự hiểu biết có hạn chế trên bản thể của Bồ-tát bị các vị đạo sĩ nài khẩn giải quyết câu hỏi vì lợi ích của vua trời Sakka v.v, nhừ vầy –

Thưa ngài Koṇḍañña, xin ngài trả lời các câu hỏi.

Mà các vị ẩn sĩ đức độ thỉnh cầu điều ấy.

Thưa ngài Koṇḍañña, điều ấy là quy luật ở loài người,

trách nhiệm ấy dành cho vị trưởng thượng.”

Vào thời gian là vị đạo sĩ Sarabhaṅga (đáp) như vầy

Ta đã tạo ra cơ hội. Xin quý ngài hãy hỏi

bất cứ câu hỏi nào được mong muốn ở trong tâm.

Bởi vì ta sẽ trả lời cho quý vị từng câu một

sau khi tự thân ta biết về đời này và đời sau.”

Và trong Bổn Sanh Sambhava có Bà-la-môn sạch sẽ du hành 3 lần khắp cõi Jampudīpa không gặp được người giải quyết được câu hỏi, khi Bồ-tát đã tạo cơ hội, lúc bấy giờ Bồ Tát mới 7 tuổi, đang chơi bụi ở ngoài đường, ngồi xếp chân thế kiết già ở giữa đường đưa ra lời thỉnh mời như sabbaññupavāraṇā (lời mời của Trí Toàn Tri) rằng –

Chắc chắn rồi, vị thiện xảo nói như thế nào thì con cũng sẽ nói với ông như thế ấy. Và đức vua, đương nhiên hiểu được điều ấy, tuy nhiên đức vua sẽ làm hay không làm (không phải là lỗi của con).”

163. Evaṃ bhagavatā sabbaññupavāraṇāya pavāritāya attamano rājā pañhaṃ pucchanto — “yathā nu kho imāni, bhante”tiādimāha. Tattha sippameva sippāyatanaṃ. Puthusippāyatanānīti bahūni sippāni. Seyyathidanti katame pana te. Hatthārohāti-ādīhi ye taṃ taṃ sippaṃ nissāya jīvanti, te dasseti[87]. Ayañhi assādhippāyo — “Yathā imesaṃ sippūpajīvīnaṃ taṃ taṃ sippaṃ nissāya sandiṭṭhikaṃ sippaphalaṃ paññāyati. Sakkā nu kho evaṃ sandiṭṭhikaṃ sāmaññaphalaṃ paññāpetun”ti. Tasmā sippāyatanāni āharitvā[88] sippūpajīvino dasseti.

163. Khi đức Thế Tôn đưa ra lời thỉnh mời như sabbaññupavāraṇā (lời thỉnh mời của Trí Toàn Tri) như vậy rồi đức vua hài lòng trong khi hỏi câu hỏi đã nói rằng – “Bạch ngài, quả thật giống như nhiều lĩnh vực nghề nghiệp này.” Ở đó, chính nghề nghiệp được gọi là lĩnh vực nghề nghiệp. Nhiều lĩnh vực nghề nghiệp: Nhiều lĩnh vực nghề nghiệp. Tức là: Có những lĩnh vực nghề nghiệp gì? Các tượng phu v.v, đức vua đã chỉ ra những hạng người nhờ vào loại nghề nghiệp này nghề nghiệp kia để nuôi mạng. Bởi vì, đức vua có ý muốn – “Thành quả hiện tiền của nghề nghiệp do nương nhờ vào nghề nghiệp này nghề nghiệp nọ dĩ nhiên sẽ xuất hiện cùng những người đến nương vào những nghề nghiệp ấy để nuôi mạng như thế nào, bạch ngài, ngài có thể nào tuyên bố quả báo hiện tiền của hạnh Sa-môn ngay trong hiện tại tương tự y như (thành quả của nghề nghiệp) chăng?” Vì thế, đức vua Ajātasattu đã mang đến nhiều lĩnh vực nghề nghiệp để chỉ ra những người nương vào nghề nghiệp để nuôi mạng.

Tattha hatthārohāti sabbepi hatthācariya-hatthivejja-hatthimeṇḍādayo[89] dasseti. Assārohāti sabbepi assācariyāssavejjāssameṇḍādayo[90]. Rathikāti sabbepi rathācariyarathayodharatharakkhādayo. Dhanuggahāti dhanuācariyā issāsā. Celakāti ye yuddhe jayadhajaṃ gahetvā purato gacchanti. Calakāti idha rañño ṭhānaṃ hotu, idha asukamahāmattassāti evaṃ senābyūhakārakā. Piṇḍadāyakāti sāhasikamahāyodhā. Te kira parasenaṃ pavisitvā parasīsaṃ piṇḍamiva chetvā chetvā dayanti[91], uppatitvā uppatitvā niggacchantīti attho. Ye vā saṅgāmamajjhe yodhānaṃ bhattapātiṃ gahetvā parivisanti, tesampetaṃ nāmaṃ. Uggā rājaputtāti uggatuggatā saṅgāmāvacarā rājaputtā. Pakkhandinoti ye “kassa sīsaṃ vā āvudhaṃ vā āharāmā”ti “vatvā asukassā”ti vuttā saṅgāmaṃ pakkhanditvā tadeva āharanti, ime pakkhandantīti pakkhandino. Mahānāgāti mahānāgā viya mahānāgā, hatthiādīsupi abhimukhaṃ āgacchantesu anivattitayodhānametaṃ adhivacanaṃ. Sūrāti ekantasūrā, ye sajālikāpi sacammikāpi samuddaṃ tarituṃ sakkonti. Cammayodhinoti ye cammakañcukaṃ vā pavisitvā saraparittāṇacammaṃ vā gahetvā yujjhanti. Dāsikaputtāti balavasinehā gharadāsayodhā[92]. Āḷārikāti pūvikā[93]. Kappakāti nhāpikā[94]. Nhāpakāti ye nhāpenti. Sūdāti bhattakārakā[95]. Mālākārādayo pākaṭāyeva. Gaṇakāti acchiddakapāṭhakā[96]. Muddikāti hatthamuddāya gaṇanaṃ nissāya jīvino. Yāni vā panaññānipīti ayakāradantakāracittakārādīni. Evaṃgatānīti evaṃ pavattāni. Te diṭṭheva dhammeti te hatthārohādayo tāni puthusippāyatanāni dassetvā rājakulato mahāsampattiṃ labhamānā sandiṭṭhikameva sippaphalaṃ upajīvanti. Sukhentīti sukhitaṃ karonti.

Ở đây, điều tượng sư: chỉ đến tất cả các vị huấn luyện voi, bác sĩ chăm sóc voi, người trông coi và bảo vệ voi v.v. Điều mã sư: tất cả các vị huấn luyện ngựa, bác sĩ chăm sóc ngựa, người trông coi và bảo vệ ngựa v.v. Xa thuật sư: tất cả các vị điều khiển xe, xa binh, người bảo dưỡng xe v.v. Các cung thủ: Vị huấn luyện bắn cung và cung thủ. Các lính cầm cờ hiệu: người cầm cờ hiệu đi phía trước ở chiến trường. Các tướng chỉ huy: vị chỉ huy quân đội như vầy – đức vua đứng ở chỗ này, viên quan đại thần tên ấy đứng ở chỗ này. Các lính biệt kích: những binh lính dõng mãnh, gan dạ, dám hi sinh. Được biết rằng những quân lính ấy đột nhập vào đạo binh của kẻ thù chặt đầu kẻ địch giống như cắt đứt bông lúa rồi bỏ đi, được mô ta rằng – nhảy (ra ngoài) nhanh chóng tẩu thoát. Hoặc, từ Piṇḍadāyakā này là tên gọi của người bưng mâm thức ăn vào cho quân lính ở giữa chiến trường. Các vương tử thiện chiến: các vị vương tử tiến vào chiến trận được gọi là ‘Uggata Uggata’. Các lính tiên phong: những binh lính nào nói rằng: “chúng tôi sẽ mang đầu hoặc vũ khí của bất cứ ai đến” khi nhận được lệnh rằng “của người kia”, cũng tiến vào chiến trường, mang những thứ được giao ấy đến, những binh lính này được gọi là lính tiên phong, với ý nghĩa đội đột kích. Các mãnh tướng: là những vị vô cùng dũng mãnh giống như voi chúa, đây là tên gọi của đội binh cho dù con voi v.v, lao thẳng tới trước mặt cũng không thoái lui. Các dũng sĩ: vô cùng dũng cảm dù bị bao trùm bằng lưới hay mặc áo giáp da đi chăng nữa cũng có thể vượt qua biển cả. Các chiến binh mặc giáp da: nhóm binh lính mặc áo da hùm hoặc cầm tấm chắn bằng da, để cản lại những mũi tên của các cung thủ. Các người xuất thân nô lệ: Con của những người hầu ở trong nhà bởi hết lòng yêu thương chủ. Các thợ làm bánh kẹo: những người làm bánh kẹo. Các thợ hớt tóc: những người thợ cắt tóc. Các người hầu tắm: những người hầu tắm. Các đầu bếp: Những người chế biến thức ăn. Các thợ làm vòng hoa v.v, (ý nghĩa) đã rõ ràng. Các kế toán viên: nhóm người nói (về số lượng) không có lỗ hở để hỏi. Các nhân viên giữ sổ sách: Những người dựa vào cách tính đếm bằng ngón tay để nuôi mạng. Hoặc còn có nhiều lĩnh vực nghề nghiệp khác nữa: Thợ rèn, thợ chạm khắc ngà voi, thợ vẽ hoa văn, v.v. Có tính chất tương tự: Vận hành như vậy. Ngay trong đời hiện tại: những điều tượng sư v.v, ấy đã chỉ ra nhiều loại nghề nghiệp như thế nhận được nhiều tài sản từ gia đình hoàng tộc, sống nhờ vào thành quả của nghề nghiệp ngay chính ở hiện tại để nuôi mạng. Khiến cho bản thân được hạnh phúc: khiến cho bản thân được hạnh phúc.

Pīṇentīti pīṇitaṃ thāmabalūpetaṃ karonti. Uddhaggikādīsu upari phalanibbattanato uddhaṃ aggamassā atthīti uddhaggikā. Saggaṃ arahatīti sovaggikā. Sukho vipāko assāti sukhavipākā. Suṭṭhu agge rūpasaddagandharasaphoṭṭhabbāayuvaṇṇasukhayasā-adhipateyyasaṅkhāte dasa dhamme saṃvatteti nibbattetīti saggasaṃvattanikā. Taṃ evarūpaṃ dakkhiṇaṃ dānaṃ patiṭṭhapentīti attho. Sāmaññaphalanti ettha paramatthato maggo sāmaññaṃ. ariyaphalaṃ sāmaññaphalaṃ. Yathāha — “Katamañca, bhikkhave, sāmaññaṃ? Ayameva ariyo aṭṭhaṅgiko maggo. Seyyathidaṃ, sammādiṭṭhi … pe … sammāsamādhi. idaṃ vuccati, bhikkhave, sāmaññaṃ. katamāni ca, bhikkhave, sāmaññaphalāni? sotāpattiphalaṃ … pe … arahattaphalan”ti[97]. Taṃ esa rājā na jānāti. upari āgataṃ pana dāsakassakopamaṃ sandhāya pucchati.

Khiến cho bản thân được khỏe mạnh: điều này khiến cho bản thân được tràn đầy sức mạnh và trí lực. Có được kết quả cao v.v, Có được kết quả cao: Với ý nghĩa có được kết quả vượt trội hơn những kết quả phát sinh ở trên. Khiến được đối tượng tốt đẹp: Với ý nghĩa xứng đáng được đối tượng tốt đẹp nhất. Có hạnh phúc là quả thành tựu: với ý nghĩa có hạnh phúc là quả thành tựu. Được hóa sanh về thiên giới: với ý nghĩa làm cho mười pháp là sắc, thanh, khí, vị, xúc, tuổi thọ, màu da, sự an lạc, danh vọng, và quyền lực tối thắng được vận hành, được sanh khởi, giải thích rằng thực hiện sự cúng dường bằng hình thức như thế. Quả báo hạnh Sa-môn này theo Pháp Chân Đế thì hạnh Sa-môn ám chỉ đến Đạo, quả báo hạnh Sa-môn ám chỉ đến Thánh Quả. Như đã nói – “Này chư tỳ khưu, hạnh Sa-môn (có ý nghĩa) như thế nào? Chính là Thánh Đạo tám chi phần, tức là: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định; này chư tỳ khưu, đây được gọi là hạnh Sa-môn, này chư tỳ khưu, và như thế nào là quả báo hạnh Sa-môn? Quả Nhập Lưu, Quả Nhất Lai, Quả Bất Lai, Quả A-ra-hán, đây được gọi là quả báo hạnh Sa-môn.” Vị vua này không hiểu biết điều đó. Nên vị ấy mới hỏi về ý nghĩa quả báu hạnh Sa-môn nhưng lại đem so sánh với những người hầu và những người nông dân đã đề cập ở trên.

Atha bhagavā pañhaṃ avissajjetvāva cintesi — “Ime bahū aññatitthiyasāvakā rājāmaccā idhāgatā, te kaṇhapakkhañca sukkapakkhañca dīpetvā kathīyamāne amhākaṃ rājā mahantena ussāhena idhāgato, tassāgatakālato paṭṭhāya samaṇo gotamo samaṇakolāhalaṃ samaṇabhaṇḍanameva kathetīti ujjhāyissanti, na sakkaccaṃ dhammaṃ sossanti, raññā pana kathīyamāne ujjhāyituṃ na sakkhissanti, rājānameva anuvattissanti. Issarānuvattako hi loko. ‘Handāhaṃ raññova bhāraṃ karomī’ti rañño bhāraṃ karonto “abhijānāsi no tva”ntiādimāha.

Khi ấy, đức Thế Tôn đã không trả lời câu hỏi ngay lập tức mà suy tư rằng – “Những viên quan đại thần này của đức vua là đệ tử của rất nhiều ngoại đạo sư cũng đến đây, những vị ấy khi Ta thuyết giảng phần pháp trắng và phần pháp đen sẽ chê bai (và nói): ‘Đức vua của chúng tôi đến đây với nhiệt huyết to lớn, kể từ lúc ngài đến Sa-môn Gotama nói về sự lộn xộn của Sa-môn khiến trở thành vấn đề tranh cãi sẽ không lắng nghe Giáo Pháp bằng sự tôn kính. Những khi đức vua nói, các viên quan đại thần sẽ không thể chê bai, mà họ sẽ thuận theo ý vua. Bởi vì người thế gian thường thuận theo ý người có quyền lực. ‘Vậy thì Ta (sẽ) giao trách nhiệm cho chính đức vua’’ trong lúc giao trách nhiệm cho đức vua, đức Phật đã nói rằng: “Vậy đại vương có nhớ hay không?

164. Tattha abhijānāsi no tvanti abhijānāsi nu tvaṃ. ayañca no-saddo parato pucchitāti padena yojetabbo. Idañhi vuttaṃ hoti — “Mahārāja, tvaṃ imaṃ pañhaṃ aññe samaṇabrāhmaṇe pucchitā[98] nu, abhijānāsi ca naṃ puṭṭhabhāvaṃ, na te sammuṭṭhan”ti. Sace te agarūti sace tuyhaṃ yathā te[99] byākariṃsu, tathā idha bhāsituṃ bhāriyaṃ na hoti, Yadi na koci aphāsukabhāvo atthi, bhāsassūti attho. Na kho me bhanteti kiṃ sandhāyāha? paṇḍitapatirūpakānañhi santike kathetuṃ dukkhaṃ hoti, te pade pade akkhare akkhare dosameva vadanti. ekantapaṇḍitā pana kathaṃ sutvā sukathitaṃ pasaṃsanti, dukkathitesu pāḷipadātthabyañjanesu yaṃ yaṃ virujjhati, taṃ taṃ ujukaṃ katvā denti. Bhagavatā ca sadiso ekantapaṇḍito nāma natthi. tenāha — “na kho me, bhante, garu; yatthassa bhagavā nisinno bhagavantarūpo vā”ti.

164. Ở đây, ‘abhijānāsi no tvaṃ’ đồng nghĩa với ‘abhijānāsi nu tvaṃ’, và từ ‘no’ này cần được phối hợp với từ ‘pucchātā’ ở phía trước. Bởi vì điều này đã được đức Thế Tôn nói đến – “Này đại vương, phải chăng câu hỏi này ngài đã từng hỏi các vị Sa-môn và Bà-la-môn khác? Và đại vương vẫn còn nhớ tính chất hỏi câu hỏi ấy? Phải chăng ngài không quên những Sa-môn và Bà-la-môn ấy? Nếu không có gì trở ngại cho đại vương: Các vị ấy đã trả lời (đại vương) như thế nào? Nếu không có gì trở ngại cho đại vương, xin đại vương hãy thuật lại như thế ấy ở tại chỗ này. tức là nếu như không có gì bất tiện thì xin đại vương hãy kể lại. Thưa ngài, quả thật không có gì trở ngại đối với trẫm: đức vua muốn đề cập đến điều gì? Bởi vì việc nói chuyện ở trú xứ của những vị giả danh bậc trí dĩ nhiên rất khó khăn, (bởi vì) những vị ấy luôn bắt lỗi ở mỗi mỗi câu, mỗi mỗi chữ. Còn đối với vị thật sự là bậc sáng trí sau khi nghe được lời nói sẽ ca ngợi những lời nói tốt đẹp, với những lời đã nói nói không hay, sai lệch Pāḷī, sai câu cú, sai ý nghĩa, hoặc sai văn tự ở bất kỳ chỗ nào thì vị thật sự là bậc sáng trí sẽ trợ giúp sửa chữa làm cho đúng đắn ở ngay tại chỗ đó. Vị thật sự là bậc sáng trí như đức Thế Tôn là không có. Vì thế, đức vua Ajātasattu đã nói rằng – “Bạch Ngài, thật sự không có gì trở ngại đối với trẫm ở nơi nào có đức Thế Tôn hoặc một vị như đức Thế Tôn hiện diện.”

 


[1] Anupubbapadavaṇṇanā (Syā, Ka)

[2] Vasantavanaṃ (Sī), vasanaṭṭhānaṃ vanaṃ (Ka)

[3] Apatantaṃ (Sī, Ka)

[4] Samīpe nivāsanaṭṭhānaparidīpanaṃ (Sī, Ka)

[5] Vi 3. 378 piṭṭhe.

[6] mahāva. 328

[7] Vi-ṭṭha 3. 396 piṭṭhe.

[8] Gijjhakūḷaṃ Veḷuvanaṃ (Syā, Ka)

[9] Buddhapamukhassa bhikkhusaṃghassa (Ka)

[10] Niyyādesi (Syā)

[11] Tứ nhiếp pháp hay bốn việc làm thu phục: việc bố thí (dāna), lời nói đáng yêu (hadayaṅgama), hành vi có lợi ích (atthacariya), việc bình đẳng (samanattata)

[12] Kīsā (Syā)

[13] Tuyhaṃ (bahūsu)

[14] Potthanīyaṃ (Syā), potthanikaṃ (Ka)

[15] Mantayiṃsu (Ka)

[16] Mūlacchaṃ (Syā), mūlacchejjaṃ (Ka)

[17] Ucchaṅge (Syā, Ka), uccaṅgaṃ (Sī-Ṭī Abhinava 2. 8 piṭṭhe.)

[18] Caṅkameneva (Ka)

[19] Vessavaṇṇassa (Syā

[20] Vissajjāpesi (Sī)

[21] Taṃ matappavattiṃ (Ka)

[22] Uṭṭhāsi (Sī, Syā)

[23] Aniṭṭhubhitvā (Ka), anuṭṭhahitvāva (Syā, Ka)

[24] Vitthārakathānayo Khandhake āgatattā (Sī)

[25] ma. ni. 1.226

[26] saṃ. ni. 2.154

[27] a. ni. 8.43

[28] ma. ni. 1.79

[29] dī. ni. 2.246

[30] mahāva. 181

[31] Viccharitehi (Syā, Ka), viccutehi (Ka)

[32] Nimmilitamattesu (Syā)

[33] PhandamÈnoyeva (Syā)

[34] Susiṭṭhasammaṭṭhaṃ (Syā), susammaṭṭhaṃ (Ka)

[35] Dhūmarajo (Syā)

[36] Catūhi (Syā) idaṃ padaṃ natthi Sī-potthake, Sī-Ṭī Abhinava 2. 14 piṭṭhe oloketabbā.

[37] Dakkhituṃ (Sī)

[38] Vacanabyattayogo (Syā, Ka)

[39]  Tassaṃ hi parisatiṃ (Sī), tasmiñhi parisati (Syā, Ka)

[40] Sukataṃ dukkaṭanti (Syā, Ka)

[41] Sandhāya (Sī), taṃ sandhāya (Ka)

[42] Idaṃ padaṃ natthi Sī-potthake.

[43] Tantāvutāni vatthāni (Sī, Syā) Sī-Ṭī Abhinava 2. 17 piṭṭhepi; Aṃ-Ṭṭha 2. 242 piṭṭhe pana passitabbaṃ.

[44] a. ni. 3.138

[45] Kilesagaṇṭhirahitā (Sī, Ka)

[46] Nāthassa (Sī)

[47] Ārohaṇasajjāni (bahūsu)

[48] Parivāressathāti (Sī)

[49] Bhagavato dassanatthaṃ (Syā)

[50] Gandhapupphādīni (Syā)

[51] Pāṭi-ekkā (Sī), paṭi-ekā (Syā)

[52] Mahacca (sabbattha)

[53] Liṅgavipariyāyo (Ka)

[54] Satasahassagghanikāni (Sī)

[55] Ghosantā (Ka)

[56] Turiyāni (Sī, Syā)

[57] Seṇiyo (Sī)

[58] Abhi. Vi. quyển 35 / đoạn 938

[59] saṃ. ni. 3.78

[60] ma. ni. 1.49

[61] saṃ. ni. 1.33

[62] Satasahassatopi (Sī), satasahassāpi (Ka)

[63] Anuccāramānā (Syā)

[64] Uṭṭhāpetvā (Sī, Syā)

[65] Attano (Sī, Syā)

[66] Vippalambhayasi (Sī)

[67] Muñciṃsu (Syā, Ka)

[68] Pamuñcāpetvā (Syā, Ka)

[69] Issariyalīḷhāya (Sī), issariyalīlāya (Syā)

[70] Sañjānentāpi (Sī)

[71] Upasaṅkamanto (Sī, Syā)

[72] Purato (Sī, Syā)

[73] Ghātesiyeva (Sī)

[74] Pañcaparivaṭṭe (Sī, Syā)

[75] Aparādhako (Ka)

[76] Cassa (Syā, Ka)

[77] Kathessāmāti (Sī)

[78] saṃ. ni. 1.237

[79] dī. ni. 2.356

[80] su. ni. 1036

[81] su. ni. 517

[82] jā. 2.17.60

[83] Byākarissaṃ (Sī, Syā)

[84] jā. 2.17.61

[85] Sucikarena (Syā), cusirakena (Ka)

[86] jā. 1.16.172

[87] Dīpeti (Syā)

[88] Ārabhitvā (Syā, Ka)

[89] Hatthibandhādayo (Sī, Syā) Sī-Ṭī Abhinava 2. 32 piṭṭhe pana oloketabbā.

[90] Assabandhādayo (Sī, Syā)

[91] Upanayanti (Syā, Ka)

[92] Gharadāsikaputtā (Syā, Ka)

[93] Bhattakārakā (Sī, Ka)

[94] Nahāitā (Sī)

[95] Sūpikā (Sī)

[96] Acchiddapāṭhakā (Sī), acchindakapāṭhakā (Ka)

[97] saṃ. ni. 5.35

[98] Pucchittha (Sī) Saddanītipadamālā oloketabbā.

[99] Yathā te te (Syā)